Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Thợ Săn Vàng - James Oliver Curwood

Trong tiểu thuyết “Thợ Săn Vàng", Curwood kể về những cuộc mạo hiểm ly kỳ hấp dẫn của Roderick Drew, một chàng trai da trắng và hai thổ dân da đỏ - Mukoki, một chiến binh già và Wabigoon, bạn học của Roderick. Họ lên đường đi giải cứu Minnetaki, em gái của Wabigoon, bị bọn cướp Woonga bắt cóc. Sau khi đã giải cứu được cô gái da đỏ, họ lại tiếp tục cuộc hành trình bằng thuyền độc mộc đi ngược dòng lên những ngọn núi thâm u miền Viễn Bắc để truy lùng một mỏ vàng thất lạc, từ một tấm bản đồ cổ được vẽ cách đó nửa thế kỷ. Câu chuyện được thuật lại vô cùng sinh động và hấp dẫn, và mang lại cho bạn đọc nhiều kiến thức về đời sống và con người ở vùng cực Bắc Canada vào khoảng đầu thế kỷ 20. Chúng tôi hy vọng các bạn sẽ cảm thấy thích thú với bản dịch này. Và cũng hy vọng sẽ có cơ hội tiếp tục giới thiệu thêm những bản dịch các tác phẩm hay nhất của nhà văn James Oliver Curwood cùng các bạn. *** James Oliver Curwood (12/6/1878 - 13/8/1927) là một tiểu thuyết gia và nhà bảo vệ môi trường người Mỹ. Chào đời ở Owosso, Michigan, ông rời trường trung học khi chưa tốt nghiệp, nhưng vẫn vượt qua những bài thi tuyển của Đại học Michigan, sau đó theo học chuyên ngành báo chí. Năm 1900, Curwood bán truyện ngắn đầu tay khi làm việc cho tờ Detroit News-Tribune. Năm 1909, ông du hành tới miền bắc Canada, chuyến đi này đã gợi hứng cho những câu chuyện phiêu lưu mạo hiểm trong miền hoang dã Viễn Bắc của ông. Với thành công của những quyển tiểu thuyết này, ông tiếp tục trở lại vùng Alaska và Yukon mỗi năm vài tháng, và viết hơn ba mươi cuốn tiểu thuyết cùng chủ đề đó. Nhiều tác phẩm của ông đã được chuyển thể thành phim do ngôi sao điện ảnh Nell Shipman thủ diễn với vai trò của một phụ nữ can đảm, ưa thích mạo hiểm. Rất nhiều phim đã được dựng trong thời kỳ Curwood đang sống, cũng như sau khi ông qua đời, suốt cho tới thập niên 1950. Năm 1988, đạo diễn Pháp Jean Jacques Annaud đã dựng cuốn tiểu thuyết thứ mười sáu của ông - “The Grizzly King” (Vua gấu xám) thành phim L’Ours. Thành công của Annaud đã khuấy động những quan tâm mới tới những cuốn tiểu thuyết của Curwood, và từ 1994-1995 đã có thêm năm bộ phim nữa ra đời trên cơ sở các kịch bản chuyển thể từ những câu chuyện của ông. Cho tới năm 1922, các tác phẩm của Curwood giúp ông trở thành người giàu có và ông đã hoàn thành giấc mơ thời thơ ấu của mình với việc xây dựng Lâu đài Curwood ở Owosso. Là một người hăng say cổ động cho việc bảo vệ môi trường, Curwood được đề cử vào Ủy ban Bảo vệ môi trường Michigan năm 1926. Năm sau, trong một chuyến đi câu ở Florida, ông bị một con nhện độc cắn vào đùi và bị dị ứng ngay lập tức. Những sa sút sức khoẻ liên quan tới vết cắn đó kéo dài suốt mấy tháng sau và dẫn tới cái chết vì hoại huyết của ông vào tháng 8/1927. Ông được chôn cất tại Nghĩa trang Oak Hill ở Owosso. Toà lâu đài của ông hiện trở thành viện bảo tàng Curwood. Hàng năm, vào dịp nghỉ cuối tuần đầu tiên của tháng Sáu, thành phố Owosso tổ chức Lễ hội Curwood để chúc tụng truyền thống của mình. Ông còn được vinh danh với việc được lấy tên để đặt cho một ngọn núi ở L’Anne Twonship, Michigan, Núi Curwood, và Công viên L’ Anne Township được đổi tên thành Công viên Curwood. • Các tác phẩm chính: — Những tay thợ săn sói (The Wolf Hunters - 1908). — Thợ săn vàng (The Gold Hunters - 1909). — Đoá hoa miền Bắc (The Flower of the North - 1912). — Kazan (1914). — Người đàn bà bị săn đuổi (The Hunted Woman - 1916). — Vua gấu xám (The Grizzly King - 1916). — Baree - con trai của Kazan (Baree, Son of Kazan – 1917). — Thung lũng của những kẻ im lặng (The Valley of Silent Men –1920). — Cái bẫy thú bằng vàng (The Golden Snare –1921). *** Sự im lặng sâu thẳm của ban trưa bao trùm lên cánh rừng Canada mênh mông quạnh vắng. Những con nai sừng tấm và tuần lộc đã ăn no từ sớm mai đang lặng lẽ nghỉ ngơi trong hơi ấm của mặt trời tháng Ba. Con mèo rừng nằm cuộn mình trong cái hang giữa những tảng đá lớn của nó, chờ đợi ánh mặt trời chìm xuống phương tây để khởi sự săn mồi. Con cáo đang ngủ giấc trưa và những chú chim sâu hay chộn rộn lười nhát rỉa lông dưới ánh nắng ấm áp đang làm tan chảy lớp tuyết cuối đông. Đó chính là lúc một người thợ săn già nào đó tháo chiếc ba lô khỏi người, lặng lẽ thu nhặt củi để nhóm lửa, ăn bữa trưa và khoan khoái rít chiếc tẩu thuốc, tai và mắt đầy cảnh giác, chính lúc đó, nếu bạn chỉ nói lớn hơn tiếng thì thầm một chút thôi, ông ta sẽ bảo bạn: “Suỵt! Hãy im lặng! Anh không biết chúng ta đã đến gần con mồi thế nào đâu. Mọi con vật đã ăn xong bữa sáng và nằm nghỉ. Con mồi sẽ bất động khoảng một hai giờ, và có lẽ những con nai hoặc tuần lộc ở phía trước chỉ cách một tầm đạn mà thôi. Giờ thì chúng ta không thể nghe thấy chúng!” Một lúc sau, có một con vật bắt đầu thoát ra khỏi trạng thái im lặng bất động. Đầu tiên, nó chỉ là một chấm đen trên phía tràn ánh nắng của đỉnh đồi phủ tuyết. Rồi nó cử động, duỗi dài thân hình như một con chó, hai chân trước của nó duỗi ra và vai nó hạ thấp xuống – đó là một con sói. Sói là loài thú ngủ rất ngon lành sau một bữa no. Một tay thợ săn giỏi có thể biết rằng con sói này đã ăn no vào đêm trước. Tuy nhiên, đã có cái gì đó đánh thức nó. Mơ hồ xuất hiện trước con vật nhạy cảm nhất trong số những cư dân của rừng một thứ mùi – mùi của con người. Nó đi xuống dốc núi với vẻ chậm chạp hờ hững của một con thú đã no nê, và với chỉ nửa phần sự khéo léo vốn có của nó; chạy chầm chậm trên lớp tuyết mềm của khe núi và dừng lại nơi mùi của con người đậm đặc đến nỗi nó ngóc mõm lên trời và gửi tới các bạn cùng đàn trong rừng một dấu hiệu cảnh báo rằng nó đã phát hiện ra sự có mặt của con người. Một con sói chỉ làm như thế vào ban ngày. Khi đêm xuống, nó và đồng bọn có thể khởi sự cuộc săn tìm, nhưng dưới ánh sáng ban ngày nó chỉ lên tiếng cảnh báo rồi nhanh chóng lẩn xa khỏi dấu vết. Nhưng có một cái gì đó giữ nó lại. Có một điều bí ẩn trong không khí làm nó bối rối. Ngay phía trước có vết rộng và êm của một chiếc xe trượt tuyết và dấu chân của nhiều con chó. Khoảng một giờ trước chuyến xe chở thư từ Bưu cục Wabinosh đã chạy ngang con đường này trên chuyến hành trình dài đến thế giới văn minh. Nhưng không phải cuộc di chuyển vừa qua của người và chó khiến cho con sói đang cảnh giác cao độ, sắp sửa chuồn đi mà vẫn chần chừ. Đó là điều gì đó từ hướng đối diện, hướng Bắc, đang đến theo cơn gió. Đầu tiên là những tiếng ồn, rồi đến các mùi, rồi cả hai, và con sói chạy vụt lên sườn núi tràn ánh nắng. Từ phía tiếng ồn và mùi lạ xuất hiện có một cái hồ, và trên bờ phía kia của nó, cách đấy khoảng một phần tư dặm, đột nhiên lao ra từ bìa rừng thông rậm rạp một đám người, xe trượt tuyết và chó. Trong khoảnh khắc, cái khối thú vật đó dường như bị vướng vào một sự hỗn loạn, một kiểu đánh nhau tàn bạo thường xảy ra giữa những con chó lai sói kéo xe ở miền Bắc. Rồi có tiếng ra lệnh sắc đanh của con người, tiếng roi quật xé gió, tiếng oăng oẳng đau đớn của những con chó Eskimo, và đội hình rối loạn được chỉnh đốn trở lại, trở thành một sợi chỉ màu vàng xám băng qua mặt hồ đóng băng trơn trợt. Người đàn ông chạy bên cạnh cổ xe trượt. Ông ta cao, gầy, và dù ở khoảng cách khá xa người ta cũng có thể nhận ra đó là một thổ dân da đỏ. Khi chiếc xe trượt băng qua được một phần tư quãng đường trên mặt hồ, một chiếc xe trượt khác lao ra từ khu rừng rậm. Bên cạnh chiếc xe này cũng có một người đàn ông đang chạy với tốc độ liều mạng. ... Mời các bạn đón đọc Thợ Săn Vàng của tác giả James Oliver Curwood.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Người Thứ 41 - Boris Lavrenyov
Tôi biết đến Người thứ 41 lần đầu tiên vào một buổi chiều mùa hè của vài năm trước. Gần đây, dọn lại tủ sách tôi có dịp đọc lại. Tuy cảm xúc của lần đọc thứ hai đã khác lần đầu tiên, nhưng câu chuyện tình ngang trái trong truyện luôn luôn khiến người ta day dứt và mãi mãi chẳng thể nào quên Câu chuyện xuất hiện trong bối cảnh nội chiến của nước Nga Xô Viết giữa hai phe Bonsevic đại diện cho tầng lớp lao động và phe Mensevic đại diện cho tầng lớp quý tộc. Đại diện của hai phe này, hay  nhân vật chính trong truyện là hai thanh niên nam-nữ còn rất trẻ, nữ hồng quân Maria Filatovna và sĩ quan bạch vệ Govorukha Otrok. Lẽ ra anh chàng sĩ quan kia đã trở thành kẻ tử trận thứ bốn mươi mốt dưới tay súng thiện xạ của cô gái nhưng cuối cùng, anh lại trở thành người mà cô yêu tha thiết và có lẽ cô sẽ không bao giờ quên được anh.   Câu chuyện khép lại với một kết thúc buồn thảm với mối tình dở dang của cô gái. Cô đã phải tự tay giết chết người mình yêu thương để bảo vệ cho lý tưởng giải phóng giai cấp cao đẹp mà cô chọn lựa, nhưng có lẽ đó sẽ là sự ám ảnh suốt đời cho người trong cuộc. Hình ảnh đôi mắt của nhân vật chính xuất hiện hầu như xuyên suốt trong tác phẩm, như một sự khẳng định về tâm hồn viên sĩ quan Bạch vệ. Đôi mắt xanh trong veo như màu nước biển Aran, hay là màu của sự hy vọng, của những điều tinh khiết nhất mà anh còn giữ lại được không bị ảnh hưởng của chiến tranh. Đôi mắt ấy đã thu hút tâm hồn Marjutca để rồi cuối cùng nhìn cô với vẻ băn khoăn, ai oán. Đây là một trong số ít những tiểu thuyết buồn mà tôi rất thích. Vượt lên trên chiến tranh và sự ngăn trở của thân phận, cuộc tình ngắn ngủi đầy kỳ lạ giữa hai con người khác biệt về giai cấp ấy vẫn là một bản tình ca đẹp ngân nga trong lòng người đọc qua năm tháng. *** Thời gian trước, bộ phim "Sắc, Giới" (Lust, Caution) của Lý An ra đời đã gây ít nhiều sóng gió và xôn xao dư luận, khi nó mong manh giữa ranh giới nghệ thuật và sự câu khách rẻ tiền. Xem xong bộ phim về mối tình éo le và bi thảm giữa tên trùm mật vụ và một cô gián điệp trẻ tuổi, chẳng hiểu sao tôi lại nghĩ mãi về một quyển truyện vừa của dòng văn học Xô Viết, cũng cùng mô-típ mâu thuẫn giữa tình yêu và lí tưởng như thế nhưng kết thúc và tư tưởng tác phẩm lại khá khác biệt. Đó là truyện Người thứ 41 của Boris Lavrenhjov viết năm 1924. Trong Sắc, Giới, cô gái vì yêu mà không giết kẻ thù nhưng kẻ thù đã giết cô cho trọn chức trách; còn Người thứ 41 thì "phe địch" phải chết... Người thứ 41 lấy bối cảnh là cuộc nội chiến ở Trung Á, câu chuyện tình giữa một nữ chiến sĩ Hồng quân Marjutca và một tên bạch vệ Gơvorukha - một cô gái quê mùa ít học và 1 tên quý tộc trí thức. Trên đường áp giải gã sĩ quan về căn cứ, đội quân của Marjutca bị đắm thuyền, chỉ còn mình cô và gã sĩ quan sống sót, trôi dạt vào 1 hòn đảo. Giữa những ngày tháng miễn cưỡng sống tựa vào nhau, những câu chuyện về cuộc sống ở hai thái cực đối lập của họ, những bất đồng giai cấp sâu sắc, kì lạ thay, không ngăn được tình yêu nảy nở. Và ngược lại, cái tình yêu ấy cũng chẳng xoá nhòa hay khoả lấp được những hố sâu cách biệt về ý thức hệ giữa họ. Kết thúc chuyện tình éo le này cũng là cái chết, đó là khi Marjutca, với phản xạ của một chiến sĩ hơn là suy nghĩ của một cô gái đang yêu, đã bắn chết tên sĩ quan - người tình của mình, khi anh ta chạy đến thuyền của phe bạch vệ vừa cập bến... Cái vấn vương người đọc ở câu chuyện này là, nếu như họ không kẹt giữa cuộc chiến ấy, giữa sự phân cực hệ tư tưởng và giai cấp, thì làm gì có bi kịch, mà ngẫm lại, không còn bi kịch thì cũng chẳng phải là cuộc sống! Khi gã sĩ quan đề nghị cô gái quên chiến tranh đi, cùng hắn đi đến một nơi thật xa xây tổ ấm, chắc ít nhiều bạn đọc cũng thầm nói "ừ chịu đi cho hết chuyện với kết thúc có hậu"! Nói thẳng ra, hắn ta cũng chẳng phải là kẻ ác đại ác ôn gì, hoặc giả là "chưa kịp ác" cho đến tận lúc người đọc chứng kiến hắn chết! Nhưng chính cái kết thúc bi thảm và ngang trái của câu chuyện này rất hay: người ta có thể cảm nhận một tình yêu thực sự giữa tinh thần cách mạng triệt để, cái kết thúc "rất Bôn-sê-vich" ấy hoá ra lại làm cho chuyện tình của họ "tình" và buồn hơn bao giờ hết... Ôi, cái anh chàng mắt xanh biêng biếc lạ kì, hay tình yêu cũng là một thứ lạ kì như vậy, chẳng có lí do gì cụ thể nhưng dường như là tất cả, có thể bị nhuộm màu máu như nó phải thế, nhưng màu xanh ấy dường như vẫn còn... Về mặt nghệ thuật thì truyện vừa này không phải là quá xuất sắc, nhất là khi nó ra đời tại một nền văn học vĩ đại với nhiều tác phẩm xuất sắc là văn học Xô Viết. Có thể cảm nhận được tư tưởng tác giả khá "tả khuynh", nhưng đặt trong bối cảnh ra đời của truyện thì lại hoàn toàn chấp nhận được. Điểm ấn tượng của truyện chính là phần kịch tính của câu chuyện ở cách tác giả xử lí đoạn kết, sau trăm trang viết giản dị, mộc mạc tưởng chừng như sẽ "rất có hậu"... Chỉ có thể nói truyện "vương vấn một cách nhẹ nhàng nhất" đối với người đọc!   Mời các bạn đón đọc Người Thứ 41 của tác giả Boris Lavrenyov.
Nero Nhà Thơ Bạo Chúa - Kosztolányi Dezső
Tôi đến với Nerô - Nhà thơ bạo chúa một cách tình cờ. Một đợt bán sách giảm giá của Fahasa, một chồng sách ít ai chú ý. Tôi lật vài trang và thực sự bị hút vào thế giới ấy. Tôi không phải nhà chính trị, đọc Nerô để tìm bằng chứng về chế độ độc tài; càng không phải là nhà nghiên cứu văn học để tìm trong Nerô quan điểm, tâm hồn hay bút pháp tiểu thuyết của Kosztolányi Dezső. Tôi đến với Kosztolányi Dezső, đơn giản với tư cách một độc giả, và viết về tác phẩm của ông bằng những cảm nhận, có thể sai lệch, của cá nhân mình. Nerô dưới mắt của các nhà sử học là nhà thơ giả - bạo chúa thật, kẻ đã đốt cả thành La Mã để tìm thi hứng. Thế nhưng qua góc nhìn của Kosztolányi Dezső vẫn là một con người, một con người trẻ có khao khát, có đam mê và nỗ lực thực hiện những ước mơ của mình. Ước mơ của Nerô đẹp đấy chứ, có thể nói là rất đẹp kia: trở thành một nhà thơ, một nghệ sĩ thực thụ. Và nỗ lực của ngài đã mấy ai làm được? “… Ngài đã từ bỏ những thú vui ở đời, đã dành từng hơi thở cho nghệ thuật. Tuy nhiên, ngài thiếu một cái gì đó, rất ít thôi, để có thể trở thành nhà thơ thực thụ. Chỉ có điều cái rất ít này hóa ra lại rất nhiều. Ngài không tìm được nó.” Bạn đã bao giờ trải qua cái cảm giác ước mơ ngoài tầm với chưa? Và bạn sẽ làm gì khi rơi vào trường hợp đó? Bạo chúa Nerô không chịu từ bỏ ước mơ của mình, ngày đêm ông nỗ lực, vẫy vùng trong điên cuồng, tuyệt vọng để tìm con đường đến với ước mơ. Niềm khao khát được làm một nhà thơ nổi tiếng cháy bỏng trong Nerô như một ngọn lửa dữ dội,  thôi thúc vị hoàng đế lao vào ước mơ như một con thiêu thân. “Những nhà thơ thật thì được nữ thần nghệ thuật hôn lên trán… Nerô đã hôn trán nữ thần nghệ thuật. Ông ấy đã cưỡng hiếp nữ thần.” Có nhà thơ đích thực nào lại tìm thi hứng cho mình bằng cách ấy? Khi nguồn động lực cũng là liều thuốc độc, nó đã thiêu đốt Nerô bằng những mặc cảm cùng khát vọng của chính mình. Qua từng trang sách, cuộc đời Nerô đã bật lên, bằng cách này hay cách khác. Nerô không phải một nhà thơ, chưa bao giờ là một nhà thơ chân chính nhưng chính cuộc đời ngài đã là một bài thơ gần như bất hủ. Những kẻ cơ hội vây lấy ngài, vuốt ve, bợ đỡ; những người được nữ thần nghệ thuật hôn lên trán cười cợt ngài, khinh thường ngài nhưng ngoài Britannicuxt, có ai rời mắt được khỏi ngài đâu! Nerô là nhà chính trị tồi, là thằng hề với những hành động vị kỉ, lố bịch, là con bướm đêm khát khao lao vào vòng lửa sáng dù biết chắc chắn đôi cánh của mình sẽ trở thành tro bụi. Ngài thành công vì quyền lực chứ không vì tài năng đích thực. Ngài nhận biết điều đó và chạy trốn sự thật. Ngài trở thành bạo chúa, ngài tàn sát những nhà thơ thật sự để được bước chân lên con đường nghệ thuật tôn quý kia. Đau đớn thay, cuối cùng, ngài vẫn chỉ là một con bướm đêm vẫy vùng trước ánh lửa với đôi cánh cháy xém, lại khát khao lao vào lần nữa! “Điều người Hi Lạp làm thật dể dàng, người La Mã lại phải đánh đổi bằng những cái dữ dội nhất.” Kosztolányi Dezső đã viết lời ai điếu về Nerô: “Ngài đã từng trải, đã làm những chuyện lẽ ra chỉ được phép nằm mơ. Hiển nhiên, những nhà thơ thật thì khác. Các vị ấy mơ những điều họ không thể trải qua, không thể làm…” “Lẽ ra bây giờ ngài ba mươi mốt tuổi… Ngài không có con… Nhưng ngài đã sống nhiều biết bao.” Đâu là phán xét, đâu là cảm thông cho một Nerô, một hoàng đế dùng cả cuộc đời mình để viết nên vài dòng dữ dội? Và đâu mới đích thực là giá trị của một con người, một mơ ước dở dang? Chỉ là gấp trang sách lại, suy tư với những câu hỏi của riêng mình. *** Kosztolányi Dezső là một nhà thơ và nhà văn Hungary. Kosztolányi sinh ra tại Szabadka, Đế quốc Áo-Hung (nay là Subotica, Serbia) vào năm 1885. Thành phố này đóng vai trò như là hình mẫu của thị trấn hư cấu Sárszeg mà ông lấy làm bối cảnh trong cuốn tiểu thuyết Skylark cũng như Con diều vàng. Ông là con của Árpád Kosztolányi (1859-1926), giáo sư vật lý và hóa học và là hiệu trưởng của một trường học và Eulália Brenner (1866-1948) gốc Pháp. Ông bắt đầu học trung học ở Szabadka nhưng vì mâu thuẫn với giáo viên trong lớp nên bị đuổi học và vì vậy mà đành phải tốt nghiệp tại một trường tư ở Szeged. Kosztolányi chuyển đến Budapest vào năm 1903 theo học tại trường Đại học Budapest, cũng chính tại đây ông đã gặp các nhà thơ Mihály Babits và Gyula Juhász, và sau đó có một thời gian ngắn ở Vienna trước khi bỏ học và trở thành một nhà báo - nghề nghiệp mà ông tiếp tục theo đuổi trong suốt phần đời còn lại. Năm 1907, Kosztolányi cho xuất bản tập thơ Giữa bốn bức tường báo hiệu một bước tiến mới của nền thơ Hungary thời đó. Năm 1908, ông thế chỗ nhà thơ Endre Ady đã bỏ sang Paris làm phóng viên cho tờ nhật báo Budapest. Năm 1910, tập thơ đầu tiên của ông mang tên Những lời oán trách của chú bé nghèo khổ mang lại thành công trên toàn quốc và đánh dấu sự khởi đầu của một thời kỳ thăng hoa trong sự nghiệp sáng tác văn học, mà tác giả đã cho xuất bản một tác phẩm gần như mọi năm. Kosztolányi tình cờ gặp nữ diễn viên Ilona Harmos vào mùa đông năm 1910; họ kết hôn vào ngày 8 tháng 5 năm 1913. Năm 1936, ông qua đời vì bệnh ung thư vòm họng.   Mời các bạn đón đọc Nero Nhà Thơ Bạo Chúa của tác giả Kosztolányi Dezső.
Mũi Tên Đen - Robert Louis Stevenson
 Có một miền đất nhiều vách đá, khô cằn và khắc nghiệt ở bắc đảo Briland, đất nước Scotland. Nó không lớn và cũng ít người. Dân ở đấy nghèo nhưng can đảm và chuộng tự do.  Người Scotland thường thêu trên lá cờ của mình những bông hoa nhỏ màu tím hồng của bụi trường xuân và cúc gai. Trường xuân là vật trang sức khiêm tốn của các sườn núi và bãi trống ven biển Scotland, còn cúc gai là hiện thân của sức sống kiên cường và mãnh liệt. Cũng như những cây ngưu bàng đã gợi cho Lép Tônxtôi, nhà văn Nga, suy nghĩ về những con người ở miền núi Đaghextan, những bụi trường xuân và cúc gai chính là tượng trưng của sức sống dẻo dai của người Scotland. Người Anh đã chiếm Scotland, nhưng không chỉ ở những thế kỷ trước, ngày nay người Scotland vẫn đấu tranh đòi tách đất nuớc mình ra khỏi Vương quốc Anh. Mặc dù giai cấp thống trị Scotland thoả hiệp và đầu hàng, có kẻ còn quên cả tiếng mẹ đẻ nhưng dân tộc Scotland vẫn không đầu hàng. Trong cuốn "Những người con của thuyền trưởng Grant", Giuyn Vécnơ, nhà văn Pháp đã ca ngợi những người Scotland thường luôn hướng về tổ quốc mình. Nghệ thuật Scotland không tàn lụi. Các bài ca của nó đã dược Beethoven, nhạc sĩ thiên tài người Đức nâng niu, được Oante Xcot, nhà văn Scotland đưa vào tiểu thuyết của mình. R.L Stevenson đã thừa hưởng tất cả tính cách mạng của dân tộc mình. Ông chỉ thiếu sức chịu đựng dẻo dai như ở cơ thể của những người đồng hương. Sinh năm 1850, ông xuất thân từ gia đình kỹ sư xây dựng đèn biển. Chính ông đã dự định trở thành hoa tiêu, đã viết một tác phẩm về những người thắp đèn chỉ đường cho những con tàu lách qua sương mù và ghềnh đá. Nhưng bệnh tật đã buộc ông từ bỏ ý định của mình. Ông tới miền nam nuớc Pháp, nương nhờ khí hậu ấm áp nơi đây để chữa bệnh. Sau khi sức khoẻ khá hơn, ông làm một cuộc hành trình theo sau một con lừa thồ hàng đi khắp nước Pháp, rồi cùng con thuyền bơi khắp các dòng sông và kênh đào ở Bỉ và Hà Lan. Những chuyến đi đó in dấu trong tác phẩm của Stevenson. Sau đó ông lại sang Bắc Mỹ, điều này giải thích vì sao Stevenson thường viết các tiểu thuyết phiêu lưu. Nhưng các tác phẩm xuất sắc của ông thường liên quan đến biển và gợi lại không gian Scotland. Stevenson rất yêu mến trẻ em và say mê các trò chơi của các em nhỏ. Ông chơi trận giả với con trên tầng gác chật chội và tối tăm, say mê như tham gia những chiến dịch lớn. Sàn nhà đầy bản đồ với các nét vẽ núi non, sông ngòi, đầm lầy, biển cả. Một trong các bức bản đồ đó đã được phong phú lên thêm bằng câu chuyện tưởng tượng về bọn cướp biển, sau đó trở thành tiểu thuyết nổi tiếng nhất của Stevenson: "Đảo giấu vàng". Nghề cướp biển hồi đó rất thịnh hành. Bọn cướp biển người Anh đặc biệt đặc biệt hăng hái trong việc cướp bóc các thương thuyền của Ý chở vàng từ Mêhicô, Pêru và Ấn Độ. Các tàu cướp được hợp pháp hoá, được phép treo cờ Anh. Vua Anh sẵn sàng tiếp nhận của cải của bọn hải tặc dâng lên song cũng phẩy tay quay đi khi chúng rơi vào tai họa. "Đảo giấu vàng" phê phán nạn cướp biển, ca ngợi chiến thắng của cái thiện đối với cái ác. "Mũi tên đen" được viết muộn hơn khi Stevenson đã trở nên nổi tiếng. Câu chuyện lùi lại những sự kiện xảy ra vào thế kỷ XV, thời kì đuợc gọi là cuộc chiến tranh Hoa Hồng Trắng và Hoa Hồng Đỏ của hai dòng họ lớn đều có tham vọng giành ngai vàng của nuớc Anh: York và Lancaster. Cuộc tranh giành kéo dài ba mươi năm này đã cuốn vào khói lửa không biết bao nhiêu con người và làm cho nứơc Anh kiệt quệ. Nhân dân không chờ mong điều gì tốt lành của những bên tham chiến, họ đã tự tổ chức phòng thủ hoặc trả thù các lãnh chúa phong kiến cưỡng bức mình. Họ trở thành các cung thủ tự do, thành "Jhon - trả - thù - cho - tất cả". Họ lập đảng "Mũi Tên Đen". Những người ban đầu bị cuốn hút vào chiến tranh như tiểu công tử Dick Shelton cũng mau chóng tỉnh ngộ và rời bỏ cái ác. Stevenson phê phán các cuộc chiến tranh phi nghĩa. Ông tạo dáng ghê sợ cho những kẻ làm điều ác. Tên Silver thọt chân trong "Đảo giấu vàng", gã người gù khắc nghiệt và khát máu Richard York trong "Mũi Tên Đen".   Cái ác bị vạch trần đến tận cùng trong tiểu thuyết chín muồi nhất của Stevenson: "Master of Ballantrae". Vẻ ngoài của nó cũng là một tiểu thuyết phiêu lưu. Các cuộc mạo hiểm trên biển, chuyến du lịch tới Ấn Độ, Bắc Mỹ… làm hấp dãn người đọc. Tuy nhiên, nội dung chủ yếu của nó là phô bày sự phân hoá của một gia đình Scotland. Vinh quang đến với Stevenson nhưng bệnh tật ngày càng trầm trọng. Một lần nữa nhà văn lại tìm đến nơi khí hậu dễ chịu hơn, đó là Xamoa, một hòn đảo nằm giữa mênh mông trùng sóng Thái Bình Dương. Tại đây ông đứng về phía người bản xứ, bảo vệ họ và chống lại bọn thực dân xâm lược người Anh, Mỹ, Đức. Nhân dân Xamoa gọi ông bằng cái tên kính trọng: "Người viết ra lịch sử".   Tác phẩm của Stevenson đầy lạc quan, sự sảng khoái, vui vẻ, đầy chiến thắng. Có độc giả nghĩ ông là một anh chàng phong lưu, lớn lên bằng bí-tết và dồi, lúc nào cũng khoác áo đuôi tôm màu đỏ rong ruổi trong rừng, đi săn không biết mệt. Sự thực, sức khoẻ của ông ông mỗi lúc một suy sụp. Chính ở Xamoa, Stevenson đã trút hơi thở cuối cùng, vào ngày 03 tháng 12 năm 1894 khi mới bốn mươi lăm tuổi. Ngừơi ta mai táng ông trên một quả đồi nhỏ, trên mộ ghi những dòng kết của bài thơ "Khúc tưởng niệm" mà ông đã viết, trong đó có đoạn: Xin viết những dòng để nhớ về tôi: "Ông ta nằm đây, nơi ông ta muốn Người thuỷ thủ trở về từ biển lớn Người đi săn trở về từ giữa núi đồi". Stevenson hằng mơ ước những quyển sách của mình là bạn đường yêu quí của mỗi thuỷ thủ, mỗi người lính, mỗi nhà du lịch để họ thêm can đảm và có niềm vui, có chuyện kể cho nhau nghe trong những đêm dài trực canh, hay bên đống lửa xua tan gió rét. Mơ ước của nhà văn thật giản dị và ấm cúng. Trong các cuốn sách hay nhất của mình - trong đó có "Mũi Tên Đen" - Stevenson đã thực hiện được điều đó. *** Robert Louis Balfour Stevenson (13.11.1850 – 3.12.1894) là tiểu thuyết gia, nhà thơ, nhà tiểu luận và nhà văn du ký người Scotland. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Đảo châu báu (Treasure Island) và Bác sĩ Jekyll và ông Hyde (Strange case of Dr Jekyll and Mr Hyde). Hầu như suốt thế kỷ 20 ông bị giới nghiên cứu hàn lâm chối bỏ, cho ông chỉ là nhà văn hạng nhì chuyên viết truyện thiếu nhi và truyện ly kỳ rùng rợn, song từ cuối thế kỷ 20 ông đã được đánh giá lại một cách công bằng, được coi như ngang hàng với những tác gia như Joseph Conrad và Henry James. Nhiều nhà văn lớn như Jorge Luis Borges, Bertolt Brecht, Marcel Proust, Arthur Conan Doyle, Cesare Pavese, Ernest Hemingway, Rudyard Kipling, Vladimir Nabokov tỏ lòng khâm phục ông.    Stevenson nằm trong số 26 tác giả được dịch nhiều nhất trên thế giới. *** - Tôi cũng muốn được như ngài nói. Tôi đồng ý câu nói của ngài. Ở ngài, lòng nhiệt tình của tuổi trẻ có nhiều hơn tội ác. Giá nếu mà hiệp sĩ Daniel không phải là một thế lực hùng mạnh của bên chúng tôi, thì tôi sẽ bảo vệ được ngài. Tôi đã dò hỏi và nhận bằng chứng rằng người ta sẽ xử sự khắc nghiệt với ngài. Tôi phải xin lỗi ngài về việc đó. Nhưng thưa ngài, tôi là lãnh tụ của phái ủng hộ nhà vua, nên dù cho tôi là một người công bằng, thậm chí có khuynh hướng thiên về tha thứ, bây giờ tôi cũng cần phải hành động theo quyền lợi của phe đảng mà giữ ngài Deniel bên phía chúng tôi. - Thưa đại nhân - Dick đáp lời - Ngài đừng cho tôi là hỗn láo và cho phép tôi đưa lời cảnh báo ngài. Chẳng lẽ ngài tin tưởng vào sự trung thực của Daniel hay sao? Theo tôi, hắn ta quá nhiều lần đổi chỗ từ phe này sang phe nọ. - Phải, người ta thừơng hay hành động như vậy ở nước Anh, vậy ngài muốn thế nào? - Bá tước hỏi. - Có điều ngài đã đánh giá không công bằng với hiệp sĩ vùng Tunstall, ông ta trung thành với chúng tôi, với phe Lancaster ở chừng mực thích ứng với thời dại không đáng tin hiện nay. Ông ta không phản bội ngay cả trong các thất bại nặng nề gần đây nhất của chúng tôi. - Nếu Bá tước cho là như thế thì mời Bá tước hãy xem lá thư này. Ngài sẽ thay đổi được chút ít trong nhận xét của mình - Dick chìa cho Bá tước lá thư của Daniel gửi cho Whensleydale. Khuôn mặt của Bá tước thay đổi. Ông trở nên dữ tợn như một con sư tử đang điên khùng, bàn tay thì nắm vào cán dao găm một cách không tự nhiên. - Anh cũng đã đọc lá thư này? - ông hỏi. - Tôi đã đọc, ngài thấy đấy, ông ta đề nghị cầu hoà bằng toàn bộ lãnh địa của ngài cho Whensleydale. - Đúng, anh nói đúng, bằng lãnh địa của tôi! - Bá tước đáp - Tôi là con nợ của anh qua lá thư này. Nó đã chỉ ra cho tôi cái hang cáo. Anh hãy ra lệnh cho tôi đi, tiểu công tử Shelton! Tôi sẽ không chậm trễ đáp lại ơn anh - dù cho anh là York hay Lancaster, dù cho anh là người lương thiện hay tên trộm cắp thì tôi cũng sẽ bắt đầu bằng việc trả lại tự do cho anh. Anh hãy đi đi vì danh sáng của Đức Mẹ! Nhưng anh đừng có tiếc rằng tôi sẽ giữ lại và treo cổ anh bạn Lawless của anh. Tội ác đã thực hiện trước công chúng, thì sự trừng phạt vẫn cần phải thi hành trước công chúng. - Thưa đại nhân, đây là đề nghị thứ nhất của tôi đối với ngài. Ngài hãy tha thứ cả cho anh ta - Dick yêu cầu. - Đó là một tên lưu manh già đời, tên lang thang và trộm cắp, anh Shelton ạ! - Bá tước nói - Từ lâu giá treo cổ đã chờ đợi hắn. Nếu người ta không treo cổ hắn sáng ngày mai thì hắn cũng sẽ được treo cổ muộn hơn một chút mà thôi. Thế thì tại sao lại không treo cổ hắn lên vào ngay ngày mai đi? ... Mời các bạn đón đọc Mũi Tên Đen - Robert Louis Stevenson
Bác sĩ Jekyll và ông Hyde - Robert Louis Stevenson
Ra đời năm 1886, đến nay, Bác sĩ Jekyll và ông Hyde (tựa tiếng Anh: Strange case of Dr Jekyll and Mr Hyde) đã tròn 130 tuổi. Ít ai biết cuốn tiểu thuyết này có số phận lênh đênh, chìm nổi trước khi được thừa nhận là một kiệt tác văn chương.   Mặc dù, nhiều tờ báo về văn chương uy tín trên thế giới đã xếp Bác sĩ Jekyll và ông Hyde vào danh sách “100 cuốn tiểu thuyết hay nhất mọi thời đại”. Nhưng ở thời điểm mới ra đời, tác phẩm chỉ được xem như một cuốn tiểu thuyết kỳ dị, ma quái, thuộc hàng “tác phẩm hạng nhì”. Gần 100 năm sau, giá trị của nó mới được nhìn nhận một cách đúng đắn. Bác sĩ Jekyll và ông Hyde là câu chuyện về một bác sĩ có tính cách khác thường. Sau khi nghiên cứu được phương pháp làm thay đổi gương mặt tiến sĩ Jekyll trở thành một con người khác, có tên là Hyde. Từ đó, phần thú tính trong con người của tiến sĩ Jekyll cũng được bộc lộ dưới nhân dạng của ông Hyde. Hyde đã gây ra hàng loạt vụ giết người dã man. Lần đầu tiên, Robert Louis Stevenson đưa ra những hình dung về hội chứng đa nhân cách của con người, trước khi y học ghi nhận về nó. Vì vậy, Jekyll và Hyde từ lâu không chỉ là tên của hai nhân vật mà đã trở thành thuật ngữ được dùng trong tâm lý học. Bác sĩ Jekyll và ông Hyde nhiều lần được đưa lên sân khấu kịch. Năm 1931, lần đầu tiên đạo diễn Rouben Mamoulian đã chuyển thể cuốn tiểu thuyết này thành phim. Bác sĩ Jekyll và ông Hyde  là bộ phim kinh dị đầu tiên dành được tượng vàng Oscar cho hạng mục Nam chính xuất sắc nhất với diễn xuất của tài tử Fredirc March. Phiên bản điện ảnh năm 1945 với sự tham gia diễn xuất của nữ minh tinh người Thụy Điển - Ingrid Bergman cũng được đánh giá cao. Trong 130 năm qua, tác phẩm này đã được chuyển thể tất cả 100 lần. Hãng Universal dự kiến sẽ thực hiện một phiên bản mới về cuốn tiểu thuyết này trong thời gian tới. Không chỉ vậy, Robert Louis Stevenson cũng là nhà văn có tác phẩm được chuyển thể nhiều nhất trên thế giới. Các tác phẩm của ông đã được chuyển thể hơn 200 lần. Ngoài Bác sĩ Jekyll & ông Hyde,  Robert Louis Stevenson còn một tác phẩm nổi tiếng khác khá quen thuộc với độc giả Việt Nam là Đảo giấu vàng (Treasure Island). *** Robert Louis Balfour Stevenson (13.11.1850 – 3.12.1894) là tiểu thuyết gia, nhà thơ, nhà tiểu luận và nhà văn du ký người Scotland. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Đảo châu báu (Treasure Island) và Bác sĩ Jekyll và ông Hyde (Strange case of Dr Jekyll and Mr Hyde). Hầu như suốt thế kỷ 20 ông bị giới nghiên cứu hàn lâm chối bỏ, cho ông chỉ là nhà văn hạng nhì chuyên viết truyện thiếu nhi và truyện ly kỳ rùng rợn, song từ cuối thế kỷ 20 ông đã được đánh giá lại một cách công bằng, được coi như ngang hàng với những tác gia như Joseph Conrad và Henry James. Nhiều nhà văn lớn như Jorge Luis Borges, Bertolt Brecht, Marcel Proust, Arthur Conan Doyle, Cesare Pavese, Ernest Hemingway, Rudyard Kipling, Vladimir Nabokov tỏ lòng khâm phục ông.    Stevenson nằm trong số 26 tác giả được dịch nhiều nhất trên thế giới. *** Luật sư Utterson là người có nét mặt thô kệch không bao giờ ánh lên một nụ cười, nói năng phớt lạnh, kiệm lời và lúng túng, khí chất rụt rè, dáng cao thon, khô khan, ảm đạm, nhưng lại có vẻ dễ thương khó tả. Trong những buổi gặp gỡ thân mật, và khi có rượu vang hợp với khẩu vị, mắt ông rạng ngời một tình cảm nồng nàn nhân hậu, một điều quả thật chẳng bao giờ tìm thấy trong lời nói của ông, nhưng tình cảm ấy không chỉ lặng lẽ biểu hiện qua nét mặt sau bữa ăn, mà thường bộc lộ rõ rệt qua hành động trong đời sống hằng ngày của ông. Bản thân ông sống khổ hạnh; khi một mình ông chỉ uống gin để tiết chế sở thích thưởng thức rượu ngon; và tuy thích kịch nghệ nhưng trong hai mươi năm ông chưa một lần nào bước chân vào cửa rạp hát. Tuy nhiên ông sẵn lòng khoan dung đối với người khác; đôi khi băn khoăn gần như tới mức ganh tị trước những thôi thúc mạnh mẽ muốn dính dấp vào các hành vi sai trái của họ. Và trong bất kỳ hoàn cảnh túng quẫn cùng cực nào ông cũng thường có khuynh hướng giúp đỡ hơn là trách cứ. Ông vẫn hay nói một cách ý nhị: “Tôi có xu hướng xa rời giáo điều chính thống giống như Cain[1]. Tôi để anh em mình đi với ma quỷ theo cách riêng của họ”. Vì cá tính này, ông thường ngẫu nhiên là người quen biết được tin cẩn cuối cùng và có ảnh hưởng tốt cuối cùng trong cuộc đời của những kẻ thất cơ lỡ vận. Và đối với những người như thế, khi họ tìm đến văn phòng ông, ông vẫn cư xử như bình thường, không hề tỏ ra một chút thay đổi nào. Hẳn nhiên thái độ đáng nể này là chuyện dễ dàng đối với ông Utterson, vì ông tuyệt đối không khoa trương, và thậm chí hình như tình bạn của ông đối với mọi người đều đôn hậu như nhau. Nó là biểu hiện của một người khiêm tốn đón nhận vòng thân hữu do bàn tay của số phận dọn sẵn cho mình, và đó là kiểu của ông luật sư. Bạn bè ông là những người cùng huyết thống, hay những người ông đã biết từ lâu. Lòng quý mến của ông, như cây trường xuân lớn lên theo thời gian, không đòi hỏi đối tượng phải xứng hợp. Vì thế, chẳng có gì để ngờ vực sự gắn bó của ông với ông Richard Enfield, một người bà con xa nổi tiếng khắp thành phố. Thiên hạ thấy khó mà hiểu được hai người này có thể thấy gì ở nhau, hay họ có thể tìm được đề tài chung nào. Những người tình cờ gặp họ trong những lần đi dạo với nhau vào ngày Chủ nhật kể rằng họ chẳng nói năng gì, nom thẫn thờ một cách lạ lùng, và họ sẽ vồn vã thở phào nhẹ nhõm thấy rõ khi có một người bạn xuất hiện. Dù thế, hai người dành mọi nỗ lực để có các cuộc du ngoạn này, xem đó là lúc quý giá nhất trong tuần, và họ không những gác lại mọi dịp vui khác mà thậm chí còn hoãn cả những việc cần làm, để có thể hưởng các buổi đi dạo này mà không bị ai ngăn trở. ... Mời các bạn đón đọc Bác sĩ Jekyll và ông Hyde của tác giả Robert Louis Stevenson.