Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Con Chó Khoang Chạy Ven Bờ Biển - Chyngyz Torekulovich Aytmatov

Chyngyz Torekulovich Aytmatov (12/12/1928 - 10/6/2008) là một nhà văn người Kyrgyzstan. Ông đã viết các tác phẩm của mình bằng tiếng Nga và cả tiếng Kyrgyzstan, nổi tiếng với những sáng tác văn học về quê hương ông. *** Tác phẩm Truyện núi đồi và thảo nguyên (1963) Jamilya (1958) Cây phong non trùm khăn đỏ (1961) Người thầy đầu tiên (1962) Mắt lạc đà Vĩnh biệt Gyulsary (1966) Con tàu trắng (1970) Lên núi Phú Sĩ (đồng tác giả với Kaltay Mukhamedzhanov) Sếu đầu mùa (1975) Con chó khoang chạy trên bờ biển (1977) Và một ngày dài hơn thế kỷ (1980, sau đổi tên là Буранный полустанок) Đoạn đầu đài (1986) Тавро Кассандры, (1996) Встреча с одним бахаи (trò chuyện với Feyzolla Namdar, 1998) Когда падают горы (2006) Материнское поле (2012) *** Đêm ven biển tối như bưng bão hoà hơi ẩm và khí lạnh bay lang thang, trên suốt vùng duyên hải Ôkhôt, trên toàn mặt trận của biển và đất liền diễn ra cuộc đấu tranh muôn thuở, không gì kiềm chế được giữa hai lực lượng thiên nhiên: đất liền ngăn trở chuyển động của biển, biển tấn công đất liền. Biển ì ầm lồng lộn trong bóng tối, xông tới lao mình vào các mỏm đá, làm tung lên muôn vàn tia nước. Đất rắn như đá rên rỉ, gầm gào đánh bật những đòn dữ dội của biển. Biển và đất cứ quần nhau như thế kể từ thủa khai tịch, từ khi đêm bắt đầu là đêm, ngày bắt đầu là ngày và sẽ còn như thế mãi, ngày ngày và đêm đêm, chừng nào vẫn còn đất và nước trong dòng thời gian vô tận. Ngày ngày và đêm đêm… Lại một đêm nữa trôi qua. Đêm trước hôm ra khơi. Đêm ấy nó không ngủ. Lần đầu tiên trong đời, nó không ngủ, lần đầu tiên trong đời nó biết thế nào là mất ngủ. Nó háo hức mong ngày chóng đến để được băng ra biển. Nằm trên tấm da hải báo, nó cảm thấy đất rung chuyển nhè nhẹ, hầu như khó nhận biết do những đòn va đập của biển và nghe thấy sóng ầm ầm vật vã trong vịnh. Nó không ngủ, lắng nghe đêm tối… Ấy thế mà xưa kia, có một thời thế gian hoàn toàn khác. Bây giờ thật không thể tưởng tượng nổi một cảnh tượng như thế, bây giờ không ai hay biết điều đó, không ai ngờ đâu rằng nếu như thủa xa xưa đó, không có con vịt Luvrơ thì thế giới đã có thể được an bài khác hẳn: đất liền không chống lại nước, và nước không chống lại đất liền. Bởi vì thoạt kỳ thuỷ, thủa ban sơ, trong thiên nhiên không có đất, thậm chí không có lấy một hạt bụi. Bốn bề nước ngập mênh mông, chỉ toàn là nước. Nước từ nước sinh ra, trong cái vòng chu chuyển của mình, trong những vực thẳm đen ngòm, trong những xoáy nước vô lượng. Và sóng cuốn theo sóng, sóng tràn lan về mọi phía trong cái thế giới vô bờ bến lúc bấy giờ: chẳng từ đâu ra và chẳng đi về đâu. Còn con vịt Luvrơ, phải, đúng là thứ vịt trời bình thường, mỏ to bè mà ngày nay ta vẫn còn thấy bay từng đàn trên đầu chúng ta, hồi ấy nó bay lượn trên thế gian, trơ trọi có một mình và không biết đẻ trứng vào đâu. Khắp cõi trần chẳng có cái gì khác ngoài nước, không có lấy một cây sậy để có thể làm tổ. Vịt Luvrơ vừa kêu càng cạc vừa bay lượn, nó sợ nó sẽ không cố được, sẽ đẻ rơi trứng xuống cái vực biển không đáy. Bất kể nhằm hướng nào, bay tới đâu, vịt Luvrơ cũng chỉ thấy sóng vỗ dạt dào dưới cánh, bốn bề là nước cả mênh mông, không bờ không bến, không đầu không cuối. Vịt Luvrơ kiệt lực, thấy rõ rằng khắp thế gian này không có chỗ nào cho nó làm tổ. Thế là vịt Luvrơ đáp xuống nước, vặt lông ngực làm tổ. Chính từ cái tổ trôi nổi ấy mà đất đã bắt đầu hình thành. Dần dần đất lan rộng ra, dần dần mặt đất trở thành nơi cư ngụ của các sinh vật khác nhau. Trong số đó con người vượt hơn tất cả: con người biết dùng bàn trượt đi trên tuyết, biết dùng thuyền đi trên mặt nước. Người bắt đầu săn bắt thú, đánh bắt cá, nhờ đó tự nuôi sống mình và làm cho dòng giống mình sinh sôi nảy nở. Ôi, giá như vịt Luvrơ biết được thế gian sẽ khổ sở như thế nào khi đất rắn xuất hiện giữa vương quốc bao la của nước. Thật thế, từ khi đất xuất hiện, biển không thể yên lòng, biển tấn công đất liền, đất liền chống lại biển. Bị kẹt giữa hai lực lượng đó – giữa đất liền và biển, giữa biển và đất liền, con người lắm khi rất cực. Biển không ưa con người vì con người gắn bó với đất liền nhiều hơn… Sắp sáng rồi. Lại một đêm nữa qua đi, một ngày nữa ra đời. Giống như vành môi hươu trong làn hơi thở mờ mịt màn khói lam, trong bóng tối xám nhạt đang hửng sáng dần dần lộ rõ khoảng tiếp giáp dữ dội của biển và bờ biển. Biển thở phập phồng. Trên suốt khoảng tiếp giáp sục sôi giữa đất liền và biển hơi sương nhẹ bỗng, lạnh giá bốc lên cuồn cuộn, và khắp vùng duyên hải, suốt dọc bờ biển không ngớt dậy lên tiếng xậm xịch dai dẳng của sóng vỗ bờ. Sóng rất mực kiên gan: hết đợt này đến đợt khác, mỗi lúc một mãnh liệt hơn xông lên công phá, chồm lên bãi cát bồi rắn chắc, lạnh lẽo, vọt qua những đống đá chồng chất, trơn nhẫy màu nâu xạm, chồm lên với tất cả sức mạnh và khí thế của chúng, rồi theo nhau tàn lụi đi ở giới hạn tận cùng của mình như một hơi thở ra tụt lịm, để lại một lớp bọt tiêu tan trong khoảnh khắc và mùi ủng rữa của rong rêu bị khuấy đảo. Đôi lúc, sóng ném lên bờ cả những mảnh băng bị cuốn từ đâu tới không rõ theo dòng chuyển vận của đại dương mùa xuân. Những mảnh băng lạc loài bị vứt lên cát lập tức biến thành những mẩu kỳ quặc, bơ vơ của biển đã đông kết. Những đợt sóng tiếp theo nhanh chóng ào đến và lôi chúng trở lại thế giới tự nhiên của chúng. ... Mời các bạn đón đọc Con Chó Khoang Chạy Ven Bờ Biển của tác giả Chyngyz Torekulovich Aytmatov.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ame và Yuki - Những Đứa con của Sói - Hosoda Mamoru
Câu chuyện này nghe qua như cổ tích, vì nó mở đầu thật đẹp, và cũng thật ly kỳ. Người đẹp và quái vật, công chúa và con ếch… Tiếp nối bao nhiêu câu chuyện tình yêu nổi tiếng với mối duyên nhân - thú, Ame và Yuki - những đứa con của sói, cũng đã mở ra bằng tình cảm đẹp đẽ và bất chấp lẽ thường giữa hoa (Hana) và sói, để tạo ra tuyết (Yuki) và mưa (Ame).  Nhưng câu chuyện này, nếu là cổ tích thì cũng chỉ có một nửa thôi, còn một nửa nữa lại hiện thực đến bùi ngùi. Chẳng bao lâu con sói vì lao lực nuôi gia đình, đã chết trôi dưới gầm cầu, phơi ra khung xương sườn gầy giơ dưới những con mắt bàng quan của người đời. Hana từ đó một tay nuôi nấng hai đứa con lai giống khác thường với những vấn đề oái oăm. Chẳng hạn, khi chúng ốm thì nên đưa đi thú y hay đưa đi nhi khoa? Nên nuôi dạy chúng theo kiểu của sói hay như con người? Cố gắng che giấu thân phận thật sự của các con, cũng như cho chúng có cơ hội tự tìm lấy đường đi của chính mình, cuối cùng Hana đã ôm chúng lên một ngôi nhà trên núi, sống ở ranh giới giữa xã hội và thiên nhiên. Ame và Yuki - những đứa con của sói, là lăng kính về khó khăn của cha mẹ trong suốt quá trình sinh thành dưỡng dục cho đến khi gạt nước mắt thấu hiểu nhìn chúng lựa chọn đường đời của mình. Bởi thế, đây cũng là tụng ca đầy chất nhân văn về công lao và tấm lòng cha mẹ. *** Tác giả: Hosoda Mamoru Sinh năm 1967 tại tỉnh Toyama. Nhà sản xuất, đạo diễn phim hoạt hình nổi tiếng của Nhật Bản. "Nếu có nhà riêng thì thật là tốt. Sẽ được nói tôi về rồi đây, tháo giày, rửa mặt rửa tay rồi ngả người trên ghế. Cảm giác chắc hẳn rất dễ chịu. Tôi sẽ đóng một cái giá sách. Khi nó đầy tôi lại đóng giá mới. Làm gì cũng được vì đó là nhà của mình mà." Mở đầu theo phong cách cổ tích thơ mộng... Kế thừa mô típ tình yêu kỳ ảo giữa người và thú... Câu chuyện khởi nguồn bằng nhân duyên đẹp đẽ giữa sói và một cô gái tên hoa (Hana), từ đó sinh ra mưa và tuyết. Nhưng không gian cổ tích ấy mau chóng chấm dứt khi sói phải oằn mình xuống dưới gánh nặng mưu sinh, rồi chết, không trăng trối, không kịp gặp mặt lần cuối, và hơn hết thảy là để lại cho người vợ mong manh nhiều rắc rối khó lường trong việc nuôi dạy hai đứa con lai khác biệt. Lọc lấy những gian khó và băn khoăn điển hình nhất trong cuộc sống của một người mẹ đơn thân, rồi tái hiện chúng trong một không gian truyện mênh mang kỳ ảo, Ame và Yuki còn là khúc ca đẹp đẽ về công lao và tấm lòng của những người làm cha làm mẹ. *** Mưa vẫn tiếp tục rơi. Trên những mái nhà, những cánh đồng, những ruộng rau, những ngọn núi... Gia đình Hana trải qua mùa hè năm thứ bảy. Mưa lớn kỷ lục đã nhiều lần tấn công vùng đất này. Đây vốn dĩ là khu vực có nhiều mưa. Luồng không khí hút một lượng lớn hơi ẩm từ ngoài biển Nhật Bản vào, va chạm với dãy núi và tạo ra mưa. Vào mùa đông thì lạnh giá, có tuyết. Một lượng lớn nước được lưu trữ trong núi dưới dạng tuyết phủ và sang xuân thì tan chảy để tưới tiêu cho ruộng đồng. Vào mùa hè, nhờ dãy núi chắn ngang nên bão không tràn tới. Nơi đây trở thành vựa gạo hàng đầu, do đáp ứng được yếu tố địa hình phù hợp cho việc trồng lúa. Nhưng cứ vài năm lại có một lần hơi ẩm từ ngoài biển Nhật Bản tràn vào quá nhiều, đông đến tuyết rơi ồ ạt bao phủ trắng xóa khiến khu vực này trở thành một ốc đảo. Khi hè về, frông mưa kéo dài gây ảnh hưởng xấu đến khí hậu. Lượng ánh sáng ban ngày không đủ đã kìm hãm sự sinh trưởng của cây cối. Không chỉ có vậy, nhiều nông gia đã chuyển đổi từ ruộng đồng thành ruộng vườn theo chính sách cắt giảm, hệ thống tưới tiêu trên những mảnh đất nhiều sét vốn dành để trồng lúa bởi vậy không được chăm sóc nữa. Và khi mưa xối xả đổ xuống, nước thoát không kịp, dâng lên khắp ruộng đồng và gây úng ngập cho cây trồng. ... Mời các bạn đón đọc Ame và Yuki - Những Đứa con của Sói của tác giả Hosoda Mamoru.
Bồ Câu Cô Đơn - Larry Mcmurtry
"Hôm nay, không biềt bao nhiêu lần cổ xe mắc kẹt trong đất bùn nhão nhoét, và không biềt bao nhiêu lần nàng tự hỏi nàng đang làm gì một mình đơn cô trên cổ xe này với một nhóm người tim đường vô danh trong mưa gió lần theo bước chân những người tiên phong đã mất dấu. Những giọt mưa thấm từ vải mui xe dường như biết đích xác những chỗ áo mưa nàng bị rách. Chúng chảy dọc theo sống lưng nàng..." Một câu chuyện tình yêu và thiên anh hùng ca của vùng biên giới, Bồ câu cô đơn là cuốn tiểu thuyết vĩ đại nhất từng được viết về những vùng hoang dã cuối cùng, thách thức của Mỹ. Đẹp mắt trong từng câu chữ, câu chuyện sẽ làm cho độc giả cười, khóc, ước mơ và nhớ mãi. Tác phẩm cũng đã  được chuyển thể thành một bộ phim điện ảnh "bom tấn". Nhận định "Bồ câu cô đơn có đủ mọi thứ, trừ cái điều không thể đoán trước được. những nhân vật được khắc họa khéo léo hiện ra ở mỗi chỗ choặt. McMurtry biết rõ tình bằng hữu giữa các cao bồi trên đường chăn lùa bò. Ông biết lòng trung thành mà đàn ông ở vùng này của đất nước có đối với đàn bà. Trong tay ông, chuyến chăn lùa bò trở thành một cách xem xét mộtvấn đề cơ bản. Cách chúng ta sống là quan trọng hay cái mà chúng ta làm được mới thật sự là cần thiết?... Tuyệt tác. " (Wall Street Journal) *** Bồ Câu Cô Đơn (Lonesome dove) của Larry McMurtry là câu chuyện về một chuyến lùa bò đường trường, một khát vọng trong đó tình yêu và tình bạn là hai tuyến luôn làm chúng ta xúc động vì những biến diễn gập ghềnh không ai lường trước nhưng rút cục vẫn chỉ xoay quanh cái trục thủy chung hay bội bạc… Và nữa, anh hùng không trông ở thành hay bại mà trông ở tính cách người. Cho nên, một nhân vật chính chết, một nhân vật chính nữa vì giữ lời hứa đem xác bạn về mà vứt bỏ sự nghiệp lại sau lưng… Rất nhiều đường đất, rất nhiều gian nan, rất nhiều số phận, rất nhiều mừng tủi và chẳng ai giống ai… đó là những điều báo chí danh tiếng ở Mỹ nhất tề khen ngợi. Chúng ta đọc và sẽ thấy cả đến con vật trong truyện cũng rất Miền Tây: kiên cường, quật khởi, chuộng tự do đến lạ lùng. Lịch sử mỏng, nước Mỹ mượn dã sử thay vào. Mà nước Mỹ thì đầy dã sử, song có lẽ Miền Tây với những chặng đường chất ngất máu xương thì mang nhiều dã sử hơn bất kỳ nơi nào khác. *** Larry McMurtry sinh ra ở Archer City, Texas, cách Wichita Falls hai mươi lăm dặm, là con trai của Hazel Ruth (nhũ danh McIver) và William Jefferson McMurtry, một chủ nông trại. Ông lớn lên ở một nông trang bên ngoài Archer City, là mẫu hình của thị trấn Thalia xuất hiện trong nhiều tiểu thuyết của mình. Ông tốt nghiệp Đại học North Texas (B.A. 1958) và Đại học Rice (M.A. 1960). Ông được biết đến với tiểu thuyết Terms of Endearment năm 1975, Lonesome Dove năm 1985, giành giải Pulitzer năm 1986 và được chuyển thể thành phim truyền hình. Tiếp đó, ông cùng Diana Ossana viết kịch bản phim Brokeback Mountain (2005) và nhận giải Oscar. Mời các bạn đón đọc Bồ Câu Cô Đơn của tác giả Larry Mcmurtry.
Bên Phía Nhà Swann - Marcel Proust
"Rồi đột nhiên ký ức đó hiện ra. Mùi vị ấy chính là mùi vị mẩu bánh madeleine mà mỗi sáng chủ nhật ở Combray (vì ngày hôm ấy tôi không ra khỏi nhà trước giờ lễ mi xa), cô Léonie lại cho tôi sau khi đã chấm vào trà hoặc nước lá bồ đề, mỗi lần tôi đến chào cô trong phòng cô ở. Trước đây, khi chưa nếm vị của nó, tôi chẳng nhớ gì mỗi lần nhìn thấy cái bánh madeleine nhỏ[...] Nhưng khi, của một thời quá vãng đã chẳng còn lại một chút gì, khi người đã chết, sự vật đã bị hủy diệt, thì duy nhất vẫn còn lại đó, mỏng manh nhưng dai dẳng, không hình hài nhưng bền vững thủy chung, hương và vị vẫn còn ở đó rất lâu, như những linh hồn, để tưởng nhớ, chờ đợi và hy vọng, giữa cái hoang tàn của tất cả, và không hề nao núng, để mang trên cái giọt mong manh của chúng, cả dinh thự mênh mông của hoài niệm." Bên phía nhà Swann là tập đầu tiên trong bộ tiểu thuyết đồ sộ Đi tìm thời gian đã mất của một trong những văn hào lớn nhất của nước Pháp và của thế giới, Marcel Proust. Cách đây một trăm năm, trong lần xuất bản đầu tiên, nó từng là chủ đề tranh luận của mọi diễn đàn văn học. Một trăm năm sau, người ta vẫn không ngừng viết, nói, tranh luận về nó. Đi tìm thời gian đã mất thực sự là một khởi thuỷ cho nền tiểu thuyết hiện đại, với bút pháp mới lạ, với những chủ đề được bàn luận sâu rộng và đầy chất thơ về nghệ thuật và triết học, về hồi ức và thời gian... Tác phẩm từ lâu đã là niềm kiêu hãnh của văn chương Pháp, là một cuốn Kinh thánh văn chương cho mọi tác gia cũng như người đọc văn học. Trọn bộ Đi tìm thời gian đã mất của Marcel Proust: - Bên phía nhà Swann - Dưới bóng những cô gái đương hoa - Về phía nhà Guermantes - Sodome và Gomorrhe - Cô gái bị cầm tù - Albertine biến mất - Thời gian tìm lại được *** Trong lịch sử văn học thế giới, có những cuốn sách mà ngay từ khi mới ra đời, tự bản thân nó đã tạo nên những nghịch lí, gây nhiều tranh cãi, cho đến tận hôm nay: một mặt nó được xếp vào hàng những kiệt tác, được ca ngợi, tán dương, người ta “hỉ hả” với nó, coi việc xuất bản nó là một việc làm rất kịp thời, nhờ nó mà thế giới văn học được vinh danh; mặt khác, cuốn sách và tác giả của nó nó lại từng chịu nhiều “xỉ vả”, từng bị gắn cho những “mĩ từ” không mấy hay ho: bệnh hoạn, suy đồi, điên rồ, rỗi hơi… Đó là các trường hợp “Ulysses” của James Joyce, “Lolita” của Nabokov, “Vụ án”, “Lâu đài”, “Nước Mĩ” của France Kafka. “Bên phía nhà Swann” (trong bộ tiểu thuyết Đi tìm thời gian đã mất của M. Proust) cũng nằm trong số những “kiệt tác điên rồ” như thế…   Tuy đã rất cố gắng, nhưng như một dịch giả trong nhóm vẫn đã nói: “Tiếc rằng chúng ta không dịch được hay hơn”. Để lại một đôi chỗ sai sót là điều đáng trách, nhưng quan trọng hơn, họ cảm thấy ít có bản dịch đầu tiên nào lại có thể chuyển tải được hết “hồn” của tác phẩm và “giọng” của Marcel Proust. Một nhà văn lớn của Pháp, đồng thời cũng là một dịch giả “có hạng” (Yourcena) thì cho rằng: “Sự thực là vẫn có những cái mà bản dịch không thể hiện hết được, trong khi nghệ thuật dịch phải là không để mất một cái gì. Như vậy không bao giờ chúng ta vừa lòng được". Việc này giải thích tại sao các tác phẩm lớn như của Proust được dịch nhiều lần ở các nước trên thế giới. Vậy nên cánh cửa vẫn mở rộng đối với tất cả ai yêu thích và có lòng muốn dịch lại một tác giả mà toàn bộ 7 tập sách của ông được gọi là “Tiểu thuyết - Mẹ của văn học Pháp thế kỉ XX”. Đó là công việc rất đáng nên làm.  *** Marcel Proust sinh ngày 10 tháng Bảy năm 1871 tại khu phố Auteuil, nay thuộc quận XVI, Paris. Cha ông là bác sĩ, người mẹ thông minh, có học thức, mà ông vô cùng yêu quý, thuộc một gia đình doanh nhân Do Thái giàu có. Một cơn hen nguy kịch khi Proust chín tuổi sẽ ảnh hưởng đến ông suốt đời. Với sức khỏe mong manh, Proust vẫn đạt những kết quả xuất sắc ở trường trung học và đỗ tú tài năm 1889, sau đó tình nguyện đăng lính một năm, nhưng không phải sống trong quân ngũ. Năm 1893, ông đỗ cử nhân Luật, năm 1895, đỗ cử nhân văn chương. Thời gian này, ông bắt đầu lui tới các thính phòng văn chương, tham gia cuộc sống thượng lưu, đi du lịch nhiều nơi. Ông cũng bắt đầu viết, dịch, cộng tác với một vài tời báo, tạp chí. Năm 1903, cha Proust qua đời, năm 1905, đến lượt bà mẹ. Đơn độc, buồn đau, ốm yếu, Proust rời ngôi nhà sang trọng nơi ông sống cùng bố mẹ từ năm 1900, chuyển đến căn hộ cũ của người cậu đã mất, tại phố Haussmann, và lưu lại đó mười hai năm, từ cuối 1906 đến cuối 1918, khi căn hộ bị bán đi. Cho tới khi qua đời, ông còn đổi chỗ ở hai lần nữa. Từ đầu mùa hạ 1909, Proust sống ẩn dật, giam mình trong phòng riêng cửa đóng kín, sàn nhà, các bức tường và trần rất cao đều được lót những lớp bần, không để lọt một tiếng động. Ông muốn từ nay chỉ sống cho tác phẩm lớn, duy nhất, của đời mình. Ban đêm, đôi khi ông còn ra khỏi nhà, chỉ vì cần gặp lại một số người mà ông nói tới, trong quá trình tái tạo “tòa dinh thự mênh mông của hoài niệm”. Năm 1912, Proust gửi bản thảo Bên phía nhà Swann đến một số nhà xuất bản (trong đó có La Nouvelle Revue Française – mà André Gide là một trong những người sáng lập – sau này là nhà Gallimard), nhưng đều bị từ chối. Trả lời một trong những người bạn của Proust, đã vận động giúp ông, đại diện nhà xuất bản Ollendorff viết: “Chắc tôi phải hết sức ù lì, nhưng tôi không sao hiểu nổi một quý ông có thể sử dụng ba chục trang để miêu tả ông ta trăn trở trên giường như thế nào, trước khi ngủ được.” Cuối cùng, tháng Mười một năm 1913, Bên phía nhà Swann được in bằng tiền của tác giả, ở nhà xuất bản Grasset. Tháng Giêng 1914, André Gide viết thư cho Proust, nói rằng ông yêu thích tác phẩm biết mấy và “việc từ chối cuốn sách là sai lầm nghiêm trọng nhất của Nouvelle Revue Française và (…) một trong những ăn năn hối tiếc chua xót nhất của đời tôi”. Nhà xuất bản cũng đề nghị ra những tập tiếp theo của Proust, nhưng đại chiến thế giới khiến mọi việc phải ngừng lại. Tháng Sáu 1919, Dưới bóng những thiếu nữ đương hoa được Gallimard xuất bản, và cuối năm đoạt giải Goncourt, Proust thành nhà văn nổi tiếng trong giới trí thức. Về phía nhà Guermantes I ra đời năm 1920. Năm sau, 1921, là Về phía nhà Guermantes II, rồi Sodome và Gomorrhe I. Giữa năm ấy, Proust ốm nặng và lo mình không thể viết xong phần cuối của Cô gái bị cầm tù. Tháng Tư 1922, Sodome và Gomorrhe II được in. Ngày 19 tháng Mười, ra khỏi nhà chốc lát để đến một dạ tiệc, nhà văn bị nhiễm lạnh, rồi viêm phổi. Những người túc trực bên ông, bác sĩ Robert Proust người em trai, Odilon tài xế trung thành thân tín, Céleste vợ anh, cô thư ký thông minh tận tụy, đều sợ hãi nghĩ rằng ông “đã bước chân vào phòng chờ của cái chết”. Trong khi đó, nhà văn chỉ lưu tâm đến những trang bản thảo ngổn ngang quanh giường, mỗi khi đỡ bệnh lại sửa chữa một số câu, chữ, có đêm còn đọc cho Céleste viết cả một đoạn để đưa thêm vào tập sách sắp in. Ngày 18 tháng Mười một năm 1922, Proust qua đời. Năm 1923, Cô gái bị cầm tù được xuất bản, năm 1925 là Albertine mất tích – thoạt tiên được Proust đặt nhan đề Cô gái chạy trốn – và tập cuối cùng, Thời gian tìm lại được, ra mắt năm 1927.   Mời các bạn đón đọc Bên Phía Nhà Swann của tác giả Marcel Proust.
Một Chuyến Đi Xa - Đào Hiếu
Những năm kháng chiến chống Mỹ đã để lại cho dân tộc Việt Nam nỗi đau khôn xiết, dân chúng cơ cực lầm than, biết bao cảnh chia ly đầy nước mắt, biết bao nỗi đau mất đi người ruột thịt đã diễn ra… Mẫn, một cậu bé mồ côi quê ở Bình Định đã phải tự lăn lộn kiêm sống từng ngày trong hoàn cảnh chiến tranh tàn khốc, trải qua bao đắng cay tủi nhục, cộng với niềm căm phẫn bè lũ tay sai Mỹ tàn bạo, bất nhân, em đã tham gia cách mạng theo anh Tuấn. Truyện là bài ca về lòng yêu nước của một thế hệ trẻ những năm chống Mỹ, một thông điệp đầy ý nghĩa mà câu chuyện truyền tải đến các bạn nhỏ, các em hãy nhớ rằng: dù trong thời đại nào thì lòng yêu nước vẫn luôn là một thứ vũ khí mạnh, và nó luôn cần được gìn giữ, phát huy. *** Đào Hiếu (sinh năm 1946), tên khai sinh: Đào Chí Hiếu. Các bút danh khác: Biển Hồ, Đào Duy. Hiện ông là hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Đào Hiếu, sinh ngày 10 tháng 2 năm 1946 tại Tây Sơn, tỉnh Bình Định. Ông sớm gia nhập phong trào sinh viên cách mạng tại Quy Nhơn. Năm 1968 ông gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Năm 1970 ông bị bắt quân dịch và trở thành binh nhì sư đoàn 22 Quân lực Việt Nam Cộng hoà. Sau sáu tháng, ông trốn vào Sài Gòn bắt liên lạc với Tổng hội sinh viên hoc sinh để tiếp tục hoạt động chống Mỹ đến ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ông tốt nghiệp cử nhân văn chương trước 1975 tại Sài Gòn. Từng làm phóng viên báo Tuổi Trẻ và Nhà xuất bản Trẻ. Hiện Đào Hiếu sống và viết tại TP. Hồ Chí Minh. Truyện dài Giữa cơn lốc, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1978. Một chuyến đi xa, Nhà xuất bản Măng Non, 1984, nxb Trẻ 1994. Qua sông, Nhà xuất bản Văn Nghệ, 1986. Vùng biển mất tích, Nhà xuất bản Đồng Nai 1987. Vượt biển, Nhà xuất bản Trẻ 1988, 1995. Vua Mèo, Nhà xuất bản Trẻ 1989. Người tình cũ, Nhà xuất bản Văn Nghệ 1989. Kẻ tử đạo cuối cùng, Nhà xuất bản Trẻ 1989. Thung lũng ảo vọng, Nhà xuất bản Trẻ 1989. Hoa dại lang thang, Nhà xuất bản Văn Học 1990. Trong vòng tay người khác, Nhà xuất bản Tác phẩm Mới 1990. Kỷ niệm đàn bà, Nhà xuất bản Văn Nghệ 1990. Nổi loạn, Nhà xuất bản Hội Nhà Văn 1993. Lạc Đường (tự truyện), Nhà xuất bản Giấy Vụn 2008, Nhà xuất bản Kim Thư Production USA 2008. Tuyển tập Đào Hiếu (tập 1 và tập 2) Nhà xuất bản Kim Thư Production USA 12. 2009. Mạt lộ, Nhà xuất bản Lề Bên Trái (tự xuất bản)[1], 03. 2009. Người Đàn Bà Trên Đồi Cỏ Vua Mèo Nữ Quái ... Truyện ngắn và tạp văn Bầy chim sẻ, Nhà xuất bản Văn Nghệ 1982. Những bông hồng muộn, Nhà xuất bản Trẻ 1999. Tình địch, Nhà xuất bản Trẻ 2003. Thơ Đường phố và thềm nhà, Nhà xuất bản Trẻ 2004. *** M ẫn ngồi xếp các giấy bạc, vừa bạc một trăm, vừa bạc năm chục, bạc hai chục vào một gói lớn, hai mươi bảy ngàn. Số tiền nó dành dụm hơn một năm nay. Số tiền vắt ra từ mồ hôi nước mắt. Bao nhiêu ấy nếu xây một ngôi mộ cho mẹ nó cũng không phải là thiếu, nhưng biết làm sao bây giờ? Mẫn chưa thể trở về quê để thực hiện điều mong ước ngay được. Sự căm thù đã choán cả tâm hồn nó. Mẫn sẽ về xây cho mẹ ngôi mộ đẹp sau này, khi mà không còn một thằng giặc Mỹ nào trên đất nước thân yêu. Mẫn ngồi nhìn gói bạc rất lâu rồi quyết định viết một bức thư để lại. Nó cầm bút lên tay, suy nghĩ. Nó có nhiều điều muốn nói, muốn dặn dò gởi gắm lại. Nó muốn viết những lời cám ơn dì Tư, muốn diễn tả tình cảm của mình với Lý. Nó muốn giải thích tại sao nó ra đi nhưng không biết mở đầu thế nào, diễn ý ra sao. Nó bỏ bút xuống bàn, suy nghĩ giây lát rồi cầm bút lên hí hoáy viết: Con nhờ dì trao lại số tiền này cho chị Hợi đề chị ấy trả nợ, lo chôn cất anh Hợi và tìm cách buôn bán lặt vặt chi đó mà nuôi thằng Hà, nếu không nó sẽ trở thành một kẻ trộm cắp vì không có tiền để sống. Con xin cám ơn dì và em Lý Mẫn ký tên nguệch ngoạc rồi xếp thư lại, cột chung trong gói bạc và đem nhét vào vali dì Tư. Xong, nó trở ra chái nhà lấy trái lựu đạn nhét vô túi quần rồi bước ra cửa. Khi ra đến đường cái tự nhiên nó muốn ghé lại đằng chỗ Lý một lát. Nó đứng tần ngần chỗ trạm xe buýt khá lâu. Xế chiều, trời oi bức lạ lùng và cơn mưa giông ở đâu ập tới đột ngột trên mái nhà, trên những trần xe chạy ngang qua phố. Mẫn chạy vô núp dưới mái hiên. Cơn mưa kéo dài, sấm chớp giăng ngang khung trời đục ngầu, gió mạnh tạt qua mặt đường cuốn hơi nước thành từng mảng sương trắng như bông. Đường phố lấp lánh muôn ngàn vết đèn màu. Chiếc xe buýt dài thoòng ghé lại, hành khách đội mưa chạy ra, hấp tấp leo lên xe nhưng Mẫn vẫn đứng im. Có nên gặp Lý một lần trước khi đi không? Nếu biết mình ra đi chắc Lý buồn lắm. Nó sẽ khóc… Mẫn ngửa mặt nhìn vòm trời sáng như bạc. Một chiếc xe buýt nữa lại ghé vào trạm, lần này Mẫn chạy ra và lên xe. Lý ơi! Tạm biệt em, tạm biệt những kỷ niệm êm đềm giữa chúng ta. Chuyến xe đi thật nhanh qua thành phố. Khi cánh cửa căn nhà quen thuộc mở ra, Mẫn chậm rãi bước vào nhà, quần áo ướt sũng, nước chảy ròng ròng xuống sàn gỗ. ... Mời các bạn đón đọc Một Chuyến Đi Xa của tác giả Đào Hiếu.