Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Lược Sử Máy Kéo Bằng Tiếng Ukraina

Ở tuổi tám mươi tư, ông kỹ sư già góa vợ tuyên bố đã tìm thấy tình yêu đích thực của đời mình. Tình yêu ấy mang hình hài một cô nàng ngực to tóc vàng đã ly dị chồng mà ông gặp ở Câu lạc bộ Ukraina. Hai cô con gái ông nhảy dựng lên, vất sạch những hằn học cá nhân để hợp lực tống cổ bằng được cô ả đào mỏ về nước. Tình huống bi hài ấy chẳng ngờ lại khiến những ký ức xúc động về người mẹ đã khuất, những phong tục của quê hương Ukraina từ lâu bị lãng quên cùng những sự thật không hề dễ chịu về quá khứ gia đình dần dần sống dậy... Câu chuyện, thoạt tiên, chỉ như một hài kịch vui nhộn. Nhưng nếu cảm nhận bằng trái tim, đó sẽ là một tấn bi kịch được thể hiện dí dỏm và sâu lắng, dưới một nhan đề có vẻ nghiêm túc đến độ cường điệu như Lược sử máy kéo bằng tiếng Ukraina.... *** Tên sách ngỡ như chỉ nói về cơ khí nông nghiệp. Ở ta, chắc chắn không có một nhà văn nào đặt kiểu như thế, tên sách là phải hùng dũng hay bi thương, đầy “khái quát” và đặc biệt phải sáng quắc lên mới đủ tầm. Thế nhưng, cái tên sách kiểu Tây như thế lại lôi cuốn được một lớp bạn đọc nhất định. Với tôi, đã quá lâu rồi chưa được đọc một cuốn sách nào nói về Ukraina...   Ngược với tên, ngỡ như cuốn tiểu thuyết cũng “nhẹ đồng cân” thôi khi những dòng đầu mở ra một câu chuyện bi hài đầy chất Mêlô: “Hai năm sau khi mẹ tôi mất, cha tôi đem lòng yêu một cô ả Ukraina tóc vàng quyến rũ đã li dị chồng. Ông tám mươi tư còn ả ba mươi sáu. Ả ta sấn sổ vào cuộc đời chúng tôi. Cứ như là một quả lựu đạn bọc bông màu hồng, khuấy đảo mặt nước âm u, khiến cho đám cặn ký ức bị vứt bỏ lại nổi lên, đá một cú mạnh vào mông của những bóng ma gia đình”.   Và từ ấy, cuốn phim cũ nát về ký ức, lịch sử gia đình, thậm chí còn là một phần của dân tộc Ukraina từ những năm đầu thế kỷ XX đến nay bỗng ập về.   Đó là một gia đình người Ukraina đã nhập cư vào nước Anh sau những biến động bi thảm của đất nước Ukraina và chính họ. Ông chủ nhà, một kỹ sư cơ khí yêu máy kéo như yêu gia đình. Ông đã dành những năm tháng cuối đời cho tình yêu sau cùng (cô ả tóc vàng người Ukraina đang khát khao kiếm chồng để định cư tại Anh) và tình yêu máy kéo muôn thuở của mình. Triết lý của ông là: “Yêu cũng như ngồi máy bay, quan trọng ở chỗ giữ được thăng bằng...”. Ông đã viết lược sử máy kéo bằng chữ Ukraina mẹ đẻ của mình. Nhưng cuốn ghi chép của ông không chỉ là máy kéo, mà nó còn nói đến nền nông nghiệp và cao hơn là một phần lịch sử của người nông dân và đất nước Ukraina. Và để “đấu tranh” lúc mạnh mẽ, lúc êm ái khôn ngoan tìm cách tống cổ “cô ả tóc vàng” ra khỏi nhà ông bố, hai chị em đã ở riêng, vốn mâu thuẫn không muốn nhìn mặt nhau đã đoàn kết lại và quan trọng hơn, ký ức về nguồn cội đã dần sống lại trong họ.   Câu chuyện được kể đầy chất uy-mua (humour - trào phúng) sắc sảo và đôi khi lạnh buốt đã đưa đến một cái kết vẫn đầy hài hước nhưng thật buồn. Ông lão vào nhà dưỡng lão và khi các con đến thăm, vẫn trần như nhộng chống tay quỳ dưới đất trên một tấm thảm trải giữa phòng phía trước cửa sổ. Ông đang “học” và câu kết thúc là “Ba chào mặt trời”. Trước đó người tình, người vợ tóc vàng - như tia nắng cuối cùng của đời ông - đã cùng ông li dị, theo chồng, con trở về Ukraina bằng chiếc Roll Royce cũ kỹ được ông sửa chữa và trao tặng. Ông cũng đã trao tặng sáng chế cuối cùng - những sáng chế chẳng đem lại tiền cho mình - sáng chế thứ 17, cho người chồng của “cô ả tóc vàng” - một nhà trí thức sang tìm vợ - mang về quê hương xứ sở với ước vọng nó sẽ “giúp nền công nghiệp máy kéo Ukraina hồi sinh...”.   Tác giả Marina Lewycka, sinh năm 1946 trong một trại tị nạn ở Đức, sau đó cùng gia đình sang Anh. Bà vốn chỉ viết sách về chăm sóc người cao tuổi. “Lược sử máy kéo...” là tiểu thuyết đầu tay của bà (2005). Những tiểu thuyết gần đây của bà vẫn chưa thể vượt qua “chiếc máy kéo” ấy.   Y Trang  (Tiểu thuyết của Marina Lewycka, Hồ Thanh Ái dịch từ nguyên bản tiếng Anh - Cty Nhã Nam và NXB Lao Động xuất bản năm 2010, 424 trang) *** Lời cảm tạ Rất nhiều người đã góp phần làm nên quyển sách này. Trước tiên, tôi muốn gửi lời cảm ơn đến những người thân trong gia đình và bạn bè, vì lòng kiên nhẫn, sự ủng hộ và những lời góp ý quý báu của họ. Tôi đặc biệt cảm ơn Sarah White, Tessa Perkins và Lesley Glaister cùng Chris và Alison Tyldesley vì đã giúp đỡ tôi về mặt lịch sử, câu cú, và nếu không có họ thì con mèo của tôi có lẽ đã chết vì bị bỏ mặc rồi. Tôi cũng rất biết ơn Eveline và Patrick Lessware, tôi đã viết bốn chương cuối cùng của quyển sách này trong ngôi nhà xinh xắn của họ ở Totnes. Tôi chân thành cảm ơn Bill Hamilton vì lòng hào hiệp và những lời khuyên quý báu của ông, cảm ơn Livi Michael, Jane Rogers, Juliet Annan và Scott Moyers vì những lời góp ý chân tình trên bản thảo. Cũng xin cảm ơn mọi người ở nhà xuất bản Viking, Penguin và A. M. Heath đã hợp tác hết sức ăn ý. Cuối cùng, tôi xin gửi lời cám ơn đến nhiều tác giả, phần lớn là vô danh, những bài viết của họ trên Internet về lịch sử máy kéo và ngành hàng không đã cho tôi cảm hứng viết nên quyển sách này. Danh sách những người tôi đặc biệt mang ơn được ghi rõ ở cuối sách. *** Hai cú điện thoại và một đám tang Hai năm sau khi mẹ tôi mất, cha tôi đem lòng yêu một cô ả Ukraina tóc vàng quyến rũ đã ly dị chồng. Ông tám mươi tư còn ả ba mươi sáu. Ả ta sấn sổ vào cuộc đời chúng tôi cứ như là một quả lựu đạn bọc bông màu hồng, khuấy đảo mặt nước âm u, khiến cho đám cặn ký ức bị vứt bỏ lại nổi lên, đá một cú mạnh vào mông của những bóng ma gia đình. Mọi chuyện bắt đầu từ một cú điện thoại. Giọng cha tôi run run vì phấn khích lách tách vang lên trong ống nghe. ‘Có tin mừng này, Nadezhda. Ba sắp lập gia đình!’ Tôi nhớ lại lúc đó máu mình đổ dồn lên đầu. Lạy trời cho đó chỉ là một lời nói đùa! Ôi chao, ông bị mát dây rồi! Ôi chao, ông già ngu ngốc! Nhưng tôi chẳng hề nói những lời này ra miệng. ‘Ô, hay đấy, ba ạ’ tôi nói. ‘Đúng, đúng vậy. Nàng và con trai từ Ukraina đến. Tỉnh Ternopil ở Ukraina.’ Ukraina: ông thở dài, hít sâu hương cỏ khô và hoa anh đào trong ký ức. Nhưng tôi ngờ rằng đó chỉ là mùi xì gà dỏm của nước Nga mới. Tên nàng là Valentina, ông kể với tôi. Nhưng nàng hợp với tên Venus hơn. ‘Nàng Venus của Botticelli nhô lên từ sóng biển. Tóc vàng óng. Mắt lấp lánh. Ngực căng phồng. Khi con gặp nàng con sẽ hiểu’ Con người chín chắn trong tôi thấy thông cảm với ông. Đóa hoa tình yêu cuối cùng nở muộn thật ngọt ngào làm sao. Nhưng đứa con gái trong tôi thì nổi điên lên. Tên phản bội! Đồ già dê mắc dịch! Mẹ chúng tôi mới mất có hai năm thôi mà. Tôi vừa giận dữ vừa tò mò. Tôi háo hức muốn gặp cô ả, người đàn bà tiếm ngôi của mẹ tôi. ‘Nghe có vẻ cô ấy tuyệt vời quá. Khi nào con có thể gặp cô ấy?’ ‘Sau đám cưới.’ ‘Con nghĩ bọn con nên gặp cô ấy trước mới phải chứ?’ ‘Con gặp làm gì? Con có cưới nàng đâu?’ (Ông biết như vậy không phải lắm nhưng vẫn cố lẩn tránh.) ‘Nhưng ba à, ba đã nghĩ kỹ chưa? Mọi chuyện có phần đột ngột quá. Ý con là cô ấy nhất định trẻ hơn ba rất nhiều.’ Tôi cố giữ giọng bình tĩnh, giấu đi mọi dấu hiệu bất bình, cứ như một người lớn sành sỏi chuyện đòi cư xử với một gã trẻ tuổi si tình. ‘Ba mươi sáu. Nàng ba mươi sáu, ba thì tám mươi tư. Thế thì sao chứ?’ (Ông phát âm ‘sao’ thành ‘xao’.) Ông độp lại ngay, xem ra ông đã dự đoán trước câu hỏi này. ‘À, tuổi tác chênh lệch khá nhiều đó...’ ‘Nadezhda, ba không ngờ con lại bảo thủ đến thế’ (Ông nhấn mạnh từ ‘bảo thủ’ - ôi trời đất ơi!) ‘Không, không.’ Ông buộc tôi phải co vòi lại. ‘Chỉ là... có thể có vài vấn đề.’ Sẽ không có vấn đề gì ở đây cả, ba tôi nói. Ông đã lường trước mọi thứ rồi. Ông biết nàng được khoảng ba tháng. Nàng có một ông cậu ở Selby và đã đến thăm ông ta bằng thị thực du lịch. Nàng muốn xây dựng cuộc đời mới cho mình và con trai ở phương Tây, một cuộc đời tươi đẹp, việc làm tốt, tiền bạc dư dả, xe cộ hào nhoáng - tuyệt đối không chấp nhận xe Lada hay Skoda - chỗ học hành tốt cho con trai, ít nhất phải là trường Oxford hay Cambridge. Nhân tiện phải nói luôn nàng là một phụ nữ có học. Có bằng dược sĩ. Nàng sẽ dễ dàng tìm được việc làm tốt ở đây, một khi học xong tiếng Anh. Trong thời gian chờ đợi, ông sẽ giúp nàng tiếng Anh, nàng thì sẽ lau nhà và chăm sóc cho ông. Nàng ngồi lên đùi ông và cho phép ông mân mê bầu ngực của mình. Hai người sẽ sống hạnh phúc bên nhau. Tôi có nghe lầm không? Cô ả ngồi trên đùi ba tôi và ông mân mê bộ ngực kiểu Botticelli vĩ đại của cô ả? ‘À, ừ...’ Tôi giữ giọng bình tĩnh nhưng cơn giận đã bùng lên trong tim, ‘... cuộc đời này tràn đầy những chuyện bất ngờ. Con mong mọi chuyện sẽ tốt đẹp với ba. Nhưng nghe này, ba’ (đã đến lúc phải nói huỵch toẹt ra) ‘con hiểu vì sao ba muốn cưới cô ấy. Nhưng ba có bao giờ tự hỏi vì sao cô ấy muốn cưới ba không?’ ‘Tak tak. Ừ, ba biết chứ. Hộ chiếu. Thị thực. Giấy phép lao động. Thế thì xao nào?’ Giọng ông cáu gắt, bực tức. Ông đã liệu trước mọi thứ. Nàng sẽ chăm sóc ông khi ông già yếu đi. Ông sẽ cho nàng một mái nhà, chia sẻ khoản lương hưu ít ỏi cho đến khi nàng tìm được một công việc đáng tiền. Con trai nàng, một cậu bé cực kỳ thông minh, một thiên tài, biết chơi dương cầm, sẽ được hưởng nền giáo dục Anh quốc. Họ sẽ trò chuyện về nghệ thuật, văn chương, triết học vào buổi tối. Nàng là một phụ nữ có giáo dục chứ không phải là một ả nông dân lắp bắp. Cũng phải nói luôn, ông đã dò hỏi quan điểm của nàng về Nietzsche* và Schopenhauer* và nàng hoàn toàn đồng ý với ông. Cũng như ông, nàng ngưỡng mộ chủ nghĩa kết cấu và kinh tởm chủ nghĩa tân cổ điển. Họ có rất nhiều điểm chung. Một nền tảng hôn nhân vững chắc. ‘Nhưng ba à, ba không nghĩ cô ấy lấy một người gần tuổi với mình thì sẽ tốt hơn sao? Chính quyền sẽ nhận ra đây là một cuộc hôn nhân giả hiệu. Họ không có ngu đâu’ ‘Hừm’ ‘Cô ấy vẫn có thể bị gửi trả về.’ ‘Hừm’ Ông chưa lường tới chuyện này. Nó làm ông lọng cọng một chút nhưng không thể cản ông lại được. Con biết đấy, ông giải thích, ông là niềm hy vọng cuối cùng của nàng, cơ hội duy nhất giúp nàng thoát khỏi tình trạng bị ngược đãi, cảnh nghèo túng, con đường bán thân nuôi miệng. Cuộc sống ở Ukraina quá cực nhọc cho một tâm hồn nhạy cảm như nàng. Ông thường hay đọc báo, và tin tức khá ảm đạm. Không có bánh mì, giấy vệ sinh, đường, không hệ thống thoát nước, cuộc sống bon chen, điện đóm chập chờn. Làm sao ông có thể để một người phụ nữ đáng yêu chịu cảnh sống đó được? Làm sao ông có thể ngoảnh mặt làm ngơ? ‘Con phải hiểu, Nadezhda, chỉ có ba mới giúp được cô ấy!’ Đúng vậy. Ông đã thử. Ông đã hết sức cố gắng. Trước khi quyết định cưới cô ta, ông đã tìm kiếm những người chồng hợp cách. Ông đã đến gặp gia đình Stepanenko, một cặp vợ chồng già người Ukraina đang sống chung với đứa con trai còn độc thân. Ông đã nói chuyện với ông Greenway, một người đàn ông góa vợ sống ở quê, ông này có đứa con trai chưa vợ thỉnh thoảng về thăm. (Hợp lý đây. Một kỹ sư. Không phải loại tầm tầm. Là một đám rất tốt cho Valentina.) Bọn họ đều từ chối cả: họ hẹp lượng quá thể. Ông đã nói thẳng vào mặt họ như vậy. Giờ thì gia đình Stepanenko và ông Greemvay chẳng ai thèm nói chuyện với ông nữa. Cộng đồng Ukraina ở Peterborough cũng chối bỏ cô ấy. Bọn họ đúng là thiển cận. Bọn họ không bị ấn tượng trước quan điểm của cô ấy về Nietzsche và Schopenhauer. Bọn họ chỉ quan tâm đến quá khứ, chủ nghĩa dân tộc Ukraina, Banderivtsi. Cô ấy là một phụ nữ hiện đại phóng khoáng. Nhưng bọn họ đơm đặt những lời đồn kinh khủng về cô ấy. Bọn họ nói cô ấy bán dê và bò của mẹ để lấy tiền chăm chút nhan sắc nhằm quyến rũ đàn ông phương Tây. Bọn họ nói toàn thứ nhảm nhí. Mẹ cô ấy chỉ nuôi gà lợn chứ nào có dê hay bò. Chỉ nhiêu đó thôi cũng thấy rõ những kẻ ngồi lê ngu ngốc ra sao. Ông ho sù sụ ở đầu dây bên kia. Ông bị bạn bè xa lánh vì chuyện này. Nếu cần thì ông cũng sẽ từ luôn đám con gái. Ông sẽ một mình chống lại cả thế giới, chỉ với người đàn bà xinh đẹp đứng bên cạnh. Lưỡi của ông không theo kịp sự hứng khởi của Ý Tưởng Lớn đó. ‘Nhưng ba à...’ ‘Còn chuyện này nữa, Nadia. Đừng nói cho Vera biết.’ Chẳng có cơ đâu. Tôi đã không nói chuyện với bà chị gái hai năm rồi, kể từ trận tranh cãi nảy lửa sau đám tang của mẹ. ‘Nhưng ba à...’ ‘Nadezhda, con phải hiểu đàn ông đôi khi có những cơn bốc đồng khác hẳn với phụ nữ’ ‘Ba à, làm ơn đừng phân tích sinh học với con.’ Ô, cần quái gì? Cứ để ông ấy nếm mùi đau khổ. ○○○ Có lẽ câu chuyện bắt đầu từ trước cú điện thoại này. Có lẽ nó bắt đầu từ hai năm trước, trong chính căn phòng ông đang ngồi, nơi mẹ tôi nằm hấp hối và ông đi loanh quanh khắp nhà trong nỗi đau khổ vô biên. Tất cả cửa sổ mở toang, làn gió luồn qua tấm màn vải lanh khép hờ mang lại mùi oải hương từ khu vườn phía trước. Tiếng chim hót, tiếng người đi lại trên đường, cô con gái nhà hàng xóm làm màu với cậu bạn trai trước cửa. Trong căn phòng nhợt nhạt tinh tươm, mẹ tôi hổn hển thở hắt hết giờ này sang giờ khác, sự sống trong bà cứ mất dần, còn tôi thì đút morphine cho bà bằng muỗng. Cái chết khoác bộ đồng phục cao su: găng tay y tá bằng latex, tấm ga trải giường không thấm nước, đôi dép xốp, một hộp thuốc glycerine đặt hậu môn lấp lánh như những viên đạn bằng vàng, ghế tiểu tiện với nắp đậy và chân bọc cao su lúc này chứa đầy chất lỏng còn cợn xanh lè. ‘Mẹ có nhớ...?’ Tôi lặp đi lặp lại những câu chuyện về bà và thời ấu thơ của chúng tôi hết lần này đến lần khác. Đôi mắt mờ đục của bà chớp chớp. Trong một giây phút tỉnh táo, bàn tay bà nằm trong tay tôi, bà nói, ‘Hãy chăm sóc cho Kolya tội nghiệp’ Ba ở bên mẹ khi bà mất trong đêm. Tôi còn nhớ ông đã gào lên đau khổ. ‘Bắt tôi đi, bắt tôi theo cùng!’ Giọng ông khàn khàn nghẹn ngào, chân tay cứng đờ như bị động kinh. Vào buổi sáng, sau khi họ đưa thi thể của mẹ đi, ông ngồi ở căn phòng phía sau, vẻ mặt đau xót. Một lúc sau ông nói, ‘Con có biết không, Nadezhda, ngoài phương pháp chứng minh bằng đại số, định lý Pythagore còn có cách chứng minh bằng hình học nữa. Nhìn xem nó đẹp chưa này.’ Trên một tờ giấy, ông vẽ các đường thẳng và các góc, biểu trưng bởi các ký hiệu nhỏ, rồi lẩm bẩm trong lúc giải phương trình. Ba hoàn toàn mất trí rồi, tôi nghi. Kolya tội nghiệp. ○○○ Mấy tuần trước khi mất, mẹ tôi nửa nằm nửa ngồi dựa vào chiếc gối trên giường bệnh, lòng lo lắng không yên. Đám dây nhợ lằng nhằng nối liền mẹ với chiếc máy ghi lại từng nhịp đập yếu ớt của trái tim. Mẹ cằn nhằn luôn miệng về phòng bệnh chung - giường này giường nọ chỉ cách nhau bởi một tấm màn khép vội, về tiếng hắt hơi, tiếng ho, tiếng ngáy đầy khó chịu của mấy ông già. Mẹ co rúm trước bàn tay mập mạp lạnh lùng của nam y tá trẻ. Anh ta đến cắm dây truyền phía trên bầu ngực dúm dó bất cẩn hở ra dưới tấm áo choàng bệnh viện. Mẹ chỉ là một bà già bệnh tật. Ai thèm để ý đến những cảm nhận của mẹ chứ? Rời bỏ cuộc đời không dễ chút nào, mẹ nói. Quá nhiều chuyện phải lo trước khi có thể an tâm rời đi. Kolya, ai sẽ chăm sóc cho ông ấy? Chắc không phải là hai cô con gái rồi, chúng lanh lẹ đấy nhưng hay gắt gỏng quá. Chuyện gì sẽ xảy ra cho chúng? Chúng có tìm được hạnh phúc không? Hai tên đàn ông dễ thương nhưng vô dụng mà chúng lấy liệu có chăm sóc chúng đàng hoàng không? Rồi ba cô cháu ngoại nữa, thật xinh đẹp mà vẫn chưa chồng. Còn quá nhiều thứ để lo mà sức khỏe của mẹ lại đang dần yếu đi. Mẹ viết di chúc trong bệnh viện, chị Vera và tôi đều đứng ngay tại đó vì chẳng ai tin tưởng người kia cả. Mẹ tự tay viết những dòng di chúc xiêu vẹo, có hai y tá làm nhân chứng. Giờ bà yếu lắm nhưng bao nhiêu năm qua bà đã rất mạnh khỏe. Bà già ốm yếu bệnh tật nhưng di sản - số tiền tiết kiệm cả đời bà - vẫn đang sinh sôi trong ngân hàng Co-op. Một điều mẹ cương quyết: di sản không thể giao cho ba được. ‘Nikolai đáng thương, ông ấy không minh mẫn đâu. Đầu óc ông ấy chỉ toàn những kế hoạch quái dị. Tốt hơn là hai con chia đôi, mỗi người một nửa’ Bà nói chuyện bằng tiếng Anh bồi, pha lẫn vài từ Ukraina. Khi rõ ràng là bệnh viện chẳng thể làm gì hơn, họ cho bà về nhà để bà chết yên ổn bên cạnh người thân. Chị tôi ở cạnh bà trong suốt tháng cuối cùng. Tôi thì thường đến thăm vào cuối tuần. Trong tháng cuối cùng đó, khi tôi không có mặt, chị tôi đã viết thêm khoản phụ lục di chúc, chia đều di sản giữa ba cô cháu ngoại, Anna của tôi và hai đứa con gái Alice, Alexandra của chị ta, thay vì chia đôi giữa hai chị em. Mẹ tôi đã ký tên, hai người hàng xóm làm chứng. ‘Mẹ đừng lo’ tôi nói với mẹ trước khi bà mất, ‘mọi chuyện sẽ ổn thôi. Chúng con sẽ buồn, sẽ nhớ mẹ, nhưng chúng con sẽ thu xếp được’ Thực tế là chúng tôi chẳng ổn chút nào. Mẹ được chôn ở nghĩa trang nhà thờ trong làng, trên một khoảnh đất mới nhìn ra đồng quê thoáng đãng. Mộ của bà nằm ở cuối một dãy mộ mới tinh. Ba đứa cháu ngoại, Alice, Alexandra và Anna, dong dỏng cao và tóc vàng, ném hoa hồng vào huyệt, tiếp theo đó là những nắm đất. Nikolai, gập người vì bệnh thấp khớp, nước da xám xịt, đôi mắt vô hồn, bám chặt vào tay chồng tôi trong nỗi đau khổ không thể bật ra thành nước mắt. Hai đứa con gái, Vera và Nadezhda, Niềm tin và Hy vọng, chị tôi và tôi, đã sẵn sàng đánh nhau vì di chúc của mẹ. Khi khách dự tang lễ quay trở về nhà, ăn đồ nguội và say xỉn với rượu samo-hơnka của Ukraina, chị tôi và tôi tranh cãi trong phòng bếp. Chị đang mặc bộ đồ lụa đen mua từ một tiệm chuyên bán quần áo cũ bé tẹo nằm trong góc khuất ở Kensington. Trên giày chị có mấy cái khoen vàng, tay chị cầm cái túi Gucci có khóa vàng và trên cổ đeo một sợi dây chuyền vàng mảnh. Tôi thì mặc một bộ đồ màu đen mua ở Oxfam.* Vera hết nhìn lên rồi lại nhìn xuống tỏ vẻ chê bai. ‘À, bộ dạng nông dân. Tôi thấy rồi’ Tôi bốn mươi bảy tuổi và là giảng viên đại học, nhưng giọng điệu của bà chị gái bỗng chốc biến tôi trở thành một đứa nhóc bốn tuổi thò lò mũi xanh. ‘Nông dân thì có sao. Mẹ cũng là nông dân đấy’ đứa nhóc bốn tuổi phản pháo. ‘Cũng gần thế’ bà chị lớn nói. Chị châm một điếu thuốc. Khói thuốc bay lên cao lượn vòng điệu nghệ. Chị cúi về phía trước để cất bật lửa vào chiếc túi Gucci, và tôi nhìn thấy sợi dây chuyền vàng của chị có gắn một trái tim nhỏ lồng ảnh, lấp ló trong ve áo. Trông nó lỗi mốt và chẳng hợp chút nào với bộ đồ thời trang của Vera. Tôi nhìn nó chằm chằm. Mắt ngấn nước. ‘Chị đang đeo mặt dây chuyền của mẹ.’ Đó là của quý duy nhất mẹ mang đi từ Ukraina, đủ nhỏ để có thể giấu trong viền váy. Đó là món quà ông ngoại tặng cho bà ngoại trong ngày cưới. Bên trong trái tim, hai bức ảnh của ông bà tôi nhoẻn miệng cười nhìn nhau. Vera nhìn thẳng vào mắt tôi. ‘Mẹ cho tôi đó.’ (Tôi không thể tin được điều này. Mẹ biết tôi yêu mặt dây chuyền này, biết tôi mong có được nó hơn hẳn mọi thứ khác. Nhất định Vera đã lấy trộm nó. Không có cách giải thích nào khác.) ‘Bây giờ, cô muốn nói gì về di chúc nào?’ ‘Em chỉ muốn công bằng thôi’ tôi rên rỉ. ‘Có gì sai chứ?’ ‘Nadezhda, cô mua quần áo từ Oxfam cũng quá đủ rồi. Cô còn phải nghĩ đến cả chuyện đó nữa sao?’ ‘Chị đã lấy mặt dây chuyền. Chị ép mẹ ký vào khoản phụ lục di chúc. Chia đều số tiền cho ba cháu ngoại thay vì giữa hai con gái. Như vậy, chị và gia đình kiếm được nhiều gấp đôi. Đồ tham lam.’ ‘Hết chỗ nói, Nadezhda. Tôi thật sốc khi cô nghĩ như vậy.’ Đôi lông mày tỉa tót của bà chị lớn run run. ‘Cũng chưa sốc bằng em khi em biết rõ sự thật đâu’ con nhóc thò lò mũi xanh kêu lên be be. ‘Cô không có mặt ở đó, phải không, cô em bé bỏng của tôi? Cô đi làm công việc tuyệt vời của mình. Cứu vớt thế giới. Theo đuổi sự nghiệp. Để mặc mọi trách nhiệm lại cho tôi. Cô vẫn luôn làm như thế’ ‘Chị hành hạ những ngày cuối cùng của mẹ bằng câu chuyện về vụ ly dị, về sự tàn nhẫn của chồng chị. Chị đốt hết điếu này đến điếu khác bên giường bệnh của mẹ trong khi mẹ đang hấp hối’ Bà Chị Lớn búng tay gạt tàn thuốc rồi thở dài điệu bộ. ‘Cô thấy đấy, vấn đề của thế hệ các cô, Nadezhda, là cô chỉ đi lướt qua mặt ngoài cuộc sống thôi. Hòa bình. Tình yêu. Người lao động cầm quyền. Đó chỉ là những lý tưởng nhảm nhí. Cô phải gánh lấy sự xa xỉ của thói vô trách nhiệm, bởi vì cô chưa bao giờ nhìn thấy mặt đen tối của cuộc đời.’ Vì sao cái giọng ngân nga dạy đời của bà chị làm tôi nổi điên đến thế? Vì tôi biết đó là giả dối. Tôi biết cái giường đơn chúng tôi cùng nhau ngủ, biết cái nhà vệ sinh ở phía bên kia sân và chồng báo cũ chùi đít. Chị ta không thể qua mặt tôi. Nhưng tôi cũng có cách châm chích lại chị ta. ‘Ô, mặt đen tối của cuộc đời làm chị băn khoăn sao? Hay là chị đi xin tư vấn đi?’ Tôi ranh mãnh đề nghị bằng giọng điệu thành thạo hãy-biết-điều-với-nhau-đi, giọng điệu hãy-xem-tôi-người-lớn-thế-nào-này, giọng điệu tôi thường dùng với ba. ‘Làm ơn đừng nói theo kiểu của nhân-viên-xã-hội nữa, Nadezhda.’ ‘Điều trị tâm lý đi. Thấu hiểu mặt đen tối, rồi tống nó ra ngoài, trước khi nó ăn mòn chị.’ (Tôi biết nói vậy sẽ làm cho chị ta nổi điên.) ‘Tư vấn. Trị liệu. Hãy nói ra mọi khó khăn của chúng ta. Hãy ôm lấy nhau để cảm thấy dễ chịu hơn. Hãy giúp đỡ những người kém may mắn. Hãy tặng hết số tiền chúng ta có cho những đứa nhỏ đói khát.’ Chị ta cắn mạnh vào miếng bánh. Một trái ô liu bắn vọt xuống sàn. ‘Vera, chị vừa ly dị, lại mất mẹ. Đương nhiên là chị cảm thấy căng thẳng rồi. Chị cần được giúp đỡ’ ‘Đó chỉ là trò tự dối mình. Đằng sau tấm rèm, con người ai cũng nhỏ nhen, ích kỷ, chỉ biết vun vén cho bản thân. Cô không biết tôi khinh bỉ đám nhân viên xã hội thế nào đâu’ ‘Em biết chứ. Nhưng Vera này, em không phải là nhân viên xã hội’ Ba tôi cũng nổi điên. Ông đổ lỗi cho bác sĩ, chị tôi, gia đình Zadchuk, người đàn ông cắt cỏ sau nhà, đã làm mẹ chết. Thỉnh thoảng ông cũng tự đổ lỗi cho mình. Ông đi loanh quanh lẩm bẩm, nếu chuyện này không xảy ra, nếu chuyện kia không xảy ra, Millochka của ông vẫn còn sống. Gia đình lưu vong bé nhỏ của chúng tôi, trước giờ được gắn kết chặt chẽ bởi tình yêu thương và món xúp củ cải của mẹ, nay bắt đầu tan vỡ. Một mình trong căn nhà trống, ba tôi sống nhờ vào đồ hộp và thức ăn nhanh, cứ như thể trừng phạt mình kiểu đó thì ông sẽ mang được bà quay trở lại vậy. Ông không chịu đến sống với chúng tôi. Thỉnh thoảng tôi đến thăm ông. Tôi thích ngồi trong nghĩa trang nhà thờ nơi đặt mộ của mẹ. Tấm bia ghi rằng: Ludmilla Mayevska Sinh năm 1912 ở Ukraina Vợ yêu của Nikolai Mẹ của Vera và Nadezhda Bà ngoại của Alice, Alexandra và Anna Người thợ đá đã cất công ghi hết tất cả những từ này lên bia mộ. Có một cây anh đào đang trổ hoa, bên dưới là một băng ghế gỗ trông ra những khoảng cỏ vuông vắn mà quá nửa đã được chuyển thành phần mộ, một hàng rào táo gai ngăn cách nghĩa trang và cánh đồng lúa mạch, tiếp đó là những cánh đồng khác trồng lúa mạch, khoai tây, hạt dầu... nối liền nhau tới tận chân trời. Mẹ tôi gốc gác từ thảo nguyên, bà cảm thấy thư thái trước chân trời rộng mở. Lá cờ Ukraina có hai khối màu hình chữ nhật: màu xanh phía trên màu vàng - màu vàng biểu trưng cho cánh đồng bắp, màu xanh biểu trưng cho bầu trời. Khu đầm lầy mênh mông bằng phẳng không có gì đặc biệt này khiến bà nhớ lại quê nhà. Chỉ có điều bầu trời nơi đây hiếm khi xanh như bầu trời quê hương. Tôi nhớ mẹ, nhưng tôi bắt đầu chấp nhận sự mất mát này. Tôi có chồng, có con và cuộc đời của riêng mình. Ba tôi thơ thẩn đi quanh căn nhà ba mẹ từng sống chung. Đó là một căn nhà kiểu mới, nhỏ, xấu xí, tường ốp đá, ga ra sàn bê tông ở bên hông. Ba mặt còn lại quanh nhà là vườn, nơi mẹ tôi trồng hoa hồng, oải hương, tử đinh hương, mao lương, anh túc, păng xê, cây ông lão (giống Jackmanii và Ville de Lyon), hoa mõm chó, hoa ủy lăng, hoa quế trúc, bạc hà mèo, hoa lưu ly, mẫu đơn, hoa cải tím, hoa nghệ tây, hoa chuông, hoa hồng đá, hoa hương thảo, hoa diên vĩ, hoa loa kèn và hoa đậu tía xen lẫn vào nhau, cứ như ở vườn bách thảo vậy. Có hai cây táo, hai cây lê, ba cây mận, một cây đào và một cây mộc qua, những trái cây vàng ruộm thơm nức luôn giành giải thưởng ở hội làng hai mươi năm nay. Phía sau, bên ngoài vườn hoa và bãi cỏ, là ba khoảnh đất nơi mẹ tôi trồng khoai tây, hành, đậu đũa, đậu tằm, đậu Hà Lan, ngô ngọt, rau bí, cà rốt, tỏi, măng tây, rau diếp, rau bi na, bắp cải và cải bruxen. Thì là và mùi tây mọc rải rác giữa các luống rau. Ở một góc vườn, mấy luống mâm xôi, dâu, quả ngẩy, phúc bồn tử đen và đỏ, cùng một cây đào nằm gọn trong nhà lưới mà ba tôi dựng lên ngăn lũ chim béo háu ăn vào mổ. Nhưng vài cây dâu và mâm xôi đã lọt ra khỏi lưới, lan sang mấy khóm hoa. Trong nhà kính, những dây nho tím đầy sức sống uốn lượn bên trên những luống cà chua và ớt lúc lỉu. Phía sau nhà kính là thùng chứa nước, hai nhà kho nhỏ, một đống phân trộn và một đống phân chuồng vốn là niềm mơ ước của cả làng. Đó là phân bò đã hoại, toi xốp và giàu dinh dưỡng, do một người làm vườn người Ukraina tặng. ‘Sô cô la đen’ mẹ tôi gọi nó như vậy. ‘Nào, cục cưng của ta’ bà thì thầm với những mầm cây, ‘dùng chút sô cô la đen nào.’ Chúng ngấu nghiến sô cô la đen, rồi lớn nhanh vùn vụt. Mỗi lần ba tôi ra vườn, ông lại thấy bóng dáng mẹ lờ mờ in trên vách nhà kính, đang lúi húi giữa đám cây lá, với tay buộc lại mấy ngọn đậu đũa. Đôi khi giọng bà gọi ông văng vẳng giữa các gian nhà trống vắng. Mỗi lần nhớ ra là bà không còn ở đây nữa, vết thương của ông lại vỡ ra nhức nhối. Cú điện thoại thứ hai gọi đến vài ngày sau cú đầu tiên. ‘Nadezhda, con nghĩ một người đàn ông tám mươi tư tuổi có thể có con không?’ Thấy cách ông luôn đi thẳng vào vấn đề chứ? Không rào trước đón sau. Không thèm hỏi ‘Con thế nào? Mike và Anna khỏe không?’ Không dài dòng về thời tiết. Không thứ gì phù phiếm trì hoãn được ông khi ông đã nảy ra một Ý Tưởng Lớn. ‘Ô, con không chắc...’ Tại sao ba lại hỏi tôi? Làm sao tôi biết được? Tôi không muốn biết. Tôi không muốn con sóng xúc cảm đẩy tôi quay về tuổi thơ thò lò mũi xanh, thuở ba vẫn còn là một vị anh hùng và tôi luôn sợ bị ông quở mắng. ‘Nếu có con được, Nadezhda’ ông nhanh nhảu nói tiếp trước khi tôi kịp phòng vệ, ‘con nghĩ có bao nhiêu phần trăm đứa nhỏ bị thiểu năng?’ ‘Ô ba à’ (ngừng lại một chút để thở, cố giữ giọng vui vẻ và ân cần) ‘y học đã chứng minh rất rõ rằng phụ nữ càng lớn tuổi thì càng có khả năng sinh con mắc bệnh Down. Đó là một loại bệnh gây khó khăn trong học tập, còn gọi là bị đần độn’ ‘Hừm.’ (Ông không vui khi nghe tin này.) ‘Hừm. Nhưng có lẽ bọn ba sẽ liều một phen. Con thấy đấy, ba cho rằng nếu cô ấy là mẹ của một công dân Anh, đồng thời là vợ của một công dân Anh, cô ấy chắc chắn sẽ không bị trục xuất...’ ‘Ba à, con nghĩ ba không nên vội vã...’ ‘Bởi vì luật pháp nước Anh là tốt nhất toàn cầu. Nó vừa là một sứ mệnh vừa là một gánh nặng lịch sử, muốn gọi thế nào cũng được...’ Ba luôn nói với tôi bằng tiếng Anh, nhấn giọng sai và dùng mạo từ quái dị, nhưng đủ để hiểu được. Tiếng Anh của dân kỹ sư. Mẹ nói tiếng Ukraina với tôi, thứ tiếng thấm đẫm mọi sắc thái hậu tố. Tiếng mẹ đẻ. ‘Ba, nghĩ kỹ lại đi. Đây có phải là điều ba muốn không?’ ‘Hừm, điều ba muốn à?’ (ông phát âm thành ‘đều ba mún’). ‘Đương nhiên làm cha một đứa trẻ như vậy không đơn giản chút nào. Nhưng về mặt kỹ thuật thì có thể có cách...’ Nghĩ tới chuyện ba tôi ngủ với ả đàn bà này, tôi cảm thấy quặn bụng. ‘... Cái khó là không cương cứng được nữa. Nhưng có lẽ với Valentina thì...’ Ông lần khân ở kịch bản sinh sản này quá lâu so với sức chịu đụng của tôi. Nhìn từ những góc độ khác nhau. Tính ngược tính xuôi.’... con nghĩ thế nào?’ ‘Ba à, con không biết phải nghĩ thế nào cả’ Tôi chỉ muốn ông ngậm miệng lại. ‘Đúng, với Valentina thì vẫn có thể...’ Giọng ông trở nên mơ màng. Ông đang nghĩ mình sẽ tạo ra một đứa con như thế nào - một đứa bé trai, chắc chắn thế. Ông sẽ dạy nó cách chứng minh định lý Pythagore và cách đánh giá đúng chủ nghĩa kết cấu. Ông sẽ thảo luận về máy kéo với nó. Điều ba tôi nuối tiếc nhất là hai đứa con của ông đều là con gái. Trí tuệ kém cỏi, không đến nỗi phù phiếm và nữ tính như đám phụ nữ nói chung, nhưng vẫn là những sinh vật ồn ào, cứng đầu và không biết tôn ti trật tự. Đúng là bất hạnh cho đàn ông. Ba chưa bao giờ cố che giấu nỗi thất vọng của mình. ‘Ba à, con nghĩ trước khi làm chuyện gì, ba nên xin tư vấn pháp luật trước đã. Có thể mọi chuyện sẽ không như ba nghĩ. Ba có muốn con nói chuyện với luật sư không?’ ‘Tak tak.’ (Ừ... ừ.) ‘Con nên kiếm một luật sư ở Cambridge ấy. Có đủ yếu tố nước ngoài ở đó. Bọn họ nhất định biết chút ít về luật nhập cư’ Ông luôn tự động phân loại con người. Ông không có chút ý niệm gì về phân biệt chủng tộc cả. ‘OK, ba. Con sẽ ráng tìm một luật sư chuyên về luật nhập cư. Đừng làm gì cả cho đến khi con gọi lại cho ba.’ Viên luật sư là một chàng trai trẻ thạo việc ở một hãng luật trong khu ổ chuột. Anh ta viết: Nếu cha của bà muốn lập gia đình thì ông ấy cần phải nộp đơn tới Bộ Nội vụ xin cho vợ ông ấy ở lại. Để được chấp thuận, bà ấy cần phải thỏa mãn những điều kiện sau: Kết hôn không phải nhằm mục đích giúp bà ấy vào Anh hay ở lại Anh. Hai người đã gặp nhau. Hai người định sống chung lâu dài với tư cách là vợ chồng. Họ có thể tự trang trải cuộc sống mà không cần xin cứu trợ xã hội. Vấn đề chính là Bộ Nội vụ (hoặc Đại sứ quán nếu bà ấy nộp đơn bên ngoài nước Anh) rất có thể sẽ cho rằng bà ấy lấy chồng cốt chỉ để di dân sang Anh, bởi tuổi tác cách biệt và bởi đám cưới diễn ra quá gần ngày bà ấy phải rời khỏi Anh. Tôi chuyển lá thư đó cho ba tôi. Viên luật sư cũng nói với tôi rằng cơ hội thành công sẽ lớn hơn hẳn nếu cuộc hôn nhân kéo dài được năm năm hoặc hai người có con. Tôi không nói gì với ba tôi về chuyện này. Mời các bạn đón đọc Lược Sử Máy Kéo Bằng Tiếng Ukraina của tác giả Marina Lewycka & [Hồ Thanh Ái (dịch)].

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Chị Đào Chị Lý
Đây là một tác phẩm không quá bi kịch hay nổi bật so với nhiều tác phẩm khác. Nhưng câu chuyện toát lên một vẻ rất riêng. Một bà Ngọc tao nhã nhưng u buồn, một cô Đào vui vẻ, xởi lởi, một cậu Khánh điển trai, trí thức, một cô Lý nhạy cảm, dịu dàng và nhiều nhiều nhân vật mang màu sắc sinh động vô cùng. Tính triết lí trong truyện nói lên hệ luật nhân-quả, những gì mà bất cứ ai, ở bất cứ thời điểm nào cũng đều sẽ hành động như thế, cũng đều sẽ cảm nhận những hỉ nộ ái ố mà nhân vật trong truyện. Có lẽ “Chị Đào chị Lý” của Hồ Biểu Chánh là một trong số những truyện hiếm hoi mà tác giả viết màu sắc khá sinh động, không quá buồn như các tác phẩm khác và cũng không quá mang tính hài hước, một tác phẩm khá bình dị và mộc mạc về người Nam Bộ. Truyện là một chuỗi những sắc thái khác nhau của các nhân vật: bà Ngọc, cô Đào, cô Lý…Truyện là một bài học về cách đối nhân xử thế và để chúng ta hiểu thêm rằng “Gieo nhân nào, gặp quả nấy” vẫn là quy luật muôn đời. *** Có buồn rồi mới có được vui; có cực rồi, mới biết sướng. Bà Ngọc trải qua những nỗi buồn rầu cực khổ. Từ đây bà mới vui sướng mà sống với cảnh đời thân ái giữa con trai con gái với dâu rể hòa thuận một nhà. Có một điều làm cho người không hiểu tâm sự của con rể bà, họ có hơi thắc mắc, là Khánh kêu vợ là chị Đào mà Hoài cũng kêu vợ là chị Lý. Ai muốn hiểu sao tự ý, bà Ngọc cứ vui cười tối ngày." Hồ Biểu Chánh tên thật là Hồ Văn Trung, là một trong những nhà văn tiêu biểu nhất của Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900 - 1930. Tiểu thuyết của ông bao quát những mảng hiện thực, những nét văn hóa đặc trưng của Nam bộ vào những thập niên đầu thế kỷ 20. Đó là sự tha hóa của con người trước sự lớn lên vùn vụt của đầu óc trọng thương, là số phận đáng thương của những thường dân rơi vào cảnh cùng quẫn, là những câu chuyện thế sự giàu chất nhân văn của những con người trên vùng đất mới... Lối viết bình dị, ngôn ngữ gần với lời nói thường ngày là một ưu thế khiến tác phẩm của Hồ Biểu Chánh chiếm được cảm tình đặc biệt của người dân Nam Bộ. *** Thường nghe người ta nói "vật hoán tinh di, tang điền thương hải" 1 : mấy lời ấy thiệt không sai. Khúc đường từ chợ Thị Nghè sang chợ Bà Chiểu mới có mấy năm nay mà nó nổi danh xóm Hàng Sanh rộn rực tưng bừng. Quang cảnh đìu hiu ngày trước đã biến thành quang cảnh náo nhiệt không thua gì Phú Nhuận, Hòa Hưng, Vườn Lài hay Xóm Chiếu. Hai bên đường nhà phố cất liên tiếp giáp hết không còn chỗ trống mà chen vô ở được nữa. Tối ngày thiên hạ qua lại dập dìu, lại thêm đủ thứ xe tranh nhau chạy rần rần không ngớt. Đến đây ai cũng nhớ cách lối ba mươi năm về trước những người giàu có với những khách tầm hoa, chiều chiều hay mướn xe cyclo đi hứng gió. Hễ đi vòng chợ Bà Chiểu mà qua khỏi chợ Thị Nghè, thì từ mũi tàu, là chỗ sở Trường Tiền dượt thi đặng phát giấy phép lái xe hơi, vòng qua tới Cầu Mới, là ranh Châu Thành Bà Chiểu, hai bên đường đều là ruộng rẫy sình lầy, quang cảnh vắng vẻ im lìm, giống như quang cảnh thôn quê đồng bái. Nếu ở Thị Nghè mà ngó thẳng xuồng cầu kinh Thanh Đa thì thấy mấy đám dừa nước xơ rơ, gió chiều thổi tàu lá xổng lên rồi oặt xuống như chào khách nhàn du, lại có mấy cây bần rạch đứng chần ngần theo mé xẻo 2 , dưới gốc lác mọc bao chung quanh như lác trìu mến không nở bỏ bần, còn bần như tiếc nước ròng nên đứng ngóng trông nước mau lớn lại. Xóm bây giờ người ta gọi là xóm Hàng Sanh đó thì ngày trước chỉ có vài ba cái chòi lá nhỏ, lại nằm cách xa nhau, có lẽ chủ cố ý giấu kín đời sống nghèo khổ của mình nên không chịu ở gần nhau, tránh cho khuất mắt dòm ngó của thiên hạ. Cái chòi dựa bên đuờng; gần ngã ba quanh qua Bà Chiểu tuy có một căn lúm túm, song coi cao ráo sạch sẽ hơn mấy cái ngoài xa kia. Trước chòi có cái sân nhỏ trồng rau dừa 3 hai bên, trổ bông đủ bốn mùa, bông trắng chen với bông đỏ, coi có vẻ vui vui một chút. Bên hè có cây đu đủ ngọn lên cao gần ngang đầu song, cổ có tới vài chục trái, dưới lớn bằng cái chén ăn cơm, trên nhỏ như trái cau ăn trầu, chủ nhà bữa nào cũng thăm chừng, chồng trông mau chín mà ăn, vợ tính để dành mà bán. Chòi nầy là chòi của anh Lê Văn Thái, cất với vợ là Nguyễn Thị Hòa hơn ba năm rồi, phía trong có lót cái chõng để vợ chồng ngủ, có bếp để nấu cơm ăn và có một cặp thúng một đôi gióng và một đôi quang gánh, để cho chị Hòa mỗi ngày đi kiếm mua thơm, mít, ổi, gánh ra chợ bán. Phía ngoài một bên có lót một bộ ván dầu 4 nhỏ để nằm chơi, còn một bên để bàn lóc nhóc, với hai cái ghế đẩu để có ai tới thì mời ngồi nói chuyện. Cái chòi như vậy mà vợ chồng anh Thái hãnh diện, nói chuyện với ai anh cũng khoe "nhà của tôi". Mà vợ chồng anh khoe cũng phải, chòi dầu lớn dầu nhỏ, dầu tốt dầu xấu, không phải cướp giựt của ai, cũng đủ cho vợ chồng ảnh đụt nắng đụt mưa mấy năm rồi, cũng là cái tổ êm ấm cho vợ chồng ảnh hẩm hút giữa thân yêu hòa thuận. Anh Thái làm bên sở Ba Son. Vì anh không phải là thợ chuyên môn về nghề nào hết, nên không lãnh tiền công theo thầy hay thợ đuợc. Anh biết chữ Việt rành. Anh viết chữ tốt, lại biết nói tiếng Pháp cột quẹt. Người ta mới giao cho anh phát thẻ cho thợ thuyền, kiểm điểm số công nhân đi làm mỗi buổi đặng biên rồi giao cho xếp rồi xớ rớ coi dọn dẹp nhà giấy vậy thôi. Công việc của anh làm thì nhẹ nhàng, khoẻ khoắn, nhưng tại như vậy người ta cho anh lãnh tiền công có 9 cắc một ngày mà chúa nhựt nghỉ thì không được ăn tiền. Anh cực có một việc là mỗi buổi anh phải có mặt trước giờ sở mở cửa và mãn giờ anh phải chờ thợ thuyền ra hết rồi anh sẽ về sau. May anh là người biết lo, lại anh nhờ có chiếc xe máy cũ cỡi đi làm, bởi vậy không bao giờ anh đi trễ. Còn chị Hòa là vợ anh thì chị bãi buôi nhậm lẹ, chị giỏi nghề mua bán, tay bằng miệng miệng bằng tay. Hễ xế chồng đi làm rồi thì chị khóa cửa quảy thúng đi mua trái cây gánh về để sáng đem ra chợ Thị Nghè ngồi bán, kiếm lời mỗi bữa 5-7 cắc hoặc 1 đồng phụ với chồng mà sống cho no ấm. Vợ chồng đồng tâm hiệp ý sống với nhau trót ba năm trong cảnh đời tuy không phải trưởng giả song luôn no ấm an vui. Thời may chị Hòa có thai, vợ chồng đều mừng, mừng vì có dấu tích về tình yêu của vợ chồng khắng khít. Tuy nhiên mà rồi lại phải lo, lo dành cho có sẵn một số tiền để cho vợ ăn đẻ. Chị Hòa lại lo hễ có con thì chị mắc nuôi con, làm sao đi mua bán mà kiếm tiền thêm. Thái lo tiện tặn đến nỗi khuya ăn cơm nguội hoặc mua xôi hay bắp ăn đi làm, chớ không dám ngồi quán ăn hủ tiếu uống cà phê như trước nữa. Chiều cũng vậy, hễ làm việc mãn giờ thì tuốt về nhà ăn cơm, chớ không dám ta bà ăn nhậu với chúng bạn. Đến chừng chuyển bụng, may có anh Thái ở nhà anh đưa vợ vào nhà bảo sanh Thị Nghè mà nằm. Chị sanh một đứa con gái mạnh mẽ. Mới được một đứa con đầu lòng, dầu gái hay trai không cần, vợ chồng đều mừng rỡ, đặt cho con tên Đào, là tên một trái quí. Nhờ vợ chồng lo trước, nên chị Hòa đi sanh trong túi có sẵn 40 đồng bạc, khỏi bối rối chi hết, nhà nghèo nếu sanh mạnh giỏi thì nằm ba bốn bữa rồi thường người ta bồng con về. Tuy Hòa khoẻ khoắn, ăn cơm biết ngon, đủ sữa cho em bú, Thái muốn vợ nằm lâu cho có người săn sóc lại cô mụ cũng nài ép nằm cho đủ tám bữa, em rụng rún rồi sẽ về lại càng tốt hơn, bởi vậy Hòa ráng nằm cho đủ 6 bữa đi đứng cứng cát rồi chị cứ đòi về nhà nằm cho thong thả và lo cơm nước cho chồng. Thái phải chiều theo ý vợ mà thiệt anh cũng muốn vợ con về nhà đặng sum hiệp cho vui. Anh mới đóng tiền nhà thương và đền ơn cô mụ rồi kêu xe kéo rước vợ con về, trong túi còn được 9, 10 đồng bạc lại còn 6 bữa nữa tới kỳ lãnh tiền nên không lo gì lắm. Trót một tuần đầu vợ chồng vui vẻ cực điểm. Thái đi làm về hễ thấy con thức thì giành với vợ đặng bồng mà nựng nịu; còn nếu con ngủ thì đứng chống tay mà nhìn, thấy vợ còn non ngày anh không cho làm việc chi hết, mỗi bữa đi làm về anh ghé chợ mua thịt cá hoặc khô mắm đem về rồi phụ kho nấu đặng vợ chồng ăn với nhau. Mắc mừng vui với đứa con nằm ngoa ngoe, ngủ thì mụ bà dạy cười, thức thì huơi tay chòi cẳng, vợ chồng say sưa hạnh phúc, quên hết cảnh hẩm hiu, bần hàn. Vui được chừng mươi bữa, rồi không hiểu tại sao mà chị Hoà ăn cơm không biết ngon, lại còn thêm chứng nóng lạnh. Thái mua thuốc hoàn thuốc tán cho vợ uống mấy bữa không thấy công hiệu chút nào. Anh biểu vợ phải bồng em ra tiệm thuốc cho thầy coi mạch đặng hốt thuốc thang mà uống. Chị Hòa nói sợ tốn tiền nên nói đau sơ sịa ít bữa rồi mạnh, cần gì phải uống thuốc. Đã không có thuốc bổ để tiếp dưỡng sức khoẻ lại thêm nóng lạnh, miệng đắng nên mỗi bữa ráng lắm mới ăn được một chén cơm mà thôi, tự nhiên chị Hòa phải ốm, nước da phải mét. Mà đàn bà cho con bú hễ thiếu sức khoẻ thì sữa phải giảm. Sữa của Hòa lại giảm nhiều. Con nhỏ sanh tuy mới 20 ngày, nhưng không có đủ sữa cho nó bú nên ban đêm nó thức khóc hoài, làm cho Hòa phải bồng nó ngồi mà dỗ. Thái thấy vợ bịnh mà nghỉ không được nên mặc dầu không có tiền nhiều, đến chúa nhựt anh ép vợ bồng con đi với anh ra tiệm thuốc đặng thầy coi mạch hốt thuốc thang cho vợ uống. Uống liên tiếp ba bốn thang mà bịnh vẫn còn bịnh. Anh Thái đem toa ra than phiền với ông thầy thuốc. Ông đổi toa mới và uống luôn ba thang nữa, bịnh cũng trơ trơ, trưa cũng en en lạnh trùm mền rồi nóng ăn cơm không biết ngon, không đủ sữa con bú. Mỗi buổi đi làm về, Thái thấy vợ đau rề rề con khóc nhề nhệ, anh châu mày nhăn mặt, đi vo gạo nấu cơm, mà bận lòng rối trí muốn điên. Trong túi còn có mấy đồng bạc, nhưng ăn cơm rồi anh tuốt ra chợ mua một hộp sữa bò, một cái ve với cái núm vú rồi đem về khuấy sữa đổ vô ve cho con bú. Con nhỏ khát sữa nên nó chầm bú no bụng rồi nằm êm mà ngủ. Thái khuấy luôn một chén nữa rồi bưng ra ép vợ uống, anh ta nói ăn cơm không được thì uống sữa nó bổ cũng như cơm. Mời các bạn đón đọc Chị Đào Chị Lý của tác giả Hồ Biểu Chánh.
George Sand
Dịch giả : Đặng thị Hạnh và Lê Hồng Sâm Dịch nguyên bản tiếng Pháp George Sand   Cuốn sách này xuất bản trong khuôn khổ «  Chương trình hợp tác xuất bản, đưọc sự giúp đỡ của Trung tâm Văn hóa và Hợp tác Đại sứ quán Pháp tại nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ nghĩa Việt Nam (Cet ouvrage, publié dans le cadre du Progamme de participation à la publication, bénéficie du soutien du Centre Culturel et de Coopération de l’Ambassade de France en République Socialiste du Vietnam) Béatrice Didier là một giáo sư trường Đại học Sư phạm ( Phố Uhm, Paris) ; tác giả của nhiều tiểu luận ( Nhật ký thầm kín, văn viết - phụ nữ… ) về văn học Pháp thế kỷ XVII và thế kỷ XIX, đặc biệt về Stendhal và George Sand. Năm 1998 bà đã xuất bản ở PUF một tác phẩm, đầu đề lấy nguồn cảm hứng từ Flaubert : George Sand. Một giòng sông lớn châu Mỹ. bà là người chủ trì việc xuất bản toàn tập George Sand ở Honoré Champion, một công việc từ trước tới nay chưa bao giờ được thực hiện. George Sand «Với tư cách người sáng tạo ra kiệt tác, bà là người thứ nhất trong giới phụ nữ, bà có thứ hạng độc nhất đó, trên phương diện nghệ thuật, không phải chỉ của thời đại chúng ta mà của mọi thời đại; bà có trí tuệ mạnh mẽ nhất và cũng đáng yêu nhất đã được trao tặng cho giới của bà. Thưa Bà, bà làm vẻ vang cho thế kỷ và cho đất nước chúng ta […] Tôi xin cảm tạ bà vì đã là một tâm hồn lớn lao đến thế”. VICTOR HUGO, Thư gửi George Sand, Paris 19 tháng sáu năm 1875 ° ° ° Beatrice Didier là giáo sư trường Đại học Sư phạm (phố Uhm, Paris); tác giả của nhiều tiểu luận (Nhật ký thầm kín, Văn viết - phụ nữ...) về văn học Pháp thế kỷ XVII và thế kỷ XIX, đặc biệt về Stendhal và George Sand. Năm 1998 bà đã xuất bản ở PUF một tác phẩm, đầu đề lấy nguồn cảm hứng từ Flaubert: George Sand. Một giòng sông lớn châu Mỹ. Bà là người chủ trì việc xuất bản toàn tập George Sand ở Honoré Champion, một công việc từ trước tới nay chưa bao giờ được thực hiện.   Mở đầu Ai sợ George Sand ? Các phản ứng khó thương của một Baudelaire có lẽ là bắng chứng rõ ràng nhất về nỗi lo âu do bà gây nên. Trong một thời gian dài người phụ nữ - tác giả đã khiến người ta sợ, đặc biệt nếu người ấy chẳng chịu thôi làm phụ nữ. Ngay từ đầu vinh quang của bà đã có vầng hào quang tai tiếng bao quanh.  Điều này có vẻ đáng ngạc nhiên, bởi rốt cuộc thì trong thế kỷ XVIII của chúng ta, đông đảo nữ văn sĩ từng có tình nhân ; nhưng giữa thời gian ấy đã diễn ra cuộc Cách mạng, rất ít chú ý đến nữ quyền, cần phải thừa nhận như vậy : sau đó nền Đế chế, thời Trùng Hưng và triều đại Louis –Philippe biểu thị bước thoái bộ rất rõ trong việc giải phóng phụ nữ. Và dư luận công chúng, ở thế kỷ XIX, với sự phát triển của báo chí, các phương tiện trung gian để làm rùm beng vụ tai tiếng, những phương tiện mà thế kỷ trước không có. Trong một thời gian dài nền phê bình văn học, chịu ảnh hưởng của dư luận này, cứ khăng khăng thấy George Sand là người tình của Musset hay của Chopin, thay vì thấy bà là một đại văn hào, như chúng ta hiện nay. Điều đó lý giải tình trạng tương đối thất sủng của sáng tác George Sand. Tuy nhiên, sinh thời bà, một Balzac, một Flaubert và nhiều bậc khác coi bà là đồng đẳng với mình. Tại nước ngoài ảnh hưởng của bà hết sức lớn lao, thí dụ như với Dostoievski và với tiểu thuyết Nga, cả với tiểu thuyết Ý. Bà từng được việndẫn bởi tất cả những phụ nữ nhìn thấy ở bà một ngưòi giải phóng. Trong những năm đầu thế kỷ XX, Alaine và đặc biệt Marcel Proust coi bà là một đại văn hào. Sau đó, nhờ nhiều công trình từng in dấu ở nửa sau thế kỷ, hình ảnh của George Sand và công trình của bà đã định hình rõ rệt. Trước hết chúng ta hãy tỏ bày niềm kính trọng đối với việc xuất bản Thư Tín do Georges Lubin phụ trách, gồm hai mươi sáu tập dày, cho phép chúng ta xem xét cuộc sống của George Sand ngày này qua ngày khác, cuộc sống khác hẳn với những sự đơn giản hóa mà bà là nạn nhân, cho ta thấy khả năng làm việc khó tin nổi và theo dỏi công việc sáng tác của bà trong những nét lớn. Chúng ta cũng lưu ý cả nỗ lực đã được thực hiện trong lĩnh vực xuất bản, tuy vẫn còn chưa đủ. Cho đến nay chưa nhà xuất bản nào ấn hành một bộ tổng tập : Honoré Champion là nhà xuất bản đầu tiên khởi sự công trình này, sẽ phải được tiến hành trong nhiều năm. Các trường đại học đã đi vào nghiên cứu văn hào một cách nghiêm túc : trường Đại học Grenoble, với các công trình của..Cellier và L.Guichard, được học trò của các ông tiếp nối, trường Đại học Vérone, với A. Poli, các trường Đại học Paris VII, Amsterdam, Hanovra, các trường Đại học Mỹ … Tuy vậy vẫn còn rất nhiều việc cần làm.   Tiểu thuyết của George Sand, được viết với sự dung dị mà người ta thường chê trách bà, dễ đọc ; tuy nhiên nắm bắt toàn thể công trình của bà lại khó, trước hết do tầm rộng lớn của nó. Rất hiếm người có thể tự phụ là đã đọc chín mươi cuốn tiểu thuyết, các tác phẩm tự thuật, kịch, các bài báo, thư từ trao đổi của bà : giá như muốm làm, phải bỏ vào đó cả cuộc đời. Cho nên người ta thích tái bản những gì tất cả mọi người đều biết, thí dụ như các tiểu thuyết gọi là « đồng nội », và bỏ qua phần kịch, bị đánh giá nhầm lẫn là khó diễn. Tự giới hạn ở vài hình ảnh về George Sand do các thế hệ trước truyền lại thì dễ hơn: người đàn bà định mệnh, rồi « bà phu nhân hiền hậu của Nohant ». Trong chừng mực bà từng gây ra và còn đang gây ra những cách lý giải say sưa sôi nổi, lại cũng khó có được một cái nhìn tương đối khách quan và đừng phóng chiếu lên bà các sơ đồ của thế kỷ XXI chúng ta. George Sand nhà đấu tranh vì phụ nữ ư ? Một số người sẽ cho rằng bà đấu tranh chưa đủ. Sáp nhập bà với các nhà đấu tranh vì phụ nữ những năm 1970 là một việc làm nguy hiểm : sự giải phóng phụ nữ mà bà yêu cầu xét cho cùng khá hạn chế, khi sẵn sàng chấp nhận là những người phụ nữ thuộc mọi đẳng cấp xã hội không có cùng một phận vị. Nhưng cần đặt cuộc đấu tranh của bà vào thời đại bà, chứ không phải thời đại chúng ta. Georges Sand xã hội chủ nghĩa, bạn của Pierre Leroux, ủng hộ 1848, thậm chí tham gia hoạt động trong đó ? Nhưng người ta sẽ thấy chủ nghĩa xã hội ấy là rụt rè, người ta sẽ chê trách thái độ của bà trong thời kỳ Công xã. Cả ở đây nữa, cũng cần xác lập lại các viễn cảnh : năm 1848 và năm 1871 tuổi bà đã khác đi: bà đã sống ngày này qua ngày khác những biến cố mà chúng ta biết một cách tổng quát và theo phương pháp quy nạp, đối với những biến cố đó chúng ta có thể có một cách nhìn khác với những người đương thời. Một điều cũng gây khó nghĩ, đó là trong cuộc sống thọ của bà, George Sand đã tự đổi mới, đã ứng dụng những thể loại rất khác biệt và thật khó đưa bà vào các phạm trù đã định giới hạn. Bà từng được một công chúng hết sức rộng rãi đọc trong suốt thế kỷ XIX. Bà có là nhà sáng tạo những hình thức mới hay không ? Nhiều hơn người ta nghĩ. Bà có quan tâm đến bút pháp, hay như người ta từng khẳng định, bà viết những gì lướt qua óc mình ? Việc nghiên cứu các bản thảo chứng tỏ rằng, dù không chữa kỹ lưỡng như một Flaubert, song bà dụng công, chỉnh sửa, nâng cao, hơn người ta thường bảo rất nhiều. Các bạn đã đọc George Sand chưa? Cuốn sách nhỏ này muốn xui bạn hãy làm điều đó và đặc biệt là hãy phiêu lưu ngay (nếu việc đọc toàn bộ hầu như bất khả thực hiện) đến với những tác phẩm ít nổi tiếng hơn. Như thế bạn sẽ có được một khái niệm về sự phong phú, về tính đa dạng, về chất quảng đại trong văn chương của người được Flaubert ví với “một dòng sông lớn châu Mỹ”. Chú ý đến tác phẩm hơn là cuộc đời, chúng tôi sẽ theo trật tự thời gian trên những nét lớn, nhưng đồng thời có những tập hợp về thể loại để giúp nắm bắt đồng thời cả tính phức hợp cả sự nhất quán của công trình.   *** George Sand ưa nhấn mạnh sự kiện là do chính nguồn gốc gia đình mà bà thuộc về hai giới hết sức khác biệt. Giới quý tộc về bên nội, giới bình dân về bên ngoại. Vào thời kỳ hậu – cách mạng mà người ta mơ hòa giải xã hội, bà thấy nguồn gốc của mình như một biểu trưng cho sự liên kết các cực, cho phép bà thừa kế mọi tiềm năng của một  dân tộc. Amandine – Aurore – Lucile Dupin sinh ngày 12 tháng Messidor năm XII (1 tháng Bảy năm 1840) ở số nhà 15 (ngày nay là nhà số 46) phố Meslée hay Meslay, tại Paris.  Về bên nội, Aurore là dòng dõi của Maurice de Saxe, vị anh hùng trận Fontenoy và của nhiều chiến thắng khác, sau thành Thống chế nước Pháp. Ông có với Marie Rainteau một con gái ngoài giá thú: đó là bà nội của George Sand; được nuôi dạy tại nữ học hiệu Saint – Cyr, bà kết hôn với Louis Claude Dupin de Francueil, sáu mươi mốt tuổi khi bà hai mười chín, và sống với ông rất hạnh phúc, như sau này bà tâm sự với cháu gái. Xuất thân từ giới đại tài chính, ông qua đời trước Cách Mạng ba năm, để lại cho bà một gia sản khá lớn. năm 1793, bà tậu cơ ngơi Nohant, nhưng có bị giam giữ ít lâu dưới thời Khủng bố. Con trai bà, Maurice Dupin, sinh năm 1778, ước mơ vinh quang trong ngành quân sự và gia nhập đội Cộng Hoà. Anh lập công trong cuộc viễn chinh sang Ý, đặc biệt ở Marengo. Cũng ở bên ý, Maurice gặp Antoinette Sophie – Victoire Delaborde, bấy giờ đang là tình nhân của một chuẩn tướng. Nguồn gốc tầm thường, quá khứ hơi lộn xộn của thiếu phụ khiến Maurice giữ bí mật việc kết hôn tiến hành ngày 5 tháng Sáu năm 1804, một tháng trước khi George Sand tương lai chào đời. Sự nghiệp quân sự của Maurice Dupin tiếp tục cùng Đại quân: các cuộc viễn chinh sang Bavière, sang Phổ, sang Ba Lan và Tây ban Nha (ở đó Maurice là trợ lý cho hoàng thân Murat). Người vợ, lại có mang, sang Tây Ban Nha với chồng cùng cô bé Aurore 4 tuổi. Vậy là George Sand, cũng như Victor Hugo, có tuổi thơ in dấu của bản anh hùng ca Napoléon và của cuộc chiến khủng khiếp tại Tây Ban Nha. Những hình ảnh không thể nào quên đã khắc sâu vào ký ức những đứa trẻ còn rất non nớt về sau sẽ trở thành các đại văn hào lãng mạn chủ nghĩa. Cuối tháng 7 năm 1808, trở về Nohant, tiếp theo là hai biến cố đau thương: tháng 9, em trai George Sand chết, được một tháng tuổi, rồi đến người cha, vì ngã ngựa ở gần La Châtre. (vùng Creusse) Sau này nhà văn sẽ dành một phần lớn trong Truyện đời tôi để kể câu chuyện của cha mẹ, nhất là người cha? Sự hòa hợp các tầng lớp xã hội mà Sand mơ ước, bà đã cảm nhận những khó khăn ngay từ thời thơ ấu, và cảm nhận một cách đau đớn. Bà Daupin de Francueil, muốn đảm trách việc giáo dục cô bé, đã khiến người mẹ từ bỏ quyền giám hộ. George Sand tương lai sống thời thơ ấu ở Nohant, với các cuộc đến thăm ngắn ngủi của mẹ, và những khi bà nội nghỉ đông tại Paris thì cô bé gặp mẹ nhiều hơn. Cô bé thấy mình bị giằng xé giữa hai người thể coi là hai bà mẹ, cô yêu mến cả hai, nhưng cảm nhận được sự thù địch sâu xa giữa họ. Cho nên bộ tự truyện sau này sẽ bị lôi kéo bởi những nẻo đường khác nhau: lý tưởng hóa mối tình của bố mẹ, thiên tình sử bên Ý và sự ra đời của mình (“Ngày hôm ấy mẹ tôi mặc một tấm áo dài đẹp màu hồng, còn cha tôi đang chơi vĩ cầm Crémone của ông”, một truyện thần tiên), nhưng cũng diễn tả cả nỗi đau thực sự sau này của mình và biện hộ cho mẹ về việc hầu như bỏ rơi con, sự bỏ rơi có lẽ do ưu thế kinh tế của bà nội nhiều hơn là do điều mà Sand không thể hình dung nổi như thái độ thờ ơ. George Sand, nhìn chung thường ít gạch xóa bản thảo, để lộ niềm bối rối này qua cách viết đầy khăn khoăn dằn vặt ở những đoạn liên tưởng đến mẹ. Nhà văn cũng muốn, một cách hết sức công bằng, bộc bạch món nợ đối với người bà mà tính cách mạnh mẽ đã in dấu lên mình. Nhờ bà nội; George Sand được biết chế độ cũ, về mặt thời gian hãy còn rất gần, nhưng sự đứt đoạn là Cách mạng đã đột ngột đẩy lùi thật xa vào dĩ vãng. Ngoài ra, Nohant là chốn buông neo đích thực của Sand. Bà sẽ du hành, bà sẽ ở Paris, nhưng giống như Antée, bà luôn cảm thấy cần lấy lại sức mạnh từ mảnh đất của thời thơ ấu nơi mà sau này bà muốn sẽ là chốn yên nghỉ cuối cùng cho mình. Chính từ Nohant mà bà cảm thấy niềm say mê đối với miền quê và chính xác hơn là đối với miền Berry, sẽ là khung cảnh cho nhiều tiểu thuyết của bà. Cũng từ nơi đây mà bà có được sức khoẻ cường tráng ít khi suy giảm. Jean Louis François Deschartres, trước kia là gia sư của người cha, trở thành gia sư cho cô con gái, và sự đào tạo về trí tuệ của Aurore, mặc dù lộn xộn đôi chút, về tổng thể vững vàng hơn sự đào tạo mà đa số các cô gái thời đó được hấp thụ. Thư viện của bà nội, người từng quen biết Jean Jacques Rousseau, có nhiều sách, và cô bé thỏa mãn được niềm đam mê đọc sách sẽ bền vững nơi cô. Bà nội chơi phong cầm và hát; chính nhờ bà mà Sand có được cơ sở của một sự giáo dục về âm nhạc nghiêm chỉnh hơn sự giáo dục của rất nhiều nhà văn lãng mạn. Nhưng trong Truyện đời tôi, bà chú ý nhắc nhở rằng mẹ bà thuộc một gia đình bán chim, rằng con chim như một vật tổ của bà: bà nội, đó là âm nhạc bác học, mẹ, đó là âm nhạc của thiên nhiên, cả âm nhạc dân gian nữa; chúng ta sẽ gặp lâi hai phương diền này của lĩnh vực âm nhạc trong sáng tác của bà, và chúng ta sẽ thấy Consuelo hoà giải các phương diện đó ra sao. Mời các bạn đón đọc George Sand của tác giả Beatrice Didier.
Cô Gái Chúc Sơn
Mới hạ tuần tháng chín, trời chưa hẳn sang đông mà đã giá căm căm. Trên mặt sông lạnh tanh từ sáng đến trưa, con đò ngang mới chở được vài ba chuyến, mỗi chuyến lèo tèo dăm sáu người. Cảnh ngược xuôi tấp nập trên đường đê rộng thênh thang lượn dài theo con sông Đáy cũng không còn nữa. Trong túp lều tranh nhỏ xíu dựng nép bên đường, bà hàng tóc bạc phơ buồn bã ngó con đê vắng ngắt, giòng sông lạnh lẽo với con đò bơ vơ. Ngồi co ro trong tấm áo bông cánh còn mới, bà cụ chít lại chiếc khăn vuông nâu cho thật kín và nhớ lại những ngày đông vui đã qua. Nào mấy bà người làng te tái từ dưới bến lên vào uống bát nước chè tươi cho ấm bụng, nào mấy ông khách buôn, tay nải khoác chĩu một bên vai, sà xuống ghế làm một cút 1 rượu nhắm với đĩa lòng béo ngậy… Bà cụ nhớ cả những tiếng dép da trâu lẹp kẹp trên mặt đường, những tiếng nói chuyện ồn ào của những ông lái, bà lái không bao giờ ghé vào trong quán. Họ phải gồng gánh nặng và luôn luôn phải chạy gằn từng thôi 2 thẳng cho kịp giờ họp chợ. Nhớ cả đám trẻ con nô đùa dức lác… Chỉ có nghịch, chỉ có phá, nhưng mà vui. Còn bây giờ, nguyên cả một nồi chè đậu đãi chưa ai động đến với già nữa chõ xôi ngon thật là ngon. Cứ cái cung cách này chắc tối nay cả nhà phải ăn xôi chè trừ bữa… Có tiếng vang lên cùng với tiếng chân người bước tới. - Có nắng rồi !... Cũng sắp có đò nữa ! Hai người đàn ông hăm hở bước vào trong quán. Cả hai cùng cao lớn, vạm vỡ. Nét mặt và cử chỉ cùng lanh lợi. Và họ cùng đảo mắt xoi mói khắp nơi trong quán hẹp trước khi bóc mấy tấm bánh nếp ra ăn. Họ chỉ đưa mắt cho nhau chứ không nói chuyện bằng lời và chỉ ậm ự khi bà hàng đon đả mời họ dùng thêm thứ này thứ khác. Dưới sông, con đò đã gần sang tới bến. Họ trả tiền, đứng dậy. Mấy chiếc lá gói bánh bay lào xào, đuổi nhau trên mặt đê. Bà hàng ngước mặt lên nhìn khách : - Hai ông sang đò ? - Phải ! Đó là tiếng nói độc nhất mà một trong hai người đã miễn cưỡng buông ra trong quán nước. Y có một bộ râu quai nón khá đẹp. Họ bước xuống con đường dốc. Một tên ngoái lại nhìn thấy có ba người từ phía nam đi tới sắp bước vào trong quán. Bà hàng vồn vã : - Mời ba ông vào nghỉ chân sơi nước. Nắng xiên khoai chiếu vào đầy quán. Cả chủ lẫn khách khoan khoái ngâm mình trong ánh vàng ấm áp. Bà hàng một tay vươn ra lật ngửa mấy chiếc bát ở sát mép chõng, một tay ngoái ra đàng sau cầm cái gáo dài múc nước chè tươi rót cho khách. Hình ảnh ngộ nghĩnh y như một người đang quờ quạng bơi trong nắng. Bà suýt soa : - Mới tháng chín mà trời đã rét ngọt ! Đi đường lúc này chắc vất vả lắm, thưa ba ông ? - Phải !... Hàng có gì ăn không, bà cụ ? Ông khách có gương mặt nho nhã nhất lên tiếng hỏi. Bà hàng ân cần đáp, vẻ mừng hiện rõ trên đôi môi ăn trầu cắn chỉ 3 : - Thưa có ạ. Xôi lạc ngon lắm. Cả chè đậu đãi nữa. Xôi tôi để nguyên trong chõ, nóng hôi hổi. Để tôi cơi 4 ra đĩa, ba ông sơi thử. Người cao lớn nhất ngồi ngoài cùng cười nói oang oang : - Thôi, bà cụ cơi cho ông thầy tôi đây một đĩa xôi và hai chén chè là đủ. Còn bao nhiêu bà cụ cứ để đấy, hai anh em tôi lo cho. Hai người lực lưỡng như hai ông hộ pháp ăn như rồng cuốn nước trước sự ngạc nhiên và mừng rỡ của bà hàng. Tuy nhiên, những gì xẩy ra chung quanh cũng không qua được tai mắt họ. Dưới bến, chiếc đò ngang đã tới. Cô lái, người cao dong dỏng, cắm chiếc sào dài xuống đất cho thuyền ghé sát bờ. Khách quá giang ngưng bặt câu chuyện đang nói dở khi họ thấy hai người bịt khăn tùm hụp từ mặt đê xuống tới nơi. Họ lên bờ, lặng lẽ. Tên có hàm râu quai nón nhẩy tót xuống thuyền, nhẹ như chiếc lá. Mặt y lầm lì trong khi gã bạn đồng hành nhe hàm răng trắng nhởn cười nham nhở và làm bộ quờ quạng nắm cổ tay trắng nõn của cô lái như phải có một điểm tựa mới bước được lên thuyền. Sợ hãi, người con gái vội rụt tay lại và kéo theo luôn cả con sào. Mũi thuyền quay ngang hắt tên vô lễ lăn tòm xuống nước. Tiếng cười khoái trá vang trên mặt đê. Cười lớn nhất là hai ông khách ăn mạnh như hùm trong quán. Ông khách nho nhã vuốt chòm râu đen nhánh khen : - Hà hà ! Cô bé cũng là tay đáo để đấy chứ, phải không hai chú ? - Dạ. Thân thủ 5 khá lắm. Người thứ hai tiếp lời : - Còn phải nói ! Con gái Chúc Sơn mà ! - Ờ, trông cách cô bé gỡ tay rồi bước xéo chân khiến cho con thuyền tạt ngang, êm cứ như ru, cũng biết cô bé có nghệ chân truyền. - Vâng. Ngón nghề cô bé vào hạng cừ khôi đó, thưa thầy. Bà hàng bỗng thấy cao hứng, tươi cười nói xen vô : - Con gái họ Hoàng mà, thưa ba ông. Lúc thường thì ăn nói dịu dàng, dễ thương hết sức. Nhưng lúc cần dụng võ thì, nói ba ông bỏ lỗi, con trai lực điền cũng không bằng. Ông khách ngồi ngoài cùng ngó xuống mé sông, thích chí cười ha hả : - Chả thế mà hai tên kia biết thân phải ngồi yên một phép ! - Rét mướt thế này mà tên kia ướt như chuột lột… Kìa, cu cậu phải ngồi thu hình vào một xó cho đỡ lạnh, trông thảm hại chưa ! - Cho thế mới đáng đời ! - Hai đứa cũng là tay võ nghệ, sao chúng không gây sự nhỉ ? Bà hàng tươi cười giải thích : - Chúng nó không dám đâu ông ơi ! Một thằng là người làng làm chó săn cho giặc. Tôi nhận ra ngay khi nó mới bước chân vào trong quán. Còn thằng kia là Tầu. Đánh nhau trên bộ không biết sao, chứ giở giỏi ra trên thuyền thì chết với cô gái. - À, ra thế ! Có phải cô ấy là cô Sơn Ca không bà cụ ? Bà hàng ngạc nhiên : - Phải. Mà sao ông biết ? - Chúng tôi nghe người ta đồn. Bà hàng nhỉ, sao từ nẫy đến giờ, không thấy cô ta hát ? Nở một nụ cười cởi mở khi thấy hai ông hộ pháp đã ăn sạch nhẵn cả chõ xôi lẫn nồi chè, bà hàng kể rành rọt : - “Sơn Ca” không phải là tên thật cô ấy đâu, ông thầy ạ. Tên thật cô bé ấy là Mai, con ông Hương trưởng Tùng. Ngày nhỏ, nó hay hát, hát véo von suốt ngày nên người làng gọi đùa là con Sơn Ca, lâu dần thành tên. Nhớn lên, thấy nước nhà hoạn nạn, giặc lại hay sục sạo làm điều càn rỡ, bọn con gái biết lo không cười đùa ca hát nữa. Họ theo gót cha anh tập võ. Cụ Cử Chúc Sơn khen con bé Sơn Ca giỏi vào hạng nhất nhì làng tôi đấy. Ba thầy trò chưa kịp gợi chuyện thêm, bà cụ đã ướm lời hỏi trước : - Tôi già nua lẫn cẫn hỏi thế này khí không phải, ba ông bỏ lỗi cho nhé. Nghe nói ở đường trong, Bình Định Vương đã đánh đến Tây Đô 6 chả biết đến bao giờ Người mới dẹp được Đông Quan 7 để cho con dân được yên ổn làm ăn ? Ông khách nho nhã cười khiêm tốn đỡ lời : - Ấy chết ! Sao cụ lại hỏi chúng tôi điều ấy ? Chúng tôi cũng là con nhà làm ăn buôn bán như cụ, biết đâu được những việc xa xôi. - Các ông giấu già này cũng chả được. Nhác trông một cái già biết liền. Có điều già muốn nói ra hay không nói ra mà thôi. Này nhé, ba ông là người ngoài ta nhưng ở lâu trong ấy, giọng đã hơi nặng, tinh ý một chút là nhận ra ngay. Bàn tay của ông thầy trông xa cũng thấy là bàn tay cầm bút. Còn hai ông đây đúng là hai ông hổ tướng. Đố ai dám bảo các ông là người buôn bán hay làm việc thổ mộc 8 ! Một người tấm tắc khen : - Bà cụ vậy mà cũng biết xem tướng nữa cơ đấy ! - Chẳng qua là thói quen đấy thôi, các ông ạ. Chả là tôi bán quán đã lâu, khách cũng đông, mỗi người một vẻ, chả ai giống ai, mà tôi nhận xét ít khi lầm lẫn. *** Chân Phương là tác giả, nhà thơ, hiện sống tại Hoa Kỳ. Tác phẩm đã in (dưới bút hiệu Phương Sinh): Chú thích cho những ngày câm nín (1992), Bản án cho các vĩ cầm (1992), Nghĩa đen (1993), Bổ túc lý lịch cho loài di dân (1994) và Biển là một tờ kinh (1996). Mời các bạn đón đọc Cô Gái Chúc Sơn của tác giả Chân Phương.
Chờ Em Đến San Francisco
Truyện viết về Sài Gòn những năm 1980, qua suy nghĩ, qua hồi ức của một nhân vật nay đã là một phụ nữ trưởng thành. Truyện cũng xen vào những bối cảnh rất hiện đại ở các quốc gia châu Âu và Mỹ. Các địa danh như Chicago và San Francisco cũng được nhắc đến nhiều trong truyện. Đọc "Chờ em đến San Francisco", bạn đọc sẽ một lần nữa, được trở lại với Sài Gòn xưa, với những con người xưa và những tình cảm thiêng liêng một khi đã bước vào thì rất khó dể thoát ra...Một kết thúc mở cho cuộc tình giữa một cô gái với 2 chàng trai, cô sẽ lựa chọn ai?... "Một cô gái nuôi dưỡng tình cảm si mê của mình suốt hai mươi năm trời, tưởng không thể gặp lại người trong mộng. Nhưng một ngày, người tình thời thơ ấu đột ngột trở lại. Cô sẽ làm gì để giữ được tình yêu cũ trong khi tim cô cũng đang rối bời vì một người đàn ông khác vừa xuất hiện. Những chuyến bay, những khung cảnh lãng mạn của Paris, Chicago... và đặc biệt là khung cảnh Sài Gòn của hai mươi năm trước bồng bềnh hiện ra, xen giữa câu chuyện tình nóng bỏng." *** Review Nguyễn Ngọc Ánh Bạn có tin vào duyên số không? Những cuộc gặp gỡ, những mối tình, những kỷ niệm xen lẫn nụ cười và nước mắt,… cùng tất cả những thứ mà bạn đã nếm trải trên cuộc đời này, chúng đều là duyên số. Tôi đã nghe ở đâu đó nói rằng “Kiếp trước phải quay đầu nhìn nhau 500 lần, kiếp này mới có duyên gặp gỡ hay ở cạnh nhau”. Và tôi tin vào duyên số mà ông trời đã sắp đặt. Tôi tin một ngày nào đó, chúng ta – những người yêu nhau, dù có cách xa hàng nghìn cây số rồi cũng sẽ trở về bên nhau. Có lẽ, Dương Thụy cũng vậy khi xây dựng tình yêu của nhân vật An và Bình trong cuốn sách “Chờ em đến San Francisco”. Dương Thụy đã nhắc trong Lời nói đầu rằng “Cuốn sách này không dành cho những bạn đọc tuổi teen hay những bạn trẻ dưới ba mươi tuổi” và tôi cũng không phải đối tượng của cuốn sách này. Thế nhưng, tôi vẫn khuyên các bạn nên đọc, cho cái tuổi trẻ “thanh xuân” đang tràn ngập, cho cái thời áo trắng ngây ngô nhưng khao khát tình yêu. Cuốn sách là một câu chuyện nhẹ nhàng và lãng mạn như nước Pháp, pha chút bồng bột của tuổi trẻ, nhưng vẫn rất đáng yêu và chân thành. Mạch kể câu chuyện đan xen giữa những ký ức trong quá khứ và hiện tại qua suy nghĩ cùng hồi ức của nhân vật nữ chính nay đã là một phụ nữ trưởng thành. Đọc “Chờ em đến San Francisco”, bạn sẽ được sống lại thời bao cấp ở Sài Gòn vào những năm 80 của thế kỷ trước, khi cuộc sống còn nhiều thiếu thốn nhưng tình người thì vô cùng bao la. Dưới ngòi bút của Dương Thụy, một Sài Gòn rất khác, một Sài Gòn hào hoa, không quá nhộn nhịp mà gần gũi hơn, Sài Gòn những ngày nắng và trái tim của một cô gái với những rung động đầu đời nhưng cuối cùng cũng có một kết thúc tốt đẹp. Các ký sự về hành trình châu Âu, châu Á không những cung cấp kiến thức về con người, văn hóa, lịch sử của nơi đến mà còn đan xen những cảm nhận rất riêng, rất thật, rất đặc biệt dưới con mắt của nhà văn. Tôi đã đọc lại cuốn sách rất nhiều lần, tôi không nhớ chính xác mình đã đọc nó bao nhiêu lần khi tôi được tặng nữa. Nó thực sự hay. Cũng như những câu chuyện trước của Dương Thụy, các nhân vật trong câu chuyện này cũng có những chức vụ, địa vị khá cao trong xã hội. Ở hiện tại, An là một nhân viên của công ty dược phẩm nổi tiếng, đi đây đi đó khắp nơi như cơm bữa. Ngoài ra, sự xuất hiện của hai chàng trai là John – một doanh nhân ấm áp và lịch lãm, tự tay xây dựng doanh nghiệp của riêng mình và Bình – mối tình đầu ngây thơ của An, anh làm ở Apple với một vị trí mà “không có người để cho phép anh nghỉ” – một vị trí khá cao theo suy nghĩ của tôi, cả hai chàng trai đều đã để lại trong tôi những cảm xúc khó có thể diễn tả xuyên suốt câu chuyện. Trong chuyến đi công tác của mình, An tình cờ quen biết với chàng trai độc thân tên John trên máy bay, giữa họ nảy sinh những rung động sau vài lần gặp gỡ ở Chicago, nhưng khi nhận ra những rung động đó, An bắt đầu băn khoăn, cô chưa sẵn sàng cho một tình yêu mới. Trong quá khứ, An là một cô nữ sinh khiến biết bao thằng con trai trong xóm “thèm” với vẻ ngoài non trẻ của thiếu nữ 18 của mình, nhưng người duy nhất cô trao tình cảm là Bình – mối tình đầu của cô. Cái cảm giác nóng rẫy khi ngồi sau chiếc xe Dream của Bình trước khi anh xuất ngoại đó mãi là phút giây ngất ngây nhất đã làm cô không thể quên trong suốt những ngày tháng sau này. Duyên số đưa đẩy, An và Bình gặp lại nhau vào mùa thu Paris với những cơn gió rét ngọn, tình cảm giữa họ năm ấy vẫn còn đó, những lần cùng nhau học tiếng pháp, thu âm những bài hát tiếng pháp lãng mạn như vừa mới xảy ra. Bình gắn với tuổi thơ của An, gắn với những hồi ức về một thời khốn khó nhưng luôn tràn ngập niềm vui. Bình là Sài Gòn trong An, và quan trọng nhất, Bình là…mối tình đầu. Mối tình đầu chỉ khiến ta thôi nhớ, chứ chẳng thể nào khiến ta mãi mãi quên. An cũng vậy. Sau một khoảng thời gian quá dài, tưởng chừng như bóng hình Bình đã phai mờ trong kí ức cô, nhưng không, anh vẫn luôn ở đấy, ở một góc sâu thẳm trong trái tim của cô gái Sài Gòn. Thật may khi cả hai đều vì những bấp bênh của cuộc sống mà chưa kết hôn. Kết thúc câu chuyện, giữa một chàng trai người Mỹ lịch lãm vừa quen như John và mối tình đầu không thể quên là Bình, An buộc phải đưa ra chọn lựa cho chính mình. Và cô đã chọn Bình. Truyện không chỉ nói về tình yêu, mà còn về những con người xóm Tân Định, cuộc sống thời bao cấp, chị Hương qua đèo, các anh “cu”, và “non-cu”,… Tôi chỉ tiếc rằng mình không sinh ra ở thời ấy để có thể cảm nhận hết những gì Dương Thụy đã viết. Nhưng khi đọc nó và nghiền ngẫm, tôi vẫn có thể tưởng tượng ra một rạp phim tồi tàn cũ kỹ mang cái tên Văn Hoa đầy ắp những kỷ niệm đẹp giữa các nhân vật, có thể tưởng tượng ra một xóm nghèo như vô số những xóm nghèo bây giờ nhưng đầy ắp tình người. Thế nhưng tôi không làm sao hiểu cảm giác bị rệp cắn là thế nào, cũng không làm sao hiểu những thái độ kỳ thị nhau chỉ vì chế độ chính trị ở thời xưa. Với lối viết văn nhẹ nhàng mà giản dị, Dương Thụy đã xây dựng tính cách nhân vật nữ chính mà tôi thực sự yêu thích. Thông qua câu chuyện của nhân vật chính, nó cho ta bài học về tự đối mặt với chính bản thân mình, đối mặt với những cảm xúc sâu thẳm nhất trong tâm hồn chúng ta để có thể đưa ra sự lựa chọn không phải đúng đắn nhất mà là khiến chúng ta hạnh phúc, vui vẻ nhất một cách thực sự từ trong trái tim. Và tôi cũng đã thực sự bị quyến rũ bởi những bức tranh được vẽ ra về những chuyến bay, những khung cảnh lãng mạn của Paris, Chicago… và đặc biệt là khung cảnh Sài Gòn của mấy mươi năm trước bồng bềnh hiện ra, xen giữa câu chuyện tình nóng bỏng. Thế nhưng có lẽ vì câu chuyện theo mô típ cũ trong những cuốn sách trước đây mà tôi từng đọc của Dương Thụy nên với tôi, nó vẫn chưa thực sự đặc sắc, cùng với những sự khó hiểu trong một vài chi tiết của câu chuyện mà cô ấy đã viết, nếu có sự sáng tạo hơn nữa trong cách sáng tác thì cuốn sách này của Dương Thụy sẽ được tôi đánh giá cao hơn. Tuy nhiên với tôi, nó vẫn là cuốn sách mà tôi thực sự yêu thích. Và tôi nghĩ rằng bạn cũng sẽ cảm nhận được như thế khi bạn đọc được nó. Hãy đọc và cùng tôi cảm nhận. Mời các bạn đón đọc Chờ Em Đến San Francisco của tác giả Dương Thụy.