Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Một Lời Nói Dối

Họ tiến lại gần căn nhà cho đến khi đến đường giao giữa rừng cây và bãi cỏ. Âm thanh ban đêm bao bọc lấy họ: tiếng ếch ộp oạp, tiếng cá quẫy mình trong nước, tiếng muỗi vo ve bên tai và tiếng diều hâu từ xa kèm theo tiếng rít sợ hãi của một chú chuột. Kẻ đi săn hay kẻ bị săn. Đêm nay, họ là ai? Một loạt vụ án mạng, bắt cóc liên tiếp xảy ra ở thị trấn sau khi Jane Hardy được kế nhiệm vị trí cảnh sát trưởng của cha mình ở Cảng Pelican, Alabama. Sau khi cha bị buộc tội trộm cắp và có dính líu đến một vụ án mạng, Jane phải đối mặt với sự giám sát của công chúng trong khi cố gắng làm rõ sự trong sạch cho cha mình và chứng minh rằng phụ nữ có thể làm tốt trong những công việc thường mặc định dành cho nam giới". Liệu có phải kẻ đến từ quá khứ khủng khiếp đang cố gắng phá hủy gia đình duy nhất mà cô có - sau khi cha đưa cô trốn thoát khỏi hội cuồng giáo mười lăm năm trước? Dối trá, bí mật, giết người, cảnh giác, báo thù và xen lẫn lãng mạn, tất cả tạo nên tác phẩm MỘT LỜI NÓI DỐI hồi hộp nguyên bản và hấp dẫn. *Những đánh giá về truyện: _ “Colleen Coble lại một lần nữa khẳng định mình đang đạt đến phong độ đỉnh cao với dòng văn học kịch tính lãng mạn Ki-tô giáo. Tác phẩm gồm những nhân vật sẽ khiến bạn yêu thích, nghi ngờ rồi lại tin tưởng và những khung cảnh sẽ khiến bạn phải nín thở. Câu chuyện của Jane Hardy là hành trình khám phá mạng nhện phức tạp và rối rắm được dệt nên bằng một lời nói dối nhỏ bé.” Lisa Wingate, tác giả bán chạy nhất New Yorks Times với cuốn Before We Were Yours, nhận xét về Một lời nói dối _ “Colleen Coble luôn đưa dòng văn học hồi hộp lãng mạn lên một tầm cao mới. Tôi rất thích Một lời nói dối! Cuốn sách đã đưa tôi vào một chuyến hành trình hoang dại và tuyệt vời.”_ DiAnn Mills, tác giả bán chạy nhất _ “Một lời nói dối, cuốn sách mới nhất của Coble, là một tác phẩm giàu sức nặ Đây chắc chắn là một trong số những cuốn sách hay nhất của cô ấy. Tôi đã thức tới khuya để đọc xong cuốn sách này, vì không tài nào ngủ nổi nếu không được biết chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo. Một cuốn sách mà bạn nhất định phải đọc! Rất đáng khen!”_ Robin Caroll, tác giả bán chạy nhất với tiểu thuyết Xaga Darkwater Inn _ “Tôi đã luôn mong ngóng tác phẩm mới của Colleen Coble. Một lời nói dối là một hiện tượng mới. Tôi không biết cô ấy đã làm thế nào nhưng tài năng của cô ấy đang tỏa sáng. Chắc chắn bạn sẽ dành nhiều thời gian để đọc vì bạn sẽ không nỡ đặt sách xuống. Tôi đã ngấu nghiến cuốn sách này! Cảm ơn Colleen vì những giờ giải trí đỉnh cao. Tôi sẽ đón đọc tác phẩm tiếp theo!”_ Lynette Eason, tác giả đạt giải thưởng và bán chạy nhất với bộ sách Blue Justice _ “Ngay từ khi Colleen nhắc đến ý tưởng về Một lời nói dối, tôi đã rất muốn đọc. Cô ấy là một tác giả tuyệt vời và rất giỏi chơi đùa với câu chuyện hồi hộp trên từng trang sách. Tôi cho rằng đây là tác phẩm hay nhất của cô ấy, một lời khen rất đáng kể đấy!” _ Carrie Stuart Parks, tác giả Fragments of Fear _ “Trong Một lời nói dối, hậu quả của một lời nói dối len lỏi khắp thị trấn Cảng Pelican, tạo nên một mớ hỗn loạn và căng thẳng. Ai sẽ là người thoát ra được khỏi những nghi vấn? Một lời nói dối là tác phẩm mới nhất của Colleen Coble. Câu chuyện diễn ra ở vùng vịnh biển Alabama, với Jane Hardy là cảnh sát trưởng mới nhận chức, đang nỗ lực vì cha mình. Reid Dixon bám theo Jane để quay phim tài liệu, nhưng anh ta cũng có bí mật của riêng mình. Họ cùng nhau đối mặt với những bí mật của bản thân và liệu rằng bí mật có trở thành lời nói dối? Có lẽ nào đã quá muộn để được tha thứ?” _Cara Putman, tác giả bán chạy nhất và đạt giải thưởng *Về tác giả: Colleen Coble là tác giả bán chạy nhất USA TODAY và lọt vào vòng chung kết của RITA được biết đến nhiều nhất với các tiểu thuyết hồi hộp lãng mạn ven biển, bao gồm The Inn at Ocean’s Edge, Twilight at Blueberry Barrens, và loạt Lavender Tides, Sunset Cove, Hope Beach, và Rock Harbour.    *** Tác giả: Colleen Coble Dịch giả: Nguyễn Hải An Thể loại: Trinh thám, lãng mạn. Đánh giá cá nhân: 6.5/10 “Một nửa sự thật, không phải là sự thật” Một lời nói dối – Gánh nặng trên đôi vai của Jane – Nữ cảnh sát trưởng 30 tuổi, vừa mới nhận chức. Một gánh nặng được đặt lên cô dù cho cô gần chẳng có bất cứ một trách nhiệm gì, thậm chí là người “bị hại” – ngoài việc đón nhận những lời nói dối từ tất cả mọi người xung quanh – những người cô yêu quý hay quan trọng với cô trong cuộc đời. Lời nói dối, là then chốt, là móc xích, là toàn bộ những gì được diễn ra – dù theo hướng tích cực, hay tiêu cực đi chăng nữa. “Chúng ta nhận ra rằng. mình thường xuyên hay dối trá bằng một nửa sự thật. Vì ta không muốn làm tổn thương người khác, nhưng lại ghét sự dối trá”. Một lời nói dối – Là một tác phẩm có hơi hướng trinh thám lãng mạn. Tuy nhiên, mọi thứ không đủ sâu. Truyện có một phần dựng nên bối cảnh và nền truyện khá lâu để có thể đạt đến cao trào, cũng như nhiều chi tiết (gợi ý) được nêu ra một cách hơi phô trương, nhưng lại không có ấn tượng quá nhiều khi móc xích được gỡ bỏ. Một số nhân vật và bối cảnh, vẫn biết là đưa vào để đẩy cảm xúc của nhân vật lên, nhưng hình như chưa tới. Khi đọc tác phẩm, lúc mình cảm thấy hưng phấn và cuốn hút nhất, lại không nằm ở phút giây giải quyết mọi thứ (khi người tốt và người xấu đối mặt, giải quyết xung đột, hay cái kết cuối cùng sau khi mọi thứ kết thúc đều không mấy ấn tượng) mà là trước đó 1 đoạn. Cảm giác, mọi thứ chỉ hay khi ở 2/3 của con dốc, thì mọi thứ bị hụt hơi và không còn hay nữa. Cái kết cuối cùng, cũng không làm hài lòng, dù khi đó, sự thật được phơi bày, dù khi đó, ý nghĩa của những lời nói dối đã được gỡ bỏ. Hơi tiếc cho tác phẩm, hoặc là hơi tiếc cho cảm nhận của mình khi đọc hết tác phẩm. Nhưng, nếu 2 tập tiếp theo của Seri được xuất bản, có lẽ vẫn sẽ mua, vì văn phong của tác giả, mình khá thích. Sách được mua Online thông qua Tiki. Review ngày: 02/03/2021 Nguyễn Huy Hoàng *** Ôi trời chắc đây là lần đầu đọc sách trinh thám mà mình đoán đúng hết vụ án luôn. Vừa shock vừa ngạc nhiên vừa buồn cười vì tác giả thật sự không nỗ lực một chút nào trong việc che giấu hung thủ hết, bà ấy chỉ nỗ lực để che giấu cuộc sống riêng tư của nữ chính thôi. Thật sự cuốn sách này nếu xếp vào trinh thám thì 2 sao, vì quá dễ đoán, không có bug gì, mấy đoạn suy luận và hành động cũng bình thường lắm, nên đọc thấy chán. Nhưng xét về phương diện kiểu tôn giáo và lãng mạn thì cuốn này làm rất ổn đó chứ. Mình thích cả 3 nhân vật Jane, Reid, và Will, quá dễ thương và lành mạnh đi. Hứa hẹn phần sau của series này sẽ rất push and pull trong truyện tình yêu tình báo đây. Mình sẽ đọc tiếp cuốn 2 của series, mình thích cô Jane này. *** Tháng Năm... Nút Áo quan sát lối ra của trại và buộc mình lê bước theo sau cha mẹ, mặc cho cơn đau đang ngày càng nhói lên trong bụng. Cô nén tiếng rên rỉ và nối gót vào hội trường của hội thánh Núi Sinai*. Khu đất của hội nằm lọt giữa những cánh rừng bang, gió thổi qua cánh cửa mang theo hương thơm của gỗ thông. Khối kiến trúc bằng gỗ trắng này từng là một nhà thờ của giáo hội Giám Lý và giờ vẫn che khuất những ô cửa kính màu ghép hướng về phía đường. Bên trong nhà thờ có khoảng bốn mươi người. Nút Áo lỉnh đến một băng ghế gần cửa sổ, còn cha mẹ cô thì tiến đến vị trí của họ ở hàng phía trên. Từ bé đến giờ cô chỉ biết đến cộng đồng nhỏ này, nhưng khi cơn đau ở lưng lớn dần và quấn quanh cái bụng khổng lồ, tất cả những gì cô mong ước bây giờ là có thể thuyết phục cha cho mình đến bệnh viện. Đôi mắt cha cô lộ rõ vẻ do dự, nhưng sau khi thấy mẹ cô lập tức từ chối lời van xin thì ánh mắt ông đanh lại và ông lắc đầu. Trưởng nhóm chưa bao giờ cho phép bất cứ ai rời đi, ít nhất không phải vì một việc tầm thường như sinh đẻ. Nhưng cô sợ. Cơn đau khiến cô run rẩy với những bất trắc mà mình có lẽ sẽ phải đối mặt. Người bạn thân nhất của cô đã qua đời trong khi sinh nở vào cuối mùa thu năm ngoái. Điều gì sẽ xảy ra nếu Nút Áo cũng qua đời và ai sẽ là người nuôi con thay cô đây? Cô muốn tự mình ôm lấy con. Cô đã dành vô số đêm băn khoăn về những gì có thể làm để trốn thoát cùng với đứa con của mình. Nhưng kể cả khi tìm được cách trốn ra khỏi cánh cổng trại, cô sẽ đi đâu đây? Làm thế nào cô có thể tự chăm sóc cho bản thân và đứa bé? Đó dường như là điều không thể. Moses* Bechtol xoa hai tay vào nhau khi đến gần bục giảng. Mọi người im lặng khi trưởng nhóm bắt đầu bài giảng của mình, một cơn sấm chớp rền vang rung chuyển những ô cửa sổ. Nút Áo co rúm người lại và nhắm mắt. Người đàn ông đó không có dáng vẻ thần thánh như anh ta nghĩ, còn Nút Áo thì ngày càng chán nghe những gì anh ta nói. Chẳng lẽ cô là người duy nhất nhìn thấu vẻ ngoài giả dối của anh ta? Đã đôi lần cô cố nói chuyện với mẹ. Nhưng bà yêu quý gã đàn ông đó. Có lẽ còn hơn cả tình cảm mà bà dành cho người chồng của mình. Nút Áo tỉnh ra từ sáu tháng trước, sau khi chiêu mộ được hai cô gái ở thị trấn gần đó. Hai người này đã mang theo vài cuốn sách, và cô đã hoàn toàn bị hấp dẫn bởi cuốn Nhật Ký Công Chúa. Cuốn sách mở ra một thế giới hoàn toàn khác với thế giới mà cô đang sống. Sự lơ đãng của Nút Áo bị cắt ngang bởi cơn đau đang lớn dần trong bụng. Cô nén tiếng rên rỉ và lau mồ hôi túa ra trên trán. Những bức tường dường như đang đổ sụp về phía cô, bụng cô sôi réo. Cô phải ra khỏi đây. Cô muốn mẹ ở bên, nhưng lại không dám thu hút sự chú ý của mẹ. Cô lẻn ra cánh cửa sau cũ kỹ và hòa mình vào bầu không khí mát lạnh của Michigan. Những chiếc lá khô còn sót lại của mùa thu năm ngoái lướt nhanh qua tàn tích của trận bão tuyết mùa xuân. Hơi lạnh trên gò má giải thoát cô khỏi sức nóng đang sôi sục trên da thịt. Nút Áo cúi mình xuống, lảo đảo đi về phía căn nhà gỗ được chỉ định. Có khoảng hai mươi căn nhà gỗ và lều nằm lộn xộn xung quanh nhà thờ, căn của cô nằm ở phía tây. Cơn đau bóp nghẹt lưng cô giảm đi đôi chút, Nút Áo càng trở nên vội vã hơn. Cô dò dẫm tìm tay nắm cửa, và gần như ngã vào trong khi một cơn đau khác ập đến. Chất lỏng đọng lại dưới chân cô. Cô đang chết ư? Cô thở hổn hển khi cơn đau lan dần từ lưng xuống bụng. Hôm nay đứa bé sẽ chào đời. Cô mò đường đến chiếc cũi cứng trong phòng ngủ và ngã vào đó. Cô mất nhận thức về thời gian khi đau đớn dồn từng cơn. Có lẽ là hàng tiếng sau đó, cô mới cảm nhận được một bàn tay rắn chắc đặt lên trán và nhìn thấy gương mặt của mẹ mình. “Đứa bé,” Nút Áo thì thào qua đôi môi khô khốc. “Đúng thế, gần chào đời rồi.” Mẹ cô nhúng khăn vào thau nước và lau trán cho cô. “Con đang làm tốt lắm, con yêu. Mẹ đã báo cho Moses rồi.” Cô không muốn cha đứa trẻ đến đây chút nào. Cô thậm chí còn chưa từng nhìn rõ mặt anh ta. Cha mẹ đã hứa hôn cô cho người đó khi cô mới mười hai tuổi. Một năm trước, khi cô mười bốn, Moses đã buộc tay họ vào nhau. Anh ta đến với cô hai lần trước khi cô cảm thấy bản thân mình ngày càng nặng nề, và thời điểm này anh ta sẽ không còn cảm thấy thoải mái chút nào. Cô bám lấy tay mẹ. “Mẹ ơi, con đau quá! Con sợ. Con muốn đến bệnh viện.” “Mẹ biết là đau, con yêu.” Mẹ dỗ dành cô bằng bàn tay điềm tĩnh đặt lên trán. “Hít thở đều là cơn đau sẽ qua. Mẹ sẽ đỡ đẻ ngay cho con.” Thế giới xung quanh cô thu hẹp lại chỉ còn gian phòng nhỏ này, còn cơn đau thì xóa nhòa mọi thứ. Sau khoảng thời gian tưởng chừng như vô tận, tiếng khóc mỏng manh báo hiệu sự ra đời của một sinh linh cất lên. Nút Áo chẳng còn đủ sức để hỏi giới tính của đứa bé được nữa. “Một bé trai!” Mẹ Nút Áo đặt đứa bé lên ngực cô. “Khá bụ bẫm. Nghe tiếng khóc mà xem. Thằng bé đòi ăn đấy.” Nút Áo đã chứng kiến thủ tục này rất nhiều lần trong suốt những năm ở cùng cộng đồng, nhưng mẹ phải giúp thì cô mới giữ chắc con được. Cô đưa tay vuốt mái tóc đen của con. “Thằng bé kháu khỉnh quá!” Đứa trẻ có nước da đỏ hồng. Cô đưa tay lướt dọc theo cánh tay thằng bé. Mềm mại quá! Tình yêu ngập tràn và mãnh liệt dành cho con trai khiến chính cô cũng phải kinh ngạc. Cô nhắm mắt lại, hít vào mùi hương của con trong khi mẹ cô chụp vài tấm bằng máy ảnh lấy ngay. Sẽ phải có cách nào đó để thằng bé được hưởng nhiều hơn những gì cô có trong cộng đồng này. Nút Áo không để ý rằng mẹ mình đã để đứa bé vào một chiếc hộp nhỏ được chuẩn bị sẵn và cô cứ thế chìm vào giấc ngủ. Bị tiếng ồn bên ngoài đánh thức, cô bật dậy. “Mẹ ơi?” Không ai trả lời. Cô ngửi thấy mùi khói và nghe thấy những tiếng hét bên ngoài căn nhà gỗ. Có nhiều tiếng ồn hơn trước. Tiếng súng ư? Chẳng lẽ họ bị tấn công? Moses từng cảnh báo chuyện này có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Cô lăn khỏi giường và lao tới để bế đứa bé ra khỏi hộp, nhưng thằng bé không có ở đó. Có lẽ mẹ đã đưa con cô đi tắm, hoặc tới chỗ cha và Moses. Cô mệt lả vì thử thách ban nãy, giờ lảo đảo bước ra khỏi phòng ngủ để đi đến phòng khách. Làn khói len lỏi qua khe gỗ và ngọn lửa liếm lấy khung cửa. “Mẹ ơi?” Con của cô đâu rồi? Cô điên cuồng nhìn khắp căn nhà nhỏ, nhưng chẳng hề thấy bóng dáng con trai hay mẹ mình. Khói đã đốt cháy cổ họng và đang len dần xuống phổi. Cô ho sù sụ, tránh xa khỏi ngọn lửa bùng lên nơi vách tưởng trước của căn nhà và lê bước ra cửa sổ. Cô phải ra khỏi đây. Tấm kính cửa sổ vỡ tan sau lưng cô, ngọn lửa bùng lên nhờ luồng không khí mát lành tràn đến. “Nút Áo!” Cô quay về hướng phát ra giọng nói của cha. Ông đã đập vỡ cửa sổ và đang đưa tay ra. “Nhanh lên, không có nhiều thời gian đâu.” Cô lao đến, cha đỡ cô trèo ra ngoài hít thở không khí trong lành. “Con của con. Mẹ và con của con đâu?” “Đi theo cha.” Cha dùng tay nhấc cô lên và bế cô đi qua làn khói dày. Lửa bùng lên từ những căn nhà xung quanh, mùi khói cay sè khiến cô bật ho. Những tiếng la hét và tiếng súng vang lên khắp nơi. Một viên đạn rít qua đầu cô, khiến cô sợ hãi vùi mặt vào ngực cha. Chuyện gì đang xảy ra vậy? Cha cô đi tới bên chiếc xe Jeep cũ màu xanh lá đã móp méo với gần ba mươi năm tuổi đời. Ông đặt cô xuống cạnh cửa bên và mở nó ra. “Vào trong đi.” Cô lắc đầu quầy quậy. “Không! Con phải tìm con con. Và cả mẹ nữa!” “Mẹ con không chịu đi. Bà ấy ở lại với Moses.” Đôi mắt của Nút Áo mở to đây kinh hoàng. “Mẹ đưa con của con đi ư? Mẹ không thể giữ nó ở đây được. Nó là con của con!” Cha nhìn xuống đất. “Con yêu, đứa bé chết rồi. Chúng ta phải rời khỏi đây, nếu không tất cả sẽ phải ngồi tù. Con phải vào xe ngay.” Giọng cha mềm mỏng. Chết? Đứa con nhỏ bé hoàn hảo của cô đã chết rồi ư? “Con không tin,” cô thì thào. Cha nhìn thẳng vào mắt cô. “Chính mắt cha đã thấy đứa bé. Thằng bé tím tái và lạnh ngắt. Mẹ con đưa cha bức ảnh này để con có thể nhớ về thằng bé.” Cha dúi một tấm ảnh chụp lấy ngay vào tay cô. Mắt cô ướt nhòe. Cô gần như bất tỉnh khi ngã vào trong chiếc Jeep, được cha mình lái xe đưa qua hỏa ngục để tìm về chốn an toàn. Mời các bạn mượn đọc sách Một Lời Nói Dối của tác giả Colleen Coble & Nguyễn Hải An (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Vòng Tròn Máu
VÒNG TRÒN MÁU - TỔ CHỨC TỘI PHẠM CÓ THỂ KHIẾN CẢ LONDON PHẢI QUỲ XUỐNG. Triệu phú James Beaardmore nhận được thư tống tiền từ VÒNG TRÒN MÁU nhưng ông vẫn cương quyết không chịu nhượng bộ, dù đó là "lời cảnh cáo cuối cùng". Ngày hôm sau, James Beaardmore bị sát hại ngay sau nhà. Bầu không khí hoang mang bao trùm khắp nước Anh, khi ngày càng có nhiều người thuộc tầng lớp thượng lưu giàu có lần lượt nhận được những lá thư đóng dấu tròn đỏ với cùng một yêu cầu: NỘP NGƯỜI HAY NỘP MẠNG. Cảnh sát bắt đầu vào cuộc điều tra, tìm ra manh mối của VÒNG TRÒN MÁU. Liệu trí tuệ của thám tử Yale cùng mưu lước của thanh tra Parr có thể lật tẩy được bí mật của tổ chức tội phạm này, vạch  mặt kẻ cầm đầu tổ chức này? Ai dối trá, ai phản bội? Ai là kẻ chủ mưu đích thực. Tác giả Edgar Wallace: Edgar Wallace là một trong những nhà văn trinh thám thành công nhất trong suốt 30 năm đầu thế kỷ XX với 18 kịch bản sân khấu, 957 truyện ngắn và 170 tiểu thuyết cùng nhiều tác phẩm khác. Đã từng có thời điểm, tổng số bản in các đầu sách của ông chiếm 1/4 thị trường sách tại Anh.160 bộ  phim  đã  được  chuyển  thể  dựa  theo  các  tác  phẩm  của Wallace. Wallace là tiểu thuyết gia tội phạm đầu tiên của Anh lấy cảnh sát làm nhân vật chính của mình, chứ không phải là thám tử nghiệp dư như hầu hết các nhà văn khác thời bấy giờ. Hầu hết các tiểu thuyết của ông là những câu chuyện độc lập độc lập, với cốt truyện chặt chẽ. Vòng Tròn Máu là tiểu thuyết trinh thám nổi tiếng bậc nhất của Wallace và đã 4 lần được dựng thành phim. Trích dẫn hay trong truyện: "Mười một năm sau, cái đinh ấy sẽ khiến vô số người mất mạng" "Ông có hàng trăm chiến hữu, tất đều không và sẽ không biết ông là ai". "Những người đàn ông mạnh mẽ hơn rất nhiều cũng đã từng phải run sợ trước sự đe dọa của Vòng Tròn Máu". *** “Vòng tròn máu” - cuốn sách của “thiên tài bị lãng quên” “Vòng tròn máu” là tiểu thuyết trinh thám nổi tiếng bậc nhất của Edgar Wallace và đã 4 lần được dựng thành phim. Sách được Phuc Minh Books liên kết với Nhà xuất bản Văn học ấn hành tháng 6/2019. Edgar Wallace được biết đến là cha đẻ của hình tượng nhân vật King Kong, là một trong những nhà văn trinh thám thành công nhất trong suốt 30 năm đầu thế kỷ XX với 18 kịch bản sân khấu, 957 truyện ngắn và 170 tiểu thuyết cùng nhiều tác phẩm khác. Đã từng có thời điểm, tổng số bản in các  đầu sách của ông chiếm 1/4 thị trường sách tại Anh 160 bộ phim đã được chuyển thể dựa theo các tác phẩm của Wallace. Cuộc đời của Wallace vẫn là một huyền thoại không chỉ trong văn học mà trong cả điện ảnh. Các tác phẩm văn học của ông đã được xuất bản với hơn 200 triệu bản trên thế giới - trở thành tác giả có số lượng sách bán ra nhiều nhất trên thế giới. Các nhà nghiên cứu đánh giá Wallace là nhà văn tội phạm đầu tiên xuất thân từ tầng lớp lao động. Người ta thường nói về các tác phẩm của ông trên khắp thế giới nhưng cái tên Edgar Wallace lại khá mờ nhạt và không mấy ai nhớ về nó. Và đó cũng chính là lý do mà ông được gọi với biệt danh: Thiên tài bị lãng quên. Vòng tròn máu là một trong những tiểu thuyết xuất sắc làm nên tên tuổi của Edgar Wallace. Xuất bản năm 1922, ngay lập tức tiểu thuyết trinh thám “Vòng tròn máu” đã tạo nên tiếng vang lớn tại Châu Âu, mở đường cho tác giả của nó - nhà văn Edgar Wallace, trở thành một trong những tác giả có số lượng ấn phẩm được bán nhiều nhất trên thế giới, với hơn 200 triệu bản. Truyện mở ra bằng một lời nguyền: “Với những tên tội phạm bị kết án tử hình, khi lên máy chém, nếu ba lần mà vẫn thất bại thì nghĩa là hắn đã được ông trời thương xót và sẽ không bị thi hành án nữa”. Vào ngày hôm đó, một tên tội phạm nguy hiểm đã được miễn án tử chỉ vì sai sót của một chiếc đinh đóng nhầm lên máy chém. Từ đó, khởi nguồn cho một tội ác làm chấn động cả thành London trong 11 năm sau. Tổ chức “Vòng tròn máu”, nơi quy tụ những tên tội phạm khiến cả London phải quỳ xuống. Bắt cóc, tống tiến, giết người... không có tội ác mà “Vòng tròn máu” lại không nhúng tay vào. Những nạn nhân của Vòng tròn máu khi nhận được tối hậu thư với vòng tròn đỏ thẫm: “Nộp tiền hay nộp mạng” đều run sợ. Không có thất bại, không có thương xót, “Vòng tròn máu” là nỗi ám ảnh của các thương nhân giàu có và những người có địa vị ở Anh lúc bấy giờ. Không có người đàn ông nào dù mạnh mẽ đến mấy mà lại không quỳ rạp trước sức mạnh của tổ chức này. James Beardmore, một thương nhân giàu có nhận được bức thư từ tổ chức “Vòng tròn máu” với lời cảnh báo: Đây là cơ hội cuối cùng, hãy giao nộp 100 nghìn bảng hoặc sẽ bị mất mạng. Beardmore đã bỏ ngoài tai và ngày hôm sau ông ta bị bắn chết khi đang đi dạo ở gần nhà mình. Cảnh sát vào cuộc điều tra, từ đó hé lộ những manh mối về tổ chức “Bất khả xâm phạm” “Vòng tròn máu”. Ai là kẻ chủ mưu đứng đằng sau băng nhóm tội phạm này? Bên cạnh yếu tố li kì, hấp dẫn, với nhịp chuyện dồn dập, như soi chiếu từng khung hình của điện ảnh, “Vòng tròn máu” còn thu hút độc giả bởi cách xây dựng nhân vật. Wallace đã xây dựng một hệ thống nhân vật với cá tính riêng chỉ qua một vài chi tiết, hành động mà không sa đà quá vào cá nhân dẫn tới xao lãng mạch phá án chính. Trong “Vòng tròn máu”, Wallace đã xây dựng được một tổ chức tội phạm mang tính chất đặc trưng. Tổ chức này hoạt động vô cùng chặt chẽ và táo bạo. Mỗi người khi đến với tổ chức này đều có số phận, thân phận, cá tính riêng. Đặc biệt hình tượng nhân vật bí ẩn đứng đằng sau khiến người đọc vô cùng tò mò. Hắn là ai? Vì sao hắn lại có “quyền lực” mạnh mẽ đến như vậy? Tất cả những điều này bạn đọc sẽ được trải nghiệm qua từng trang sách, và hấp dẫn tới những dòng cuối cùng. Bảo Châu Review *** Nhờ một cái đinh mà một tên tử tù thoát chết và bị đày ra đảo. Hắn trốn thoát khỏi đó và trở về Anh lập nên tổ chức “Vòng tròn máu” chuyên đi tống tiền. Bầu không khí hoang mang bao trùm khắp nước Anh, ngày càng có nhiều người thuộc tầng lớp thượng lưu giàu có lần lượt nhận được những lá thư đóng dấu tròn đỏ với cùng một yêu cầu: NỘP TIỀN HAY NỘP MẠNG. Triệu phú James Beardmore nhận được thư tống tiền từ tổ chức Vòng tròn máu nhưng ông vẫn cương quyết không chịu nhượng bộ. Ngày hôm sau, James Beardmore bị sát hại ngay tại nhà. Nối tiếp sau đó, một vài nhân vật nữa bị tống tiền và cũng bị sát hại sau khi nhận được một lá thư tống tiền có đóng dấu tròn đỏ. Cảnh sát vào cuộc tiến hành điều tra. Dựa vào trí tuệ của thám tử Yale và sự mưu lược của thanh tra Parr, liệu có bảo vệ được những nạn nhân tiếp theo? Và bí mật về tổ chức này có bị lật mở? Ai là kẻ chủ mưu đích thực? Các sự kiện diễn ra liên tục cùng với tiết tấu truyện nhanh giúp cho cảm giác hồi hộp, gay cấn trong cuộc đối đầu giữa cảnh sát với trùm cuối của Vòng tròn máu. Những twist cũng làm nổi bật lên sự kịch tính trong cuộc đối đầu đó. Đặc biệt phần cuối, twist hay nhất trong cả câu chuyện, nó đánh lạc hướng hoàn toàn dẫn dắt từ ban đầu của tác giả. Tuy nhiên với mình ấn tượng nhất là nhân vật Thalia, cô có một vai trò đặc biệt quan trọng trong toàn bộ câu truyện. Và đối với những ai thích sự kịch tính trong các tình tiết thì nên đọc quyển này. Điểm: 8/10 Minh Sơn cùng với Nguyễn Thu Huyền *** Vòng tròn máu - Edgar WallaceVÒNG TRÒN MÁU – EDGAR WALLACE Bầu không khí hoang mang bao trùm khắp nước Anh, ngày càng có nhiều người thuộc tầng lớp thượng lưu giàu có lần lượt nhận được những lá thư đóng dấu tròn đỏ với cùng một yêu cầu: NỘP TIỀN HAY NỘP MẠNG. Những người cứng rắn không chịu nộp như triệu phú James Beaardmore đã phải chết thảm. Điều tra thấy có sự tham gia của nhiều cá nhân, nhưng họ đều không biết lẫn nhau và cả kẻ chủ mưu “Vòng tròn máu”. Thanh tra cảnh sát Parr và thám tử Yale liệu có vạch mặt được hắn? Truyện cho thấy vì sao Edgar Wallace được tôn vinh là King of Thriller thế kỷ 20. Tuy là trinh thám cổ điển nhưng có lối viết hiện đại, nhịp truyện nhanh. Chân tướng của “Vòng tròn máu” không quá khó đoán với độc giả tinh ý nhưng bù lại các sự kiện ly kì liên tục xuất hiện làm cuốn hút người đọc đến tận trang cuối cùng. Ngoài sự năng nổ của thanh tra Parr ra thì cô gái Thalia bí ẩn cũng được xây dựng khá thú vị. Truyện tuy gay cấn nhưng không lạm dụng bạo lực, vẫn có thoại nhẹ nhàng hài hước kiểu Anh. Thêm tí tình yêu lãng mạn, hợp để giải trí cuối tuần. Hy vọng sẽ còn thêm nhiều cuốn hay khác của Wallace được xuất bản. Chấm 7,75/10 Nam Do Mời các bạn mượn đọc sách Vòng Tròn Máu của tác giả Edgar Wallace & Anh Tuấn (dịch).
Phong Tỏa
LỜI NÓI ĐẦU Vào năm 2005, khi phát hiện rằng tôi không thể nào tìm được một nhà xuất bản cho The Blackhouse (tạm dịch Ngôi Nhà Đen), hoặc cho quyển truyện đầu tiên trong loạt truyện Enzo của mình, Extraordinary People (tạm dịch Người Phi Thường), tôi đã bắt đầu nghiên cứu về một quyển tiểu thuyết trinh thám lấy bối cảnh là trận đại dịch cúm gia cầm. Vào lúc bấy giờ, các nhà khoa học đã dự đoán rằng cúm gia cầm, hay H5N1, có nhiều khả năng trở thành trận đại dịch kế tiếp. Trận dịch Tây Ban Nha năm 1918 đã giết chết ở nhiều nơi trên khắp thế giới khoảng từ hai mươi đến năm mươi triệu người, và cúm gia cầm - với tỉ lệ tử vong khoảng sáu mươi phần trăm hay cao hơn - đã được dự báo vào lúc ấy là sẽ vượt qua con số trên với một khoảng cách đáng kể. Đã tìm hiểu kỹ về cúm Tây Ban Nha trong lúc viết Snakehead(tạm dịch Cá lóc), một đầu sách trong loạt truyện trinh thám lấy bối cảnh Trung Quốc của tôi, cúm là một chủ đề tôi đã thành thạo. Nhưng sự thành thạo đó chẳng chuẩn bị cho tôi điều gì từ những tìm hiểu của tôi liên quan đến H5N1, cũng như những nỗi kinh hoàng mà một trận đại dịch cúm gia cầm có thể bộc phát trên thế giới. Tôi bắt đầu nghiên cứu cẩn thận về những hỗn loạn mà nó sẽ có thể gây ra, và xã hội như ta đang thấy có thể bị tan rã nhanh chóng đến mức nào. Tôi chọn London làm bối cảnh cho truyện của mình, nơi bắt đầu bùng phát cơn đại dịch, một thành phố bị phong tỏa hoàn toàn. Trên nền của bối cảnh đó, những mẩu xương của một đứa trẻ bị sát hại đã được phát hiện tại một công trường nơi các công nhân đang hối hả xây dựng một bệnh viện dã chiến. Viên thám tử (quen thuộc) của tôi, Jack MacNeil, được yêu cầu điều tra, ngay cả khi chính gia đình anh ta đã bị nhiễm virus. Suốt sáu tuần lễ ngắn ngủi miệt mài làm việc cả đêm, tôi đã viết xong quyển Phong tỏa. Quyển sách không hề được xuất bản. Các biên tập viên Anh Quốc trong thời điểm đó nghĩ rằng những điều mô tả của tôi về thành phố London bị vây hãm bởi kẻ thù vô hình H5N1 là không thực tế và chẳng bao giờ có thể xảy ra - bất kể thực tế là tất cả những nghiên cứu của tôi chỉ ra rằng điều đó hoàn toàn có thể. Thế rồi một nhà xuất bản Hoa Kỳ mua loạt truyện Enzo, và những truyện trinh thám về Trung Quốc của tôi lần đầu tiên được xuất bản ở Hợp chủng quốc. Sự tập trung của tôi chuyển sang bờ bên kia Đại Tây Dương, Phong tỏa đã được ký thác vào một thư mục trong tài khoản dịch vụ lưu trữ trực tuyến Dropbox của tôi, nơi tác phẩm vẫn còn đấy, đến tận bấy giờ. Khi viết những dòng chữ này, tôi đang ngồi bó gối tại nhà ở Pháp, bị cấm ra khỏi nhà trừ những trường hợp đặc biệt. Một con coronavirus mới, Covid-19, đang tàn phá thế giới này, và xã hội như ta biết đang nhanh chóng thay đổi. Ngay cả với một tỷ lệ tử vong chỉ là một phần của cúm gia cầm, các chính trị gia đang phải chiến đấu để kiểm soát sự hỗn loạn và sự hoảng hốt mà Covid-19 đang truyền đi trên toàn thế giới. Sự tương đồng với Phong tỏa thật đáng sợ. Vì vậy dường như đây là dịp mở lại thư mục Dropbox đầy bụi bặm và khai thác bản thảo cũ kỹ kia để chia sẻ với bạn đọc của tôi - dù chỉ để khiến tất cả chúng ta nhận ra thực sự mọi chuyện có thể tồi tệ đến mức nào. Peter May Pháp, 2020 *** Phong tỏa (tựa tiếng Anh: Lockdown) - tiểu thuyết vừa ra mắt bạn đọc VN của nhà văn trinh thám nổi tiếng Peter May. Cuốn sách không chỉ hấp dẫn bởi sự hồi hộp, phức tạp, nghẹt thở, mà còn 'nóng' bởi sự tương đồng đáng ngạc nhiên với câu chuyện dịch bệnh của thế kỷ. Hai chữ Phong tỏa có lẽ là từ khóa được quan tâm nhiều nhất trong hơn 1 năm qua, kể từ khi đại dịch Covid-19 xuất hiện từ Vũ Hán (Trung Quốc) và sau đó liên tiếp là những thành phố, những đất nước, những châu lục, cả thế giới xáo trộn, chia cắt, giãn cách, phong tỏa bởi Coronavirus. Thế nhưng, điều đáng ngạc nhiên là cuốn sách này được tác giả - nhà báo, biên kịch truyền hình, tiểu thuyết gia Peter May (sinh năm 1951 tại Glasgow, Scotland) viết nên từ năm 2005. Khởi nguồn từ hiện thực lúc bấy giờ là dịch cúm gia cầm, H5N1, có khả năng trở thành đại dịch, Peter May đã viết cuốn tiểu thuyết Phong tỏa (Lockdown) trong 6 tuần lễ, lấy London làm bối cảnh câu chuyện, nơi dịch bùng phát và thành phố bị phong tỏa hoàn toàn. Một bệnh viện dã chiến được hối hả xây dựng, và các công nhân phát hiện ra chiếc ba lô đựng xương người trước khi họ đổ bê tông lấp đầy nó như chôn vùi “giúp” một bí mật khủng khiếp. Cuộc điều tra được mở ra với viên thám tử MacNeil. Câu chuyện diễn tiến đầy hồi hộp, khi MacNeil cùng những cộng sự của anh, trong đó có Amy - nhà nhân chủng học tài giỏi bị khuyết tật sau một tai nạn giao thông, cũng là người tình của MacNeil; và sau này là bà Tiến sĩ Castelli, cùng đi sâu tìm hiểu vụ án. MacNeil cũng chính là nạn nhân khi con trai anh bị dịch cúm cướp mất sinh mạng. Amy đã dựng lên từ bộ xương chân dung bé gái Choy người Trung Quốc bị sát hại; trong khi cuộc điều tra liên tục bị theo dõi bởi Pinker, một tay thiện xạ, một kẻ bệnh hoạn, tay sai của những thế lực trong bóng tối... “Cơn bệnh diễn tiến thật nhanh thành ra một tình trạng suy giảm chức năng hô hấp với sự tiến triển không thể thay đổi được, được gọi là Adult, hay Hội chứng Suy giảm Hô hấp cấp tính”, “Bên kia căn phòng có tiếng hắt hơi khiến tất cả những cái đầu đều hướng về phía Zoe. Trong những ngày này, mọi người đều quá nhạy cảm ngay cả với tiếng sụt sịt nhẹ nhất”, “Chắc chắn một trăm phần trăm rằng đứa bé đã bị nhiễm một thứ vi-rút được biến đổi gien mạnh mẽ nhất”… Những câu văn trong Phong tỏa không khỏi khiến người đọc liên tưởng, rùng mình vì quá tương đồng với hiện thực chúng ta đang sống, khi cả thế giới đang phải gồng mình chống chọi với dịch Covid-19. Những nút thắt của câu chuyện dịch bệnh, trong đó có đan cài câu chuyện tình yêu của viên thanh tra với nữ nhân chủng học Amy được nhà văn đưa ra và giải quyết bằng sự tháo gỡ tài tình là điểm cuốn hút của tác phẩm. Peter May nổi danh là tiểu thuyết gia trinh thám với các tác phẩm đoạt nhiều giải thưởng ở nhiều quốc gia (Giải Barry Arwards của Mỹ cho tiểu thuyết trinh thám hay trong năm; Giải văn học quốc gia của Pháp CEZAM Prix Litteraire; giải ITV Crime Thriller Book Club Best Read of the Year của Anh…). Nhưng điều hấp dẫn của Phong tỏa không chỉ là ở tính trinh thám hồi hộp với từng chi tiết như một cuốn phim nghẹt thở diễn ra trước mắt chúng ta, mà chính là tính dự báo, linh cảm về đại dịch của thế giới. Những vấn đề nóng từ cuộc cạnh tranh lợi nhuận, khi những tiến sĩ hóa - sinh siêu việt, khi sự phát triển của y học - dược phẩm lại dẫn đến tội ác tàn phá, hủy diệt chính con người khiến bạn đọc suy tư. Cái chết của Tiến sĩ Roger Blume - người đứng đầu Lực lượng Đặc nhiệm Đại dịch FluKill của Stein-Frankcks, cũng là kẻ chủ mưu tội ác, là chiến thắng của cái thiện với cái ác, của chính nghĩa với phi nghĩa, của con người tiến bộ với những kẻ mang danh khoa học mà chống lại loài người. Những điều này khiến cuốn tiểu thuyết có độ sâu sắc, chinh phục bạn đọc. Được biết, tiểu thuyết Phong tỏa không được xuất bản vào năm nó ra đời - 2005, vì bị cho là bối cảnh “phi hiện thực”. Mãi đến năm 2020, khi nhà văn Peter May “ngồi bó gối tại nhà ở Pháp, bị cấm ra khỏi nhà trừ những trường hợp đặc biệt. Một con coronavirus mới, Covid-19, đang tàn phá thế giới này”, cuốn sách mới được chấp nhận, ra mắt độc giả. Trong Lời nói đầu, tác giả tự nhận xét “Sự tương đồng (bối cảnh tiểu thuyết - NV) với Phong tỏa thật đáng sợ”. Và từ nỗi sợ ấy, thông điệp mà tác phẩm đưa ra là sự cảnh báo con người hiện đại trong bước phát triển quá nhanh của thế kỷ 21 này, lại càng thấm thía hơn bao giờ. Chúng ta luôn cần những cuộc đấu tranh phân định trắng - đen, những việc làm đề cao giá trị đạo đức, nhân văn; và cả thái độ không khoan nhượng với cái ác, với những gì dẫn con người đến sự diệt vong. *** Dẫn truyện Tiếng thét của cô vang vọng khắp vùng bóng tối sau khi khó khăn lắm nó mới bật ra được khỏi cái cuống họng đã bị co thắt lại vì sợ hãi. Tiếng thét ấy, run rẩy theo nỗi kinh hoàng mà chính cô cảm nhận được, đủ làm cho lông tóc dựng ngược trên cánh tay hay vai gáy của bất kỳ người nào biết nghĩ đến người khác. Thế nhưng những bức tường dày của ngôi nhà cổ này bao bọc lấy nhau quanh nỗi sợ hãi của màn đêm để bảo đảm rằng chỉ những cái tai đã điếc trước cảnh ngộ của cô mới nghe được tiếng thét ấy. Y nguyền rủa, rít lên và khạc nhổ trong bóng tối, giận dữ và thất vọng. Cô có thể nghe tiếng y trên những bậc thang và biết rằng y muốn làm hại cô. Người đàn ông mà cô đã biết rõ và đã tin tưởng, kể cả đã thương yêu. Cô chìm vào trong sự mơ hồ của chính mình. Làm sao mà điều đó có thể xảy ra được? Cô nhớ lại sự đụng chạm nhạt nhẽo khi bàn tay y đặt lên vầng trán nóng bỏng của cô suốt những ngày dài bị hành hạ bởi cơn bệnh. Trong ánh mắt của y cũng có chút thương hại. Nhưng ánh mắt ấy giờ đây cháy bỏng sự giận dữ và hiểm độc. Cô nín thở. Y đã leo lên một cầu thang khác. Y nghĩ cô vẫn còn trên tầng thượng và cô lén rời khỏi phòng đọc sách để thấy được cái bóng của y trên các bậc thang khi y tiến lên đến tầng áp mái. Thế rồi cô quay lại và vội vàng đi xuống, đôi chân nhỏ nhắn rón rén bước trên tấm thảm dày tới chỗ ánh sáng lọt qua cửa sổ lắp kính màu chiếu xuống sàn của gian phòng chính. Những ngón tay tuyệt vọng nắm lấy và xoay tay nắm cửa. Nhưng cửa ra vào đã bị khóa. Không có lối thoát. Cô lạnh cóng cả người khi nghe tiếng y gầm rống từ trên tầng thượng của tòa nhà. Y biết rằng y đã mất cô. Trong một khoảnh khắc, cô ngần ngừ. Những bậc đá đi xuống tầng hầm bắt đầu từ phòng tắm bên dưới cầu thang. Nhưng cô biết nếu đi xuống đấy thì cô sẽ bị mắc kẹt. Ở đó chỉ có một cái máng trượt cũ kỹ dùng để chuyển than dẫn đến một khoảng hành lang giữa những căn nhà; và mặc dù có thân hình nhỏ nhắn, cô cũng không đủ nhỏ bé để lách người qua khoảng trống ấy. Cả tòa nhà rung chuyển với những bước chân của y trên các bậc thang và cô quay lại trong hoảng loạn chỉ để thấy rằng mình phải đương đầu với một bé gái. Một con ma trong một bộ váy ngủ màu trắng mái tóc đen cắt ngắn, cặp mắt hình trái hạnh đào mở to và đen nhánh, gương mặt bệt phấn. Hình ảnh của đứa trẻ gây nên nỗi sợ hãi xuyên qua người cô như những lưỡi nhọn của con dao vẫn chờ đợi cô, trước khi cô nhận ra rằng chẳng qua đó là cô đang phản ứng với sự suy nghĩ của chính mình mà thôi. Sự sợ hãi đã làm cho cô không thể nhận biết đúng sự vật. “Choy!”, cô nghe y gầm lên trong khu vực cầu thang, và chợt nhớ đến người phụ nữ đầu tiên đã hướng dẫn y và cô đi thăm toàn bộ ngôi nhà này vài tháng trước. Bảng điều khiển đặt âm tường của phòng ăn rộng lớn ở ngay trước mặt. Một căn phòng mà họ chưa hề sử dụng. Một căn phòng luôn sôi sục trong một bóng tối ngột ngạt, ánh mặt trời lúc ban ngày và những ngọn đèn lần lượt chiếu qua những vết tưa ra quanh mép những bức rèm. Nhân viên hãng bất động sản đã dời chỗ một chiếc bàn nhỏ để dỡ bỏ bảng điều khiển và để lộ một cửa ra vào nằm phía sau. Một cánh cửa cũ kỹ sơn trắng với cái tay nắm tròn mà cô đã mở vào vùng bóng tối phía bên kia. Vùng bóng tối ẩm ướt, lạnh lẽo, bụi bặm của một căn phòng gạch nhỏ, nơi từng có một gia đình gồm sáu người đã thu mình trong màn đen để trốn tránh những cuộc thả bom. Choy không hình dung được bà chủ nhà có ý nói về điều gì khi bà dùng từ “blitz” nhưng cô đã được nghe nói rằng khi những chiếc máy bay thả bom của Đức hoàn tất cuộc tấn công London, chúng chuyển hướng bay về phía Nam và trút tất cả lượng bom dư trong khoang tàu xuống khu vực bất hạnh này. Rồi khi còi báo động vang lên, dân chúng nhốn nháo như bầy chuột chạy vội vào “những chiếc bẫy chuột bằng gạch” của họ để nghe ngóng, để thấp thỏm chờ đợi và để cầu nguyện trong tăm tối. Choy lại nghe y gào thét gọi tên cô lần nữa, hệt như tiếng còi báo động của hơn nửa thế kỷ trước, tiếng thét khiến cô nháo nhác chạy vội vào căn phòng phía trước. Vội vàng, cô đẩy trượt chiếc bàn nhỏ qua một bên và dò dẫm để tháo bớt những vật ẩn giấu trên tấm bảng điều khiển màu xanh sẫm. Tấm bảng quá nặng, đôi bàn tay nhỏ bé của cô phải vật lộn để nậy cho nó rời ra. Cô có thể nghe thấy tiếng y trên đầu cầu thang tầng trên, thế rồi có tiếng bước chân của y trong phòng ngủ chính ở ngay phía trên. Cô kéo lệch tấm bảng điều khiển qua một bên rồi đẩy mạnh cánh cửa. Nó mở vào một vùng tối om om, một luồng không khí lạnh lẽo và ẩm thấp bao bọc khắp người cô. Cô bước hẳn vào bên trong rồi kéo tấm bảng điều khiển trở về chỗ cũ. Từ phía trong, cô không thể nào gắn chặt nó lại mà chỉ cầu nguyện để y đừng phát giác. Cô đóng cửa lại, mọi ánh sáng đều tắt ngấm. Cô ngồi xổm trên mặt đất rồi vòng cả hai tay ôm lấy đầu gối cho có chút hơi ấm. Chung quanh cô thật lạnh, thật tối tăm và thật cùng quẫn. Không hề có lối thoát. Cô không thể tưởng tượng làm thế nào mà sáu con người có thể ép chặt vào nhau trong khoảng không gian này. Thật là vượt ngoài sức tưởng tượng điên rồ nhất của cô để biết người ta có cảm giác như thế nào khi nghe tiếng bom rơi khắp chung quanh rồi tự hỏi liệu mình có phải là người kế tiếp hay không. Thế nhưng cô không cần tưởng tượng để hình dung về người đàn ông mà giờ đây cô đang nghe tiếng bước chân trên những bậc thang hay ánh sáng lấp lánh trên lưỡi dao mà cô biết chắc y đang mang theo. Nhà nuôi trẻ mồ côi ở Quảng Đông là một ký ức xa vời, đứa trẻ lúc ấy là cô, một con người khác trong một cuộc đời khác. Chỉ trong sáu tháng mà quá nhiều điều đã thay đổi, thế nhưng dường như vẫn có một điều gì đó vĩnh cửu, và cuộc đời khác kia chẳng qua chỉ là cái bóng của một giấc mộng. Cô thở hụt hơi, gấp gáp và ồn ào một cách bất thường. Nhưng hơn cả điều đó, cô có thể nghe thấy y đang có mặt ở sảnh trước. Những bước chân nặng nề trên sàn gỗ. Sự giận dữ trong giọng nói khi y gọi tên cô lần nữa. Rồi lại im lặng. Sự im lặng khiến từ khoảnh khắc này đến khoảnh khắc khác dường như kéo dài hàng nhiều giờ đồng hồ. Cô vội nín thở, càng lâu càng tốt, vì cô tin chắc rằng y sẽ nghe thấy, vẫn là sự im lặng. Thế rồi cô thở hổn hển khi nghe tiếng vỡ của tấm bảng điều khiển ở mặt ngoài của cánh cửa. Tim cô đập mạnh đến nỗi cô có cảm tưởng ai đang đấm vào ngực mình. Tay nắm cửa xoay. Cô ép sát người vào tường khi cánh cửa từ từ mở ra. Ánh sáng từ gian sảnh hắt bóng y lên khuôn cửa sau lưng y. Cô có thể thấy hơi thở của cô, đọng thành sương trong làn không khí lạnh, được rọi vào bởi cùng luồng ánh sáng ấy. Y từ từ cúi xuống rồi vươn tay về phía cô. Cô không thể nhìn thấy mặt y nhưng có thể nghe được tiếng cười mỉm của y. “Hãy lại đây với ba nào”, y dịu dàng lên tiếng. Mời các bạn mượn đọc sách Phong Tỏa của tác giả Peter May & Nguyễn Văn Nhật (dịch) & Nguyễn Thuần Phác (dịch).
Buổi Tiệc Trà Kì Bí
Đầu năm mới, Kyoto khoác lên mình dáng vẻ vô cùng nhộn nhịp. Cô bé Mashiro Aoi đang làm thêm ở cửa hàng đồ cổ “Kura” trong khu phố Teramachi Sanjo cùng cháu trai ông chủ là Yagashira Kiyotaka được mời tới tham dự buổi “tiệc đọc sách” của tác giả thể loại văn học kì bí nổi tiếng, Aigasa Kurisu. Sự kiện ấy được tổ chức tại Sơn trang Yoshida vào buổi tối ngày Valentine. Trong buổi “tiệc đọc sách”, biên tập viên phụ trách và bạn bè thân thiết của Kurisu cũng được mời đến. Tại đó, em gái Kurisu đã yêu cầu Kiyotaka tìm ra thủ phạm định giết chị gái mình ba tháng trước… Đây là tập bốn của loạt tiểu thuyết kì bí thành công vang dội! * Holmes ở Kyoto là bộ tiểu thuyết kì bí nhẹ nhàng cực kì nổi tiếng, không chỉ tạo cơ hội cho độc giả làm quen với những nét đẹp văn hoá của mảnh đất Kyoto mà còn giới thiệu về muôn vàn món cổ vật nổi tiếng ở khắp nơi trên thế giới. Và rồi, mỗi món cổ vật đều cất giữ câu chuyện của riêng mình. *** Yagashira Kiyotaka: Hai mươi hai tuổi. Sinh viên cao học năm nhất Đại học Kyoto. Tên thường gọi là “Holmes”. Cháu trai ông chủ tiệm đổ cổ “Kura” toạ lạc ở Teramachi Sanjo, Kyoto. Cư xử dịu dàng và lịch lãm, nhưng lại sắc sảo đến đáng sợ. Đôi lúc thích bắt nạt người khác, một chàng trai Kyoto “nham hiểm”. Mashiro Aoi: Mười bảy tuổi. Học sinh lớp Mười Một. Chuyển từ thành phố Omiya tỉnh Saitama đến Kyoto sinh sống đã được bảy tháng. Từ một sự việc không lường trước mà bắt đầu làm thêm tại cửa tiệm “Kura”. Vẫn còn vương vấn người yêu cũ ở trường cấp ba ngày trước. *** #độc_giả_review_sách  [HOLMES Ở KYOTO - Mai Mochizuki]  Chắc hẳn khi đọc tiêu đề Holmes ở Kyoto, bất kì ai cũng sẽ liên tưởng tới thám tử Sherlock Holmes lừng danh. Cuốn sách này lại viết về anh chàng Yagashira Kiyotaka 20 tuổi, sinh viên năm nhất đại học Kyoto, có biệt danh là Holmes bởi “sự sắc sảo đến đáng sợ” của anh.  Cuốn sách được viết dựa trên lời kể của cô bé Mashiro Aoi, mười bảy tuổi, học sinh lớp Mười Một. Aoi đã bị Holmes nắm thóp từ lần đầu gặp mặt và tình cờ trở thành nhân viên giúp việc tại cửa hàng đồ cổ của gia đình anh. Từng câu chuyện khác mở ra, kéo theo sau những biến chuyển trong tình cảm của Aoi với sự dịu dàng, lịch lãm nhưng lại sắc sảo đến đáng sợ của Holmes. Những tưởng Holmes cũng là một người siêu phàm, thật bất ngờ khi Aoi khám phá ra được Holmes cũng là một người có quá khứ, giống như Aoi, cũng từng để mất người yêu vào tay của người khác… Điều mình cảm thấy cực kì thích ở cuốn sách này đó là cuốn sách mang đến cho người đọc những cảm nhận hết sức chân thật về văn hóa cũng như lịch sử của Nhật Bản. Bản thân mình là người rất thích đi du lịch, khi đọc cuốn sách mình cảm thấy như đang thật sự được trải nghiệm từng ngóc ngách và nét văn hóa của Nhật.  Cách sử dụng vốn từ trong cuốn sách khá là dung dị, đời thường, cộng thêm các câu chuyện đều rất thực tế, không đẫm máu, không chết chóc, không có những thủ đoạn giết người hay khủng bố như nhiều cuốn sách trinh thám khác, nên cuốn sách mang lại cảm giác dễ chịu gần gũi, đôi lúc khiến người đọc bật cười khi những suy nghĩ của mình bị bóc mẽ bởi lập luận cùng khả năng quan sát tinh tường của Holmes, từ đó mình có thể học hỏi và áp dụng trong cuộc sống hàng ngày. Đặc biệt hơn cả, cuốn sách lấy bối cảnh là ở Kyoto, xoay quanh cửa hàng đồ cổ Kura của nhà Holmes và những nhân vật hết sức nhã nhặn, lịch sự, có đam mê và sở thích rất tao nhã với nghệ thuật cổ, cộng thêm sự am hiểu văn hoá và lịch sử nước nhà của tác giả khiến cho mình có cảm giác rất thanh khiết khi đọc cuốn sách này.  Mình nghĩ đây sẽ là một cuốn sách rất phù hợp cho những ai đang chịu áp lực và muốn giải tỏa stress cũng như những bạn yêu thích Nhật Bản và thích đi du lịch Nhật Bản mà chưa có điều kiện đi như mình. - Review của bạn @Linh Phương *** Một nhành dương liễu được tô điểm bằng những chiếc bánh mochi hồng và trắng. Mỗi khi năm mới đến, người ta sẽ lại bắt gặp món đồ trang trí dễ thương này. Nếu tôi không nhầm thì mochibana-shidare[1] là tên gọi của nó. Đồ trang trí trong dịp Tết có rất nhiều loại, nhưng tôi thích nhất là mochibana-shidare. Tôi, Mashiro Aoi, đang ngồi trên một chuyến xe buýt chật ních người. Vừa lắc lư theo chiếc xe, tôi vừa nhìn ra ngoài cửa sổ và nhoẻn miệng cười. Mùng ba tháng Giêng. Cả Kyoto đang tràn ngập niềm vui đón năm mới. Khắp nơi được trang hoàng lộng lẫy với shime-kazari[2], nebiki-matsu[3], mochibana-shidare, và những chiếc quạt giấy mạ vàng. Già trẻ gái trai trong trang phục truyền thống đi lại trên đường đông như mắc cửi. Ngỡ là toàn bộ thành phố đang trong mùa lễ hội rộn ràng. Tôi dám chắc những người đang đi lại trên phố này đa phần là khách du lịch. Có lẽ họ đến từ các tỉnh thành khác, muốn được tận hưởng dịp Tết ở một nơi “đậm chất Nhật Bản” như Kyoto, nên mới tới đây thăm thú đền chùa và xin lộc đầu năm. Và biết đâu, người ngoài trông thấy tôi lúc này cũng sẽ tưởng tôi là khách du lịch. Nhìn bộ dạng của bản thân hiện tại, tôi bẽn lẽn thu mình. Chiếc xe vừa dừng lại trước toà thị chính, tôi đã hấp tập nhảy xuống. Từ đường Oike, tôi đi xuyên qua biển người để tìm đến phố mua sắm Teramachi, Khu phố thương mại lợp mái vòm hôm nay còn náo nhiệt hơn thường ngày. Phần lớn những cửa hàng được xây kề nhau trong khu phố đã bắt đầu mở cửa từ mùng hai; chỗ thì chuẩn bị sẵn túi may mắn[4] chỗ lại phát rượu khai vị đầu năm[5]. Tất cả đều chìm trong bầu không khí hân hoan vui vẻ. Phố mua sắm Teramachi lúc này tấp nập ngang ngửa dịp cuối năm, nhưng cảm giác bề bộn, hối hả khi ấy đã không còn. Dù tính ra cũng mới có vài ngày kể từ khi năm cũ khép lại. Tới tận ngày ba mươi mốt tháng Mười Hai, tôi vẫn còn làm thêm ở đây. Vậy mà kì lạ thay, chỉ cần “sang năm mới” là tôi đã có cảm tưởng như lâu lắm mới được đặt chân đến nơi này. Nhịp bước nhún nhảy của tôi liệu có phải do tâm trạng phấn chấn trong không khí Tết? Cuối cùng thì ngày làm việc đầu tiên trong năm cũng đã đến. Phải, tiệm đồ cổ “Kura” nơi tôi làm thêm sẽ chính thức hoạt động trở lại vào hôm nay, mùng ba tháng Một. Ông chủ tiệm là ông Yagashira Seiji đã đề xuất rằng, “Vào ngày làm việc đầu tiên, tất cả đều phải có mặt nghen,” cho nên kể cả đứa làm thêm như tôi cũng được gọi đến. Ngoài việc trong cửa hàng ra, tôi tự thấy mình chẳng giúp được gì nhiều. Ấy vậy mà ông chủ vẫn mời tôi đến dự buổi gặp mặt đầu năm, khiến tôi vô cùng hạnh phúc. Cảm giác như mọi người đã thật sự công nhận tôi là một phần của tiệm “Kura”. Tôi tự nhủ mình phải vững vàng lên, mắt nhìn thẳng về phía trước và bước đi mạnh mẽ. Chẳng mấy chốc, tấm biển của cửa hàng đồ cổ “Kura” đã hiện ra trong tầm mắt. Bề ngoài của nó vẫn như mọi khi, giống một quán cà phê hơn là tiệm đồ cổ. Tiệm “Kura” hôm nay cũng đã chuyển sang “chế độ mừng năm mới”, với mặt tiền được trang hoàng bởi kadomatsu[6], shime-kazari, và cả mochibana-shidare. “Cháu chào mọi người ạ.” Khi tôi đẩy cửa bước vào, tiếng chuông cửa quen thuộc lại reo lên leng keng. “Ồ, Aoi đó hả?” Người vừa cất giọng sang sảng và ngoảnh lại nhìn tôi là ông chủ cửa hàng này, ông Yagashira Seiji, năm nay bảy mươi bảy tuổi. Ông là một người chuyên giám định đồ cổ nổi tiếng mang danh hiệu “Chuyên gia giám định cấp quốc gia” được đông đảo cư dân ở vùng Kansai này biết đến. Thường ngày, ông chủ hay ăn vận theo phong cách kinagashi phóng khoáng, nhưng hôm nay đã đổi sang lễ phục đầy đủ quần hakama[7] và áo khoác haori[8] cho đúng tinh thần lễ tết, cảm giác trịnh trọng và uy nghiêm hơn bội phần. Đứng cạnh ông chủ là con trai ông, bác quản lí Takeshi. Gọi là quản lí nhưng nghề nghiệp chính của bác ấy là nhà văn, chuyên sáng tác tiểu thuyết lịch sử với bối cảnh thời phong kiến. Bác gắn liền với hình ảnh vừa trông cửa hàng vừa cặm cụi cày bản thảo ở “Kura”. Hôm nay bác mặc một bộ kimono màu chàm. Đứng bên còn lại của ông chủ là một chàng thanh niên cao ráo với gương mặt khôi ngô đang nhoẻn miệng cười dịu dàng. Đó là cháu nội kiêm đệ tử của ông, anh Kiyotaka, hay còn gọi là anh Holmes, một sinh viên cao học đang làm giám định viên tập sự. Anh là người có đầu óc nhạy bén, được đặt biệt danh là Holmes nhờ vào khả năng quan sát và mắt thẩm định tinh tường hiếm thấy, cùng cái họ “Yagashira”. Anh Holmes lúc này cũng đang khoác trên mình một bộ kimono giống ông chủ và bác quản lí, nhưng màu mực tàu. Ở phía sau lưng họ có một người phụ nữ xinh đẹp. Cô là Takiyama Yoshie, đang điều hành một công ty chuyên tư vấn tổ chức những sự kiện liên quan đến mĩ thuật, đồng thời cũng là bạn gái của ông chủ. Cô có ngoại hình hết sức trẻ trung, tưởng như mới ngoài ba mươi, nhưng thực ra là một mĩ nhân đứng tuổi đã ngoại tứ tuần. Bộ hōmongi[9] xanh lục sáng như màu cỏ non hôm nay hoà hợp với cô một cách hoàn hảo. Đúng vậy, hôm nay, ngày làm việc đầu tiên của năm đã được quy ước là ngày “mặc kimono đi làm” nên tất cả chúng tôi đều diện trang phục truyền thống. “Chúc mừng năm mới Aoi nhé.” Được mọi người đồng thanh gửi lời chúc, tôi rụt rè cúi đầu. “Ch-Chúc mừng năm mới cả nhà mình ạ. Dù đã biết hôm nay sẽ như thế, nhưng nhìn mọi người đồng loạt mặc kimono thế này vẫn làm cháu hơi choáng ngợp.” “Tết là mặc kimono”, rất đúng kiểu của “Kura”. “Vậy nhưng, ở đây chỉ có một mình anh là mặc kiểu kinagashi thôi này.” Kinagashi là cách mặc trang phục truyền thống giản lược, không cần áo khoác haori hay quần hakama mà chỉ có kimonothắt obi. “Em thấy anh mặc đẹp lắm ạ.” Tôi có cảm giác là kiểu mặc kinagashi thanh thoát, không cầu kì sẽ hợp với anh Holmes hơn lễ phục cứng nhắc với đầy đủ haori và hakama. Mái tóc đen nhánh kết hợp với bộ kimonomàu mực tàu làm nổi bật lên làn da trắng trẻo của anh ấy, trông thật là quyến rũ. “Cảm ơn Aoi. Bộ komon ấy cũng rất hợp với em,” anh Holmes mỉm cười đáp. “Công nhận, cháu đáng yêu lắm.” “Phải đấy, trông rất xinh.” Cô Yoshie và bác quản lí cũng chêm vào. “... Ch-Cháu cảm ơn ạ,” tôi xấu hổ lí nhí. Đúng vậy, hôm nay tôi cũng mặc kimono. Gọi vậy thôi chứ nó không phải furisode mà là komon, loại kimono với hoa văn nhỏ phủ khắp thân áo. Những đoá hoa phớt hồng rải rác trên nền vải màu kem. Obi cũng có màu hồng nhạt tương tự, mặt trước trông như một bông hoa to sắp nở, tổng thể nhìn chung là hết sức dễ thương. Tôi ưng bộ kimono này vì nó trông không đến nỗi quá thường, nhưng vẫn nhẹ nhàng đủ để có thể thoải mái ra phố dạo chơi. “Bộ komon này có phải em mua ở ‘Kobo-san’ hồi trước không?” Anh Holmes hỏi, vẻ như muốn xác nhận lại. Tôi ngẩng lên nhìn anh và gật đầu đáp, “Vâng.” “Kobo-san” là tên thường gọi của hội chợ được tổ chức tại chùa To-ji vào ngày hai mươi mốt hằng tháng. Nó giống như một buổi chợ trời lớn song song với lễ hội. Vào ngày này, người ta sẽ mở sạp hàng kinh doanh đủ thứ trong khuôn viên chùa To-ji, từ quầy ăn uống, trò chơi, đồ cổ cho đến tạp hoá, quần áo cũ, kimono, thực phẩm. Trước đây, tôi đã có lần cùng anh Holmes đến đó, quy mô còn lớn hơn cả chợ hàng thủ công ở Hyakumanben Chion-ji. Nhân tiện thì ở Kyoto có ba hội chợ lớn được mở hằng tháng: chợ hàng thủ công tại chùa Hyakumanben Chion-ji vào ngày mười lăm, chợ Kobo-san tại chùa To-ji vào ngày hai mươi mốt, còn ngày hai mươi lăm là chợ Tenjin-san ở đền Kitano Tenmangu. Tôi tìm thấy bộ kimono này vào dịp cuối năm, trong lần đầu tiên đến chợ Kobo-san cùng cô bạn Miyashita Kaori. Khi cầm bộ kimono nằm trong xe chở hàng lên, Kaori đã bảo tôi rằng, “Chỗ này toàn món hời đó nha.” Nhà Kaori là một cửa hàng trang phục truyền thống danh tiếng với lịch sử lâu đời. Nghe được nhận xét của cậu ấy nên tôi cũng có thể yên tâm mua món hàng này. Kimono thường gắn liền với hình ảnh của một loại trang phục đắt đỏ, không dễ gì mua được, nhưng những bộ được bày bán ở hội chợ lại rẻ hơn tôi nghĩ, chỉ với khoản lương làm thêm của tôi cũng dư sức trả rồi. Nghĩ lại thì trước khi chuyển đến sống ở Kyoto, việc bỏ tiền túi ra mua một bộ kimono với tôi là chuyện không tưởng. Thực ra obi là đồ có sẵn ở nhà, còn cách mặc thì tôi phải nhờ bà giúp. Tôi chạm tay vào obi, trong lòng mong mỏi một ngày nào đó mình có thể tự mặc kimono. “Mọi người tập hợp đồng đủ rồi, giờ ta cụng ly khích lệ tinh thần làm việc đầu năm nhé.” “Của Aoi là amazake[10] nhỉ.” Anh Holmes rót sake và amazake vào chén, sau đó đưa rượu cho từng người theo thứ tự tuổi từ thấp đến cao, bắt đầu từ tôi, cô Yoshie, quản lí, và cuối cùng là ông chủ kèm câu: “Mời ông ạ.” Chẳng biết có phải do trang phục truyền thống hay không, mà mỗi động tác của anh Holmes đều quyến rũ hơn bình thường, khiến tôi không tài nào nhìn thẳng được. “E-Em cảm ơn ạ,” tôi nhận lấy chén rượu và e lệ cụp mắt xuống. Đúng lúc mọi người đang chuẩn bị nâng ly, tiếng chuông leng keng vang lên ngoài cửa, và anh Akihito hớt hải xông vào, “Xin lỗi cả nhà, cháu đến muộn! Năm mới vui vẻ ạ!” Anh ấy cũng đóng bộ chỉnh tề với hakama và haori có màu xanh chủ đạo. Mái tóc sáng màu nhìn qua tưởng chừng không ăn nhập với phục trang, thế mà lại hoà hợp đến bất ngờ. Hiện nay, anh Akihito đang được công chúng khen ngợi là một “diễn viên điển trai”. Chắc nhờ thường xuyên mặc trang phục truyền thống trên chương trình giới thiệu Kyoto “Tiết trời Cố đô” nên anh ấy đã quen với kimono rồi. “‘Xin lỗi cả nhà’ gì chứ, có ai mời anh đâu nhỉ?” “Bậy nào.” Bị anh Holmes ném cho một cái nhìn lạnh tanh, anh Akihito lắc đầu nguầy nguậy. “Hôm mở tiệc giao thừa, ông chủ đã dặn tôi rằng: ‘Mồng ba tiệm bắt đầu mở cửa trở lại, cậu hổng mắc việc gì thì nhớ ghé qua nghen. Có cậu Akihito tới bao giờ cũng vui.’ Tôi được ông chủ chiếu cố bấy lâu nay, nghe thế sao có thể không đến được.” Anh Akihito vừa cười vừa tét một phát vào cánh tay anh Holmes. Đối nghịch lại, anh Holmes xoa xoa chỗ tay bị tét với ánh mắt lạnh lùng. Hai con người này mới đầu năm đã thế, chẳng thay đổi gì. “Vậy là cậu Akihito cũng tới rồi.” Ông chủ đích thân rót sake vào chén và trao cho anh Akihito. Anh Akihito nhận lấy với vẻ trân trọng. “Nào, Takeshi, Kiyotaka, Yoshie, bé Aoi, cậu Akihito. Năm nay vẫn lại tiếp tục chiếu cố nhau nghen” Ông chủ cao giọng hô: “Cụng ly!”, chúng tôi cũng đồng loạt nâng chén và nói: “Cụng ly!” rồi uống một hơi cạn chén. Có lẽ do tôi đã thấm mệt vì không quen mặc kimono, lại phải đi từ nhà đến tận đây, nên ngụm amazake thanh mát ấy cảm giác ngon vô cùng. “Ơ, Aoi cũng uống sake à?” “Dạ không, mình em uống amazake ạ.” “À ừ, em vẫn còn vị thành niên nhỉ. Lớp Mười Một đúng không?” “Vâng, em sẽ lên lớp Mười Hai vào mùa xuân ạ.” “Phải rồi Aoi, nói đến mùa xuân thì xuân năm nay đứa con trai đang đi du học của cô sẽ về nước đấy. Mong cháu giúp đỡ thằng bé nhé,” cô Yoshie chêm vào một câu như thể vừa sực nhớ ra. Tôi bị bất ngờ, nhưng vẫn gật đầu đáp: “V-Vâng ạ.” Nhắc mới nhớ, Cô Yoshie có một đứa con trai. Nếu tôi không nhầm thì cậu ấy đang học lớp Mười, nghĩa là nhỏ hơn tới một tuổi. Con của cô Yoshie thì hẳn phải đẹp trai lắm. Trong lúc mọi người đang sôi nổi trò chuyện, ông chủ nhìn đồng hồ rồi chậm rãi đứng dậy. “Thôi, bọn ta đi trước nghen.” “Vậy bố cũng...” “Khoan.” Thấy ông chủ và quản lí lại chuẩn bị đi đâu đó, anh Holmes vội lên tiếng. “Ông và bố có thể nán lại một chút rồi mới đi có được không ạ? Hôm nay dù sao cũng là ngày mở hàng, con muốn dẫn Aoi đến thăm Yata Jizo-son.” Nghe anh Holmes nói, tôi nghiêng đầu thắc mắc: “Yata Jizo-son ấy ạ?” “Là ngôi chùa Địa Tạng ở ngay gần đây. Ngày làm việc đầu tiên nên anh nghĩ cũng nên đến chào hỏi chút.” “À, chỗ bên cạnh đồn cảnh sát phải không ạ?” Tôi vỗ hai tay vào nhau. Hôm nào đi làm tôi cũng trông thấy nơi đó, nhưng không mấy để tâm nên đến tên cũng chẳng biết. Tôi tự dưng thấy có lỗi vì sự thiếu lễ độ của mình. “Cũng được, mà đi lẹ lẹ nha. Ta hổng có đợi được lâu đâu,” ông chủ ngúng nguẩy quay đi. “Nói gì thì đây vẫn là cửa hàng của ông đấy ạ. Ông định trốn việc đi chơi mà sao còn giở giọng hách dịch với con cháu thế?” “Ta còn nhiệm vụ đi chúc Tết rất quan trọng đó. Đã thế thì bây làm thay ta đi nhá?”   Mời các bạn mượn đọc sách Buổi Tiệc Trà Kì Bí của tác giả Mai Mochizuki & Dương Dương (dịch).
Tâm Tư Lẩn Khuất Cõi Trần Ai
Từ một sự việc không lường trước mà bắt đầu làm thêm tại tiệm “Kura” và được Kiyotaka chỉ dạy về mĩ thuật cổ. *** Yagashira Kiyotaka: Hai mươi hai tuổi. Sinh viên cao học năm nhất Đại học Kyoto. Tên thường gọi là “Holmes”. Cháu trai ông chủ tiệm đổ cổ “Kura” toạ lạc ở Teramachi Sanjo, Kyoto. Cư xử dịu dàng và lịch lãm, nhưng lại sắc sảo đến đáng sợ. Đôi lúc thích bắt nạt người khác, một chàng trai Kyoto “nham hiểm”. Mashiro Aoi: Mười bảy tuổi. Học sinh lớp Mười Một. Chuyển từ thành phố Omiya tỉnh Saitama đến Kyoto sinh sống đã được bảy tháng. Từ một sự việc không lường trước mà bắt đầu làm thêm tại cửa tiệm “Kura”. Vẫn còn vương vấn người yêu cũ ở trường cấp ba ngày trước. *** #độc_giả_review_sách  [HOLMES Ở KYOTO - Mai Mochizuki]  Chắc hẳn khi đọc tiêu đề Holmes ở Kyoto, bất kì ai cũng sẽ liên tưởng tới thám tử Sherlock Holmes lừng danh. Cuốn sách này lại viết về anh chàng Yagashira Kiyotaka 20 tuổi, sinh viên năm nhất đại học Kyoto, có biệt danh là Holmes bởi “sự sắc sảo đến đáng sợ” của anh.  Cuốn sách được viết dựa trên lời kể của cô bé Mashiro Aoi, mười bảy tuổi, học sinh lớp Mười Một. Aoi đã bị Holmes nắm thóp từ lần đầu gặp mặt và tình cờ trở thành nhân viên giúp việc tại cửa hàng đồ cổ của gia đình anh. Từng câu chuyện khác mở ra, kéo theo sau những biến chuyển trong tình cảm của Aoi với sự dịu dàng, lịch lãm nhưng lại sắc sảo đến đáng sợ của Holmes. Những tưởng Holmes cũng là một người siêu phàm, thật bất ngờ khi Aoi khám phá ra được Holmes cũng là một người có quá khứ, giống như Aoi, cũng từng để mất người yêu vào tay của người khác… Điều mình cảm thấy cực kì thích ở cuốn sách này đó là cuốn sách mang đến cho người đọc những cảm nhận hết sức chân thật về văn hóa cũng như lịch sử của Nhật Bản. Bản thân mình là người rất thích đi du lịch, khi đọc cuốn sách mình cảm thấy như đang thật sự được trải nghiệm từng ngóc ngách và nét văn hóa của Nhật.  Cách sử dụng vốn từ trong cuốn sách khá là dung dị, đời thường, cộng thêm các câu chuyện đều rất thực tế, không đẫm máu, không chết chóc, không có những thủ đoạn giết người hay khủng bố như nhiều cuốn sách trinh thám khác, nên cuốn sách mang lại cảm giác dễ chịu gần gũi, đôi lúc khiến người đọc bật cười khi những suy nghĩ của mình bị bóc mẽ bởi lập luận cùng khả năng quan sát tinh tường của Holmes, từ đó mình có thể học hỏi và áp dụng trong cuộc sống hàng ngày. Đặc biệt hơn cả, cuốn sách lấy bối cảnh là ở Kyoto, xoay quanh cửa hàng đồ cổ Kura của nhà Holmes và những nhân vật hết sức nhã nhặn, lịch sự, có đam mê và sở thích rất tao nhã với nghệ thuật cổ, cộng thêm sự am hiểu văn hoá và lịch sử nước nhà của tác giả khiến cho mình có cảm giác rất thanh khiết khi đọc cuốn sách này.  Mình nghĩ đây sẽ là một cuốn sách rất phù hợp cho những ai đang chịu áp lực và muốn giải tỏa stress cũng như những bạn yêu thích Nhật Bản và thích đi du lịch Nhật Bản mà chưa có điều kiện đi như mình. - Review của bạn @Linh Phương *** Ở khu vực lân cận Teramachi Sanjo thuộc Kyoto, có đến mấy con phố mua sắm giăng mắc với nhau theo một bố cục tương đối là phức tạp. Những mái vòm nối liền nhau rất dễ khiến người ta nhầm tưởng rằng tất cả đều thuộc cùng một khu mua sắm, nhưng thực chất mỗi con đường lại là một phố mua sắm khác nhau. Từ đường Oike rẽ vào đường Teramachi là “phố mua sắm của Hiệp hội Cửa hàng chuyên doanh Teramachi”, đi thêm chút nữa sẽ giao với “dãy cửa hàng danh tiếng Sanjo”. “Phố mua sắm Teramachi Kyogoku” và “phố mua sắm Shinkyogoku” chạy song song với nhau, nhìn đằng trước sẽ thấy được “chợ Nishiki”, nơi nổi danh toàn quốc là “nhà bếp của đất kinh kì”. Chỉ nghe tả thế này thôi thì đúng là hơi bị rối rắm, có vẻ đến dân Kyoto cũng nhiều người ú ớ, nên khách du lịch không nắm được âu cũng là lẽ đương nhiên. Tuy nhiên, người đi mua sắm có khi cũng chẳng cần để ý nhiều đến vậy. Từ đường Oike vào “phố mua sắm Hiệp hội Cửa hàng chuyên doanh Teramachi”, người ta có thể ngoặt sang “dãy cửa hàng danh tiếng Sanjo”, và cũng có thể cứ thế đủng đỉnh đi dọc “phố mua sắm Teramachi Kyogoku” hay “phố mua sắm Shinkyogoku” rồi lang thang thăm thú “chợ Nishiki”. Thậm chí ta còn có thể bước qua một loạt những cửa hàng nối liền nhau, rồi bắt gặp một ngôi đền, ngôi chùa nhỏ xinh nào đó. Tiệm đồ cổ “Kura” nằm lặng lẽ giữa khu phố mua sắm với kết cấu y hệt mê cung như vậy. Cửa hàng tuyệt nhiên chẳng mang diện mạo cố tình gây ấn tượng, nên người đi đường nhiều lúc sẽ chỉ lướt qua, nhưng một khi đã để mắt tới nó, người ta sẽ nhận ra rằng nơi đây toát lên một sức hấp dẫn lạ kì. Trong cửa hàng có đèn chùm, bộ sô pha cổ, bên vách tường cạnh quầy thu ngân là giá sách và tủ đựng đồ kiểu Nhật làm bằng gỗ sồi đánh véc ni. Một nơi dung hoà phong cách Nhật Bản với phương Tây, khiến ta liên tưởng đến các quán cà phê mang xu hướng Modern Retro[1] đậm nét. Kim giây của chiếc đồng hồ tủ đứng cỡ lớn đang miệt mài di chuyển phát ra những âm thanh tích tắc. Âm sắc nhạc jazzdu dương như hoà nhịp với tiếng kim đồng hồ. Đủ loại đồ cổ và đồ tạp hoá được xếp thành hàng trên giá. Vẫn như mọi khi, thời gian cứ như đã ngừng trôi trong cửa hàng này. Tôi, Mashiro Aoi, nhân viên đang làm thêm trong tiệm, vừa phủi bụi cho các món hàng như thường lệ, vừa đưa mắt liếc về phía quầy thu ngân. Ở đó, một chàng thanh niên với khuôn mặt tuấn tú đang cầm một bức tranh cuộn trong tay và cười tủm tỉm. Tên anh là Yagashira Kiyotaka. Anh ấy là sinh viên cao học, nhờ khả năng quan sát và mắt giám định phi phàm hiếm thấy, lại thêm cái họ “Yagashira” nên anh có biệt danh là “Holmes”. Ngoài ra, anh còn là cháu nội kiêm đệ tử của ông chủ cửa hàng này là ông Yagashira Seiji, người được biết đến với tư cách Chuyên gia giám định cấp Quốc gia. Anh là một thanh niên điển trai với vóc người mảnh khảnh, tóc mái hơi dài, làn da trắng trẻo và sống mũi thẳng tắp. Hoàn toàn tương ứng với ngoại hình ấy, anh cũng là một người lịch thiệp, dịu dàng, nho nhã và có phong thái ứng xử hết sức ôn hoà. Nhưng mặt khác, anh còn là một kẻ tương đối kì quặc, thi thoảng lại tỏ ra nham hiểm, thậm chí có cả cái tính cứng đầu, hiếu thắng, hơn hết là lòng dạ nhiều khi hơi hơi đen tối. Lúc đầu tôi cũng hay bị anh làm cho lúng túng, thế mà chúng tôi đã cùng nhau trải qua khoảng thời gian tới tám tháng rồi. Chắc rằng tôi đã quen hơn nhiều, nên giờ không còn cảm thấy ngạc nhiên trước những nét kì quặc và tính cách hai mặt của anh ấy nữa. “... Bức tranh cuộn treo tường mà bác Ueda mang đến thế nào rồi ạ?” Tôi bước đến và thò mặt lại gần quầy thu ngân. Cuộn tranh anh Holmes hiện đang cầm trên tay là đồ tôi giữ giùm bác Ueda, một khách quen nhẵn mặt của tiệm, trong lúc anh ấy không có mặt ở cửa hàng. “Aoi thấy sao?” Anh Holmes hơi nghiêng nửa thân trên để tôi thấy được cuộn tranh. Một bức tranh được gọi là “mĩ nhân hoạ”, hay nói cách khác... “... Là ukiyo-e[2] anh nhỉ?” “Ừ, đúng rồi.” Bức ukiyo-e ấy vẽ một người phụ nữ hơi cúi đầu, tay cầm tẩu thuốc. Gương mặt mang nét u sầu ấy vô cùng xinh đẹp, nhưng tôi chẳng cảm nhận được sức ép khiến mình phải nín thở chút nào. Nếu được hỏi về tính thật giả của bức tranh này thì tôi có cảm giác đây không phải đồ thật. Có điều, ukiyo-e vốn là “tranh in khắc”, vậy nên... Đối với tranh in thạch bản của nước ngoài, tranh thật được gọi là “thạch bản gốc”, chủ yếu chỉ những tác phẩm do chính tác giả in, hoặc được chế tác tại công xưởng dưới sự giám sát của tác giả. Trước đây, anh Holmes đã dạy tôi điều đó. Vậy thì có phải ukiyo-e cũng giống thế không? “... Tranh khắc ukiyo-e thật với giả khác nhau ra sao ạ? Có phân biệt dựa vào việc ‘tác giả có chính tay in tranh hay không’ giống tranh in thạch bản không anh?” Khi tôi nói ra nguyên văn nghi vấn vừa hiện lên trong đầu, anh Holmes bèn gật gù. “Phải rồi. Ukiyo-e gồm hai loại chính, ‘tranh vẽ cọ’ do hoạ sĩ vẽ nên và ‘tranh in khắc’ được in từ mộc bản. Nhắc ukiyo-echủ yếu là ám chỉ tranh mộc bản của vế sau, còn tranh vẽ cọ là thứ có một không hai đến từ hoạ sư, cho nên vô cùng giá trị. Hiểu một cách nôm na thì tranh mộc bản phải trải qua những công đoạn như: hoạ sĩ vẽ bản thảo gốc, sau đó giao cho thợ khắc, cuối cùng là đến thợ in thực hiện việc in ra, vậy nên mới tồn tại những bức tranh mộc bản được in cùng thời điểm.” “Thế nghĩa là hoạ sĩ không tự tay khắc mộc bản anh nhỉ?” “Đúng vậy, mỗi công đoạn đều do nghệ nhân với chuyên môn riêng thực hiện.”   Mời các bạn mượn đọc sách Tâm Tư Lẩn Khuất Cõi Trần Ai của tác giả Mai Mochizuki & Ninh Nhân Văn (dịch).