Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Người Trong Lưới

Ở chung cư nọ, cứ chiều xuống là các cụ già lại ra ngồi bên cửa sổ ngắm nhìn phố xá. Chiều hôm ấy, đang ngắm phố xá như thường lệ, có hai cụ trông thấy một cô bé ở tòa nhà đối diện mở cửa sổ, leo lên bệ cửa rồi nhảy xuống. Một trong hai cụ sợ đến ngất xỉu, cụ còn lại hô hoán người nhà báo cảnh sát. Cả hai đều khai, lúc cô bé nhảy xuống không có bất cứ ai đứng sau lưng cả. Chung cư này cũng là nơi dân tình hay ném đồ đạc trên cao xuống, người ta phải lắp camera giám sát để bắt phạt, một trong các camera cũng trung thực ghi lại cảnh cô bé nhảy lầu. Còn rất nhiều nhân chứng vật chứng khác cho thấy đây là một vụ tự sát, nhưng chị cô bé không tin. Không chấp nhận kết quả điều tra chính thức, không muốn em gái phải chết mù mờ oan ức, cô đã bắt tay lùng tìm theo một hướng bất hợp pháp, để lần lượt lôi ra từng kẻ thủ ác đang thu lu sau màn hình. Đặt cuộc trả thù cá nhân vào bối cảnh Hồng Kông hiện đại, khi ai nấy vô hồn với xung quanh vì chỉ biết cắm mặt vào điện thoại, Người trong lưới là một sự thật nhức nhối về ranh giới mỏng manh giữa vô tâm và ác tâm. *** Tác giả: Chan Ho Kei. Dịch giả: Thu Hường Thể loại: Trinh thám hiện đại Hong Kong Mức độ yêu thích: Gấp đôi điểm tuyệt đối . . “… dẫu số phận bi thảm đến đâu, thì việc gây bất hạnh cho người khác cũng không mang lại hạnh phúc cho bản thân, trái lại còn khiến nỗi đau thêm dai dẳng. Thù hận tưởng chừng tiêu tan, thật ra là tồn tại dưới một hình hài khác, gặm nhấm thêm nhiều linh hồn lương thiện, đem lại khổ đau cho nhiều người nữa”. Tết cổ truyền VN năm nay rơi vào đúng các ngày ngay trước Lễ Tình Thương, nên từ hai mấy tháng Chạp tôi đã cân nhắc chọn đọc cuốn nào đem lại tâm trạng tốt cho mình để hên cả năm. Điểm qua một lượt các “em” sách giấy trên kệ, tôi quyết định gửi gắm vận may của mình cho tác giả Chan Ho Kei. Ngay đêm Giao Thừa, ôm quyển “Người trong lưới” đọc được gần trăm trang thì tôi biết ngay mình đã chọn đúng. Suốt mấy ngày đầu năm, tôi cứ lải nhải với người nhà rằng “Ôi con chọn được cuốn sách quá đỉnh để đọc mấy ngày này”.   Âu Nhã Văn là cô bé 15 tuổi đang học trung học. Cha bị tai nạn lao động qua đời nhưng công ty toa rập với bên bảo hiểm để ăn chặn tiền bồi thường của gia đình cô, mẹ vất vả cả đời cũng không đủ sức đem đến cuộc sống sung túc cho cả nhà, chị gái Âu Nhã Di không học ĐH mà đi làm để kiếm tiền nuôi hai chị em. Vốn là người nội tâm, nhạy cảm, không thể chống chọi với sóng to gió lớn ập đến với mình, Văn nhảy lầu tự sát ngay lúc chị gái Di vừa đi làm về. Rơi vào hố sâu tuyệt vọng điên cuồng, Âu Nhã Di cảm thấy mục đích sống của mình đã trở nên vô nghĩa. Thế nhưng, mục đích sống mới xuất hiện, đó là tìm và báo thù những kẻ trực tiếp hoặc gián tiếp gây nên cái chết thê thảm của em gái cô. Di thuê thám tử tư điều tra, nhưng vụ việc nhanh chóng hiện rõ tính chất phức tạp đến mức thám tử cũng từ chối.   Khi đọc phần giới thiệu nội dung truyện, tôi nửa tin nửa ngờ vào độ lôi cuốn của “Người trong lưới”, vì nghĩ rằng nạn nhân là một cô bé nhảy lầu tự sát, không ai đẩy xuống, không có di thư, vụ án nghe có vẻ đơn giản làm sao có thể viết nên một cuốn sách to dày như thế. Thế nhưng, chỉ mới đọc mười mấy trang, tôi đã nghẹn lòng xót thương gia cảnh của Âu Nhã Di, đồng thời lập tức đặt mình vào vị thế của cô khi thấy cô cũng là mọt sách và làm việc trong thư viện. Nghề nghiệp của nữ chính khiến tôi chủ quan cho rằng cuốn “Người trong lưới” đúng là viết ra dành riêng cho mình! Đây là câu chuyện trinh thám – tâm lý XH phản ánh rõ nét XH Hong Kong nói riêng và XH hiện đại của loài người nói chung. Cả truyện chỉ có một nạn nhân tử vong, còn lại đều là quá trình điều tra diễn tiến đầy phức tạp, nhưng tôi thấy từng đoạn từng câu đều hấp dẫn. Có nhiều chỗ tôi không hiểu vì dùng nhiều thuật ngữ thuộc ngành Công nghệ Thông tin (IT) nhưng tôi cố gắng không đọc lướt đoạn nào. Sau vài chục trang, tôi tự hỏi tác giả phải tìm hiểu kỹ về IT đến mức nào để có thể viết được những đoạn văn chứa đựng nhiều kiến thức phức tạp và chính xác như thế, nhưng khi giở bìa gấp trước ra xem thì tôi vỡ lẽ rằng tác giả Chan Ho Kei đã tốt nghiệp khoa Khoa học Máy tính thuộc ĐH Trung văn Hong Kong. Một người học và làm trong ngành công nghệ mà viết tiểu thuyết điêu luyện như thế, thật sự đáng ngưỡng mộ và học hỏi. Chan Ho Kei đã chiếm trọn sự yêu thích và quan tâm của tôi từ sau cuốn 13.67. Tôi cũng có thể khẳng định tác giả Hong Kong này đọc RẤT nhiều sách (vì đọc nhiều là một trong những yếu tố giúp viết hay), trong cuốn này có đề cập đến vài tựa sách tiểu thuyết cổ điển lẫn hiện đại thuộc vài thể loại khác nhau, cả truyện kiếm hiệp và thể loại trinh thám Nhật, cụ thể như sau: + “Thiên long bát bộ” của Kim Dung + “Thú tội” của Minato Kanae + “Đêm trắng đi hoang” của Higashino Keigo + “Bí kíp quá giang vào ngân hà” của Douglas Adams   Đọc khoảng trăm trang đầu thì tôi nghĩ cốt truyện cũng đơn giản, nhưng càng đọc tôi càng nhận ra mình đã lầm. Phía sau vụ nhảy lầu tự sát của cô bé 15 tuổi là mạng lưới đan xen dày đặc của các mối quan hệ trường lớp, ác tâm của những kẻ gọi là bạn bè, ác ý và sự vô cảm của cư dân mạng, sự thờ ơ không cố tình của người chị ruột… tất cả hình thành nên tấm lưới uất ức từ từ siết chặt lấy cô gái nhỏ. Trong truyện có hơn ba lần tác giả nhắc đến “chọn lọc tự nhiên” bằng những câu văn tương tự nhau, chẳng hạn như “Ở thành phố này, chỉ kẻ mạnh mới sống sót được. Nếu không muốn làm kẻ bị bóc lột, chúng ta chỉ còn cách trở thành kẻ đi bóc lột… Đừng khờ khạo cho rằng ở hiền gặp lành” hoặc “Trong xã hội cá lớn nuốt cá bé, người ta chia nhau ra đóng vai kẻ lợi dụng và người bị lợi dụng, ai am hiểu cách lợi dụng nhược điểm của con người đều có thể đặt chân lên con đường thành công”. ____ Tuy vậy, độc giả sẽ hiểu rõ không phải ý tác giả là “chỉ kẻ mạnh mới tồn tại nổi”, mà sẽ cảm nhận được tính nhân văn sâu sắc của truyện. Không biết vì tôi đọc lúc thể trạng đang không tốt hay vì bắt gặp những chi tiết đau lòng mà đôi lúc tôi phát hiện mắt mình ươn ướt.   Nếu trong 13.67, người đọc thích thú khi ngay chương đầu đã bắt gặp việc ứng dụng khoa học công nghệ vào điều tra phá án, thì đến “Người trong lưới”, các chi tiết về khoa học máy tính xuất hiện dày đặc khiến tôi không khỏi liên tưởng mạnh mẽ đến cuốn “Sát nhân mạng” của Jeffery Deaver, đương nhiên là những dòng viết về công nghệ trong “Second Sister” mang tính thời đại hơn “The blue nowhere” nhiều, vì cuốn của Trần Hạo Cơ ra đời sau cuốn của bác Deaver tận 19 năm, tính theo thời gian trong truyện là 14 năm. Qua phần Lời Bạt cuối truyện của tác giả Chan Ho Kei, tôi cũng biết thêm một từ mới, là “thủ pháp cá trích đỏ” (red herring). Nhưng cụm từ tôi thích nhất, sẽ học hỏi và áp dụng sau khi đọc cuốn này là “tấn công phi kỹ thuật”.   Như đã viết ở trên, tôi cảm thương với gia cảnh và đồng cảm với nghề nghiệp của Âu Nhã Di, nhưng khi thấy Di hơi kém cỏi trong việc cập nhật công nghệ thì tôi có chút ngán ngẩm (tội lỗi quá), nhưng tôi buộc mình phải thấu hiểu rằng một phụ nữ trẻ vất vả kiếm sống trong một XH chỉ cho phép kẻ mạnh tồn tại thì không còn hơi sức và khả năng kinh tế để quan tâm đến những thứ đồ chơi công nghệ phức tạp đắt đỏ. ____ Còn nhân vật Nem, ban đầu tôi không ưa anh ta, chỉ thích bí danh của anh ta vì nó khiến tôi liên tưởng đến đồ ăn. Sau đó tôi đoán anh ta tên thật là Inoue Satoshi. Càng đọc, tôi càng liên tưởng Nem với thiên tài hacker trong cuốn “Sát nhân mạng”.   Tuy bối cảnh truyện là XH Hong Kong hiện đại năm 2015, cốt truyện phức tạp nhiều chi tiết nhưng tôi vẫn tự cho phép mình đúc kết khuôn mẫu của mối quan hệ giữa nam nữ chính trong truyện: Di giống như nàng Lọ Lem nghèo khổ kiên cường vượt qua những trắc trở trong cuộc sống, nhưng trong cái rủi có cái xui à không có cái may, số phận đưa đẩy khiến nàng tình cờ gặp được bậc quân vương đội lốt ăn mày, văn võ toàn tài, hào hiệp giúp đỡ kẻ yếu nhưng cứ luôn khẩu xà tâm Phật. Tuy bây giờ tôi không còn mơ mộng ảo tưởng như hồi trước nhưng với diễn biến + phần cuối truyện, tôi không khỏi nghĩ đến mấy bộ phim cổ tích Disney với câu “Và họ sống hạnh phúc mãi mãi về sau”! (thêm n+1 cái chấm than)   Tôi đồng ý với lý thuyết chọn lọc tự nhiên – kẻ mạnh mới tồn tại được – mà tác giả Chan Ho Kei nhiều lần nêu lên trong truyện, nhưng tôi không đồng ý với tư tưởng rằng để trở thành kẻ mạnh / hoặc đã vốn là kẻ mạnh thì tự cho mình quyền sinh sát, không quan tâm đến nỗi khổ của người khác, có thể thản nhiên giết người hoặc nhìn người khác lâm vào chỗ chết, miễn là họ không ảnh hưởng đến lợi ích của mình. Nếu ai cũng nghĩ vậy mà sống thì trần gian sẽ trở thành địa ngục. Trong khoảng thời gian đọc “Người trong lưới”, tôi có duyên nghe được vài câu rất hay, khiến tôi cảm thán sâu sắc với nội dung cuốn sách này: “Con người phải biết đủ trong cuộc sống, gặp nghịch cảnh không oán hận, gặp thuận cảnh không cao ngạo, chỉ có luôn tu sửa hành vi chính mình và biết quan tâm giúp đỡ người khác thì bản thân mới đạt được hạnh phúc”.   Nghe nói cuốn này dịch thiếu nửa chương 9 và toàn bộ chương 10, tuy đã được một đại công tử nhân hậu tặng ebook tiếng Anh nhưng vì lười nên tôi chưa đọc bản Anh, chỉ mới đọc bản Việt + chương 10 do anh Nabil Kamal dịch (xin cảm ơn anh nhiều). Về bản dịch Việt của IPM, kẻ mù công nghệ như tôi đọc thấy rất hay, rất dễ hiểu trừ những đoạn tôi không hiểu. Sách được trình bày đẹp, chữ in to rõ, bìa trước dường như thiết kế theo phong cách truyện tranh Nhật, bạn nào nếu vì cái bìa của 13.67 mà chưa muốn mua đọc thì có lẽ cũng không quá thích bìa của “Người trong lưới”, riêng tôi thì yêu cả hai cuốn. Cũng như với 13.67, “Người trong lưới” được tôi đưa vào danh mục sách mà tôi sẽ mua thêm để tặng người khác.   Tôi cố gắng viết và cố ý đăng review cuốn này vào 14-2 như một cách bày tỏ lòng hâm mộ của mình đối với tác giả Trần Hạo Cơ, nhưng nếu có ai thành lập fanclub thì tôi không tham gia đâu. Lần sau có dịp vào tiệm mì Tàu, tôi sẽ thử gọi “Sen lớn thêm xanh ít bánh nước riêng cải trụng rưới không dầu” xem chủ quán sẽ trầm trồ hay sẽ nhìn tôi bằng ánh mắt kỳ dị.   (Sea, 14-2-2021) Cáo Biển Non Xanh *** MỞ ĐẦU 8 giờ sáng sửa soạn đi làm, Di không hề biết hôm nay sẽ là ngày thay đổi cuộc đời cô. Tưởng đâu chỉ cần cắn răng chịu đựng, bao khốn khổ dồn dập ập xuống suốt một năm qua sẽ chấm dứt, ắt có ngày mưa tạnh trời quang. Thế nhưng số phận biến động khôn lường, ông trời không chỉ thích đùa giỡn người trần, mà còn đùa toàn những trò thảm khốc. Hơn 6 giờ chiều, Di lê tấm thân mệt mỏi từ bến xe buýt mini xanh*về khu nhà ở xã hội, vừa đi vừa nhẩm tính xem thức ăn trong tủ lạnh có đủ nấu một bữa cho hai người không. Xe buýt loại nhỏ chỉ dừng ở điểm quy định, phân biệt với xe buýt mini đỏ cho phép khách xuống dọc đường. Mấy năm nay giá cả đắt đỏ khủng khiếp. Ngày xưa một cân* thịt cùng lắm hơn 20 đô*, bây giờ ngần ấy tiền chỉ mua được nửa cân. Gọi là “ngày xưa” nhưng cũng mới bảy, tám năm trước thôi. Thịt thà rau dưa giờ tăng giá gấp đôi là ít, nhưng lương lậu của giai cấp vô sản thì vẫn còm cõi như cũ. Giá thực phẩm tăng vọt không đơn giản vì giá bán buôn tăng. Di từng nghe một hàng xóm lớn tuổi nói đùa, “Người Hồng Kông không ăn cơm mà ăn gạch*.” Sau khi chính phủ bán chợ và cửa hàng bách hóa ở khu nhà xã hội cho doanh nghiệp tư nhân, các hộ kinh doanh phải đối mặt với áp lực tiền thuê tăng. 1 cân Hồng Kông tương đương 600 g. Đô la Hồng Kông. Từ đây đến cuối sách, nếu chỉ nói “đô” không, tức là đô la Hồng Kông. Ngụ ý giá nhà đất quá cao nên ảnh hưởng nặng nề đến miếng cơm manh áo. Để có thêm thu nhập đập vào tiền thuê đắt đỏ, đương nhiên họ sẽ đẩy gánh nặng lên người mua hàng. Di nhớ trong tủ lạnh còn vài lạng thịt và cải bó xôi. Làm món thịt xào cải bó xôi với gừng, thêm đĩa trứng hấp là được bữa tối đơn giản giàu dinh dưỡng. Tiểu Văn, cô em nhỏ hơn Di tám tuổi, từ bé đã thích ăn trứng hấp. Mỗi khi nhà thiếu thức ăn, Di lại lấy hai quả trứng gà ra hấp, rắc ít hành lá, rưới chút nước tương, bưng lên bàn ăn trông vừa ngon vừa đẹp. Quan trọng là rất rẻ. Bữa tối nay thế là đủ rồi, nhưng Di vẫn định đi chợ xem thế nào. Vốn tính lo xa, cô rất sợ cảnh tủ lạnh trống trơn. Hơn nữa, khá nhiều quầy thực phẩm giảm giá trước giờ đóng cửa, tranh thủ dạo một vòng có khi lại kiếm được đồ rẻ, mai khỏi phải đau đầu nhức óc chuyện ăn uống. Úúúú… Xe cảnh sát thình lình lao vụt qua cạnh Di, tiếng còi đinh tai nhức óc kéo suy nghĩ của cô từ hàng giảm giá về thực tại. Cô dõi mắt nhìn thì thấy một đám đông đang xúm xít trước tòa nhà Hoán Hoa mình ở. Có chuyện gì sao? Di nghĩ thầm, nhưng vốn không phải dạng ưa hóng chuyện nên chân vẫn bước rất thong thả. “Á, Di! Di ơi…” Trong đám đông, một bác gái tầm 50 tuổi, tóc xoăn, người đậm, đang cuống cuồng vẫy gọi. Di biết người này, đây là bác gái họ Trần thuê nhà cùng tầng 22 với cô, bình thường chạm mặt ngoài hành lang vẫn gật đầu chào hỏi. Song trừ biết tên và thi thoảng xã giao dăm ba câu thì đôi bên chẳng qua lại mấy. Chỉ còn cách nhau một quãng ngắn thôi, nhưng bác Trần vẫn sốt ruột chạy lại túm tay lôi tuột Di về phía tòa nhà. Di không nghe rõ bác nói gì. Ngoại trừ tên mình, cô thấy những lời tuôn ra từ miệng bác chẳng khác nào tiếng nước ngoài. Mất mấy giây định thần, cô mới vỡ lẽ bác Trần hoảng quá nói chẳng nên lời. Vỡ lẽ xong, cô nghe thêm được hai chữ “em gái”. Di bước tới gần đám đông. Cảnh tượng quái dị hiện ra trước mắt cô, dưới trời chiều còn chưa tắt nắng. Dân tình đang túm tụm quanh khoảnh sân xi măng trước cửa chính cư xá Hoán Hoa. Thường ngày sân trống trơn, nhưng hôm nay lại có cô bé mười mấy tuổi mặc đồng phục trắng nằm ngửa ở đó, tóc rối tung phủ lên mặt, chất lỏng đỏ sậm rỉ ra từ cổ đọng thành vũng nhỏ. Suy nghĩ đầu tiên vụt qua óc Di là, đó chẳng phải đồng phục trường Tiểu Văn sao? Hai giây sau Di nhận ra, cô bé nắm bất động trên sân kia, chẳng phải chính là Tiểu Văn sao? Người thân của cô. Người thân duy nhất. Khoảnh khắc ấy, Di cảm thấy mọi thứ quanh mình thật lạ lẫm. Mình đang nằm mơ ư? Chắc là mơ rồi. Di quay sang nhìn bên cạnh, toàn những gương mặt quen thuộc, nhưng giờ phút này lại xa lạ vô cùng. “Di! Di ơi!” Bác Trần tóm bả vai Di lắc mạnh. “Tiểu… Tiểu Văn?” Di lắp bắp gọi tên, không tài nào liên hệ nổi vật thể hình người dưới đất với em gái mình. Đáng lẽ giờ này Tiểu Văn phải ở nhà, chờ Di về nấu cơm cho nó ăn chứ. Đấy mới là “hiện thực bình thường” đối với Di. “Lùi lại nào, lùi lại.” Một cảnh sát ăn mặc chỉnh tề chen vào giữa đám đông, ra hiệu bảo mọi người đứng giãn ra. Cùng lúc, hai nhân viên y tế đẩy xe cáng từ phía sau vượt lên trên Di rồi ngồi xổm xuống cạnh Tiểu Văn. Nhân viên y tế lớn tuổi hơn kiểm tra hơi thở của cô bé, ấn ngón tay lên cổ tay trái cô, sau đó lần túi lấy đèn pin khám, tay trái vạch mắt tay phải rọi đèn soi đồng tử. Chuỗi hành động diễn ra chỉ vỏn vẹn vài giây, nhưng trong mắt Di từng động tác của nhân viên y tế lại ì trệ như những khung hình tĩnh. Di không còn nhận thức về thời gian nữa. Hay nói cách khác, tiềm thức Di muốn ngăn cô đối mặt với hiện thực. Nhân viên y tế đứng lên, lắc đầu với đồng nghiệp đẩy xe cáng và mấy cảnh sát đang chắn đám đông. “Mọi người lùi lại, đừng cản trở quá trình điều tra…” Lúc cảnh sát nói câu này, hai nhân viên y tế nghiêm mặt lại, từ từ rời khỏi chỗ Tiểu Văn. “Tiểu… Tiểu Văn? Tiểu Văn! Tiểu Văn!” Di hất tay bác Trần đang giữ vai mình, chạy tới chỗ Tiểu Văn. “Cô gái!” Một cảnh sát cao to nhanh nhẹn giơ tay ngang hông chặn Di lại. “Tiểu Văn!” Di vừa giãy giụa vừa ngoảnh nhìn cảnh sát, nôn nóng nói, “Đó, đó là em tôi, cứu con bé với!” “Thưa cô, cô bình tĩnh đã…” Cảnh sát cố trấn an Di, nhưng anh ta biết lời mình nói không mấy tác dụng. “Xin, xin anh cứu con bé! Bác sĩ ơi!” Mặt mày tái nhợt, Di bỗng xoay phắt lại, hét lên với hai nhân viên y tế đang chăm chú nhìn mình. “Sao không đỡ Tiểu Văn lên xe? Nhanh lên! Mau cứu Tiểu Văn đi!” Hai nhân viên y tế đứng lặng cạnh xe cứu thương lộ vẻ khó xử. Người lớn tuổi hơn rất muốn nói thẳng sự thật với cô, nhưng dù gặp cảnh sinh ly tử biệt mỗi ngày, anh vẫn không đành lòng làm cô gái mới đôi mươi này đau đớn. “Cô là chị của em này sao? Cô bình tĩnh lại đã…” Anh cảnh sát chặn Di thử nhẹ nhàng khuyên bảo. “Tiểu Văn…” Di ngoảnh nhìn em gái nằm trơ như tượng dưới đất, thì thấy hai cảnh sát khác cầm khung kim loại và vải bạt chống thấm màu xanh sẫm đến dựng lều nhỏ xung quanh che Tiểu Văn lại. “Các… các người làm gì thế? Dừng tay! Dừng tay đi!” “Cô gái! Cô gái à!” “Đừng che người nó! Nó còn thở! Nhất định tim nó còn đập!” Di yếu ớt nhoài người tới trước. Anh cảnh sát vốn có nhiệm vụ ngăn cản đề phòng cô phá hỏng hiện trường, giờ trở thành điểm tựa duy nhất đỡ lấy cô. “Cứu em gái tôi với! Xin các anh cứu em tôi… Tôi xin các anh đấy… Nó, nó là em gái tôi, là em gái duy nhất của tôi…” Xế chiều một ngày thứ Ba bình thường, tại khoảnh sân trống trước tòa nhà Hoán Hoa thuộc cư xá Lạc Hoa* quận Quan Đường, những cư dân thường ngày ưa ngồi lê đôi mách giờ đều nín lặng. Giữa những tòa nhà lạnh lẽo, chỉ còn vang vọng tiếng khóc thống thiết cùa một người chị, tựa tiếng gió len vào tai mỗi người, để lại từng giọt buồn không thể xua đi. Lok Wah. Khu nhà ở xã hội thuộc quận Quan Đường, bán đảo Cửu Long, nổi tiếng với bãi để xe có kiến trúc ô cửa sổ tròn sơn xanh độc đáo rất thu hút khách du lịch. Mời các bạn đón đọc Người Trong Lưới của tác giả Chan Ho Kei & Thu Hường (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Mối Bất Hòa Truyền Kiếp
Sau Vệ sĩ vô hình, tập tiếp theo trong bộ ba tiểu thuyết hình sự về thung lũng Baztan của tác giả Dolores Redondo tiếp tục dẫn người đọc đến với những con đường huyền ảo của xứ Basque u tối, mưa mù nhưng lại rất quyến rũ bởi núi non trùng điệp, rừng sâu hun hút  và sự hiện diện của những thế lực siêu nhiên.  Một năm sau vụ bắt giữ thủ phạm giết hại các thiếu nữ ở thung lũng Baztan, nữ thanh tra Amaia Salazar chờ đợi tham dự phiên tòa xét xử kẻ sát nhân. Nhưng hắn đã bất ngờ tự sát trong nhà vệ sinh của phòng xử án và để lại thông điệp “Tarttalo” được viết bằng máu. Đây không phải là trường hợp duy nhất, bởi trước đó một người đàn ông sau khi cưỡng hiếp và giết chết bạn gái của mình đã tự sát và để lại thông điệp khó hiểu này. Dường như ai đó đang thao túng hắn phạm tội. Và không dừng lại ở đó, thi thể nạn nhân sau khi bị sát hại đã bị cắt rời: một phần cánh tay được lưu giữ và bảo quản như một món quà lưu niệm, trong khi thủ phạm lại không hề nhớ gì về việc này. Một lần nữa, thanh tra Amaia Salazar quay về thị trấn quê hương Elizondo để điều tra về hàng loạt các vụ tử tự kỳ quái cũng như các vụ mạo phạm nhà thờ địa phương. Lần theo dấu vết, cô dần vén màn những bí mật kinh hoàng trong chính gia đình mình, cùng với quá khứ đeo bám và nỗi lo sợ cho cậu con trai mới chào đời khiến Amaia như muốn nổ tung. *** Tác giả Dolores Redondo sinh năm 1969, tại Saint-Sébastien, một tỉnh thuộc xứ Basque, Tây Ban Nha. Bà từng học chuyên ngành Luật, làm việc nhiều năm trong lĩnh vực thương mại trước khi trở thành tiểu thuyết gia. Với thành công của bộ ba tiểu thuyết hình sự đặc sắc về thung lũng Baztan, Redondo trở thành tác giả trinh thám được đọc nhiều nhất tại Tây Ban Nha năm 2017 Bà là một trong số ít tác giả Tây Ban Nha được đề cử giải thưởng CWA International Dagger 2015. *** Review Mối Bất Hòa truyền kiếp - Doroles Redondo người viết Nguyễn Quang Huy #Review_sách #Mối_Bất_Hòa_Truyền_Kiếp #Dolores_Redondo Cuốn thứ hai trong series Trinh thám TBN về Thung lũng Báztan xứ Basque gồm 3 tập. Trong phần này Amaia đã hạ sinh một bé trai. Trước khi nghỉ sinh Amaia tham dự phiên toà xét xử Jason Medina, kẻ giết hại sau đó cưỡng hiếp tàn nhẫn cô con gái vợ, Johanna Marquez ở phần một. Không ngờ Jason Medina tự sát trong nhà vệ sinh ngay tại tòa. Trước khi chết hắn để lại dòng chữ ký khó hiểu: TARTATLO. Sau khi nghỉ sinh, Amaia được giao điều tra một vụ mạo phạm các nhà thờ trong vùng. Đồ cúng lễ bị đập phá, nhà thờ bị húc đổ cửa. Đặc biệt là sự xuất hiện của các mẩu xương trẻ em trên gian cúng lễ. Giữa lúc cuộc điều tra mạo phạm đang gặp bế tắc, thì bỗng Amaia liên tiếp nhận được tin những kẻ phạm tội bạo hành, sát hại dã man các phụ nữ trẻ xinh đẹp đều tự sát sau đó. Tất cả đều để lại một dòng chữ ký khó hiểu kia. Trước khi tự sát chúng đều đòi được đích thân Amaia thẩm vấn, và nói rằng chúng chờ đợi điều gì đó. Linh cảm có điều bất thường, Amaia nhận ra có mối liên quan giữa đống xương ở nhà thờ với đống xương trong hang đá ở cuối phần một. Cả hai đống xương này, những vụ tự sát với chữ ký ghê rợn kia tất cả đều cho thấy một âm mưu kinh hoàng, ghê rợn. Một âm mưu mà không ngờ lại có dây mơ rễ má đến những gì yêu thương nhất của Amaia, mà ban đầu chị cứ ngỡ chỉ là cơn ác mộng. Một lời khuyên cho ai đọc Mối Bất Hòa Truyền Kiếp là phải đọc phần một, Vệ Sĩ Vô Hình trước. Vì cuốn này có nhiều nội dung mà nếu không đọc phần một sẽ không thể hiểu được. Chẳng hạn như xác của Johanna Marquez có vết cắn chỗ cánh tay bị cắt cụt mà phải đến phần này nó mới được làm rõ. Dolores Redondo đã xây dựng nên không khí thung lũng Báztan còn đáng sợ hơn cả phần một. Nó vừa mang tính huyền bí, ma mị vừa mang tính kinh dị, đẫm máu rùng rợn. Bí mật trùng trùng bí mật, những cảnh hiện trường đẫm máu, bối cảnh ma mị, huyền bí hư hư thực thực và nỗi lo toan khi lần đầu tiên làm mẹ của Amaia tất cả đan xen vào nhau nhưng không hề rối, khiến mình bị cuốn hút đến không thể dứt ra. Sách dày hơn 500 trang tuy nhiên không hề khiến mình bị mệt mỏi và chán nản. Tình huống hồi hộp, rợn tóc gáy diễn ra liên tiếp. Nếu đã thấy quá khiếp sợ những cảnh hiện trường rùng rợn thì có thể được giải trí với chuyện tình giữa Thẩm phán Markina và Amaia. Vì công việc nên Amaia thường xuyên phải gặp gỡ chàng thẩm phán đẹp trai, quyến rũ, lịch thiệp nho nhã và anh ta cũng có ý định thả dê Amaia, dù biết thừa nàng đã có chồng. Những đoạn Amaia cũng thấy lòng xao xuyến trước Markina nhưng cố gắng kiềm chế đọc rất vui. Điều đó khiến câu chuyện toát lên vẻ chân thực. Ở phần này Amaia cũng gặp lại nàng tiên cô từng chỉ cho Amaia cái hang đá ở phần một. Nhiều bạn thích trinh thám thuần có lẽ rất ghét chi tiết nàng tiên cô này. Nhưng mình nghĩ với một vùng đất đậm nét huyền bí, thần thoại như thung lũng Báztan thì chuyện này là bình thường, miễn là nó không ảnh hưởng nhiều đến cốt truyện. Và chính nó tạo ra nét đặc biệt và cuốn hút của series này. Và cả phần 2 này mình cũng không đoán ra được hung thủ. Rất thú vị khi mình cảm tưởng như gặp lại Kẻ Nhắc Tuồng phần cuốn Mối Bất Hòa Truyền Kiếp này. Cùng một dạng hung thủ, cùng một phương thức tác động mọi người đọc xem sao nhé. Mối Bất Hòa Truyền Kiếp được dịch và biên tập tốt hơn nhiều so với phần một. Các đoạn khó hiểu ít hơn hẳn, mong cuốn ba sẽ được giảm thiểu. Điểm: 8/10 *** Mối bất hòa truyền kiếp là cuốn thứ 2 trong sery bộ 3 của Dolores Redondo. Tập 1 Vệ sĩ vô hình ta đã biết về thân thế, quê hương của nữ thanh tra Amaia Salazar cùng vụ án giết hại những thiếu nữ xảy ra tại thung lũng Baztán quê hương cô. Trong tập này những vụ án giết người tàn bạo lại xảy ra tại nơi đó, khởi đầu với những vụ mạo phạm nhà thờ, rồi những người phụ nữ bị giết hại dã man, 1 bên cánh tay bị cắt bởi một lưỡi dao sắc ngọt và biến mất khỏi hiện trường. Và những kẻ sát nhân đều đã tự tử, để lại 1 dòng chữ: Tarttalo. Tất cả các đầu mối đều chỉ ra 1 điều có 1 kẻ nào đó giật dây điều khiển chúng và nhắm tới nữ thanh tra Amaia. Sau một cuộc điều tra khá dài, diễn ra trong 550 trang giấy khổ lớn, ở tập này nghiệp vụ của Amaia và các đồng sự đã sắc bén hơn, khúc cua cuối truyện đã không đến nỗi ngoặt gấp như tập 1. Lại một lần nữa vụ án liên quan đến quá khứ. Phải chăng có một Mối bất hòa truyền kiếp. Tuy đã giảm bớt những yếu tố siêu nhiên song những giấc mơ báo mộng vẫn khá nhiều trong chuyện. Đọc cuốn sách này không hiểu sao tôi không tập trung được với các tình tiết của các vụ án mà cứ mải mê với đời tư của Amaia, ngay từ đầu có các vụ án ghê rợn xảy ra song tôi không nhập tâm mà cứ chú ý vào sự kiện thiên thần nhỏ của cô ấy sắp ra đời. Rồi sự bất hòa với chị gái, rồi sự tán tỉnh của thẩm phán Markina không hiểu tác giả cho vào có ý đồ gì. Đọc cuốn sách này tôi ghê sợ người mẹ của Amaia, bà ta như một loại ác quỷ hiện về chứ không phải là bệnh nhân tâm thần. Đây là một mẫu nhân vật người mẹ khá lạ lẫm… Vẫn như tập 1 tôi đánh giá cao các yếu tố trong truyện , trừ trinh thám của tập 2 bộ sách của tác giả Doroles Redondo… Huỳnh Thu Giang *** Itxusuria Lần theo vệt nước mưa rỏ giọt từ mái hiên, thật dễ tìm ra ngôi mộ. Một hình người quỳ gối, lần tìm trong quần áo một cái bay và cái cuốc chim nhỏ để phá bỏ bề mặt rắn chắc của lớp đất đen. Đất bở tơi thành những cục mềm, ẩm ướt, tỏa mùi của gỗ và rêu. Một nhát nạo cẩn thận vài xen ti mét, để lộ những mảnh vải mục nát lẫn với đất. Người đó giật mảnh vải vốn là tấm phủ giường cũi, để lộ ra một cái xác quấn trong lớp vải dầu. Chỉ còn lại những mẩu dây thừng buộc chặt cái gói, in vết hằn sâu trên vải ở những chỗ siết chặt. Gạt những mẩu dây sang một bên, người đó lần mò tìm mép mảnh vải và cảm thấy nó được quấn vài lần. Xé một đầu cái gói, mảnh vải liệm mở toang như được cắt bằng dao. Đứa trẻ được chôn sấp, vùi vào lòng đất, những chiếc xương hình như được bảo quản tốt như chính lớp vải dầu, mặc dù lấm đất đen vùng Baztán. Duỗi thẳng bàn tay gần như che kín hình hài bé xíu, người đó ấn ngực đứa trẻ vào sâu hơn trong đất và giật cánh tay phải của nó ra khỏi hốc xương. Lúc cánh tay lỏng ra, xương đòn gẫy thành tiếng tách khẽ, giống như tiếng thở dài của ngôi mộ, một lời than van vì hành động báng bổ thánh thần. Như bỗng thấy bứt rứt, hình người mờ ảo đó chùn bước đứng dậy, nhét bộ xương vào lớp vải, rồi liếc nhìn cái xác lần cuối trước khi cào đất lấp lại ngôi mộ. Mời các bạn mượn đọc sách Mối Bất Hòa Truyền Kiếp của tác giả Dolores Redondo & Đinh Thanh Vân (dịch).
Lời Nguyền Của Người Cá
Thành phố London những ngày cuối hạ đầu thu năm 1811 rúng động bởi hai vụ án mạng man rợ diễn ra. Nạn nhân là những chàng trai trẻ có địa vị cao quý hoặc gia thế giàu sang. Thi thể họ bị hành hạ theo cách thức vô cùng dã man và xác bị vứt tại những địa điểm công cộng, nhiều người qua lại. Đứng trước bài toán hóc búa, sự thúc ép ghê gớm từ cấp trên và nỗi hoang mang ngày càng tăng trong dân chúng, Chánh thẩm Henry Lovejoy buộc phải nhờ tới sự trợ giúp của Sebastian St. Cyr., Tử tước Devlin. Cuộc điều tra đã dẫn anh tới một vụ án xảy ra trước đó không lâu - con trai của một vị mục sư ở hạt Kent - chàng sinh viên khoa thần học tại Đại học Cambridge - cũng bị sát hại theo cách tương tự. Chưa dừng lại ở đó, thêm một nạn nhân nữa, viên đại úy Hải quân Hoàng gia cũng thiệt mạng ngay trên bến cảng thành phố London. Chỉ có điều, khác với ba nạn nhân trước, thi thể viên đại úy vẫn còn nguyên vẹn và không có dấu hiệu bị tùng xẻo. Dân chúng xôn xao lo sợ, truyền tai nhau về nhưng vụ án mạng rùng rợn gây ra bởi kẻ được mệnh danh là “Tên đồ tể khu West End”. Càng đi sâu tìm hiểu, Sebastian càng phát hiện ra nhiều chi tiết lạ lùng về mối liên hệ giữa chuỗi án mạng những người còn sống sót trên con tàu Harmony gặp nạn ngoài khơi năm năm trước. Cha mẹ của nạn nhân từng là hành khách trên con tàu đó. Khi tàu gặp bão, bị mất hướng và hết lương thực, họ đồng ý ‘chia nhau’ một đứa bé sắp chết. Cha đứa bé biết được câu chuyện và trả thù bằng con cái họ. *** Cuốn sách kể về những vụ giết người hàng loạt, nạn nhân đều là những chàng trai trẻ tuổi quý tộc, gia thế giàu sang đến từ vùng West End, “Lời nguyền của cá” thu hút ngay từ những chương đầu tiên. Vào một buổi sáng phải sớm rời khỏi giường người tình, Sebastian bị “ném” vào vụ án rùng rợn mà nạn nhân là một chàng quý tộc mới chỉ 18 tuổi, bị cắt lìa nửa dưới và hung thủ thì cố ý bỡn cợt dư luận khi cố tình để nạn nhân ở khu công cộng với một móng guốc của một con dê trong miệng. Và đó không phải là vụ án đầu tiên trong ba tháng trở gần đây. Sebastian chẳng thích thú gì những vụ án mạng, nhưng để đền đáp hàm ơn của ngài Chánh thẩm Lovejoy đã khiến chàng không thể từ chối tham gia phá án. Anh đâu ngờ rằng vụ điều tra này lại đặt chàng và Kat, cô gái chàng yêu vào tình thế nguy hiểm khi liên tiếp có kẻ luôn muốn truy sát họ. Án mạng xảy ra càng nhiều, càng dẫn Sebtian quan tâm đến chuyến tàu Harmony từng gặp nạn nhiều năm trước, nhất là khi các nạn nhân đều liên quan đến một bài thơ. Khi bí mật năm ấy được lật tung cũng là khi người đứng sau những vụ án mạng lộ diện. Và những âm mưu, những toan tính đứng sau vụ giết người hàng loạt ấy là gì ? Hãy tìm đọc “Lời nguyền của người cá” để khám phá những bất ngờ nối tiếp bất ngờ nhé ❤️ Đỗ Như Quỳnh Tác Giả: C.S Harris. Dịch giả Thu Huyền. Điểm: 10 Mức: Rất hay (vkl). Truyện hay lắm khỏi đọc review nha mọi người mua liền đi, nhớ mua luôn tập trước để nắm được “Timeline” của truyện. Nối tiếp phần trước của vụ án mạng kinh khủng khiếp của việc sát hại dã man cô gái ở điện thờ đức mẹ trong “Khi thiên thần sợ hãi”, nối tiếp cuộc đời về tử tước Devlin sự kiện diễn ra vào dòng thời gian 8 tháng sau tử tước Devlin cool ngầu lại tiếp tục một cuộc hành trình mới với vụ án liên quan đến biển cả “Lời nguyền của người cá”. Đi hứng sao rơi Ân ái với rễ sâm độc Kể cho ta nơi thời gian thất lạc Hay kẻ nào đã xẻ chân ác quỷ Dạy ta nghe tiếng hát người cá Hay giữ cho mình khỏi châm ngòi đố kỵ…. Go and catch a falling star, Get with child a mandrake root, Tell me where all past years are, Or who cleft the devil’s foot, Teach me to hear mermaids singing, Or to keep off envy’s stinging, JOHN DONNE Trích đoạn bài thơ trên sẽ đưa ta phiêu lưu vào những miền quên lãng của quá khứ dẫn đến những vụ sát hại đẫm máu của các cậu thanh niên trai trẻ 18+. Cuộc phiêu lưu tìm ra sự thật bắt đầu nhé. Sơ lược nội dung: Thành phố London những ngày cuối hạ đầu thu năm 1811 rúng động vì những vụ án mạng man rợ. Nạn nhân là những chàng trai trẻ có địa vị cao quý hoặc gia thế giàu sang. Thi thể họ bị hành hạ vô cùng dã man như róc xương tay chân, bị rút cạn máu và bị vứt xác tại những địa điểm công cộng, nhiều người qua lại. Dân chúng xôn xao lo sợ, truyền tai nhau về những vụ án mạng rùng rợn của kẻ được mệnh danh là “Tên đồ tể khu West End”. Đứng trước bài toán hóc búa, sự thúc ép ghê gớm từ cấp trên và nỗi hoang mang ngày càng tăng trong dân chúng, Chánh thẩm Henry Lovejoy buộc phải nhờ tới sự trợ giúp của Sebastian St. Cyr, Tử tước Devlin. Càng đi sâu tìm hiểu, Sebastian càng phát hiện ra nhiều chi tiết lạ lùng về mối liên hệ giữa chuỗi án mạng và những người còn sống sót trên con tàu Harmony gặp nạn ngoài khơi 5 năm trước. Họ có liên quan gì tới những vụ án gây chấn động London thời gian qua? Và bí mật động trời mà họ cố giữ kín bằng mọi giá thực sự là gì? Cũng giống như tập trước, lần này tử tước Devlin lại tiến hành độc mã điều tra vụ án mạng liên hoàng được gây ra bởi một người ra tay hết sức tàn nhẫn và ác độc ấy, sau 8 tháng kể từ sự kiện ở điện thờ Đức mẹ chỉ có hai xác chết là nữ thôi thì qua đến phần này, tác giả đã mạnh tay hơn khi tạo ra một chuỗi án mạng liên hoàn khi mà các chàng trai độ tuổi từ 18-29 lần lượt bị sát hại và để biết được sự thật đó chỉ có 1 mà thôi khi mà tử tước Devlin một lần nữa ra tay đi tìm cho ra sự thật. Xuyên suốt câu truyện là hành trình tìm kiếm những mối dây mơ rễ má liên hệ giữa các nạn nhân với nhau nhưng họ thì không có mối liên kết nào cả vì độ tuổi, tầng lớp, địa vị và gia cảnh đều rất khác nhau, thế nên một độ nghi ngờ về việc đây là việc làm có khả năng gây ra bởi một tên sát nhân “đồ tể” có mối thù với thân phụ của các nạn nhân trong quá khứ. Cuộc hành trình lần này đã có sự giúp đỡ của cô Kat và cậu bé Tom móc túi ở phần trước, giờ đã về làm tiểu đồng cho tử tước và Devlin xưng ta em với cậu bé 12 tuổi thay vì xưng ngươi ta như ở phần 1, cho thấy tử tước ngoài thông minh mẫn cán ra luôn tôn trọng mọi người, không phân biệt giai cấp. Trong quá trình điều tra thì có rất nhiều sự uẩn khuất nằm phía sau sự liên quan tới những người cha của nạn nhân khi mà họ quá khứ đã từng đi trên một chiếc tàu và sự kiện kinh khủng khiếp đã diễn ra trên con tàu ấy. khi mà trong số những hành khách trên tàu đang rơi vào khủng hoảng kẹt lương thực và đói khát nên bọn họ đã cùng nhau làm việc thật sự kinh khiếp nhất trong lịch sử hàng hải(sự việc ấy là gì mình sẽ không spoi, ai muốn biết pm mình. Phải thật sự một điều là khi đọc đến đây mình thấy rất tội cho ‘nạn nhân’ đã bị những người khách đó làm một việc để sinh tồn nhưng lại rất là thất đức
Gọi Tên Kẻ Chết
Một vụ án mạng xảy ra – nhưng vì nạn nhân là kẻ vừa mãn hạn tù, không một ai thực sự quan tâm, cho dù Thanh tra John Rebus và Hạ sĩ Siobhan Clarke đangcảm thấy còn điều gì gờn gợn…   Bấy giờ các nhà lãnh đạo thế giới đang đổ về Scotland tham dự hội nghị quốc tế G8. Giới cảnh sát đang bận rộn cho sự kiện, ngoại trừ John Rebus. Ông là người duy nhất đang trực trụ sở cảnh sát hoang vắng khi một cuộc gọi khẩn đổ chuông. Một nghị sĩ trẻ nào đó đã ngã tử vong từ trên tường cao lâu đài Edinburgh. Tai nạn, tự sát, hay là điều gì khác đáng quan tâm?Liệu có liên quan gì đến bằng chứng đáng sợ tìm thấy ở hiện trường nhiều vụ án gần đây? Trong khi phía cơ quan chính phủ và lực lượng đặc vụ chỉ nỗ lực ém nhẹm mọi chuyệnhòng đảm bảo hội nghị tầm cỡ quốc tế diễn ra êm đẹp, Rebus biết ông có không quá bẩy mươi hai giờ để tìm ra câu trả lời sinh tử…   “Một Rankin kinh điển, và nếu đã từng yêu mến một Rebus kiên định, bạn sẽ say đắm cuốn tiểu thuyết này. Một tội ác đầy tinh vi, khiến người đọc không ngừng lật trang.” - Independent   “Kết hợp một tác phẩm trinh thám hiện đại đầy lôi cuốn khiến phải lật trang liên tục vớimột tiểu thuyết chính trịđầy phức tạp luân lý.” - Irish Times *** IAN RANKIN sinh tại Fife năm 1960, Ian Rankin tốt nghiệp Đại học Edinburgh năm 1982, sau đó dành ba năm viết tiểu thuyết thay vì tập trung hoàn thành luận án Tiến sĩ Văn chương Scotland. Trước khi thành công trong nghiệp viết, ông đã từng trải nghiệm nhiều công việc như thu hoạch nho, chăn lợn, thu thuế, nhà nghiên cứu về thức uống chứa cồn, ký giả chuyên viết về hệ thống âm thanh chất lượng cao và cả công việc của một nhạc sĩ chơi nhạc punk. Series tiểu thuyết Thanh tra Rebus nổi tiếng của ông cho đến nay đã được dịch ra trên hai mươi hai thứ tiếng, nhiều tiểu thuyết trong series là sách bán chạy xuyên lục địa. Ian Rankin là thành viên ủy ban giải thưởng Hawthorden, tác gia đoạt giải thưởng Chandler Fullbirght Award cao quý, cùng với bốn giải Dao găm do Hội Nhà văn Trinh thám (CWA) trao tặng. Cho những cống hiến đối với nền văn học, ông còn được trao Huân chương Anh quốc. *** Gọi tên kẻ chết “Chúng ta phải quan tâm đến chính trị, vì chính thứ đó đẩy quay bánh xe cuộc sống của chúng ta.” Chính câu nói này đã khiến tôi có thêm động lực để nhảy vào cái hố khá sâu của tác phẩm này. Câu chuyện kéo dài gần 600 trang, theo như mọi cuốn sách ngôn tình khác, nó có thể kể hết câu chuyện tình yêu đau thương mấy đời mấy kiếp của các nhân vật, nhưng trong “ Gọi tên kẻ chết”, đó là câu chuyện vỏn vẹn trong vòng chín ngày : 1/7/205 – 9/7/205. Đây là thời gian diễn ra hội nghị thượng đỉnh của khối G8 tại Scotland, một giai đoạn lịch sử đã từng tốn không biết bao nhiêu bút mực của giới báo chí, và sự quan tâm của thế giới.   Một vụ án mạng 6 tuần ngay trước hội nghị thượng đỉnh nhưng không nhận được sự quan tâm tối thiểu nhất của giới pháp luật và cảnh sát. Cái chết của Cyril Colliar, một kẻ vừa mãn hạn tù với một lố những tiền án tiền sự và nóng hổi nhất là vụ cưỡng hiếp hắn vừa thụ án xong. Tất cả điều tra viên đều lãnh đạm không thèm dùng đến từ “ nạn nhân” như thường lệ, mà thay bằng từ “kẻ chết”, đủ hiểu bọn họ đối với hắn chán ghét cỡ nào. Cyril Colliar bị chết do nứt sọ và kẻ sát nhân đã bồi thêm cho hắn một cylinder đầy heroin nguyên chất. Một mảnh của áo khoác da hắn mặc bị cắt ra và sau đó được tìm thấy treo lủng lẳng trên cây ở một nơi gọi là Clootie Well chung với rất nhiều mảnh vải và thứ đồ dị hợm khác như một phong tục âm linh quái dị. Sau khi pháp chứng làm việc, qua một số manh mối, họ lại tìm ra được 2 nạn nhân khác và xác định đây là một vụ giết người hàng loạt, và nạn nhân là những kẻ có tiền án tiền sự và đặc biệt là đã từng dính dáng đến tội dâm ô- cưỡng hiếp hoặc quấy rối tình dục. Dự định đi theo phương hướng này để điều tra, nhưng thanh tra- sắp-về-hưu John Rebus và hạ sĩ trẻ Siobhan Clarke không được sự ủng hộ của cấp trên lẫn sự trợ giúp của các đồng nghiệp. Tất cả bọn họ đều thờ ơ với cái chết của những kẻ đã từng phạm tội và cho rằng đó chính là quả báo của cuộc sống ngoài vòng luật pháp. Trong lúc vụ án này có tiến triển thì lại một vụ án khác xảy ra, một nghị sĩ rơi từ tường cao của lâu đài Edinburgh khi buổi tiệc chào đón trước thềm G8, không nhân chứng, không một dấu vết chứng tỏ anh ấy bị giết hay tai nạn. Nhưng mối quan hệ của nạn nhân và những manh mối trong cuộc sống và công việc của anh ta để lại khiến Rebus và Siobhan không thể đánh đồng vụ này với một tai nạn. Một vụ án mạng liên hoàn còn chưa được kết thúc lại xuất hiện thêm một vụ án khác, nhưng tất cả đều bị giấu nhẹm đi và ém tin tức một cách triệt để vì hội nghị thượng đinh chính là rào cản lớn nhất với vô số bạo loạn, diễu hành, an ninh và thể diện quốc gia cần được đặt lên hàng đầu. Mọi thứ như những bánh xe trong một guồng máy phức tạp, một khi một chiếc bánh đã quay sẽ kéo theo hàng loạt thứ trượt xa hơn so với những gì ban đầu dự tính.Mở đầu tác phẩm là một không khí ảm đạm, tang thương và có phần bức bối của gia đình Rebus và các vụ án mạng, tiếp theo đó là sự náo loạn vồn vập của hội nghị thượng đỉnh và giới chính trị. Tác phẩm hội tụ đầy đủ một xã hội với giới pháp luật, chính trị, thương nhân, ký giả , tội phạm và người dân. Họ xâu xé lẫn nhau, tính kế lẫn nhau, đối địch lẫn nhau nhưng rồi lại có lúc như những sinh vật lại chạy về cộng sinh với nhau để cầu sống, cầu tài, cầu danh vọng và cầu bình an. Tác phẩm này có lẽ sẽ không để dành cho những bạn trẻ không đủ kiên nhẫn vì nó rất chậm, và rất thật. Trong một mớ bòng bong hỗn loạn và không có một đội điều tra của riêng mình, thanh tra Rebus và hạ sĩ Siobhan phải tranh thủ từng li từng tí các mối quan hệ hoặc cơ hội để gom về chút ít thông tin và manh mối từ miệng của cấp trên, những kẻ trong cuộc và ngoài cuộc, thậm chí là những con chốt được cài vào các ván cờ chính trị của những kẻ đứng sau đó. Họ chật vật với từng giây từng phút, ngột ngạt trong một mạng nhện khổng lồ càng ngày càng thít chặt họ. Họ đặt cược cả sinh mạng và tiền đồ chỉ để mong không một kẻ phạm tội nào có thể thoát được lưới pháp luật. Câu chuyện rất dài nhưng tác giả không để độc giả nghỉ ngơi trong một giây một phút nào. Không một trang giấy nào để các nhân vật chúng ta nói chuyện phiếm hay thư giãn phí hoài thời gian. Mọi mối quan hệ đều qui về công việc, mỗi trang giấy đều chạy từ đầu này của vụ án đến đầu kia của cuộc bạo loạn. Từng chi tiết, từng ngõ ngách của cuộc diễu hành, từng nét mặt của những người bạo loạn đều được mô tả kỹ càng. Kỹ năng mô tả và liên hệ của tác giả rất tốt, liên kết rành mạch từ chuyện này sang chuyện kia rồi quay lại nhưng không bị quá lố hoặc quá lan man. Tuy nhiên, vì cố gắng giăng một cái bẫy quá lớn, quá nhiều người bị kéo vào vòng xoáy vụ án này mà câu chuyện rề rà đến mức khá mệt mỏi. Chạy một vòng lớn, rất lớn, và đôi lúc bị trì trệ một cách thảm hại, các nhân vật của chúng ta lại quay trở về điểm xuất phát và phát hiện ra sự thật đơn giản sau vấn đề phức tạp. Một cái kết vô lý nhưng vô cùng hợp lý trở thành điểm trừ cho tác phẩm vì nó thực sự gây ức chế với độc giả sau chặng đường dài gian nan đã đi qua. Điểm trừ lớn nhất cho tác phẩm này chính là dich thuật và biên tập của Nhã Nam. Lỗi chính tả, lỗi dùng từ, lỗi dịch thuật đầy rẫy trong cuốn sách như một chén cơm nóng đầy sạn và đá. Từ ngữ Anh-Việt được dùng lẫn lộn, danh từ chỉ tên riêng của địa danh và nhân vật lại bị dịch ra một cách không mượt mà, viết hoa tá lả linh tinh và chưa kể một số từ tiếng anh được phiên âm để đọc theo tiếng việt thực sự gây ức chế tột cùng khi đọc. Meeting- mít tinh London- Luân Đôn ( nhưng Scotland, Edinburgh và Clootie Well giữ nguyên) Blouse- Áo bờ-lu Pudding- bánh pút đinh Gothic- kiến trúc gô- tích Techno- tếch-nô Minh Hằng *** Tiếng nhạc nổi lên tiếp nối những thanh âm vang vọng của bản thánh ca. Ca khúc “Tình yêu bao trùm lên tôi” của ban nhạc Kẻ Nào. Rebus nhận ra bài hát ngay từ đoạn dạo đầu với tiếng sấm và tiếng mưa rơi đặc trưng giờ đã tràn ngập không gian nhà thờ. Chrissie cứ nhất định muốn Rebus ngồi ở hàng ghế trên. Ông thực lòng chỉ muốn lui xuống phía sau: nơi ông thường ngồi mỗi khi dự tang lễ. Con trai và con gái của Chrissie ngồi ngay bên cạnh bà. Lesley đang vỗ về mẹ, vòng tay ôm lấy người bà khẽ siết chặt mỗi khi bà nức nở. Kenny chỉ đăm đăm nhìn vào khoảng không trước mặt, cố gắng kìm chặt mọi cảm xúc. Buổi sáng, khi còn ở nhà, Rebus đã hỏi tuổi cháu trai. Vào tháng tới Kenny sẽ tròn ba mươi, còn Lesley kém anh trai hai tuổi. Trông hai anh em đều rất giống mẹ, khiến cho Rebus nhớ lại những lời nhận xét kiểu như Giỏ nhà ai, quai nhà ấy mà mọi người vẫn nói về Michael và ông. Michael… mà mọi người vẫn quen gọi là Mickey. Em trai của Rebus, giờ đang lặng thinh nằm đó trong chiếc quan tài có tay cầm sáng bóng, ra đi ở tuổi năm mươi tư, cái tuổi mà theo tiêu chuẩn của xứ Scotland này thì chỉ ngang với tuổi thọ người dân ở một nước nghèo thuộc thế giới thứ ba. Có rất nhiều giả định - nào là lối sống, chế độ ăn, rồi cả yếu tố di truyền. Biên bản khám nghiệm tử thi đầy đủ vẫn chưa được thực hiện. Qua điện thoại, Rebus được Chrissie cho hay đó là một cơn đột quỵ nghiêm trọng, trấn an ông rằng mọi chuyện xảy ra “hoàn toàn đột ngột” - cứ như thể như thế thì có gì khác biệt. Đột ngột - tức là Rebus chẳng thể nói lời từ biệt với em trai. Cũng có nghĩa những lời cuối cùng giữa hai anh em chỉ là một mẩu chuyện phiếm trên điện thoại hồi ba tháng trước về câu lạc bộ Raith Rovers mà Michael yêu mến. Một chiếc khăn quàng của đội Raith, màu xanh lục pha trắng, được vắt ngang qua quan tài, kế bên vòng hoa tang. Kenny đeo chiếc cà vạt mà bố Michael từng dùng, trên có tấm khiên biểu tượng của đội Raith - con mãnh thú gì đó đang giơ cao một cái đai lưng. Rebus đã hỏi về ý nghĩa của biểu tượng đó nhưng Kenny chỉ khẽ nhún vai. Dõi mắt dọc theo hàng ghế, Rebus thấy người chỉ dẫn làm dấu. Tất cả những người dự tang lễ đều đứng lên. Chrissie chậm rãi bước dọc lối đi, hai người con theo sát ở hai bên. Người chỉ dẫn đưa mắt nhìn Rebus, nhưng ông vẫn đứng yên tại chỗ. Xong ngồi xuống để ra hiệu cho em dâu và các cháu không phải chờ mình. Bài hát mới được nửa chừng. Đó là ca khúc cuối cùng trong đĩa nhạc Quadrophenia. Michael vẫn luôn là fan hâm mộ cuồng nhiệt của nhóm Kẻ Nào, còn cá nhân Rebus thì lại yêu thích ban nhạc Rolling Stones hơn. Dù vậy vẫn phải công nhận rằng các album như Tommy và Quadrophenia đã làm được những điều mà The Rolling Stones không tài nào có thể. Giọng ca Daltrey của ban nhạc đang phấn khích gào về việc muốn uống rượu. Rebus cũng đồng tình, nhưng còn phải tỉnh táo cả chặng lái xe trở về Edinburgh. Phòng họp của một khách sạn địa phương đã được đặt trước. Đứng trên bục giảng kinh, vị mục sư chủ tọa nhắc nhở rằng tất cả bạn bè thân hữu đã tới chia buồn đều được mời. Những ly whisky và những tách trà được bưng ra, rồi bánh kẹp cũng sẽ được mang lên. Mọi người sẽ cùng nhau ôn lại những câu chuyện và kỷ niệm thân thương về người quá cố, mỉm cười an ủi, trầm ngâm đồng cảm với nhau và cùng chia sẻ nỗi buồn qua ánh mắt. Các nhân viên khách sạn sẽ rút lui trong lặng lẽ, để tôn trọng bầu không khí. Rebus cố gắng sắp xếp câu chữ trong đầu mình, những từ ngữ sẽ thay ông xin lỗi. Chrissie à, tôi cần phải trở về ngay. Có quá nhiều việc. Ông có thể nói dối và đổ lỗi cho hội nghị thượng đỉnh G8. Buổi sáng nay, trước khi ra khỏi nhà, Lesley đã nói rằng Rebus chắc hẳn đang rất bận rộn với công tác chuẩn bị cho hội nghị này. Ông đã có thể nói thế này với cô cháu gái, Ta là viên cảnh sát duy nhất mà dường như họ không cần tới. Cảnh sát được triệu tập từ khắp mọi nơi. Chỉ tính riêng ở Luân Đôn đã có tới mười lăm nghìn sĩ quan. Thế nhưng thanh tra John Rebus dường như lại trở thành người thừa trong cuộc điều động nhân lực khổng lồ này. Phải có người ở lại chèo lái con thuyền chứ - những lời từ chính miệng tổng thanh tra James Macrae, đi kèm kiểu cười thầy dòng tự mãn đáng ghét quăng lại. Thanh tra Derek Starr đoan chắc mình sẽ trở thành người kế vị ngai vàng của triều đại Macrae. Rồi sẽ có ngày hắn nắm trong tay quyền điều hành Sở Cảnh sát quảng trường Gayfield này. John Rebus chẳng thể nào là một mối họa cho viễn cảnh đó, còn chưa đầy một năm nữa là đến ngày ông phải về hưu. Chính Starr cũng đã nói những lời đại loại như: John à, sẽ không ai chê trách anh về việc tụt dốc trong nghề đâu. Ai ở độ tuổi của anh cũng vậy cả. Có thể là đúng vậy thật, nhưng các thành viên nhóm The Rolling Stones đều già hơn Rebus; cả Daltrey và Townshend cũng nhiều tuổi hơn ông. Ấy vậy mà họ vẫn chơi nhạc, vẫn cứ đi lưu diễn đấy thôi. Bài hát đang dần đi vào đoạn kết, Rebus lại nhỏm người đứng dậy. Lúc này chỉ còn mình ông trong nhà thờ. Đưa mắt nhìn về phía tấm màn nhung màu tía lần cuối. Chiếc quan tài có thể vẫn nằm sau tấm màn; nhưng cũng có thể nó đã được chuyển tới khu khác của lò hỏa táng. Rebus ngẫm nghĩ nhớ lại thời niên thiếu, hai anh em ông hào hứng thưởng thức những ca khúc của thập niên 45 trong căn phòng chung trên con phố High của thị trấn Kirkcaldy, bài ”Thế hệ của Tôi” và ”Sự thay thế”, Michael thắc mắc về cách mà Daltrey nhấn nhá ca từ trong bài hát đầu tiên, còn Rebus thì nói ông đã từng đọc được ở đâu đó rằng việc hát như thế là có dính líu đến chất kích thích. Hồi ấy, chất kích thích duy nhất mà hai anh em cùng ham mê là chất cồn, những ngụm đầy tràn từ các chai trên chạn bếp, một can bia đen mùi tanh tanh được khui ra, vậy là say sưa trong bóng đêm sau giờ tắt đèn. Mickey đứng trên khu phố tản bộ của Kirkcaldy, hướng ánh nhìn chăm chú ra ngoài biển, miệng lẩm nhẩm lời hát “Tôi có thể trông qua hàng dặm trường”. Nhưng liệu khung cảnh này có thực sự là những gì đã xảy ra không nhỉ? Đĩa nhạc này ra lò vào những năm 66-67, khoảng thời gian ấy Rebus vẫn đang phục vụ trong quân ngũ. Ắt hẳn là một kỳ nghỉ phép của Rebus. Phải rồi, Mickey khi ấy để tóc dài ngang vai, cố gắng bắt chước phong cách của thần tượng Daltrey, còn Rebus để kiểu đầu quân nhân đặc trưng, bịa những mẩu chuyện nhằm tô hồng cho cuộc sống quân ngũ, Bắc Ai-len vẫn đang ở phía trước…   Mời các bạn mượn đọc sách Gọi Tên Kẻ Chết của tác giả Ian Rankin & Trịnh Xuân Thắng (dịch).
Đảo Plum
Đảo Plum - một cuốn tiểu thuyết đầy thú vị được Tuần báo Publishers nhận xét: "Sức lôi cuốn… Nhờ sự kết hợp hoàn hảo từ y học, huyền bí, các thủ tục trong ngành cảnh sát, và khám phá đại dương… cuốn sách đã đạt được thành công lớn trong việc chuyển hướng tới một kết thúc hoàn toàn bất ngờ... một cái kết nhẹ nhàng đối với một nhà văn già đầy kinh nghiệm...". *** Tác Giả Nelson DeMille: Nelson DeMille sinh năm 1943 tại thành phố New York. Ông lớn lên lại Long Island và tốt nghiệp trường đại học Hofstra về Khoa học và Lịch sử Chính trị. Sau khi làm sĩ quan bộ binh tại Việt Nam, DeMille vừa làm phóng viên vừa là nhà văn chuyên viết truyện ngắn. Ông đã viết cuốn tiểu thuyết lớn đầu tiên của mình là Bên dòng sông ở Babylon ( By the Rivers of Babylon) với tổng số bản bán ra là hơn 55 triệu bản và được dịch ra 24 thứ tiếng, và sau đó ông tiếp tục viết 11 cuốn tiểu thuyết khác đều bán chạy trên khắp thế giới. Ông sống tại Long Island. *** “Một cuốn tiểu thuyết kinh dị thật tài tình. Bạn sẽ thấy được cảm giác vui vẻ với những nút thắt là những đỉnh điểm của cuốn truyện”. - Timeout “Ớn lạnh... Cảm giác xuyên suốt cả cuốn tiểu thuyết hồi hộp này và sẽ khiến bạn luôn luôn trong suy nghĩ ngay cả khi bạn cười thật to”. - New day “Sức lôi cuốn... Nhờ sự kết hợp hoàn hảo từ y học, huyền bí, các thủ tục trong ngành cảnh sát, và khám phá đại dương... Cuốn sách đã đạt được thành công lớn trong việc chuyển hướng tới một kết thúc hoàn toàn bất ngờ... Một cái kết nhẹ nhàng đối với một nhà văn già đầy kinh nghiệm”. - Tuần báo Publishers “Ly kỳ, thú vị”. - Kirkus Reviews “Một cuốn tiểu thuyết đầy thú vị”. - Tạp chí Associated “Một cuốn sách thành công trong việc tạo tiếng cười giải trí... Kết hợp thông minh giữa thảm hoạ về sinh học và những truyền thuyết kỳ lạ về hải tặc”. - Tạp chí Associated *** Tác giả: Nelson Demille. Dịch giả: Đỗ Thúy Thể loại: Trinh thám, hành động, có chút cổ điển, phần nhiều hiện đại “Một thế kỷ trước, người ta thi thoảng mới phải đứng trước những ngã ba của cuộc đời và phải chọn lấy một hướng đi. Hôm nay, chúng ta sống bên trong một tấm vi mạch với hàng triệu con đường mở ra và đóng lại trong mỗi một phần tỉ giây. Điều tệ hơn là có ai đó đang bấm những chiếc nút”. ĐẢO PLUM Khi may mắn được biết đến tác giả Nelson Demille qua hai cuốn tiểu thuyết “Phía sau thảm họa” và “Lửa hoang”, tôi thật sự ưa thích những câu chuyện ly kỳ của tác giả này. Do đó, tôi đã để dành cuốn “Đảo Plum” khá lâu trước khi quyết định lấy ra đọc để vượt qua quãng thời gian hơi buồn chán trong việc đọc sách. Cuốn “Đảo Plum” đã giúp tôi có quá trình đọc thật sự thú vị, cười rất nhiều, say mê theo dõi những đoạn phiêu lưu máu lửa của nhân vật, và cuối cùng khép sách lại với cảm giác thỏa mãn 130%. Nhân vật chính vẫn là thanh tra cảnh sát John Corey thuộc lực lượng cảnh sát New York, nhưng lần này không có cô vợ xin-lỗi-tôi-quên-tên-cô-ấy-rồi bên cạnh. Truyện chỉ đề cập thoáng qua đến vợ cũ của ngài Corey, được cho biết rằng nghề nghiệp là luật sư. Bối cảnh truyện bắt đầu khi John Corey đang ở nhà ông cậu tại vùng North Fork của bang Long Island, New York để dưỡng thương sau khi bị bắn. Cảnh sát trưởng của vùng đến nhờ John tham gia với vai trò tư vấn vào cuộc điều tra vụ án mạng đôi, nạn nhân là hai vợ chồng nhà Gordon – từng là bạn với Corey. Vợ chồng Gordon là hai nhà khoa học làm việc tại Trung tâm nghiên cứu bệnh dịch động vật trên đảo Plum, thực chất cũng là nơi nghiên cứu về các mầm bệnh truyền nhiễm cực kỳ nguy hiểm để phục vụ tấn công hoặc phòng thủ trong trường hợp xảy ra chiến tranh sinh học / chiến tranh vi trùng. Trong quá trình điều tra, John Corey có dịp gặp gỡ những điều dễ chịu: quen được cô cảnh sát xinh đẹp thông minh Beth Penrose và chuyên gia lưu trữ tư liệu Emma Whitestone, nhưng đồng thời cũng đụng độ những gã khó nhằn và nhiễu sự thuộc FBI và CIA. Vì tình bạn với hai nạn nhân đã bị sát hại, Corey bất chấp mọi trở ngại để truy tìm hung thủ, dù điều đó thật sự gian nan. Trong cuốn tiểu thuyết này chỉ có một yếu tố mang hơi hướm hiện đại là chiến tranh sinh học, những điều còn lại vẫn khiến tôi đoán định rằng đây là một truyện trinh thám cổ điển, có lẽ vì chất nam tính cổ điển đậm đặc toát ra từ nhân vật chính. Truyện cũng không thấy nói gì đến lấy dấu vân tay, xét nghiệm nhóm máu, điều tra hiện trường kỹ lưỡng như trong những cuốn của Jeffery Deaver. Nhận xét thẳng thắn thì nhịp truyện khá chậm, quá trình điều tra được mô tả chi tiết tỉ mỉ, không ít lần dừng lại ở những đoạn chém gió giữa nam chính với nữ chính 1 và nữ chính 2, vậy mà không hiểu sao tôi vẫn kiên nhẫn + thích thú đọc từng đoạn đến hết, không lướt trang nào. Có lẽ vì giọng văn vừa nghiêm túc vừa hài hước, cách xây dựng quan hệ nhân quả đọc thấy rất hợp lý, xen kẽ giữa những đoạn suy luận sắc bén là những trường đoạn hành động rất gây cấn, đúng kiểu không thể buông sách xuống. Đầu sách có lời bình của Dan Brown rằng “Nelson Demille là một bậc thầy về tiểu thuyết trinh thám”, quả thật như vậy, tuy cuốn “Đảo Plum” không được nhiều người khen như “Phía sau thảm họa” hoặc “Lửa hoang” nhưng cá nhân tôi cho rằng chỉ riêng cuốn “Đảo Plum” cũng hấp dẫn hơn vài trong số những cuốn Dan Brown mà tôi từng đọc. Đọc cuốn này, tôi cũng thấy rằng không phải chỉ có tác giả kiêm chuyên gia hàng hải Clive Cussler là có thể tả đại dương một cách ấn tượng. Trong “Đảo Plum”, Nelson Demille đã khiến tôi (và chắc là hàng ngàn độc giả khác trước và sau tôi) khó có thể quên những trường đoạn tả cảnh hành động trên biển và trong bão biển. Dù không có lời nào trực tiếp nói rằng “thiên nhiên thật hùng vĩ và đáng sợ” nhưng trong từng khoảnh khắc người đọc vẫn sẽ cảm nhận rõ rệt thiên nhiên hùng vĩ và đáng sợ trong truyện này. “Chiếc Plum Runner lách qua eo biển hẹp vào một vịnh nước nhỏ, dường như được tạo ra không phải bởi Thượng Đế vạn năng mà là quân đoàn xây dựng, những người thích đặt những nét hoàn thiện vào những công trình của tạo hóa”. Qua những cuốn của Nelson Demille mà tôi từng đọc, tôi đã ấn tượng với tính cách của nhân vật John Corey. Đến cuốn “Đảo Plum”, nhân vật này đặc biệt thể hiện rõ nét sự ngang tàng, mạnh mẽ, vô cùng hài hước, galant với phụ nữ ngay cả khi tính mạng bản thân đang lâm nguy nhưng vẫn giữ vững bản chất “vô độc bất trượng phu”. Trong hai cuốn trước mà tôi đọc, John Corey có một người vợ cũng là cảnh sát, tính cách độc lập và xuất sắc không kém chồng. Trong cuốn này, có lẽ vì Corey đang chờ đơn ly dị và độc thân tự do quyến rũ nên nam chính chiếm 60% ‘thời lượng’ truyện. Tôi thích cách Corey rất hiếm khi kiềm chế khi bị hút về phía phụ nữ, đã thích thì tấn công dữ dội, nhưng khi quyết định không dính dáng đến nữa thì lạnh lùng như sông băng. Tuy như vậy sẽ khiến phụ nữ có chút đau lòng, vì hầu hết nữ giới luôn khao khát được khao khát, nhưng cá nhân tôi tán đồng những người đàn ông cương quyết trong tình cảm (và trong những chuyện khác), thà rằng cắt đứt từ khi chưa có gì còn hơn khiến dây tơ hồng vướng víu khắp các lối mình từng qua. ____ Có lẽ vì lý do này mà tôi bắt đầu thích nhân vật John Corey nhiều hơn cả Dirk Pitt, đang mấp mé thích hơn cả Jack Reacher! Hãy xem vài câu nói khá hay ho của John Corey: “Ngoại giao là nghệ thuật nói những thứ khốn nạn cho dễ nghe, cho đến khi tìm được một hòn đá”. “Thật khó khi bạn có nhiều câu hỏi vào lúc hai giờ sáng, bạn lại đang căng lên vì chất cà phê và không có ai muốn nói chuyện với bạn”. “Những người làm chính trị sợ bất cứ thứ gì mà họ không hiểu, mà họ thì lại chẳng hiểu được thứ gì”. Tôi cũng thích cả hai nhân vật nữ trong truyện: Beth Penrose xinh đẹp như người mẫu và can trường như chiến binh, Emma Whitestone tinh thông kim cổ và tự tin trong ..mmhh.. một lĩnh vực quan trọng + cần thiết của cuộc sống (tức là tình dục). Tôi tin rằng ngoài đời thực vẫn có những phụ nữ dù bị vết thương đạn bắn nhưng vẫn có thể trải qua nhiều giờ lao đao trên một chiếc tàu cao tốc giữa cơn bão biển để săn lùng hung thủ, nhưng khi đọc thấy nhân vật Beth Penrose thực hiện những điều đó, tôi vẫn vô cùng thán phục cô ấy. Cả hai nữ chính đều có thể đối đáp ngang hàng với một John Corey tếu táo trong mọi thời điểm (kể cả lúc sắp chết). Dù bản thân không thích hình tượng Mary Sue nhưng khi đọc “Đảo Plum”, tôi vẫn mơ mộng mình sẽ có được sự kết hợp những ưu điểm của cả hai nữ chính trong truyện. Vâng, tôi vừa tham lam vừa phi thực tế. Tuy từ nhỏ đã có niềm yêu thích đặc biệt đối với truyện trinh thám (từ khi tôi còn chưa biết sách chia ra nhiều thể loại và trinh thám là một trong những thể loại đó) nhưng do tham gia hội trinh thám khá muộn (4~5 năm sau khi thành lập) nên tôi đã bỏ lỡ không mua nhiều cuốn hay, trong đó có những cuốn của Lee Child và Nelson Demille. Tuy vậy, tôi rất may mắn được các anh chị trong hội quý mến và rộng lượng cho mượn thật nhiều sách, kể cả sách cũ hiếm, do đó tôi vẫn có cơ hội được đọc những cuốn không còn bán ngoài thị trường, chẳng hạn như “Đảo Plum”. Đây là một cuốn sách bản to, bìa cứng, đủ nặng để không thể nằm đọc, thuộc loại sách mà tôi rất thích ôm đọc đến khi mỏi cả tay. Truyện được dịch thuật tốt, trình bày ổn, cốt truyện và văn phong đều khiến tôi hài lòng. Điều buồn cười duy nhất là thiết kế bìa quá kỳ dị. (Sea, 10-2-2021) Xin cảm ơn chị N. đã cho em Biển mượn sách Cáo Biển Non Xanh *** Tôi nhìn qua ống nhòm. Một chiếc tàu dài hơn chục mét đậu cách bờ biển chừng vài trăm thước. Trên boong, hai cặp nam nữ độ ba mươi tuổi đang cười đùa, tắm nắng, uống bia hay thứ gì đó. Hai người phụ nữ mặc quần lót bé xíu, ngực để trần. Một trong hai gã đang ở mũi tàu trút bỏ bộ đồ tắm, đứng đó một lát, khom người rồi nhảy tùm xuống nước và bơi quanh con tàu. Đất nước này vĩ đại thật. Tôi bỏ ống nhòm và nhấp một ngụm Budweiser. Đó là cuối mùa nghỉ hè, không phải là cuối tháng Tám, mà là tháng Chín, trước Thu phân. Đã qua ngày nghỉ lễ Lao động, sắp sang nửa kia của mùa thu. Tôi là John Corey, nghề nghiệp cảnh sát đang dưỡng thương, khi đó đang ngồi dưới mái hiên sau nhà của ông cậu ruột, ngả mình trên chiếc ghế bằng liễu gai, đầu óc miên man với những ý nghĩ hời hợt thoáng qua trong đầu. Với tôi, vấn đề của sự nhàn rỗi là không biết đến khi nào cuộc đời mình kết thúc. Hiên nhà được làm theo kiểu cũ, bao bọc ba bề của ngôi nhà trong trang trại xây từ những năm 1890, thời Victoria. Tất cả đều làm vách gỗ, có trang trí, chóp nhọn, đầu hồi, đủ mọi thứ. Từ chỗ tôi ngồi có thể nhìn về phía nam tới Vịnh Great Peconic qua một bãi cỏ xanh dốc. Mặt trời đã xuống thấp ở chân trời phía tây, vị trí lúc 6 giờ 45 chiều. Tôi sống ở thành phố, nhưng lại thực sự thích những gì ở nông thôn, bầu trời và mọi thứ ở đó. Cuối cùng, cách đây vài tuần, tôi đã thấy được chòm Đại hùng tinh. Tôi mặc chiếc áo phông đơn màu và quần jean ngắn mà trước đây khi chưa sút cân còn vừa vặn. Hai chân tôi gác lên lan can, khoảng giữa hai ngón chân cái phía đằng xa chính là con tàu khi nãy. Thời gian này trong ngày là lúc ta bắt đầu nghe thấy tiếng dế, tiếng côn trùng. Nhưng tôi không hâm mộ gì những tiếng ồn ã đó của tự nhiên nên đã để một chiếc đài quay băng xách tay trên chiếc bàn con bên cạnh và nghe nhạc của nhóm The Big Chill,chai Budweiser đặt bên trái, chiếc ống nhòm để trên bụng. Trên sàn gần tay phải tôi là khẩu Smith & Wesson .38 với nòng dài năm phân, vừa khít với chiếc ví của tôi. Chỉ để đùa thôi. Trong cái khoảng hai giây chuyển từ bài When a Man Loves a Woman sang bài Dancing in the Street, tôi nghe, hay linh cảm thấy, tiếng bước chân ai đó trên ván sàn đi quanh hiên. Vì sống một mình và cũng không mong chờ ai đó đến thăm, tôi với khẩu súng bên tay phải đặt vào bọc. Các bạn đừng cho rằng tôi mắc bệnh hoang tưởng, vì tôi đang điều trị, không phải bệnh tật mà là ba vết thương do đạn bắn, hai viên loại 9 li và một viên Magnum nòng 44. Kích cỡ của lỗ đạn không thành vấn đề. Cũng như trong mua bán nhà đất, quan trọng là vị trí, vị trí và vị trí. Rõ ràng mấy vết thương này ở những chỗ không đáng ngại, vì tôi đang phục hồi, chứ không rữa ra. Tôi nhìn sang phía phải nơi góc hiên quanh qua mặt phía tây của ngôi nhà. Một người đàn ông xuất hiện và dừng lại cách tôi dăm mét, đôi mắt dõi theo những bóng dài của mặt trời sắp lặn. Kỳ thực, bóng anh ta phủ cả lên người tôi nên có vẻ như không nhìn thấy tôi. Với mặt trời phía sau lưng người đàn ông, tôi rất khó mà nhìn ra khuôn mặt hay phán đoán ý định của người đó. Tôi nói, “Có thể giúp gì được anh không?” Người đàn ông quay lại phía tôi. “Ô, John, tôi không nhìn thấy cậu ở đó”. “Mời sếp ngồi”. Tôi nhét khẩu súng vào cạp quần dưới áo và vặn nhỏ tiếng của bài Dancing in the Street. Đó là Sylvester Maxwell, gọi tắt là Max, cảnh sát trưởng của thị trấn này. Max bước đến phía tôi và tựa vào lan can, đối diện với tôi. Anh mặc chiếc áo khoác màu xanh da trời mang phù hiệu, sơ mi trắng cài khuy thấp, quần màu nâu, đi giày không tất, kiểu của dân đi tàu. Không thể biết anh đang làm nhiệm vụ hay không. Tôi nói, “Có nước ngọt trong thùng lạnh đấy.” “Cám ơn”. Anh cúi xuống lấy một chai Budweiser ra khỏi thùng đá. Max thích gọi bia là nước ngọt. Anh nhấp một chút, đôi mắt đăm chiêu nhìn vào khoảng không trước mặt. Tôi hướng lại ra phía vịnh và nghe bài Too Many Fish in the Sea của nhóm Marvelettes. Vì là ngày thứ hai nên khách đi nghỉ cuối tuần đã về hết, ơn Chúa. Nhu tôi đã nói, sau ngày lễ Lao động, hầu hết những người thuê nhà nghỉ đã đi khỏi và bạn có thể cảm nhận sự yên tĩnh trở lại. Max là người bản xứ mà lại không đi thẳng vào chuyện, nên tôi chỉ còn cách là chờ đợi. Cuối cùng, anh hỏi tôi: “Cậu là chủ nhà ở đây à?”. “Là của cậu tôi. Ông ấy đang muốn tôi mua chỗ này.” “Đừng mua bất cứ thứ gì. Phương châm của tôi là, nếu nay đây mai đó thì chỉ thuê thôi.” “Cám ơn anh.” “Cậu sẽ ở đây một thời gian chứ?” “Tới khi nào không có gió thổi qua ngực tôi nữa.” Anh mỉm cười, nhưng rôi đăm chiêu trở lại. Max có khổ người to lớn, trạc tuôi tôi, khoảng trên dưới bốn mươi lăm, tóc vàng hoe hơi gợn sóng, nước da đỏ khỏe mạnh và đôi mắt màu xanh. Dường như trong mắt phụ nữ, anh là người điển trai. Điều này rất có lợi cho một cảnh sát trưởng Maxwell độc thân lại không mắc bệnh đồng tính. Max nói, “Cậu cảm thấy thế nào rồi ?” “Không tệ lắm.” “Cậu có thấy giống như bài tập cho tinh thần không?” Tôi không đáp. Tôi đã quen biết Max mười năm nay, nhưng vì không sống ở đây nên tôi chỉ thi thoảng mới gặp anh. Cũng phải nói thêm, tôi là điều tra viên ở thành phố New York chuyên về các vụ án giết người, trước đây làm ở Bắc Manhattan cho tới khi tôi bị thương. Đó là vào ngày 12 tháng Tư. Trong khoảng hai chục năm chưa có điều tra viên nào bị bắn ở New York nên vụ của tôi gây chú ý lớn. Phòng Thông tin Công chúng của Sở Cảnh sát New York tiếp tục đưa tin vì vẫn đang trong thời gian hợp đồng. Với bề ngoài khá được của tôi, hay đại loại như vậy, họ cũng có chút lợi, với sự hợp tác của báo chí, và chúng tôi cứ tiếp tục như vậy. Trong lúc đó, hai tên thủ phạm đã bắn tôi thì vẫn nhởn nhơ bên ngoài. Vì thế, tôi mất một tháng ở Trung tâm y tế Columbia Presbyterian, sau đó nghỉ vài tuần trong căn hộ của tôi ở Manhattan trước khi cậu Harry gợi ý căn nhà nghỉ mùa hè của ông là nơi thích hợp với một người hùng. Sao lại không nhỉ? Tôi đến đây vào cuối tháng Năm, ngay sau ngày Tưởng niệm Liệt sỹ*. Max nói, “Chắc cậu biết Tom và Judy Gordon.” Tôi nhìn anh. Ánh mắt hai người gặp nhau. Tôi hiểu. Tôi hỏi, “Cả hai người à?” Anh gật đầu. “Cả hai.” Sau một thoáng yên lặng kính cẩn, anh nói, “Tôi muốn cậu đến xem hiện trường.” “Tại sao lại là tôi?” “Tại sao lại không? Coi như giúp tôi. Trước khi có người khác lần ra được điều gì đó. Tôi đang thiếu điều tra viên án giết người.” Kỳ thực, cảnh sát thị trấn Southold không có lấy một điều tra viên án giết người nào và điều này cũng chẳng sao vì rất ít khi có ai đó bị giết. Mà nếu có thì cảnh sát quận Suffolk sẽ nhảy vào cuộc, còn Max đứng ngoài. Max không thích điều này. Cần nói thêm một chút về nơi này. Đây là vùng North Fork của đảo Long Island, bang New York. Theo một tấm bảng trên đường cao tốc, thị trấn Southold được một số người từ New Haven, bang Connecticut dựng lên vào những năm 1640. Theo tất cả những gì được biết, những người này đang trên đường chạy trốn khỏi sự truy đuổi của nhà vua. Vùng South Fork của đảo Long Island nằm ở phía bên kia của vịnh Peconic là một Hamptons đầy sành điệu: các nhà văn, nghệ sĩ, diễn viên, các hạng người được công chúng biết đến và đủ thứ hỗn tạp khác. Còn ở North Folk này, dân cư hầu hết là nông dân, ngư dân hay đại loại như vậy. Và có lẽ có một kẻ sát nhân. Ngôi nhà của cậu Harry nằm ngay trong thôn Mattituck, khoảng một trăm dặm đường bộ từ Đường 102 Tây, nơi hai quý ông trông như dân Latinh xả mười bốn, mười lăm phát đạn chào tạm biệt, ba phát trúng vào mục tiêu di động cách chừng dăm sáu mét. Không phải là một màn trình diễn ấn tượng, nhưng tôi không chê bai hay phàn nàn gì. Thị trấn Southold chiếm phần lớn vùng North Fork, bao gồm tám thôn và một ngôi làng, có tên là Greenport. Lực lượng cảnh sát gồm khoảng bốn mươi sỹ quan có tuyên thệ và Sylvester là cảnh sát trưởng. Max nói, “Trông cậu không có vẻ đau đớn.” “Có chứ. Điều gì sẽ xảy ra nếu tôi có trát đòi ra làm chứng ngoài này vào một thời điểm không mấy dễ chịu? Tôi không được trả tiền để làm điều này.” “Tôi đã gọi cho giám viên của thị trấn và được chấp nhận cho thuê cậu về làm chính thức với tư cách cố vấn. Một trăm đô la mỗi ngày.” “Chà. Nghe như thứ công việc mà tôi phải tiết kiệm để có được.” Max tự cho mình nở nụ cười. “Này, nhưng bao cả tiền gas và điện thoại của cậu. Với lại hiện giờ cậu cũng không làm gì.” “Tôi đang cố chữa lành vết thương ở phổi bên phải.” “Công việc này cũng không nặng nhọc gì lắm.” “Làm sao anh biết.” “Đây là cơ hội để cậu trở thành công dân tốt của thị trấn Southold đấy.” “Tôi là người New York. Không ai bắt tôi phải làm công dân tốt.” “Này, cậu có biết rõ nhà Gordon không? Họ là bạn của cậu à?” “Đại loại thế.” “Vậy còn gì nữa? Đó là động cơ cho cậu. Thôi nào, John. Đứng dậy. Chúng ta đi. Tôi sẽ nợ cậu chuyện này. Đặt một vé nhé.” Quả thật, tôi đã chán ngán, nhưng vợ chồng nhà Gordon là những người tốt... Tôi đứng dậy và đặt chai bia xuống. “Tôi sẽ nhận công việc với mức lương một đô la mỗi tuần để làm chính thức.” “Tốt. Cậu sẽ không tiếc đâu.” “Đương nhiên là sẽ tiếc.” Tôi tắt nhạc bài Jeremiah Was a Bullfrog và hỏi Max, “Có nhiều máu không.” “Ít thôi, vết thương ở đầu.” “Anh nghĩ tôi có cần xỏ dép không?” “Ồ... một ít óc và xương sọ vỡ phía sau...” “Được.” Tôi xỏ dép rồi cùng Max đi vòng theo hiên ra đường xe phía trước. Tôi ngồi vào chiếc xe cảnh sát không phù hiệu của Max, chiếc Jeep Cherokee màu trắng có lắp điện đài cảnh sát với thứ âm thanh loạc xoạc. Chúng tôi đi dọc theo con đường dài từ nhà ra. Con đường được phủ bằng vỏ sò và hến cá từ trăm năm nay do cậu Harry và những người trước đó trải chúng lên đường cùng với tro và xỉ than của lò sưởi để tránh bùn và bụi. Dù sao đi nữa, chỗ này trước đây đã từng được gọi là trang trại của vịnh, giờ vẫn nằm phía trước vịnh, nhưng hầu hết diện tích của trang trại đã bị bán hết. Cây cối ở đây hơi quá lứa, chủ yếu là những thứ không còn dùng đến, như cây đầu xuân, liễu tơ và những hàng rào thủy lạp. Ngôi nhà sơn màu kem với những đường trang trí màu xanh, mái nhà cũng màu xanh. Tất cả đều rất đẹp, thực sự đẹp. Có lẽ tôi sẽ mua nó nếu mấy tay bác sĩ của cảnh sát nói tôi phải nghỉ hẳn. Tôi phải tập ho ra máu mất thôi. Về chuyện vết thương, tôi được trả lương hưu miễn thuế suốt đời vì tỉ lệ thương tật ba phần tư. Chuyện này ở Sở Cảnh sát New York chẳng khác gì đến thành phố Atlantic, sà vào sòng bạc Trump’s Castle, chúi đầu vào một chiếc máy đánh bạc trước sự chứng kiến của một luật sư chuyên về nợ. Độc đắc rồi! “Cậu nghe thấy tôi nói không?” “Gì cơ?” “Tôi nói, một người láng giềng phát hiện ra họ lúc 5 giờ 45 chiều.” “Tôi được tính lương ngay lúc này đấy à?” “Chắc chắn rồi. Mỗi người bị bắn một phát vào đầu. Người láng giềng phát hiện ra họ nằm ở hiên sau nhà.” “Max, tôi sẽ xem xét toàn bộ hiện trường. Còn người láng giềng kia thì sao?” “Đó là Edgar Murphy, một ông già. Ông ta nghe tiếng tàu của vợ chồng Gordon về lúc 5 giờ 30. Khoảng mười lăm phút sau ông ta đi qua thì thấy họ đã bị giết. Không nghe thấy tiếng súng nào.” “Ông ta dùng máy trợ thính à?” “Không. Tôi đã hỏi ông ta. Edgar nói bà vợ ông ta cũng vẫn thính tai. Vì thế, có thể là súng giảm thanh. Cũng có thể tai họ không được tốt như họ nghĩ.” “Nhưng họ đã nghe thấy tiếng con tàu. Edgar chắc chắn về thời gian à?” “Rất chắc chắn. Ông ta gọi cho chúng tôi lúc 5 giờ 51 chiều, tức là gần thời điểm đó.” “Đúng.” Tôi nhìn đồng hồ. Lúc này là 7 giờ 10 phút. Chắc hẳn ngay sau khi đến hiện trường, Max đã có ý tưởng sáng suốt là tìm tôi. Tôi đoán các nhân viên điều tra án mạng của quận Suffolk hiện đang ở đó. Có lẽ họ đến từ một thị trấn nhỏ có tên là Yaphank, nơi đặt trụ sở của cảnh sát quận và cách chỗ vợ chồng Gordon sống khoảng một giờ lái xe. Max nói đủ thứ dài dòng, còn tôi cố tập trung suy nghĩ. Nhưng đã năm tháng nay tôi chưa phải nghĩ đến những điều như thế này. Tôi định ngắt lời, “Chỉ các sự kiện chính thôi, Max!”, nhưng tôi lại để anh tiếp tục lải nhải. Cùng lúc đó, âm điệu của bài hát Jeremiah Was a Bullfrog vẫn luẩn quẩn trong đầu tôi. Các bạn biết đấy, thật sự rất khó chịu khi không thể dứt hẳn một điệu nhạc ra khỏi đầu. Nhất lại là thứ này. Tôi nhìn ra ngoài qua cửa xe. Chúng tôi chạy dọc theo con đường chính theo hướng đông-tây có cái tên nghe dễ chịu là đường Main Road, tới một nơi gọi là Nassau Point, nơi vợ chồng Gordon sống - hoặc đã từng sống. North Folk gần giống như Cape Cod, vùng đất gió lộng nhô ra biển, ba bề là nước, một nơi có nhiều sự kiện lịch sử. Dân cư bản địa không nhiều, chỉ khoảng hai mươi nghìn, nhưng lượng người đi nghỉ hè và nghỉ cuối tuần đến đây rất đông. Những xưởng sản xuất rượu vang cũng thu hút khách đến rồi đi trong ngày. Cứ thử mở một xưởng rượu, bạn sẽ có cả chục nghìn tay ăn chơi từ thành thị gần nhất đến nhâm nhi. Đố bao giờ sai. Chúng tôi rẽ theo hướng nam tới Nassau Point. Nơi đây là một dải đất dài hai dặm giống như một lưỡi dao cắt vào vịnh Great Peconic. Từ cầu tàu ở nhà tôi tới nhà Gordon khoảng bốn dặm. Nassau Point trở thành một điểm nghỉ hè từ khoảng những năm 1920. Nhà cửa ở đây từ những căn nhà gỗ đơn giản đến những tòa nhà hoành tráng. Albert Einstein cũng đã từng đến đây nghỉ hè, và chính từ đây, vào khoảng những năm 1930, ông đã biết “Bức thư Nassau Point” nổi tiếng gửi Roosevelt thúc giục ngài tổng thống tiến hành việc nghiên cứu chế tạo bom nguyên tử. Phần còn lại, như người ta nói, là cả lịch sử. Một điều thú vị là Nassau Point vẫn là nơi ở của một số nhà khoa học. Một số người làm việc tại Phòng Thí nghiệm Quốc gia Brookhaven, cơ quan nghiên cứu hạt nhân bí mật hay gì đó cách đây khoảng ba mươi lăm dặm. Một số nhà khoa học làm việc trên Đảo Plum, khu vực tuyệt mật nghiên cứu sinh học đáng sợ tới mức phải đặt nó trên một hòn đảo. Đảo Plum cách khoảng hai dặm từ mũi Orient Point, điểm cuối cùng trên đất liền ở North Folk - điểm dừng tiếp theo là châu Âu. Không phải ngẫu nhiên, Tom và Judy Gordon là hai nhà nghiên cứu sinh học làm việc trên Đảo Plum. Bạn có thể đánh cược là cả Sylvester Maxwell và John Corey đều đang nghĩ đến điều đó. Tôi hỏi Max. “Anh đã gọi cho cơ quan liên bang chưa?” Anh lắc đầu. Mời các bạn mượn đọc sách Đảo Plum của tác giả Nelson DeMille & Đỗ Thúy (dịch).