Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đông Lai Bác Nghị - Dương Tấn Tươi

Nếu không có tài dàn xếp của bao sự ngẫu nhiên thì đâu có quyển Đông-Lai bác nghị nầy ! Đầu tiên, một vị túc nho của chốn Thần kinh, lúc tản cư vào Sài-thành, ngẫu nhiên đến trú ngụ cạnh phòng khám bịnh của chúng tôi. Đó là việc hệ trọng : vì đối với chúng tôi, bực đại nhân ấy là một người thầy đáng kính, mặc dầu Cụ vẫn có nhã ý tự xem mình là bạn vong niên ; vì đối với quyển sách này, bực lão thành ấy mới thật là người cha tinh thần, mặc dù Cụ ấy vẫn một mực chối từ không nhìn nhận. Vả lại, vì muốn giữ vẹn cốt cách của nhà ẩn dật, Cụ yêu cầu chúng tôi đừng nêu danh Cụ vào trong sách ! Thật đáng phục thay đức tính khiêm tốn của bực nho phong, mà cũng khổ cho chúng tôi vì phải dài dòng nhắc lại tiểu sử của bổn dịch mà chỉ được phép dùng một chữ « Cụ » vỏn vẹn để kể cho tròn câu chuyện ! Thì cũng bởi vai tuồng quan trọng của vị túc nho ấy trong khi phiên dịch cho nên chúng tôi xin độc giả niệm tình tha thứ khi thấy chúng tôi lắm lời nói về thân thế của một người đương cầu xin đời đừng nhắc đến tên. Sanh trưởng trong một thế gia của chốn đế đô, cha làm Thượng thơ bộ Lễ, thì khi vào sân Trình, Cụ chiếm bằng cử nhân, việc ấy, theo chúng tôi, cũng chưa đáng kể. Đáng nể là khi rời cửa Khổng để theo tân học, chỉ trong mấy năm Cụ theo kịp các bạn đồng niên nơi lớp tú tài « Tây » ! Rồi sang Pháp để trau giồi học mới, rồi xông pha nơi bể hoạn, rồi cuối cùng nối được chức của cha, thì với sức học đó, với thông minh đó, âu cũng là một việc có thể đoán trước được. Ngày nay, đã chứng kiến bao cuộc bể dâu, Cụ chỉ còn giữ lại một ham muốn là tận hưởng chữ « nhàn » trong thời hưu trí. Muốn được thế, Cụ ẩn mình trong đám rừng người để thưởng thức một câu thơ đẹp với chén trà ngon hoặc cùng vài ba tri kỷ luận bàn về văn học. Cụ nhứt quyết chủ trương : « Lịch sử và địa dư đặt nước nhà vào giữa hai nguồn văn hóa, muốn trở nên một công dân đất Việt, chúng ta phải thâu thập cả đôi. Âu Tây giúp ta kỹ thuật, Á Đông cho ta nghệ thuật làm người ». Để chứng minh lời nói, Cụ nhắc lại một gay cấn vừa xảy ra trong trường quốc tế, rồi chỉ rõ giải pháp của người xưa khi gặp cảnh ngộ tương tợ để bắt buộc kẻ đối thoại phải nhìn nhận : « Thiếu Hán học là một sự thiệt thòi rất lớn ». Sẵn có quan niệm ấy nên Cụ nhận lời ngay khi chúng tôi ngỏ ý cầu học. Lối dạy của Cụ thật là đặc biệt. thường ngày Cụ dùng tiếng Việt để giảng bài, nhưng khi gặp áng văn quá bóng-bảy hay huyền-diệu thì Cụ dùng cả tiếng Pháp để diễn-tả tư-tưởng, mượn triết-học Đức để so-sánh, đem học-thuyết Hy-Lạp để chứng minh, cốt-yếu là giúp học trò hiểu cho thấu đáo, tận-tường. Khi gặp tư-tưởng thanh-cao hoặc áng văn bất-hủ, chúng tôi lật đật ghi rồi chép lại trong giờ nhàn rỗi để trình lên cho Cụ xem-xét. Cụ dò từng câu, đối-chiếu từng chữ để phê-bình. Nhờ Cụ tiến dẫn, chúng tôi mới « nuốt hận » chép thơ của Tư-mã Thiên, sụt sùi thảo tờ biểu xuất-sư của Gia-Cát, băn khoăn đứng trên lầu Nhạc-Dương với Trọng-Yêm, ngạo nghễ biên thơ từ-chức cùng Tạ-Phùng-Đắc. * Ngẫu-nhiên khéo sắp cho chúng tôi gặp được một bực thầy đáng kính, thì cũng nhờ ngẫu-nhiên chúng tôi lại gặp quyển sách đáng yêu. Kẻ vừa nhập đạo thường không tiếc lời ca-tụng tôn-giáo mới của mình. Chúng tôi nào có tránh được thường tình đó trong khi hầu chuyện với ông Trương-Quan, một nhân vật mà giới mại bản Huê-kiều và làng « thanh sắc » bổn xứ vẫn còn nhớ tiếng. Nghe chúng tôi ca tụng nhân tánh của nền văn-hóa Trung-Hoa, Trương-quân đột-ngột hỏi : « Như thế chắc bác-sĩ đã đọc quyển Đông-Lai bác nghị rồi ? » Chúng tôi phải thẹn thùng nhìn nhận : « Chẳng những chưa được đọc mà như phần đông người Việt-Nam, chúng tôi chưa từng nghe đến tên ! » Vì bác-sĩ khen ngợi văn học cổ Trung-Hoa, trí tôi vùng nhớ lại câu chuyện hai mươi năm về trước khi còn thơ ngây cặp sách vào trường để ăn mày chữ. Trong những giờ các bạn được nghỉ ngơi hoặc nô đùa chạy giỡn thì chúng tôi bị ông bác ngồi kèm bên cạnh ép buộc đọc một vài trang Đông-Lai bác nghị. Đó là lời phê-bình về hành vi và hạnh kiểm của các nhân vật đời Đông-Chu. Câu văn huyền diệu, lập luận chặt chẽ, tâm lý sâu sắc là ba đặc điểm của tác phẩm bất hủ đó. Nhưng đối với bộ óc non nớt của đứa trẻ lên mười thì làm sao thưởng thức nổi vẻ đẹp của câu văn hay và sự điêu-luyện của bài luận khéo ? Vậy mà, ông bác vẫn bắt buộc chúng tôi « ê » « a » đọc cho xong vì : « nơi trường, thầy dạy cháu làm văn ; nơi đây, bác dạy cháu làm người ». Lời của bác thật là chí lý ! Thời-đại Đông-Chu là khoảng đen tối nhứt của lịch-sử Trung-Hoa, vì lúc ấy, xã hội đương vươn mình thay đổi lốt, nên gây ra bao sự xáo trộn lớn lao. Bực thánh phải chung đụng với sát nhân, hiền triết phải ăn ở cùng gian tà, rồi tranh đấu chống chọi nhau nẩy sanh ra trăm ngàn việc, hay dở đều có. Tất cả hai mặt – tốt và xấu, thanh với tục – của con người đều phô bày. Nếu gặp một nhà phê-bình có cặp mắt tinh đời, có bộ óc sáng suốt, lại thông tâm lý, hiểu chánh trị, khảo sát thời kỳ ấy thì chắc chắn sẽ để lại cho đời một tác phẩm vô cùng hữu ích. Lữ Đông-Lai có đủ điều kiện ấy cho nên quyển Bác-nghị là một chiếc thuyền đã cắm sào ở ngoài dòng thời gian… Khi đọc quyển Đông-Lai, chúng ta có cảm giác đương nghe một tay thợ chuyên môn giải thích về các bộ phận trọng yếu của guồng « máy lòng » rồi chỉ cho chúng ta thấy các nguyên do thường làm cho động cơ ấy chạy. Cũng bởi « động cơ » và nguyên do ấy không thay đổi cho nên lời của Đông-Lai luận về một thời vẫn có thể giúp ích cho người trong muôn thuở. Vì lẽ đó, lúc trẻ, chúng tôi oán trách ông bác bao nhiêu, thì ngày nay, đã tránh được nhiều kinh nghiệm chua cay, chúng tôi lại cám ơn ông bác bấy nhiêu ! Đáp lời yêu cầu, ông Trương-Quan phải nhờ người về tận Thượng-hải mua giùm cho chúng tôi một bổn. Của báu cầm tay, chúng tôi đến nhờ Cụ dẫn giải giùm điều thắc mắc : « Tại sao một tác phẩm giá trị dường kia, mà từ xưa, trong xứ ta chưa từng nói đến ? » Cụ giảng : « Những sách Trung-Hoa được phiên dịch và truyền bá ở Việt-Nam phần nhiều vì ba cớ : Một là bởi có nhiều người bị bắt buộc phải đọc đến, cho nên bàn tới cũng nhiều, dịch ra không ít, đó là những sách có tên trong chương trình thi cử. Hai là các thứ sách quyến rủ người vì cốt chuyện, ấy là lịch sử tiểu thuyết tức là truyện. Còn về loại thứ ba là vận văn, vì đọc lên nghe êm tai, lại dễ nhớ, nên có nhiều người ưa thích. « Đông-Lai bác nghị không đứng vào ba hạng đó. Vì là văn phê bình nên đòi hỏi ở độc giả một trí phán đoán mà người đời ít hay dùng đến. Và là văn nghị luận nên khô khan mà bắt buộc người đọc phải suy xét mới thưởng thức. Không có vần, thiếu cốt chuyện hấp dẫn, lại không được ghi vào chương trình thi cử, như vậy ít người biết đến thì cũng là một chuyện không lạ. Nói thế không phải bảo sách ấy không có độc giả ! Ngoài số thí sinh hiếu kỳ nên tìm Đông-Lai đọc trước khi vào đình thí, phần đông, các người mê thích sách đó toàn là những kẻ đã đỗ đạt, ra làm quan, ưa dùng quyển Bác-nghị để kiểm điểm hành động trong lúc chăn dân hay khi xử thế. Rồi đến lúc chiều tà bóng xế, khi đã mỏi mệt thì trí muốn yên nghỉ hơn là dịch sách ? Vả lại đối với các bực tiền bối ấy, dịch hay viết sách là một sự ngoài tưởng tượng. Đối với họ, học là hành nghĩa là đem ra áp dụng, để làm tròn bổn phận của mình, chớ không dám học để truyền cho ai cả. » * Rồi theo lệ thường, Cụ giải thích, chúng tôi ghi chép. Cả thảy được tám mươi bốn bài. Mỗi bài là một sự ngạc nhiên. Trong văn chương Trung-Hoa, chúng ta thường bực mình vì gặp lời nhiều hơn ý. Với Lữ Đông-Lai, câu văn đẹp đẽ vẫn đi kèm với tư tưởng cao thâm. Lắm bài không đầy gang tấc mà chất chứa ý dài muôn vạn dặm. Càng suy xét, càng thấy sâu rộng. Về mặt tâm lý thực nghiệm và chánh trị thực hành, chưa chắc có quyển sách nào trong văn chương Âu-Mỹ sánh kịp Đông-Lai bác nghị. Ấy là chưa bàn đến lý luận, phần cốt yếu của sách. Mở đầu cho mỗi bài, tác giả nêu ra một tư tưởng căn-bản, nhiều khi không dính-líu với cốt chuyện đem ra phê-bình. Độc-giả còn tưởng nhà văn lạc đề, thì chỉ vài câu, đã móc dính đầu-đề với ý-niệm căn-bản. Rồi dùng câu chuyện đem phê-bình để chú-thích tư-tưởng chánh ghi trên đầu bài. Trước với sau, đầu với đuôi đều ăn khớp, các bộ-phận liên-lạc cùng nhau một cách tế-nhị làm cho độc-giả tưởng là đương nghe nhà toán-học khéo chứng-minh một định-lý của hình-học. * Rồi một hôm, mấy người bạn tình-cờ đến viếng giữa giờ giảng dạy của cụ, đó là ngẫu nhiên thứ ba. Cũng như chúng tôi, các bạn đều bị câu văn trong-sáng và lập-luận huyền-diệu của Đông Lai hấp-dẫn nên mới khuyên chúng tôi cho xuất-bản. Từ-chối là sự dĩ-nhiên, vì bổn-tâm của chúng tôi là chỉ học cho mình… Lý-luận của các bạn thật cũng chặt-chẽ : « Hiện nay, quốc-văn đương nghèo… học-sanh thiếu món ăn tinh-thần, v.v…. Trong lúc các tiểu-thuyết khiêu-dâm chường mặt trên báo và trong hàng sách thì ôm giữ cho mình một tác-phẩm có giá-trị là một việc… ích kỷ, một tội to đối với nền học-vấn ». Không phương chối-cãi, đành phải nghe theo. Từ đây mới gặp bao nỗi khó … * Trước hết, nếu cho in vỏn-vẹn tám mươi bài nghị-luận của Đông-Lai mà chẳng có những đoạn Xuân-Thu, Tả-Truyện thì làm sao độc-giả lãnh-hội được ? Vả lại, lắm khi, vì bắt-bẻ một câu hoặc một chữ của Tả-Truyện mà Đông-Lai viết thành bài « bác-nghị ». Vậy dịch Xuân-Thu và Tả-Truyện song-song theo « bác-nghị » là một sự tối-cần. Cũng là một điều quá khó. Các bạn chắc đều biết Xuân-Thu là một trong năm quyển kinh của Đức Khổng-tử. Đó là bộ sử nước Lỗ do Ngài sửa-định, chép từ đời Lỗ Ẩn-công cho đến Lỗ Ai-công gồm có 240 năm (từ 721 tới 481 trước tây lịch). Với quan-niệm hiện-tại về sử học khi chúng ta trịnh-trọng lật quyển Xuân-Thu thì sẽ vô-cùng ngạc-nhiên hay thất-vọng. Vì đó chỉ là một mớ sử liệu chép rời-rạc, dường như gặp chuyện thì ghi, không màng đến sự liên-lạc hay tương-quan. Lại có nhiều việc quan-trọng mà không chép. Khi chép thì quá vắn-tắt gần như đơn-sơ. Thí-dụ : bà Khương-thị vì thương con không đồng nên gây ra cuộc xung-đột giữa Trịnh Trang-công và em là Cung Thúc-Đoạn thì nào là quỷ-kế của anh, nào là tham-vọng của em, nào là lời bàn của bá-quan rồi đến trận đánh, với cuộc vây thành phá lũy, cho đến khi cùng đường Thúc-Đoạn chạy vào xứ Yển. Trịnh Trang-công giam mẹ, thật là bao nhiêu gây cấn mà trong Xuân-Thu chỉ có một câu : « Mùa hạ, tháng năm, Trịnh-bá thắng Đoạn tại Yển ». Có lúc còn vắn tắt hơn, như « Tề cứu Hình » hoặc « Địch đánh Vệ ». Vậy thì chân giá trị của bộ Xuân-Thu ở đâu mà vẫn được xem là quyển kinh để « định công luận, đoán án cho muôn đời » ? Tại sao chính Đức Phu-Tử cũng yêu cầu người đời « biết cho ta » hay « buộc tội cho ta » thì nên do bộ Xuân-Thu ? Như vậy, bực thánh và dư luận cổ kim đã lầm chăng ? Hoặc giả, vì quan niệm về sử học của xưa với nay quá khác nhau mới có điều chinh lịch đó ? Nếu thật thế thì tại sao một học giả của thời đại nầy, cụ Nguyễn-Văn-Tố, một người mà chưa ai dám ngờ vực về sức học uyên thâm, cũng chưa ai dám nghi đến sự thận trọng của ngòi bút, đã viết : « Muốn thưởng thức cái hay của bộ Xuân-Thu, phải nhận thấy hương nồng của triết lý, thơm ngát của luân lý, mùi vị của chánh trị ở trong kinh đó. » Làm sao những câu văn vắn-tắt sơ sài kia lại chứa được bao nhiêu mùi, hương và vị ? Chỉ vì Đức Phu-Tử khéo dùng một phương pháp kín đáo : quên TÊN và VIỆC. Sự quên hữu ý, sự cố tâm quên có nghĩa là chê bai, là khiển trách. Như trong thí dụ trên, không chép tên Trịnh Trang-công chỉ gọi Trịnh-bá là chê lỗi chẳng biết dạy em. Như Thúc-Tôn Kiểu-Như, đại phu nước Lỗ chuyên chế mạng lịnh qua rước vợ ở nước Tề thì Xuân-Thu chép : « Vợ Kiểu-Như tên Phụ-Hỉ ở Tề về. » Như vua của nước Châu, tên Thiệt, chức là công, thường gọi là Châu-công, vì sợ loạn nên bỏ xứ trốn qua Tào, sau cùng qua triều Lỗ, Xuân-Thu chỉ chép : « Thiệt đến ». Còn vua nước Kỷ, tước là bá, khi qua triều Lỗ lại dùng lễ của man di, Xuân-Thu chỉ biên : « Kỷ đến triều ». Chẳng những thiếu là chê, có khi thừa cũng là khiển trách, như thêm tên tộc của các vị vua có lỗi. Muốn chỉ trích vua Vệ dùng kế tiểu nhơn để chiếm nước Hình thì Xuân-Thu ghi : « Mùa xuân, tháng giêng, ngày bính ngọ, Vệ-hầu tên Hủy diệt Hình. » Khi muốn tỏ sự hư hèn của Tống Chiêu công thì chép : « Mùa đông, tháng mười một, người Tống giết vua tên là Chử-cữu. » Nhưng phần nhiều khi Xuân-Thu thêm tức là khen, nếu ghi cả chức tước. Muốn nêu tấm lòng trung của hai bề tôi nước Tống – công tử Ấn và Đãng Ý-Chư – Xuân-Thu chép : « Người Tống giết quan đại tư mã. Quan đại tư thành trốn qua Lỗ ». Như câu : « Mùa thu, tháng tám, ngày giáp ngọ, tên Vạn của Tống giết vua tên Tiệp và quan đại-phu Cừu Mục » là dụng-ý phạt Nam-Cung Trường-Vạn, một kẻ thí chúa, lại chê vua Tống vì tánh ham đùa-bỡn với bề tôi, phải mua lấy cái chết thảm-khốc, còn khen quan đại-phu tuy yếu-đuối mà dám cầm hốt đánh một tên võ phu, coi thường cái chết. Chỉ thêm bớt vài chữ, Đức Phu-tử đã tỏ sự khen chê, ban điều thưởng phạt. Mà khen với chê, thưởng và phạt, khi đã trưng nhiều lượt, sẽ tỏ bày một luân-lý và một đường chánh-trị. Cả hai là sản-phẩm của quan niệm về cuộc đời, về vũ-trụ tức là triết-lý. Phương-pháp kín đáo ấy chẳng những bày tỏ được mấy nguồn văn hoá mà còn gây một ảnh-hưởng, một hiệu lực phi thường : được một tiếng khen của Xuân-Thu là hưởng giọt mưa Xuân đầm-ấm, bị một câu trách là chịu ngọn nắng Thu gay gắt. Thật là kết quả mỹ-mãn, nhờ bởi tay thợ thánh khéo dùng một khí cụ thô sơ. Và cũng vì thế, sự phiên dịch Xuân-Thu chất chứa bao nhiêu nỗi khó : phải cân nhắc từng chữ, phải theo đúng nghĩa mà còn lo-sợ thừa lời. * Thiếu một chữ là chê bai, không chép một việc là trách phạt, thật là cực kỳ tinh khéo ! Nhưng chỉ khéo đối với những độc-giả thông lịch-sử Trung-Hoa thời Đông-Chu ; còn với những người khác, không thấy chép, tưởng không có chuyện, thì sự thưởng phạt sẽ vô hiệu quả. Vì vậy bộ Xuân-Thu cần có chú-giải. Chính là Tả-Truyện, một quyển sử đi song song với kinh Xuân-Thu do ngọn bút cứng rắn của Tả Khâu-Minh chép. Nơi đây, cần mở một dấu ngoặc để bàn về tên của nhà sử trứ-danh ấy. (Có nhiều học-giả – trong số ấy có thầy của chúng tôi – đọc là : Tả kỳ Minh. Vậy nên theo phần đông đọc Khâu hoặc Khưu hay theo các cụ mà đọc là Kỳ ? Sự chinh lịch nầy do tục cữ tên mà sanh ra. Số là khi có tên Khâu hay Ni (tức Khổng-Khâu, Trọng-Ni, tên của Đức Phu-Tử), hoặc Kha (tức Mạnh-Kha tên của thầy Mạnh) thì sách nho đều ghi ba chữ « nên đọc Mỗ » thành ra Khổng-Mỗ, Trọng-Mỗ và Mạnh-Mỗ. Lâu ngày – theo lời của ông Nhượng-Tống – bản in mòn đi, chữ Mỗ mất hết một nét sổ nên thành chữ Kỳ. Bọn hậu-sanh chúng tôi không phải thiếu lòng thành kính thánh hiền, nhưng thấy cần đọc cho đúng, mà chắc các đấng Phu tử, Mạnh tử, và các cụ cũng đã tha thứ khi chúng tôi đọc đến Ni và Kha. Vì vậy, từ đây nên đọc là Tả Khâu-Minh và đóng lại dấu ngoặc.) Có phải vì đứng gần cụ Khổng, một cây cổ-thọ của văn hóa Trung Hoa nên bị tàn che bóng lấp mà thân thế của Tả Khâu-Minh bị vùi mất trong biển thời gian chăng ? Chỉ còn nhớ là vị quan coi về sử của nước Lỗ noi theo ý chí của Phu tử chép lại những chuyện của kinh Xuân-Thu. Vi Khổng-tử cân nhắc ngòi bút để thưởng phạt như một vì thiên tử, nên được gọi là « Tố vương » – nhà vua không ngôi – và vì đó Tả Khâu-Minh được gọi là « Tố thần ». Nhiệm vụ của tử gia ấy là theo mỗi câu Xuân-Thu để kể chuyện. Và tất nhiên nhắc lại những đoạn không có chép trong kinh, để tỏ sự biếm nhẽ của Phu tử. Theo lối viết sử ngày xưa, mỗi bài đều có luân lý, ở đây là « lời bàn của người quân tử ». Chúng ta chớ lầm tưởng vì là quyển truyện cho nên kể lể dông dài như… bài tựa nầy. Trái lại, vừa đẽo gọt vừa cân nhắc nên câu văn trở nên gọn gàng và cứng rắn. Như tả Lỗ Trang-công đi cùng Tào Uế đánh Tề ở Trường câu : « Ngồi chung xe đến Trường-câu. Trang-công sắp ra lịnh đánh trống thúc quân. Tào Uế ngăn : « Chưa nên ! » Chờ quân Tề xong ba hồi trống. Tào Uế bảo : « Đến lúc ! » Thua to, quân Tề chạy. Trang công sắp ra lịnh đuổi theo, Tào Uế ngăn : « Chưa nên ! » Xuống, xem dấu xe của Tề, trở lên đứng trông lại. Bảo : « Đến lúc ! « mới có lịnh đuổi theo. Toàn thắng. » Như khi Khuất Hà đánh trận Bồ-tao, vì hoài nghi, hỏi Đấu Liêm : « – Sao không bói thử ? - Bói là để quyết điều nghi. Không nghi cần gì bói ! Rồi đem quân đánh thắng Viên, chiếm Bồ tao, minh hội xong, kéo về. » Câu văn có khi trở nên trục trặc, gút mắt vì bị bóp chặt hay thâu quá ngắn « Cho đánh trống. Tiến quân. Toàn thắng. Tiêu diệt hạ Nhược Ngao ». Trong nhiều đoạn, Tả-Truyện chỉ ghi lại vài cử chỉ mà cũng vẽ được một tâm lý phức tạp của nhân vật. Muốn tả lòng căm tức và chí gấp báo thù của vua Sở khi được tin Thân Vô-Uý bị Tống giết, Tả-Truyện chép : « Vua Sở hay, giũ áo đứng lên, đi chơn vào thất. Vào đến cung, giày đem tới. Ra cửa cung, gươm dưng tới. Đến chợ Bồ tiêu, xa giá đẩy tới. Mùa thu, tháng chín, Sở vây kinh thành Tống. » Dùng câu văn tuy vắn mà sâu để thuật lại những mẩu chuyện tuy đơn sơ mà đầy ý nghĩa có thể làm gương đáng theo hay nên tránh cho muôn đời, Tả-Truyện thành một áng văn tuyệt tác, chẳng những được văn nhân sùng bái mà còn được võ tướng kỉnh mộ. Chính những tay cung kiếm lại mắc phải « bịnh Tả-Truyện », là vì đi đến đâu, trong hổ trướng hay khi điều khiển ở trận tiền đều giữ cận bên mình quyển sử của Khâu-Minh. Nhìn nhận giá trị của văn Tả-Truyện là nhìn nhận sự khó dịch của bộ sử đó. Vì diễn tả một tư tưởng của người bằng tiếng của mình, việc đó còn có thể làm được. Còn chuyển dịch một câu văn hay từ tiếng nầy qua tiếng nọ thật là một chuyện quá khó. * Lẽ tất nhiên, muốn dịch hai quyển Xuân-Thu và Tả-Truyện, chúng tôi hoàn toàn nhờ nơi Cụ. Từng chữ, từng lời. Cụ kiên tâm giải thích rồi chịu khó kiểm duyệt. Khi nghe các bạn khuyên tôi xuất bản, thản nhiên, Cụ dạy : « Tùy nơi anh ! Nếu thấy có thể giúp ích được thì cứ tự tiện. Còn tôi chỉ là người của thế hệ trước. Đã qua rồi. Theo thế hệ đó, muốn đọc sách thánh hiền cần phải thông Hán học mới trọn hiểu tinh thần. Anh chớ quên : theo chúng tôi, Hán-văn là sự cần thiết, không thể không ; còn phiên dịch là sự bất đắc dĩ… Anh cũng nên nhớ giùm tánh tôi ưa thanh tịnh, ít ham đời nói đến tên… » Lời nhắc nhở ấy – đối với chúng tôi – là một mạng lịnh. Vì sự yêu cầu đó mới có lời phân trần lè nhè nầy. Chớ đâu phải vì chúng tôi. Nào có muốn phô trương thằng tôi khả ố nầy làm gì cho rườm tai độc giả ! Vì công lớn của cụ trong sự phiên dịch ; Vì sự giúp đỡ của các bạn : trước là ông Trương Quan cho sách, sau là các bạn Đỗ-Thiếu-Lăng giúp tài liệu, bạn Nguyễn-Duy-Cần cho xem vài bài Đông-Lai đã dịch từ lâu. Nhứt là anh Lê-Thọ-Xuân, cặn kẽ lúc chỉ bảo, tận tình khi sửa chữa, tỉ mỉ trong ấn loát. Một người « Anh » với nghĩa tốt đẹp của danh từ ; Vì sự lương thiện của trí óc trong khi trước tác ; Vì sự thành thật đối với mình, với đời, với nền văn học ; Chúng tôi trân trọng xin đọc giả nhận rõ điều nầy : Khi gặp những câu dịch gọn gàng, ăn khớp với nguyên văn, bạn nên nhớ đó là công, đó là tài của Cụ, thầy chúng tôi ; Khi thấy câu văn bất thành cú, khi gặp những lỗi lầm, chỗ dịch sai, bạn nên chắc chắn là vì sự dốt nát của DƯƠNG-TẤN-TƯƠI Mời các bạn đón đọc Đông Lai Bác Nghị của bác sĩ Dương Tấn Tươi.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tôi Chọn Hôm Nay, Tôi Chọn Hạnh Phúc
Khoảng 20 năm trước, tôi bắt đầu làm việc tại trung tâm điều dưỡng Kousei ở Yokohama, một trong mười trung tâm chăm sóc bệnh nhân lúc cuối đời trên toàn nước Nhật thời bấy giờ. Tôi đã chăm sóc rất nhiều bệnh nhân cho đến khi họ qua đời. Và ai cũng có cách riêng để đón nhận nấc thang cuối của cuộc đời mình. Có người cha phải đeo mặt nạ thở oxy để đến dự lễ cưới của con trai. Có bà lão nói với tôi rằng, cha bà đang đợi bà ở thế giới bên kia nên bà không hề sợ hãi cái chết. Hay còn có người nói đây là cách để gặp lại người con trai sau 20 năm âm dương đôi ngả. Nhưng sự thật là, không phải ai cũng có thể ra đi thanh thản trong niềm hạnh phúc. Có những người không rượu chè, thuốc lá, họ đạt được mục tiêu mua một ngôi nhà mơ ước, và rồi họ phát hiện ra mình mắc bệnh ung thư. Họ phẫn nộ hét lên: “Tại sao người mắc bệnh lại là tôi?”. Hay có những bệnh nhân không thể tự mình vệ sinh cá nhân nói với tôi rằng: “Xin bác sĩ hãy để cho tôi chết sớm, bởi lẽ nếu tôi cứ tiếp tục sống như thế này thì chỉ càng thêm đau đớn mà thôi!”. Đối với “mong muốn” như vậy, những y bác sĩ như chúng tôi không thể cho họ một câu trả lời thỏa đáng. Tôi chỉ biết ngồi cạnh những người bệnh đang bị giày vò, tự dằn vặt vì bản thân không thể làm được gì cho họ. Thế rồi vào một ngày nọ, tôi nhận ra rằng, cho dù tôi không thể làm gì giúp họ giảm bớt sự giày vò bởi bệnh tật, nhưng chỉ cần ở bên họ và cùng họ trải qua đau khổ, đó chẳng phải là đã giúp đỡ họ rồi sao!? Có nhiều bệnh nhân cho tôi thấy sự thay đổi của họ, và họ muốn nó được gọi là “kỳ tích”. Trong quãng thời gian điều trị tại bệnh viện, không ít bệnh nhân trước đó từng nói “Xin hãy cho tôi chết sớm”, nhưng giờ lại có những suy nghĩ tích cực như: “Cho dù mình không thể đi lại được nữa nhưng được sống đã là một điều may mắn rồi”. Cũng có những bệnh nhân từng than: “Sống đến bây giờ nhưng tôi chưa làm được điều gì lớn lao cả”, nhưng trước khi chết họ lại nhận ra rằng: “À, những điều mình đã làm được cho gia đình, cho công ty, cho xã hội đều là những điều có ích.” Nhiều bệnh nhân đã tìm thấy cơ hội để tự khẳng định mình. Tận cùng của đau khổ là khi ta tiến gần tới nấc thang cuối của cuộc đời. Nhưng từ những đau khổ đó, con người lại học được rất nhiều điều. Được sống đến giờ phút này thôi đã là một điều vô cùng ý nghĩa rồi. Hãy khiến bản thân mình luôn cảm thấy thanh thản. Hãy buông bỏ những điều mà chúng ta đang cố chấp níu giữ, hãy mạnh dạn chia sẻ cuộc đời với người mà chúng ta tin tưởng. Khi nhận ra những điều đó, chúng ta sẽ hiểu được hạnh phúc thật sự. Những ai nhận thấy mình đang ở giai đoạn cuối của cuộc đời cũng là một điều quan trọng. Điều đó không có nghĩa rằng họ phải chuẩn bị cho cái chết mà để họ có động lực sống và trân trọng giây phút hiện tại. Cả tôi và các bạn đều có những điều mà chúng ta coi đó là nguồn động lực sống. Thật khó để con người xóa bỏ mọi khổ đau, nhưng tôi nghĩ nếu chúng ta hiểu được rằng, điểm tựa của ta là gì, chắc chắn những ngày tháng tiếp theo trong cuộc đời chúng ta sẽ phần nào bình thản và hạnh phúc hơn. Hãy sống như thể hôm nay là ngày cuối cùng của bạn. Hãy chọn hôm nay, hãy chọn hạnh phúc. *** Hãy Kết Thúc Mỗi Ngày Thật Trọn Vẹn Để Đón Nhận “Ngày Cuối Cùng” Thật Thanh Thản Trước tiên, tôi muốn hỏi bạn rằng, nếu hôm nay là ngày cuối cùng của cuộc đời bạn, bạn sẽ sống như thế nào? Bạn sẽ dốc toàn lực cho công việc của mình tới tận khoảnh khắc cuối cùng? Hay bạn sẽ trải qua khoảng thời gian ấy cùng gia đình và những người yêu thương? Chắc hẳn mỗi người sẽ có câu trả lời của riêng mình. Cho dù câu trả lời của bạn là gì đi chăng nữa thì đó vẫn là sự lựa chọn của bạn, là điều mà bạn cho là đúng đắn, là điều mà bạn cho rằng thực sự quan trọng. Sau khi tốt ngiệp đại học, tôi từng về làm việc tại nhiều nơi như Trung tâm cấp cứu, Bệnh viện địa phương, Trung tâm điều dưỡng… Năm 2006, với chuyên môn khám bệnh tại nhà, tôi mở Phòng khám đa khoa Megumi. Phương châm hoạt động của phòng khám là: “Cho dù bạn ở đâu, cho dù bệnh của bạn là gì, hãy yên tâm vì chúng tôi luôn bên bạn. Chúng tôi sẽ giúp bạn hoàn thành nghĩa vụ xã hội đến giây phút cuối cùng”. Với những bệnh nhân do bệnh tật hoặc già yếu, gặp khó khăn trong việc đi khám, chúng tôi sẽ tiến hành thăm khám và chẩn trị tại nhà một cách tốt nhất. Việc tiến hành thăm khám của chúng tôi không đơn thuần chỉ là chẩn trị, kê đơn hay chỉ định sinh hoạt hàng ngày. Quan trọng là, chúng tôi muốn giúp cho những bệnh nhân đang mang những phiền muộn có thể sống thanh thản hơn mỗi ngày. Để có thể thanh thản đón những nấc thang cuối của cuộc đời, chúng tôi phải làm giảm đi những đau đớn trên cơ thể bệnh nhân và làm dịu đi nỗi phiền muộn trong tâm hồn họ. Chúng tôi nỗ lực hết mình để có thể giúp đỡ mọi người. Khi cận kề cái chết, nhiều người bệnh khổ sở nghĩ rằng: “Vậy là thời gian đã hết!”, “Có thể ngày mai sẽ không đến nữa”… Con người biết suy nghĩ về ngày mai, hướng về tương lai do đó chúng ta mới có thể tiếp tục sống để ấp ủ mơ ước, khát khao. Suy nghĩ “không còn có ngày mai” có lẽ là tận cùng của sự tuyệt vọng. Thế nhưng, con người không nên chỉ nhìn vào mãi những khổ đau. Quan trọng là chúng ta học được gì từ những điều đó. Hàng ngày, cuộc sống của ta bị những bận rộn và bộn bề bủa vây. Nếu chúng ta thoát khỏi những phiền muộn, và suy nghĩ một cách nghiêm túc về việc làm sao có thể sống thanh thản trong những ngày cuối của cuộc đời, thì chắc chắn chúng ta sẽ biết được điều gì là quan trọng với bản thân mình. Trong số những bệnh nhân mà tôi chăm sóc từ trước tới giờ, có một nữ bác sỹ dù trên người cắm đầy dây truyền dịch, đến mức không thể di chuyển được nhưng vẫn chọn làm việc tới tận khoảnh khắc cuối cùng. Có những người, cố gắng hết sức chỉ để được gặp một người họ muốn, bằng những nỗ lực cuối cùng. Bên cạnh đó, cũng có người không làm gì cả, họ chỉ lặng lẽ cùng gia đình và những người yêu thương đón nhận những giây phút cuối. Tôi không bao giờ nói với các bệnh nhân của mình rằng: “Đừng quá quan tâm vào công việc, hãy dành nhiều thời gian hơn cho gia đình” hay “Hãy cố gắng hoàn thành những điều còn dang dở.” Bởi mỗi người có những điều quan trọng, những mục đích sống khác nhau. Chúng ta cần phải tôn trọng những khao khát chân thành của người khác, bởi nó xuất phát từ trái tim. Thế nên, tôi nghĩ đó là điều hạnh phúc nhất với những bệnh nhân của mình. Hơn nữa, khi càng nhận ra mình phải xa lìa cuộc đời, nhiều bệnh nhân càng có mong muốn khẳng định mình. Có những người cả đời suy nghĩ rằng mình chưa từng làm được điều gì lớn lao hay cuộc đời của mình là chuỗi ngày tẻ nhạt. Nhưng đến thời khắc cuối, họ lại suy nghĩ rằng, “Mình đã làm việc một cách vững vàng trong những năm tháng ấy, mình là người có ích cho xã hội”, “Mình đã cố gắng hết mình vì (hạnh phúc) gia đình.” Đối với những người đó, điều thực sự quan trọng hầu hết là những điều gắn bó như gia đình, người yêu, bạn bè, công việc, thú vui… Và, khi biết cái chết đang đến gần, họ nhận ra được giá trị của khoảng thời gian được sống cùng với những điều quan trọng ấy. Tôi xin sử dụng câu nói “Hãy sống như thể hôm nay là ngày cuối cùng của bạn” và coi đó như tinh thần của cuốn sách này để cho các bạn có thể thử tưởng tượng, “Nếu như hôm nay là ngày cuối của cuộc đời mình, bạn muốn sống như thế nào?” Khi bạn nghĩ rằng “Hôm nay là ngày cuối cùng” thì bạn sẽ hiểu được đâu là điều quan trọng nhất với bản thân mình. Chính bởi vậy, tôi nghĩ rằng, ngay cả khi chúng ta còn khỏe mạnh hay khi cận kề cái chết, đó là cách nghĩ tích cực nhất để thúc đẩy động lực sống của mỗi người. Con người không nên chỉ nhìn vào mãi những khổ đau. Quan trọng là chúng ta học được gì từ những điều đó. Mời các bạn đón đọc Tôi Chọn Hôm Nay, Tôi Chọn Hạnh Phúc của tác giả Taketoshi Ozawa.
Không Đến Một
Nếu bạn muốn xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn, bạn phải tin vào bí mật. Bí mật lớn nhất của thời đại chúng ta là vẫn còn những lĩnh vực và phát minh mới cần chúng ta khám phá và tạo ra. Trong Không Đến Một, doanh nhân và nhà đầu tư huyền thoại Peter Thiel chỉ cho chúng ta biết cách tìm ra những cách thức độc đáo để tạo ra những thứ mới này. Thiel bắt đầu bằng một tiền đề nghịch lý là chúng ta đang sống trong giai đoạn trì trệ về công nghệ, thậm chí chúng ta còn bị các thiết bị di động hào nhoáng làm cho sao nhãng. Công nghệ thông tin đã cải thiện nhanh chóng, nhưng không có lý gì mà sự tiến bộ của loài ngoài chỉ nên giới hạn trong lĩnh vực máy tính hay ở Thung lũng Silicon. Chúng ta có thể đạt được sự tiến bộ trong bất cứ ngành nghề hay lĩnh vực kinh doanh nào. Nó xuất phát từ kỹ năng quan trọng nhất mà mọi nhà lãnh đạo phải thuộc nằm lòng: học cách nghĩ cho chính bản thân mình. Một Bill Gates của tương lai sẽ không viết nên hệ điều hành máy tính như Microsoft. Một Larry Page hoặc Sergey Brin kế tiếp sẽ không tạo ra cỗ máy tìm kiếm như Google. Và tất nhiên, một Mark Zuckerberg tiếp theo sẽ không tạo ra mạng xã hội như Facebook. Nếu bạn bắt chước họ, bạn sẽ chẳng học được gì từ họ cả. Không Đến Một đưa ra một cái nhìn lạc quan về tương lai của sự tiến bộ và tư duy mới mẻ về đổi mới: bắt đầu từ việc học cách đặt ra những câu hỏi đưa bạn đến những nơi không ngờ tới để tìm và tạo ra giá trị cho thế giới. PETER THIEL là doanh nhân và nhà đầu tư. Ông sáng lập PayPal năm 1998 và làm CEO, rồi đưa công ty lên sàn năm 2002, điều này giúp định hình một kỷ nguyên mới của thương mại điện tử nhanh chóng và an toàn. Ông cũng đầu tư vào Facebook, LinkedIn, SpaceX... *** Không Đến Một đưa ra một cái nhìn lạc quan về tương lai của sự tiến bộ và tư duy mới mẻ về đổi mới: bắt đầu từ việc học cách đặt ra những câu hỏi đưa bạn đến những nơi không ngờ tới để tìm và tạo ra giá trị cho thế giới. Peter Thiel là doanh nhân và nhà đầu tư. Ông sáng lập PayPal năm 1998 và làm CEO, rồi đưa công ty lên sàn năm 2002, điều này giúp định hình một kỷ nguyên mới của thương mại điện tử nhanh chóng và an toàn. Ông cũng đầu tư vào Facebook, LinkedIn, SpaceX… Bí mật lớn nhất của thời đại chúng ta là vẫn còn những lĩnh vực và phát minh mới cần chúng ta khám phá và tạo ra. Trong *Không Đến Một,* doanh nhân và nhà đầu tư huyền thoại Peter Thiel chỉ cho chúng ta biết cách tìm ra những cách thức độc đáo để tạo ra những thứ mới này. Nếu bạn muốn xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn, bạn phải tin vào bí mật. Dành cho - Những người sáng lập các công ty khởi nghiệp hiện tại và trong tương lai. - Người trẻ tuổi với một ý tưởng lớn, nhưng không có nhiều sự hỗ trợ từ bạn bè và gia đình. - Nhà đầu tư. - CTO công ty công nghệ. - Bất cứ ai nghiên cứu về kinh tế và các công ty khởi nghiệp. *** Peter Thiel và Blake Masters Peter Andreas Thiel (sinh ngày 11 tháng 10 năm 1967) là một doanh nhân, nhà đầu tư mạo hiểm, nhà từ thiện, nhà hoạt động chính trị và tác giả người Mỹ. Thiel sinh ra tại Frankfurt. Ông là người đồng sáng lập PayPal, Palantir Technologies và Founders Fund. Ông phục vụ như giám đốc điều hành cho đến khi bán cho eBay vào năm 2002 với giá 1,5 tỷ đô la. Ông được xếp thứ 4 trong Danh sách Midas của Forbes năm 2014, với giá trị ròng là 2,2 tỷ đô la, và số 328 trên Forbes* 400 năm 2018, với giá trị ròng 2,5 tỷ đô la Mỹ.  Mời các bạn đón đọc Không Đến Một của tác giả Peter Thiel & Blake Masters.
Giải Độc Siêu Nhân
John Bevere chỉ cho chúng ta cách để chiến thắng tội lỗi bởi ân sủng thêm sức của Chúa. Trong cuốn sách mới này, Giải Độc Siêu Nhân, ông tiết lộ cách mà hết thảy chúng ta đã nhiễm chất diệt siêu nhân trong chính đời sống chúng ta, và chúng ta chỉ có thể thắng được nó bởi tình yêu của Chúa. Tạ ơn Chúa vì đã ban cho John khải thị này! ROBERT MORRIS Mục sư sáng lập, Gateway Church, Dallas/Fort Worth, Texas Tác giả sách bán chạy The Blessed Life, The God I Never Knew, Truly Free và Frequency Sứ điệp này là một lời kêu gọi khẩn thiết dành cho hội thánh Chúa đó là đừng chấp nhận bất cứ điều gì ngoại trừ điều tốt nhất Chúa dành cho mình! Tôi tin những cái nhìn của John cộng với động cơ muốn giúp các tín hữu sống cho Chúa sẽ là một kinh nghiệm đổi đời cho tất cả những ai tâm huyết sứ điệp này. JOYCE MEYER Giáo sư Kinh Thánh và tác giả sách bán chạy Trong cuốn Giải  Độc Siêu Nhân, John Bevere chứng minh rõ ràng những đồn lũy ngăn cản chúng ta không sống hết tiềm năng của Chúa trong Chúa. Cuốn sách này đầy quyền năng, rất thẳng thắn và đem độc giả đến chỗ mặt đối mặt với chất diệt siêu nhân thuộc linh trong chính đời sống của họ. JENTEZEN FRANKLIN Mục sư quản nhiệm, Free Chapel Tác giả sách bán chạy New York Times Khải thị của John Bevere về các nguyên tắc và lời dạy của Kinh Thánh cùng với tấm lòng yêu thương dành cho dân sự Chúa đã gây dựng mỗi cá nhân và hội thánh Chúa suốt nhiều thập niên qua. Các sách vở của ông đã đi đến tận cùng ngõ ngách trên khắp thế giới, và ảnh hưởng của ông trên nhiều cuộc đời thì vô số kể. Tôi rất biết ơn là bạn của ông và của chức vụ ông và cũng tạ ơn Chúa là ông tiếp tục vâng lời Chúa mà viết sách. BRIAN HOUSTON Nhà sáng lập và mục sư quản nhiệm Hillsong Church Rất thuyết phục. Đầy dẫy Thánh Linh. Đầy quyền năng. Cuốn sách Giải Độc Siêu Nhân đã loại bỏ thứ tội lỗi đã làm suy yếu cơ đốc nhân bằng ân sủng và lẽ thật. Tôi tin cuốn sách này sẽ làm dấy lên một thế hệ mà trước đây rất ít nghe đến chân lí và sự vâng lời Chúa sẽ trở thành một thế hệ yêu mến Chúa đến độ không bằng lòng với hiện trạng của mình mà khao khát điều tốt nhất của Chúa - sự tự do trong Chúa và sự đầu phục Ngài. LOUIE GIGLIO Mục sư hội thánh Passion City Church, nhà sáng lập  Passion Conferences Tác giả cuốn Goliath Must Fall Cũng như các sách vở hay khác của John Bevere, cuốn sách này sẽ làm nhiều người ngạc nhiên. Không phải là ông không dùng biệt tài của mình để lột tả những vấn đề quan trọng mà trái lại thì khác. Ơn Chúa trên đời sống ông thật quá rõ ràng khi ông viết sách này. Điều làm nhiều độc giả ngạc nhiên là cách ông lột tả một vấn đề sờ sờ ngay trước mắt chúng ta, nhưng ít ai để ý tới. Thật không quá đáng khi cho rằng cuốn sách này rất cần thiết. Cuốn sách Giải Độc Siêu Nhân là sách mà mọi tín hữu nên đọc trong thời điểm này. BILL JOHNSON Bethel Church, Redding, CA Tác giả God is Good             Tôi kính tặng cuốn sách này cho các thành viên trong đội của chức vụ Messenger International. Chúng ta cùng nhau giảng tin lành của Chúa Giê-xu cho vô số người bởi ân sủng của Chúa. Việc này  không thể thực hiện được nếu không có đức tin, tài năng, lòng tận hiến và sự làm việc chăm chỉ của các bạn. Vợ tôi Lisa và tôi tôn trọng các bạn, rất vui được làm việc với các bạn và mong đợi tới Ngày Phán Xét khi đó Chúa Giê-xu sẽ ban thưởng cho sự phục vụ trung tín của các bạn ở cõi đời đời. Vì hy vọng, niềm vui và mão hoa vinh dự của chúng tôi trước mặt Chúa Giê-xu chúng ta khi Ngài quang lâm là gì? Không phải là chính anh chị em sao? Vì hy vọng, niềm vui và mão hoa vinh dự của chúng tôi vốn là gì? Không phải chính anh chị em trước mặt Chúa Giê-xu chúng ta khi Ngài quang lâm sao? Phải, chính anh chị em là vinh quang và niềm vui của chúng tôi. - TÊ-SA-LÔ-NI-CA 2:19-20 Cảm ơn các bạn, Messenger Team 2019! VÀI NÉT VỀ CUỐN SÁCH     Bạn có thể đọc Giải Độc Siêu Nhân (Killing Krytonite) từ đầu  đến cuối như bất kì cuốn sách nào. Tôi cũng trình bày các chương sách rất ngắn gọn, mất không tới mười đến mười lăm phút đọc là xong. Trong mỗi chương bạn sẽ thấy có phần thực hành, giúp bạn áp dụng những lẽ thật của chương đó vào đời sống của bạn. Xin đừng bỏ qua các bước thực hành này nó là một phần quan trọng để trải nghiệm cuốn sách này. Vì lí do này mà tôi khuyên mỗi ngày chỉ đọc một chương. Như thế, bạn có thể thực hành trước khi đọc chương tiếp. Ở cuối cuốn sách bạn cũng sẽ thấy nội dung thảo luận dành cho ai muốn dùng loạt bài Giải Độc Siêu Nhân cho nhóm nhỏ. Tôi cũng soạn bài học trực tuyến và phần nghiên cứu, đi kèm với nội dung trong sách này. Cả hai phần này đều là các phần bổ sung rất hay nếu bạn muốn nghiên cứu sâu hơn về chủ đề này. ( Cuối sách có thêm thông tin về bài học và phần nghiên cứu). Nếu bạn đọc sách này như là một phần trong loạt bài học về Giải Độc Siêu Nhân, tôi khuyên bạn theo dõi hoặc nghe bài dạy của mỗi tuần và trả lời những câu hỏi thảo luận theo nhóm ở phần cuối sách. Sau đó yêu cầu mỗi thành viên của nhóm đọc các chương tương ứng trước khi gặp nhau lần tới. Nếu bạn có câu hỏi nào, cứ liên lạc với tôi hoặc các thành viên khác trong chức vụ Messenger International. Chúc bạn đọc vui vẻ!         John           LỜI GIỚI THIỆU     Tôi biết khi nói điều này bạn sẽ ngạc nhiên, nhưng trong đời tôi, tôi chưa bao giờ lại không muốn viết một cuốn sách như vậy. Lát nữa tôi sẽ giải thích điều này. Nhưng trước hết, làm sao một cuốn sách có cái tựa về Giải Độc Siêu Nhân lại áp dụng cho các tín hữu tin Chúa? Hãy để tôi giải thích ngay. Phần lớn chúng ta đều biết chữ Kryptonite từ câu chuyện giả tưởng về siêu nhân. Thực tế nó  đã trở thành câu chuyện dân gian của Mỹ, do hai người bạn thời trung học là Jerry Siegel và Joe Shuster viết. Câu chuyện được xuất bản lần đầu trong một cuốn truyện thiếu nhi vào tháng Sáu năm 1938. Cốt truyện về một người anh hùng bác ái có được sức mạnh siêu nhiên là thuốc giải độc đặc hiệu trong thời Phát-xít độc tài. Tiếng tăm của Siêu Nhân ngày càng vang xa, và rốt cuộc thì câu chuyện siêu nhân không chỉ xuất hiện trên các mặt báo mà cả trên các chương trình phát thanh và phát hình, cùng trong hàng loạt các bộ phim bom tấn. Sau một thời gian, những câu chuyện này thành ra nhàm chán đối với khán giả vì không ai tấn công được Siêu Nhân. Chuyện này đã thúc đẩy các tác giả vào thập niên 1940 cho ra đời một thủ pháp mà sau này trở thành một thứ chất phổ biến có tên gọi Kryptonite một hợp chất có nguồn gốc từ hành tinh của Siêu Nhân, có thể trừ khử sức mạnh siêu phàm của Siêu Nhân. Dưới tác động của chất kryptonite thì Siêu Nhân trở lại bình thường như con người. Áp dụng cho Cơ Đốc nhân, có một thứ mà kẻ thù dùng để điểm huyệt (triệt tiêu) sức mạnh và phẩm cách mà Chúa ban cho chúng ta. Thứ đó là gì? Làm sao chúng ta nhận ra nó? Nó ảnh hưởng đến mỗi tín hữu hay hội thánh như thế nào? Nó ngăn trở chúng ta không còn khả năng và năng lực để chinh phục những người hư mất như thế nào? Tại sao chúng ta lại bị nhiễm độcdễ dàng như thế? Đây là một số câu hỏi sẽ được trả lời trong cuốn sách này. Đây là cuốn sách thứ hai mươi mà tôi viết nhờ Đức Thánh Linh giúp đỡ và dẫn dắt. Như tôi đã nói trước đó, trong lúc viết sách này, tôi muốn bỏ cuộc năm sáu lần. Lí do là vì chuyện này buộc tôi phải đối diện với các vấn đề mà tôi không thể bỏ qua trong chính đời sống tôi. Tôi đã phải tự hỏi bản thân, Mình có đang sống dưới tiêu chuẩn mà Chúa tạo dựng mình không? Là hội thánh Chúa, chúng ta có đang thật sự kinh nghiệm sự hiện diện và quyền năng của Ngài để thay đổi cộng đồng của chúng ta không? Tôi quả đã phải thức giấc nhiều lần và thốt ra những lời này, Cha ơi, con không biết chắc là con có thích đọc sách này hay không. Con không muốn viết sách này nữa. Mỗi lần như thế tôi cảm nhận lời phán Không được rất nghiêm khắc từ Thánh Linh. Cuối cùng, vào cái lần gặp Chúa mới đây, Ngài trấn an tôi rằng sứ điệp này sẽ mang lại những hiểu biết quan trọng để tiến hành xây dựng từng cá nhân, từng gia đình, và từng hội thánh khắp thế giới một cách lành mạnh. Những nguyên tắc này có thể thay đổi nhiều cộng đồng. Sau khi nhận lời hứa này, bởi đức tin tôi viết tiếp. Khi viết tới phần cuối của sách, bảy chương cuối, tôi thấy mình được phước. Tôi không chỉ hiểu ra sự khôn ngoan của sứ điệp này, mà tôi còn hiểu ra tính cấp bách của nó. Bây giờ thì tôi cho rằng sứ điệp này là một trong những thông điệp quan trọng được loan báo dưới danh nghĩa tôi là tác giả. Tôi đã nói những ích lợi của sứ điệp này ở cuối cuốn sách, nên rất dễ bạn sẽ bị cám dỗ mà mở đọc phần cuối của sách ngay. Nhưng để tôi cảnh báo bạn  xin đừng làm thế! Nếu bạn không đọc ba phần đầu thì bạn sẽ không nhận được gì nhiều ở phần thứ tư. Việc này có thể được ví như việc xem một bộ phim chỉ hai mươi phút cuối chỉ để biết kết cuộc câu chuyện ra sao. Như thế thì bạn sẽ không có ấn tượng bằng bạn xem bộ phim từ đầu. Những ai xem phim từ đầu đến cuối thì họ trải nghiệm được những cảm xúc cười khóc, la hét hay vui nhộn. Còn bạn thì sẽ thắc mắc không biết sao mà bộ phim lại hấp dẫn đến thế. Sách này gồm hai mươi tám chương, chia làm bốn phần, mỗi phần có bảy chương. Chúng tôi có dụng ý làm thế để giúp các độc giả không có nhiều thời gian đọc. Bạn có thể để mười đến mười lăm phút mỗi ngày đọc mỗi chương suốt bốn tuần. Hoặc bạn có thể để một tuần đọc một chương thì sẽ mất gần sáu tháng . Còn không thì bạn có thể đọc bình thường. Mục tiêu của chúng tôi là làm sao bạn có thể đọc sứ điệp này cách thích hợp nhất với thời gian biểu của bạn. Cuối cùng, cần xem việc đọc sứ điệp này như là một hành trình  mà hành trình đó sẽ bảo vệ bạn không bị nhiễm độc và có được những kiến thức để ảnh hưởng đến thế giới của bạn. Trước khi bắt đầu đọc, nào chúng ta hãy cầu nguyện xin Thánh Linh mở mắt chúng ta để nhìn thấy sự khôn ngoan thiên thượng, tăng cường sức mạnh giúp chúng ta hoàn thành định mệnh của mình trên đất này. Lạy Cha, trong Danh của Chúa Giê-xu, xin hãy mở mắt, mở tai và mở lòng con để nhìn thấy, lắng nghe và hiểu được ý muốn của Ngài cho cuộc đời con. Thánh Linh ơi, xin hãy dạy con đường lối của Chúa Giê-xu một cách sâu nhiệm khi con đọc sứ điệp này. Con xem Ngài là Giáo sư của con. Nguyện Ngài phán với con qua mỗi lời dạy trong sách này. Và nguyện đời con được thay đổi mãi mãi. Amen. Mời các bạn đón đọc Giải Độc Siêu Nhân của tác giả John Bevere & Daniel PhucNguyen.
Muôn Kiếp Nhân Sinh (Many Lives - Many Times)
Tôi chưa từng có dịp gặp tác giả Nguyên Phong. Trước đó, tôi biết đến ông như một nhà khoa học nổi tiếng thế giới và cũng là người phóng tác, viết lại những tác phẩm về văn hóa, tâm linh kinh điển mà nhiều thế hệ bạn đọc Việt, trong đó có tôi, hằng yêu mến. Hơn năm năm trước tôi có nhân duyên được trò chuyện cùng tác giả Nguyên Phong về những bí ẩn liên quan đến tác phẩm kỳ bí nổi tiếng Hành Trình về Phương Đông - tác phẩm ra đời gần nửa thế kỷ trước nhưng không một ai trên thế giới có thể truy tìm được bản gốc, để biết bao độc giả nhiều thế hệ còn thắc mắc và khiến một nhà xuất bản ở Mỹ phải dịch ra tiếng Anh từ nguyên bản tiếng Việt mà Nguyên Phong đã phóng tác. Tôi đã hiểu rộng hơn nghĩa phóng tác - là có thể viết theo tiềm thức của mình, bằng kiến thức và những chiêm nghiệm cuộc sống. Và tôi đã nghiệm ra, có những người Việt vô cùng khiêm nhường nhưng không hề thua kém bất cứ ai trên thế giới rộng lớn này. Tôi đã may mắn được ông chia sẻ nhiều câu chuyện trong nhiều năm. Vào một đêm khuya năm 2016, trong cuộc trò chuyện kéo dài gần về sáng, tôi đã hỏi ông về Nhân quả và Luân hồi. Ông đã kể lại một mối nhân duyên xảy ra nhiều năm trước, về Thomas - một doanh nhân nổi tiếng ở New York - và những câu chuyện tiền kiếp của mình. Tôi đã vô cùng ngạc nhiên và linh cảm rằng câu chuyện này có liên quan đến những trăn trở trước giờ của tôi, và chắc cũng của rất nhiều người. Tôi rất mong tác giả Nguyên Phong có thể viết lại những câu chuyện đó thành một cuốn sách. Ông im lặng không trả lời, và cũng không nhắc lại chuyện này trong những cuộc nói chuyện tiếp theo. Bẵng đi hơn hai năm, tôi bất ngờ nhận được thư điện tử của ông, trong đó là những chương đầu tiên của cuốn sách mà ông đặt tên là Muôn Kiếp Nhân Sinh . Đọc xong, tôi đã thầm nghĩ không thể có cái tên nào chính xác hơn. Tôi biết được rằng trong hai năm qua ông đã bay sang New York nhiều lần, phỏng vấn, trò chuyện với ông Thomas để thực hiện cuốn sách. Trước đó, tác giả Nguyên Phong đã liên lạc với ông Thomas để hỏi xin ý kiến về việc viết một cuốn sách kể lại các câu chuyện tiền kiếp mà ông từng chia sẻ. Ban đầu ông không chắc ông Thomas sẽ chấp nhận, vì nhiều câu chuyện quá riêng tư, nhạy cảm, nhưng bất ngờ thay, Thomas đã đồng ý.  Muôn Kiếp Nhân Sinh là một bức tranh lớn với vô vàn mảnh ghép cuộc đời, là một cuốn phim đồ sộ, sống động về những kiếp sống huyền bí, trải dài từ nền văn minh Atlantis hùng mạnh đến vương quốc Ai Cập cổ đại của các Pharaoh quyền uy, đến Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ ngày nay - nơi nhân vật chính Thomas, người bạn tâm giao lâu năm của tác giả Nguyên Phong - đang sống. Muôn Kiếp Nhân Sinh cung cấp cho bạn đọc kho kiến thức mới mẻ, vô tận của nhân loại lần đầu được hé mở, cùng những phân tích uyên bác, tiên đoán bất ngờ về hiện tại và tương lai thế giới của những bậc hiền triết thông thái. Thông điệp quan trọng xuyên suốt của tác phẩm thức tỉnh con người chính là nguồn gốc và cách thức vận hành luật Nhân quả và Luân hồi của vũ trụ. Đời người tưởng chừng rất dài nhưng lại trôi qua rất nhanh, sinh vượng suy tử, mong manh như sóng nước. Luật Nhân quả cực kỳ chính xác, chi tiết, phức tạp, được thu thập qua nhiều đời, nhiều kiếp, liên hệ tương hỗ đan xen chặt chẽ lẫn nhau, không ai có thể tính được tích đức này có thể trừ được nghiệp kia, không ai có thể biết được khi nào nhân sẽ trổ quả. Nhưng, một khi đã gây ra nhân thì chắc chắn sẽ gặt quả - luật Nhân quả trước giờ không bao giờ sai. Những xung lực, năng lượng vô hình của vũ trụ qua luật Luân hồi và Nhân quả đã tạo nhân duyên để người này gặp người kia. Gặp nhau có khi là duyên, có khi là nợ; gặp nhau có lúc để trả nợ, có lúc để nối lại duyên xưa. Có biết bao việc diễn ra trong đời, tưởng chừng như là ngẫu nhiên nhưng thật ra đã được sắp đặt từ trước. Luân hồi là một ngôi trường rộng lớn, nơi tất cả con người, tất cả sinh vật đều phải học bài học của riêng mình cho đến khi thật hoàn thiện mới thôi. Nếu không chịu học hay chưa học được trọn vẹn thì buộc phải học lại, chính xác theo quy luật của Nhân quả. Có người có cơ duyên được chứng kiến luật Nhân quả hay Luân hồi, có người thì không, điều đó còn phụ thuộc vào cơ duyên, nhận thức, trải nghiệm và niềm tin ở mỗi người.  Một lời tri ân chân thành tới tác giả Nguyên Phong - người đã dày công viết nên cuốn sách đặc biệt này - là không đủ. Qua những lần trò chuyện, tôi nhận ra ông chỉ có một ước mong duy nhất khi viết cuốn sách này. Xin được cảm ơn ông Thomas - vì tất cả. Xin được chia sẻ cùng bạn đọc những chiêm nghiệm sâu sắc, tâm huyết nhất của ông:  “Hiện nay thế giới đang trải qua giai đoạn hỗn loạn, xáo trộn, mà thật ra thì mọi quốc gia đều đang gánh chịu những nghiệp quả mà họ đã gây ra trong quá khứ. Mỗi quốc gia, cũng như mọi cá nhân, đều có những nghiệp quả riêng do những nhân mà họ đã gây ra. Cá nhân thì có ‘biệt nghiệp‘ riêng của từng người, nhưng quốc gia thì có ‘cộng nghiệp‘ mà tất cả những người sống trong đó đều phải trả. Hãy nhìn khắp thế giới hiện nay với hơn bảy tỷ người, có bao nhiêu người đang hành động độc ác, vô nhân tính? Có những quốc gia đang đối xử với người khác tàn độc như thế nào? Có biết bao cái chết thương tâm và cuộc sống bi đát của nhiều con người vô tội đã và đang diễn ra? Hãy thử nghĩ nếu tất cả đều chịu học hỏi và hiểu rõ về Nhân quả, biết rõ một khi ‘gieo nhân gì sẽ gặt quả đó’ thì có ai dám hành động như thế không? Thường thì con người, khi hành động, ít ai nghĩ đến hậu quả, nhưng một khi hậu quả xảy đến thì họ nghĩ gì, làm gì? Họ oán hận, trách trời, trách đất, trách những người chung quanh đã gây ra những hậu quả đó? Có mấy ai biết chiêm nghiệm, tự trách mình và thay đổi không? Đó là động lực để tôi chia sẻ những câu chuyện chưa từng kể với ai này - dù có những điều thiên cơ bất khả lộ - và chấp thuận để anh chia sẻ những trải nghiệm, bài học vô tiền khoáng hậu này với các bạn của anh, để viết thành một cuốn sách cho nhiều người trên thế giới cùng chiêm nghiệm - giữa lúc hành tinh đang gặp nhiều tai ương, biến động từng ngày. Tôi mong chúng ta - những cánh bướm bé nhỏ rung động mong manh cũng có thể tạo nên những trận cuồng phong mãnh liệt để thức tỉnh mọi người. Tương lai của mỗi con người, mỗi tổ chức, mỗi quốc gia và cả hành tinh này sẽ ra sao trong giai đoạn sắp tới là tùy thuộc vào thái độ ứng xử, nhìn nhận và thức tỉnh của từng cá nhân, từng tổ chức, từng quốc gia đó tạo nên. Nếu muốn thay đổi, cần khởi đầu bằng việc nhận thức, chuyển đổi tâm thức, lan tỏa yêu thương và chia sẻ sự hiểu biết từ mỗi người chúng ta trước. Nhân quả đừng đợi thấy mới tin. Nhân quả là bảng chỉ đường, giúp con người tìm về thiện lương“.   - Nguyễn Văn Phước Sáng lập First News - Trí Việt *** Năm 2008, tôi có dịp tham dự một hội thảo khoa học tại Đài Bắc. Nhân dịp đó, tôi liên lạc với một người bạn thân, giáo sư Raymond Yeh, để đến thăm ông này. Giáo sư Yeh là cựu Trưởng khoa Khoa học Máy tính tại trường Đại học Texas và Đại học Maryland. Ông là một nhà khoa học, là tác giả của rất nhiều tài liệu nghiên cứu và của mười cuốn sách giáo trình được dạy trong các trường đại học tại Hoa Kỳ. Ông đã đào tạo nhiều thế hệ khoa học gia và giáo sư nổi tiếng ngày nay. Mặc dù đã về hưu và sống tại Đài Bắc nhưng ông vẫn tiếp tục hoạt động trong lĩnh vực khoa học và có tầm ảnh hưởng lớn trên thế giới. Giáo sư Yeh vui mừng mời tôi ghé qua tư gia ăn tối. Điều bất ngờ là trong bữa ăn đó cũng có sự hiện diện của phi hành gia Edgar Mitchell [1] và một người bạn của ông tên là Thomas K, cũng đến thăm giáo sư Yeh. Giáo sư Yeh mở đầu giới thiệu với mọi người: - Phi hành gia Edgar Mitchell là một nhà khoa học lỗi lạc với nhiều công trình nghiên cứu nổi tiếng về không gian tại Đại học Harvard và Viện Công nghệ Massachusetts (MIT). Ông là một trong sáu người đã đặt chân lên mặt trăng bằng phi thuyền Apollo 14 vào ngày 31 tháng 1 năm 1971. Trên hành trình trở về trái đất, nhìn qua cửa sổ của phi thuyền, ông thấy trái đất thật nhỏ bé so với vũ trụ bao la và bất ngờ trải nghiệm một cảm giác bình an lạ lùng không thể diễn tả. Khi trở về, ông tìm đủ mọi cách để tìm hiểu về cái cảm giác đó. Là nhà khoa học, Edgar Mitchell cố gắng nghiên cứu để giải thích sự bình an lạ lùng này qua các lý thuyết khoa học nhưng không thành công. Ông quy tụ một số khoa học gia nổi tiếng, thành lập một viện nghiên cứu về mối liên hệ giữa khoa học và trải nghiệm nội tâm (Institute of Noetic Science); nhưng qua nhiều năm, những nhà khoa học lỗi lạc nhất này cũng chưa thể đi đến một kết luận nào cả. Do đó, lần này tôi mời ông ấy đến gặp Hòa thượng Thánh Nghiêm, mong rằng ngài có thể giúp ông ấy giải đáp thắc mắc về trải nghiệm này. Trong bữa ăn tối hôm đó, chúng tôi đàm đạo thân mật về các lý thuyết khoa học vừa được phát minh vào lúc đó. Tôi nhận thấy phi hành gia Mitchell là người có đầu óc cởi mở, với sự hiểu biết rộng và sâu sắc hơn những nhà khoa học khác mà tôi đã gặp. Ông Mitchell nói: - Các phát minh khoa học mới nhất hiện nay đang thúc đẩy nhân loại phải thay đổi cách suy nghĩ và quan niệm của họ, ngay cả với những gì mà trước đây chúng ta vẫn cho là đúng. Càng ngày càng có thêm nhiều khám phá mới, dữ kiện mới, có thể hoàn toàn thay đổi nền tảng khoa học mà chúng ta đã xây dựng từ mấy trăm năm nay. Thí dụ như, trong nhiều thế kỷ, chúng ta đã tin rằng trái đất là trung tâm của vũ trụ và mọi hành tinh, kể cả mặt trời, mặt trăng đều quay quanh trái đất. Dĩ nhiên hiện nay chúng ta biết rằng điều này hoàn toàn sai. Mặt trời chỉ là trung tâm của một Thái Dương hệ, quả đất của chúng ta và các hành tinh liên hệ đều quay quanh  mặt trời. Tuy nhiên, vũ trụ thì vô cùng rộng lớn và có rất nhiều Thái Dương hệ khác mà chúng ta chưa biết đến. Theo ước tính của Cơ quan Hàng không và Vũ trụ Mỹ (NASA) thì có khoảng hơn một tỷ Thái Dương hệ trong vũ trụ bao la mà Thái Dương hệ của chúng ta chỉ là một phần nhỏ trong đó. Ông Mitchell bất chợt trầm ngâm, giọng xúc động: - Chỉ khi con người đi ra ngoài không gian mới thật sự thấy được chúng ta quá nhỏ bé giữa vũ trụ bao la ngoài sức tưởng tượng này. Hiện nay, chúng ta biết rằng sự sống đã có mặt trên trái đất này từ hàng triệu năm nay, nhưng biết đâu sự sống cũng có thể hiện hữu ở các hành tinh khác hay các Thái Dương hệ khác nữa. Chúng ta cho rằng loài người là thông minh nhất khi so sánh với các loài vật, nhưng biết đâu có những sinh vật thuộc hành tinh khác còn thông minh hơn mà chúng ta chưa hề biết đến. Cách đây không lâu, chúng ta cho rằng vật thể nhỏ nhất trên thế giới là phân tử (Molecule) , nhưng sau đó chúng ta tìm ra nguyên tử (Atom) và nghĩ rằng nguyên tử là vật thể nhỏ nhất. Hiện nay, chúng ta biết rằng nguyên tử không phải là nhỏ nhất mà còn có những hạt lượng tử nhỏ hơn nhiều (Quark) . Nếu chúng ta tiếp tục nghiên cứu thì có lẽ sẽ còn có những thứ nhỏ hơn nữa. Do đó, kiến thức của chúng ta luôn luôn thay đổi theo các khám phá mới của khoa học. Nếu chúng ta có thể chứng minh được rằng hạt vi lượng (Neutrino) di chuyển nhanh hơn vận tốc ánh sáng thì quan niệm về thuyết Tương đối của Einstein phải thay đổi và quỹ đạo của mọi hành tinh trong vũ trụ sẽ khác hẳn những gì chúng ta đo được ngày nay. Ông ngừng lại và nhấn mạnh từng chữ: - Vấn đề là chúng ta sẽ phản ứng như thế nào với những dữ kiện mới được khám phá? Liệu chúng ta có chấp nhận rằng những gì chúng ta tin tưởng từ bấy lâu nay chỉ là những lý thuyết không còn giá trị nữa không? Hay chúng ta vẫn bám chặt lấy quan niệm cũ vì đã coi chúng như là chân lý tuyệt đối? Giáo sư Yeh đồng tình tiếp lời: - Khoa học thực nghiệm chỉ là tập hợp những kiến thức thu tập được từ nhiều cuộc thí nghiệm, với những dữ liệu được đo lường, quan sát và kiểm chứng. Là khoa học gia, chúng ta luôn luôn tìm kiếm, học hỏi và nghiên cứu dựa trên lý luận, đặt ra những giả thuyết, rồi chứng minh rằng chúng đúng hay sai. Tất cả những gì chúng ta xây dựng đều hoàn toàn dựa vào các công cụ đo lường; nhưng với sự tiến bộ của khoa học, khi các công cụ này ngày một tinh vi hơn, chính xác hơn, chúng ta sẽ tìm thêm được những dữ liệu mới để bổ sung cho những dữ liệu trước và tiếp tục xây dựng nền khoa học hiện nay. Nói cho đúng thì khoa học thực nghiệm là một tiến trình luôn luôn thay đổi để bổ sung cho những gì bất toàn trước đây. Ông Mitchell mỉm cười: - Nhưng sẽ có một lúc nào đó chúng ta tìm ra những dữ liệu hoàn toàn khác với những dữ liệu trước đó. Chúng ta sẽ đặt ra những giả thuyết mới để thay đổi các quan niệm hiện tại và chúng ta sẽ có một cuộc cách mạng khoa học lật đổ tất cả những gì chúng ta xây dựng trước đây. Bất chợt, ông Mitchell quay qua hỏi tôi: - Anh cũng là một nhà khoa học, vậy anh nghĩ như thế nào?  Tôi suy nghĩ, rồi trả lời: - Một cuộc cách mạng khoa học như thế có lẽ cần nhiều thứ hơn là việc đưa ra một lý thuyết mới để đánh đổ những lý thuyết trước. Theo tôi nghĩ, trước hết, chúng ta phải nghiệm lại các quan niệm trước để tìm hiểu tại sao chúng không còn đúng nữa. Như giáo sư Yeh đã nói, nếu chúng ta phát minh ra những công cụ tinh vi hơn, chính xác hơn, thì chúng ta hiểu rằng công cụ trước đây không hoàn hảo. Nếu chúng ta có thể chứng minh rằng những dữ liệu mới này hợp lý hơn, chính xác hơn, giá trị hơn, thì chúng ta có thể đưa ra bằng chứng để biện minh cho lý thuyết mới này và thay thế lý thuyết trước đã không còn giá trị nữa. Tuy nhiên, tôi nghĩ có lẽ sẽ phải mất nhiều thời gian để thay đổi tư duy của mọi người. Chúng tôi tiếp tục thảo luận về các phát minh khoa học, nhưng phần lớn là cuộc đối thoại giữa phi hành gia Mitchell và giáo sư Yeh. Tôi và ông Thomas chỉ ngồi nghe, đôi khi thêm vào vài câu xã giao. Tôi thấy ông Thomas chăm chú vào cuộc đối thoại, thỉnh thoảng lại mỉm cười nhưng không nói gì. Có lẽ vì ông là một doanh nhân chứ không phải là khoa học gia như chúng tôi nên ông kiệm lời hơn. Sau bữa ăn, ông Mitchell hỏi tôi: - Ngày mai chúng tôi sẽ đến gặp Hòa thượng Thánh Nghiêm, anh có muốn đi cùng với chúng tôi không? Dĩ nhiên tôi không thể từ chối một cơ hội hiếm có như vậy. Buổi gặp gỡ được sắp đặt trước này diễn ra tại giảng đường Đại học Đài Bắc cho một số sinh viên và giáo sư tham dự. Giáo sư Yeh là người chủ trì buổi nói chuyện. Giáo sư Yeh bắt đầu cuộc gặp mặt: - Mitchell, ông hãy kể về trải nghiệm lạ lùng khi bay trên không gian vũ trụ cho Hòa thượng Thánh Nghiêm nghe và hỏi ngài về những thắc mắc của ông đi. Phi hành gia Mitchell lên tiếng: - Thưa Hòa thượng, sau khi hoàn tất sứ mệnh trên mặt trăng, chúng tôi bắt đầu bay trở về trái đất. Khi bay trong không gian, phi thuyền của chúng tôi phải liên tiếp xoay tròn theo trục di chuyển 360 độ để giảm sức nóng phát ra từ ánh sáng mặt trời. Do đó, cứ mỗi hai phút thì tôi lại nhìn thấy trái đất, mặt trăng và mặt trời qua cửa kính của phi thuyền. Tôi cũng phải nói thêm là bên ngoài không gian, vì không có bầu khí quyển nên chúng tôi nhìn thấy các hành tinh rất rõ. Khi ở trên trái đất, chúng ta nhìn lên bầu trời và thấy các vì sao lấp lánh vì ảnh hưởng của bầu khí quyển; nhưng trong không gian, tất cả đều sáng rõ như một mạng lưới khổng lồ với hàng ngàn hàng vạn vì sao trông như những hạt kim cương tỏa sáng. Đó là một hình ảnh tuyệt vời đối với các phi hành gia chúng tôi lúc đó. Ngày nay, mọi người đều có thể nhìn thấy hình ảnh này qua kính viễn vọng Hubble, hay qua các hình ảnh mà Cơ quan Hàng không và Vũ trụ Mỹ chụp được và đưa lên mạng. Nếu quan sát kỹ, chúng ta sẽ thấy vũ trụ đẹp vô cùng, không lời nào có thể diễn tả được. Là một nhà khoa học, tôi biết rằng tất cả những tế bào, những nguyên tử trong cơ thể tôi, hay cơ thể của những người bạn tôi trong phi thuyền, và ngay cả những nguyên tử cấu tạo nên phi thuyền, đều phát xuất từ hành tinh của chúng ta hay chính là khởi nguồn trong vũ trụ. Mọi hiện tượng vật chất đều phát xuất từ vũ trụ này. Từ đó, tôi ý thức rằng thân thể của tôi và tất cả mọi vật trong vũ trụ không có gì sai biệt. Thay vì là một cá thể độc lập, một thành phần riêng rẽ, tôi ý thức rằng tất cả cùng chung một nguồn gốc. Ngay khi đó, toàn thân tôi bỗng nhiên rung động mãnh liệt. Tôi thấy mình chìm đắm trong một cảm giác bình an lạ lùng không thể diễn tả. Trải nghiệm này tiếp tục diễn ra mỗi khi tôi không bận rộn. Là phi hành gia, dĩ nhiên chúng tôi rất bận vì vừa phải điều khiển phi thuyền, vừa phải hoàn thành những thí nghiệm khoa học trong phi thuyền, nhưng thỉnh thoảng tôi cũng dừng lại nhìn ra ngoài cửa sổ để chiêm ngưỡng vẻ đẹp diệu kỳ của vũ trụ và cảm nhận cảm giác bình an lạ lùng này. Với mỗi vòng quay của phi thuyền, tôi lại nhìn thấy trái đất, mặt trăng, mặt trời, cùng các vì tinh tú lấp lánh. Tôi thấy vũ trụ giống như một tấm lưới với hàng triệu vì sao toát ra thứ ánh sáng rực rỡ, và tôi ý thức rõ ý niệm “vạn vật đồng nhất thể”. Tôi hiểu rằng nếu đã đồng nhất với tất cả thì vạn vật đều liên quan chặt chẽ với nhau, không thể tách rời được. Đây là một quan niệm mới lạ mà từ trước đến nay, các nhà khoa học chúng tôi không ai nghĩ đến. Trong trải nghiệm bình yên đặc biệt đó, tôi tự hỏi: “Tôi thực sự là ai? Tôi từ đâu tới đây? Rồi tôi sẽ đi về đâu? Vũ trụ được hình thành và có mối liên hệ như thế nào với trái đất cùng những con người sống ở đó? Có phải chúng tôi, những người đầu tiên du hành ra ngoài không gian, đã cảm nhận được sự tương quan rõ rệt giữa con người và vũ trụ, khác hẳn với ý niệm của những người chưa từng rời trái đất?”. Từ ý niệm này, tôi nghĩ rằng có lẽ đã đến lúc phải tìm cách thay đổi các quan niệm định kiến chật hẹp đã giam cầm bao nhiêu thế hệ từ trước đến nay bằng một quan niệm mới về sự tương quan giữa con người và vũ trụ. Có lẽ các định luật khoa học, các kiến thức được xây dựng từ ngàn xưa sẽ phải thay đổi khi chúng ta nhìn lại tất cả những gì chúng ta đã làm trên trái đất này, sau khi chứng kiến sự nhỏ bé của chúng ta so với vũ trụ bao la. Ngay như nền khoa học hiện đại bắt đầu khoảng bốn trăm năm trước với Isaac Newton cũng sẽ phải thay đổi khi con người bước ra khỏi tầm ảnh hưởng của sức hút trái đất. Khi lan man nghĩ đến đó, tôi chợt nghĩ đến những bậc tiên phong như Copernicus, Galileo và những nhà khoa học lỗi lạc khác đã đưa ra ý kiến về sự tương quan giữa trái đất và vũ trụ nhưng phải chịu đựng sự chống đối, kỳ thị của những quan niệm thiển cận, hẹp hòi lúc bấy giờ. Người thì bị thiêu sống, người thì bị giam cầm cho đến chết, nhưng sự thật vẫn là sự thật, không thể chối cãi. Tất cả khuynh hướng bảo thủ, hẹp hòi trước sau cũng phải thay đổi khi người ta biết hướng tầm mắt lên cao, xóa bỏ thành kiến cũ và mở rộng tâm hồn để nhìn ra vũ trụ bao la. Phi hành gia Mitchell ngừng lại suy nghĩ, rồi tiếp tục: - Khi trở về trái đất, tôi luôn thắc mắc về cái cảm giác bình an lạ lùng này. Tôi tìm đọc rất nhiều sách vở khoa học nhưng không tìm thấy gì có thể giải thích hiện tượng trên. Tôi chuyển qua nghiên cứu các sách vở tôn giáo của phương Tây nhưng cũng không tìm được gì. Tôi tìm đến những học giả thông thái nhưng không ai có thể trả lời được thắc mắc của tôi. Một người bạn khuyên tôi nên tìm đọc các tài liệu về tôn giáo phương Đông, và tôi bắt đầu nghiên cứu Phật giáo, nhất là các sách nói về đại định (Samadhi) . Tôi thấy có sự trùng hợp giữa trải nghiệm mà tôi đã trải qua trên không gian với trải nghiệm của các hiền triết phương Đông, khi họ diễn tả về trạng thái thiền định. Giáo sư Yeh chợt hỏi: - Phải chăng cảm giác đó là thấy mình hợp nhất với vạn vật? Phi hành gia Mitchell trả lời: - Đúng thế, lúc đó tôi không thấy có sự khác biệt giữa mình và vạn vật nữa. Cái cảm giác hòa hợp, rung động cùng với sự chuyển động của vũ trụ, là một trải nghiệm kỳ lạ không thể diễn tả được bằng lời. Giáo sư Yeh quay sang hỏi Hòa thượng Thánh Nghiêm: - Bạch Hòa thượng, theo quan niệm của Phật giáo, trải nghiệm không còn thấy sự phân biệt giữa mình và vạn vật của phi hành gia Mitchell có phải là một sự chứng ngộ không?   Mời các bạn đón đọc Muôn Kiếp Nhân Sinh (Many Lives - Many Times) của tác giả Nguyên Phong.