Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tôi Của Mùa Hè Năm Ấy

“Đôi lúc, anh khao khát đến điên cuồng một lần được quay trở lại những năm tháng ấy, những năm tháng chúng ta gần cạnh bên nhau, anh sẽ nói với em rằng anh đã thương lắm, ngay từ giây phút đầu…” Je Hee, anh chàng lớp trưởng điển trai năm nào mang theo thứ tình cảm đẹp đẽ của những tháng năm học trò đến tận 10 năm trời đằng đẵng. 10 năm trời ôm những giấc mộng dở dang về một cô nàng lớp phó Jae Lee xinh đẹp, học giỏi. 10 năm trời nuôi trong mình bao mộng tưởng và cả những nuối tiếc. Chân thành đó, kể hết làm sao? Và rồi, định mệnh đã để cho họ gặp lại nhau. Tình cờ như cái cách trái tim cậu bé lớp trường năm nào rung động vì cô nàng lớp phó luôn đối đầu, khó chịu với mình. Tình yêu luôn là một câu chuyện khó đoán định. Ai bên ai, không chỉ vì sự cố gắng, sự yêu thích của bản thân, vì lòng người mà quyết định được. Đôi lúc, tất cả đều phải nhờ vào duyên số, vào ông trời. Nhưng đường chỉ tay nằm trong lòng bàn tay, nếu ta không thể tự quyết định thì cũng có thể dùng sự chân thành và kiên định của mình để thay đổi. 10 năm, một tình yêu, một con người, có lẽ là quá đủ để cảm hóa cuộc đời, cảm hóa định mệnh. “Chúng ta đã may mắn được gặp lại nhau, nhưng anh biết phải làm sao để nói hết tâm tư này?” Liệu trong cơ hội cuối cùng này, Je Hee có thể thổ lộ hết mọi tình cảm chất chứa trong lòng cùng người con gái mà anh thương thầm suốt bao nhiêu năm? Chuyện tình cảm có suôn sẻ như những gì anh thường nghĩ? Những sóng gió, hờn ghen và cả đố kị, nhưng rồi tình yêu sẽ vượt lên tất cả. Có chắc là như vậy? Cùng đón đọc Tôi của mùa hè năm ấy – cuốn sách dịu ngọt như cơn mưa mát lành giữa ngày hè oi ả. Tuổi trẻ là những năm tháng ướt mưa, nhưng ai cũng luôn muốn quay trở lại là mình những năm tháng ấy để nói nốt những việc chưa kịp nói, làm nốt những việc chưa kịp làm! *** Bạn của mùa hè những năm tháng trung học là một người như thế nào? Chàng trai/ cô gái năm ấy bạn từng thầm thương trộm nhớ giờ ra sao? Cuốn tiểu thuyết Tôi của mùa hè năm ấy  - Choi Soo Huyn là câu chuyện về một thời như thế. Họ là lớp trưởng và lớp phó thời trung học, mà đoán chắc là đã từng có một tình cảm không đơn giản chỉ là tình bạn đơn thuần. Gần chục năm sau họ mới tình cờ gặp lại, và mùa hè của khoảng mười năm trước ấy bỗng lại trở về. Một thời trung học đáng nhớ Cô của mùa hè năm ấy, đã từng ước sẽ trở thành cô sinh viên của Đại Học Thú Y, từng mong có thể cùng cậu ấy bước qua những năm tháng thanh xuân tươi đẹp. Nhưng cuối cùng cô đã phải bỏ lại tất cả, để “chạy trốn” hoàn cảnh. Cô ấy có hối hận không? Thực ra thì một lúc nào đó, cô có suy nghĩ đến chuyện hối hận. Hối hận vì đã không nói ra sự thật với cậu ấy, hối hận vì đã để cậu ấy phải khổ sở tìm mình trong khoảng thời gian dài như vậy. Nhưng nếu không “chạy trốn” thì cô không thể biết rằng, cậu ấy thích cô nhiều đến vậy, một người có vẻ lạnh lùng như cậu lại có thể vì cô mà thay đổi bản thân mình đến thế. Cô – Lee Jae Lee, lớp phó của lớp 3 năm 3 một trường trung học. Cậu – Yoon Je Hee, lớp trưởng. Vì có tên phát âm gần giống nhau, nên rất nhiều lần gọi một người mà cả hai người lên tiếng. Khác với vẻ ái ngại của cô, cậu tỏ vẻ hơi bực tức và khó chịu. Je Hee lạnh lùng còn Jae Lee thì dịu dàng, từ tốn. Đối với công việc chung của lớp, nếu không phải là cô luôn chủ động làm thì cậu cũng chẳng bao giờ quan tâm vì cậu ấy thực ra không muốn nhận nhiệm vụ này, vì có thành tích tốt nhất nên thầy cô đã ủy thác trách nhiệm này cho cậu. May mà có cô nên công việc của lớp mới được hoàn thành. Nhờ có những lần bất đắc dĩ phải cùng làm việc với nhau, Je Hee đã cảm nắng cô lớp phó xinh đẹp dịu dàng này từ lúc nào không hay. Cậu đã chịu đứng lên bục giảng thông báo nhiệm vụ cho cả lớp, chịu cùng cô đi nộp bài kiểm tra cho thầy thay vì lạnh lùng bỏ mặc những phong trào chung như trước. Hai người chia sẻ nhiều hơn về việc thi trường nào, thích cái gì và sau này sẽ muốn trở thành ai. Vì biết Jae Lee học chưa tốt môn toán, Je Hee còn chủ động đề xuất sẽ kèm cô học bài sau giờ tan học. Vậy là cứ khi các bạn tan học về nhà, hai vị lớp trưởng lớp phó của lớp ấy lại ngồi lại học bài và giải đề. Những năm tháng ấy, những ngày chỉ biết đến sách vở và bạn bè, vẫn luôn là một phần ký ức vô cùng đẹp của tất cả mọi người. Chỉ cần nhắc nhẹ một câu chuyện thuở ấy, là cả một seri dài tập bộ phim học đường những năm tháng ấy được chiếu lại. Thân thương và vẹn nguyên như chưa từng trưởng thành và thay đổi. Với Jae Lee, với những ai coi đó là tập cuối cùng trong con đường học tập của mình, thì đoạn ký ức đó không những đẹp đẽ mà còn vô cùng thiêng liêng. Cô đã bỏ dở ước mơ của mình để đi làm phụ giúp gia đình. Ước mơ được làm sinh viên Đại học, được ngồi trên giảng đường, được mặc chiếc áo cử nhân và lên bục nhận bằng. Tất cả, với cô sao mà xa xôi quá. Tuổi hai mươi đầy sóng gió Mười tám, đôi mươi, khi các bạn hân hoan bước vào cuộc sống sinh viên, thì cô lớp phó Jae Lee ngày nào bắt đầu xa gia đình và đi làm. Cô được nhận làm nhân viên kinh doanh của một công ty may đồng phục. Mới tốt nghiệp cấp ba, chưa có nhiều mối quan hệ trong xã hội, chưa có kinh nghiệm trong mọi việc nhưng nếu muốn trở thành nhân viên chính thức, cô cần bán được một số lượng nhất định ban đầu. Vậy là cô đánh liều tìm đến thầy chủ nhiệm, dù sao thầy cũng là người lớn duy nhất biết hoàn cảnh gia đình cô và hiểu tại sao cô lại chọn con đường này. Người thầy đã từng ép cô phải giữ chức lớp phó, đã từng cho cô mượn rất nhiều sách về đọc, bây giờ tóc cũng đã ngả màu. May thay, thầy xem xong mẫu, liền không ngần ngại đặt hàng cô để may đồng phục cho lớp. Cái vỗ vai của thầy, chính là niềm an ủi lớn nhất của cô lớp phó năm nào. Nhưng mỗi lần gặp thầy, thầy đều nhắc đến Je Hee, làm trái tìm bé bỏng của cô tưởng ngủ yên lại được dịp thổn thức. Thầy bảo rằng lớp trưởng cũng thỉnh thoảng đến gặp thầy, dù không nói nhưng thầy biết là cậu ấy đến để nghe ngóng tin tức về cô. Je Hee bây giờ đã trở thành sinh viên Y khoa, chẳng mấy sẽ trở thành một bác sĩ, nhưng cậu ấy chắc hẳn vẫn rất nhớ cô lớp phó dễ thương ngày nào. Nếu có dịp, hãy gặp lại nhau, thầy nhắn nhủ và đưa cho cô tờ giấy ghi địa chỉ và số điện thoại của lớp trưởng. Jae Lee cũng từng nghĩ sẽ gặp lại Je Hee, nhưng cô lại không đủ can đảm. Cô tự ti với những gì mình đang có, mà thực ra thì cô chẳng có gì cả. Một nhân viên kinh doanh bình thường, sống trong một căn nhà trọ nhỏ hẹp, ngày ngày lo cơm áo gạo tiền, năm tháng trôi qua chỉ mong kiếm thêm được ít tiền để gửi về cho mẹ. Vậy thì hà cớ gì phải gặp nhau. Cô muốn giữ những hình ảnh đẹp đẽ vui tươi nhất của mình trong trí nhớ của Je Hee, sẽ mãi là cô lớp phó của những năm cấp ba mà cậu ấy biết. Lý trí chẳng thắng nổi cảm xúc Jae Lee, trước khi cùng gia đình rời đi nơi khác đã làm một việc mà chính cô cũng không nghĩ là mình có thể làm. Cô lấy tiền của mẹ và cùng Je Hee đến công viên trò chơi. Lần đầu tiên, cũng là lần duy nhất, cô cho phép bản thân nói dối mẹ, chỉ để đổi lại một ký ức đẹp đẽ cùng cậu bạn lớp trưởng trước khi rời đi. Và đến bây giờ, khi nghĩ lại, cô vẫn cảm thấy đó là chuyện nên làm. Jae Lee, đã từng nhiều lần nhắc nhở bản thân mình hãy quên đi tình cảm dành cho người con trai đó, vậy mà sau cùng thật vẫn không làm được. Cô đã hơn một lần cầm mảnh giấy nhỏ ghi số điện thoại của Je Hee, đứng trước hộp điện thoại công cộng, nhưng rồi lại lầm lũi bước ra. Và cũng là Jae Lee, đã bước vào đến sân trường Đại học Y khoa, những mong gặp được lớp trưởng. Thế nhưng khi nhìn thấy cậu ấy từ xa lại vội vàng lùi bước. Và cả đến khi hai người tình cờ gặp lại, lý trí thì bảo rằng sẽ chẳng có gì hết nhưng trái tim thì lại không ngừng gợi nhắc những kỷ niệm năm nào. Về phía Je Hee, dù anh có tỏ ra lạnh lùng thế nào đi nữa, chỉ cần trước mặt là cô ấy, cậu sẽ không màng đến nguyên tắc của bản thân. Dù là công việc của lớp hay cùng cô đến nhà thầy chủ nhiệm, dạy cô học bài hay cùng cô đến công viên vui chơi, tất cả mọi việc đều không giống như những gì mọi người biết về cậu. Chỉ cần là Jae Lee, thì cho dù một hũ kẹo nhỏ cũng trở thành vật báu. Cậu sẵn sàng đối đầu và không tha cho ai động đến vật báu của mình dù đó có là em trai. Đó là lần duy nhất cậu đánh em mình, chỉ vì nó làm vỡ hũ kẹo Jae Lee đã tặng. Cậu mua máy nhắn tin và không ai biết đến sự hiện diện của chiếc máy đó ngoài Jae Lee. Những tin nhắn trong đó đương nhiên cũng chỉ gửi cho mình Jae Lee mà thôi. Vốn thông minh, xuất chúng, cậu dễ dàng có thể đỗ bất cứ trường đại học nào, nhưng cậu đã chọn Đại học Y khoa. Vì Jae Lee có lần bảo rằng, cô thích học Đại học Thú y, cô rất yêu động vật. Nhưng Je Hee thì dị ứng với lông động vật, nên cậu chỉ có thể chọn Đại học Y để được ở bên cạnh Đại Học Thú y. Cậu ấy, muốn trở thành một ngôi sao Bắc cực, luôn luôn đợi chờ cô ấy. Trong suốt những năm sinh viên, mỗi lần có đợt nhập học mới của Đại Học Thú y, cậu đều lặng lẽ đứng nhìn để tìm một hình bóng quen thuộc. Thậm chí, cũng từng bắt xe buýt đến một vài nơi có thông tin về gia đình Jae Lee nhưng đều vô ích. Cậu những lúc như thế, đã chẳng còn là Je Hee lạnh lùng, mà là một Je Hee vô cùng đáng thương. Bản thân cậu, cũng biết rằng cuộc tìm kiếm này có thể là vô vọng, tự hứa rằng sẽ để tình cảm này ngủ vùi nhưng năm lần bảy lượt đều không làm được. Hội ngộ tình cờ, duyên trời đã định Và sau bao tháng ngày tìm kiếm, Je Hee đã gặp lại Jae Lee. Cô vẫn còn vì tự ti mà trốn tránh nhưng cậu thì nhất quyết nắm lấy cơ hội này. Je Hee từng nhắn nhủ rằng “Vì em bảo anh đợi, nên anh vẫn đợi ở nơi này, vậy thì em có thể chỉ vì anh mà để trống một ngón tay áp út thôi nhé. Có được không?”.  Đó chính xác là những gì cả hai người mong đợi. Cuối cùng thì họ cũng đã gặp được nhau. Cùng nhau trò chuyện, cùng đi thăm thầy chủ nhiệm, cùng hòa chung không khí WordCup những năm 2002. Cô sợ rằng thứ tình cảm đẹp đẽ này, chỉ có thể kéo dài như một mùa Wordcup vài tháng nhưng Je Hee càng thể hiện quyết tâm có thể cùng cô đi đến hết cuộc đời. Sóng gió còn đến từ cả người mẹ của Je Hee, khi bà không đồng ý cô lấy con trai mình. Bà là một người tốt, nhưng có chút ích kỷ khi thấy con trai mình vì một cô gái có thể thay đổi đến thế này, bà sợ mình sẽ mất con. Vẫn là cô bé năm cấp ba ấy, khiến con trai bà không màng thời gian liên tục về nhà trễ, khiến nó xém chút nữa thì đánh em trai phải nhập viện, nên bà một mực cho rằng hai người họ không nên đến với nhau. Nhưng cuối cùng thì, sau khi thấy được cả những thay đổi tích cực của con trai, và nhừng lời nói hành động rất chừng mực, lễ phép của Jae Lee, bà đã dần chấp nhận. Bà tin con trai mình và tin rằng lựa chọn của con là đúng. Cánh cửa lễ đường rộng mở chào đón đôi bạn trẻ về chung một nhà. Jae Lee bắt đầu ôn tập lại để nuôi dưỡng ước mơ trở thành một cô sinh viên. Và một happing ending đã đến. Mùa hè với những mộng mơ Cuốn sách chính là một câu chuyện nhẹ nhàng, thú vị về tình yêu, tình đầu của đôi bạn cùng lớp. Ai đó nói rằng “Tình đẹp nhất khi tình dang dở”. Cũng có nhiều người bảo rằng “Tình yêu đẹp chỉ có trong cổ tích”.  Có thể họ đã có những va vấp không đáng nhớ trong chuyện tình cảm, nhưng đừng bao giờ đánh mất hy vọng. Hãy mơ mộng đi, hãy giữ niềm tin vào tình yêu đi. Vì tất cả chúng ta, rồi ai cũng sẽ có được một nửa của đời mình. Hãy thử đọc và cảm nhận cuốn sách, nó như một bộ phim Hàn quốc nhẹ nhàng, lãng mạn, giúp bạn quên đi những mệt nhọc đời thường. Đọc để thấy mình thời cấp ba, cũng từng một thời mộng mơ với tình yêu học trò trong trẻo. Đọc để thấy mình của mùa hè những năm tháng tuổi trẻ, với những ước mơ hoài bão về cuộc sống sinh viên đầy tò mò, hứa hẹn.Tôi của mùa hè năm ấy, bạn của mùa hè năm ấy, chúng ta của mùa hè năm ấy,.... Review chi tiết bởi: HiDi - Bookademy Mời các bạn đón đọc Tôi Của Mùa Hè Năm Ấy của tác giả Choi Soo Hyun.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Lời Nói Dối Thứ Ba
Tiểu thuyết Cuốn Sổ Lớn (Le Grand Cahier) được viết dưới hình thức một cuốn sổ ghi chép của hai cậu bé sinh đôi. Trong thời gian về miền quê để tránh chiến tranh, hai cậu bé tự học cách mô tả những sự kiện xảy ra chung quanh và ở chính mình. Hai cậu tập làm văn trên những tờ giấy rời. Khi nào viết được một bài hoàn chỉnh, thì hai cậu chép nó vào một cuốn sổ lớn. Các chương của cuốn tiểu thuyết chính là những bài tập làm văn ấy. Hai cậu bé sinh đôi đã tự quy định cho mình một nguyên tắc hành văn như sau: "Les mots qui définissent les sentiments sont très vagues; il vaut mieux éviter leur emploi et s'en tenir à la description des objets, des êtres humains et de soi-même, c'est-à-dire à la description fidèle des faits." [Những chữ định tính các xúc cảm thì rất mơ hồ. Tốt hơn nên tránh dùng chúng, và hãy chú tâm vào việc miêu tả các vật thể, con người, và chính mình, nghĩa là miêu tả trung thành các sự kiện.] (trang 34, chương “Nos études” [Việc học của chúng tôi]) Đó chính là cái bút pháp độc đáo của cuốn tiểu thuyết Le Grand Cahier: đơn giản và vô cảm. Mọi sự kiện đều được nhìn qua con mắt của hai đứa trẻ, ghi lại bằng ngòi bút của hai đứa trẻ, và không bị diễn dịch theo bất cứ một định kiến nào. Và chính vì thế, độc giả sẽ thấy cuộc sống bày ra tất cả những góc cạnh lạ lùng nhất của nó. Một điểm độc đáo khác: suốt cả cuốn tiểu thuyết, hai đứa trẻ sinh đôi luôn luôn có cái nhìn hoàn toàn đồng nhất, luôn luôn có hành động hoàn toàn đồng nhất, và luôn luôn phát ngôn hoàn toàn đồng nhất. "Chúng tôi", chứ không bao giờ "tôi". "Chúng tôi thấy", "chúng tôi làm", "chúng tôi nói"... Điều này có nghĩa là gì? Phải chăng đó là một ẩn dụ? Câu trả lời sẽ dần dần hiện ra trong hai cuốn tiểu thuyết tiếp theo. *** Tiểu thuyết được viết dưới hình thức một cuốn sổ ghi chép của hai cậu bé sinh đôi. Trong thời gian về miền quê để tránh chiến tranh, hai cậu bé tự học cách mô tả những sự kiện xảy ra chung quanh và ở chính mình. Hai cậu tập làm văn trên những tờ giấy rời. Khi nào viết được một bài hoàn chỉnh, thì hai cậu chép nó vào một cuốn sổ lớn. Các chương của cuốn tiểu thuyết chính là những bài tập làm văn ấy. Hai cậu bé sinh đôi đã tự quy định cho mình một nguyên tắc hành văn như sau: "Les mots qui définissent les sentiments sont très vagues; il vaut mieux éviter leur emploi et s'en tenir à la description des objets, des êtres humains et de soi-même, c'est-à-dire à la description fidèle des faits." [Những chữ định tính các xúc cảm thì rất mơ hồ. Tốt hơn nên tránh dùng chúng, và hãy chú tâm vào việc miêu tả các vật thể, con người, và chính mình, nghĩa là miêu tả trung thành các sự kiện.] (trang 34, chương “Nos études” [Việc học của chúng tôi] - tập 1 - Cuốn sổ lớn.) * Đó chính là cái bút pháp độc đáo của bộ 3 cuốn tiểu thuyết của Agota Kristof: đơn giản và vô cảm. Mọi sự kiện đều được nhìn qua con mắt của hai đứa trẻ, ghi lại bằng ngòi bút của hai đứa trẻ, và không bị diễn dịch theo bất cứ một định kiến nào. Và chính vì thế, độc giả sẽ thấy cuộc sống bày ra tất cả những góc cạnh lạ lùng nhất của nó. Một điểm độc đáo khác: suốt cả cuốn tiểu thuyết, hai đứa trẻ sinh đôi luôn luôn có cái nhìn hoàn toàn đồng nhất, luôn luôn có hành động hoàn toàn đồng nhất, và luôn luôn phát ngôn hoàn toàn đồng nhất. "Chúng tôi", chứ không bao giờ "tôi". "Chúng tôi thấy", "chúng tôi làm", "chúng tôi nói"... Điều này có nghĩa là gì? Phải chăng đó là một ẩn dụ? Câu trả lời sẽ dần dần hiện ra trong hai cuốn tiểu thuyết tiếp theo. Bộ sách Twins Trilogy gồm có: Cuốn Sổ Lớn Bằng Chứng Lời Nói Dối Thứ Ba *** Agota Kristof sinh năm 1935 tại Hungary, rời bỏ quê hương năm 1956 khi quân đội Liên-Xô tràn vào đàn áp cuộc nổi dậy của sinh viên và công nhân ở Budapest. Cùng chồng và đứa con gái 4 tuổi, bà sang tỵ nạn ở Neuchâtel, Thụy-sĩ. Sau 5 năm sống với cảm thức cô đơn và đau đớn của một người lưu vong, bà quyết định từ bỏ việc làm của một công nhân, ly dị với chồng, rồi bắt đầu học tiếng Pháp và viết truyện, viết kịch, viết tiểu thuyết và làm thơ. Sau nhiều năm vật vã với ngòi bút, Agota Kristof cho ra đời cuốn tiểu thuyết đầu tay Le Grand Cahier [Cuốn sổ lớn] năm 1986. Tác phẩm này là một thành công, đoạt giải "Prix du Livre Européen", và thúc đẩy bà tiếp tục viết thêm hai cuốn tiểu thuyết nữa để hoàn tất một bộ ba. Cuốn thứ nhì La Preuve [Bằng chứng] được xuất bản năm 1988, và cuốn cuối cùng của bộ ba tiểu thuyết là Le Troisième Mensonge [Lời nói dối thứ ba] được xuất bản năm 1991 và đoạt giải "Prix du Livre Inter" năm 1992. Sau đó, bà xuất bản tiểu thuyết Hier [Hôm qua] năm 1995, rồi tiểu thuyết L'Analphabète [Người Đàn Bà Mù Chữ] năm 2004. Hoàng Ngọc-Tuấn Sydney, 14/08/2006 *** Tôi ngồi tù tại cái thành phố nhỏ thời thơ ấu. Không phải là một nhà tù thực sự, đó là một phòng giam trong ngôi nhà của cảnh sát địa phương, một tòa nhà hai tầng như biết bao những nhà khác của thành phố. Phòng giam của tôi xưa kia là một xưởng giặt, cửa và cửa sổ trông ra sân. Những chấn song cửa sổ đã được gắn vào bên trong để cho không ai có thể chạm vào và đập vỡ kính. Một góc vệ sinh được che sau một cái riđô. Giáp với một bức tường, có một cái bàn và bốn cái ghế gắn chặt xuống đất, giáp với bức tường phía trước có bốn cái giường có thể gập xuống. Ba cái đã được gập. Chỉ có một mình tôi trong phòng giam. Trong thành phố này có rất ít tội phạm, và khi có, người ta lập tức đưa đến thành phố bên, thủ phủ của vùng này cách đây hai mươi cây số. Tôi không phải là tội phạm. Tôi ở đây là do giấy tờ của tôi không hợp lệ, hộ chiếu của tôi hết hạn. Với lại tôi cũng có nợ tiền. Buổi sáng, người coi tù mang đến cho tôi bữa sáng, sữa, cà phê, bánh mỳ. Tôi uống chút cà phê rồi tôi đi tắm. Người coi tù ăn nốt bữa sáng của tôi và quét dọn phòng giam. Cửa để mở, tôi có thể ra sân nếu tôi muốn. Đó là một cái sân có tường cao phủ dây trường xuân và nho dại bao quanh. Đằng sau một bức tường, ở phía trái khi ra khỏi phòng giam là một cái hành lang có mái che của một trường học. Tôi nghe tiếng trẻ con cười, đùa, la hét trong giờ ra chơi. Khi tôi còn bé, trường học đã ở đó rồi, tôi nhớ, dù tôi không bao giờ đến trường, nhưng nhà tù thì hồi đó lại ở nơi khác, tôi cũng nhớ bởi vì tôi đã đến đó một lần. Buổi sáng một giờ, và buổi tối một giờ, tôi đi bộ ngoài sân. Đó là thói quen tôi đã có từ thuở nhỏ, khi tôi mới lên năm, tôi đã buộc phải tập đi. Điều này khiến người coi tù khó chịu, vì lúc đó tôi không nói và không nghe một câu hỏi nào. Mắt nhìn xuống đất, tay chắp sau lưng, tôi bước đi, tôi đi vòng quanh dọc theo các bức tường. Mặt đất có lát đá, nhưng cỏ vẫn mọc giữa các kẽ đá. Cái sân gần như vuông, chiều dài mười lăm bước, chiều rộng mười ba bước. Giả sử bước chân của tôi dài một mét thì diện tích cái sân là một trăm chín mươi lăm mét vuông. Nhưng chắc chắn bước chân của tôi ngắn hơn. Giữa sân có một cái bàn tròn và hai cái ghế, và giáp với bức tường cuối vườn là một cái ghế dài bằng gỗ. Ngồi xuống ghế dài đó tôi có thể nhìn thấy một phần lớn bầu trời thuở nhỏ của tôi. Từ hôm đầu, bà chủ hiệu sách đã đến thăm tôi và mang đến cho tôi các đồ dùng cá nhân và một món xúp rau. Bà tiếp tục đến hàng ngày vào giờ trưa với món xúp rau của bà. Tôi bảo bà rằng ở đây tôi được nuôi dưỡng tốt, người coi tù mang đến cho tôi một ngày hai bữa đầy đủ từ nhà hàng trước mặt, nhưng bà ấy tiếp tục mang xúp đến. Tôi ăn một chút để giữ lễ, rồi tôi đưa cái xoong cho người coi tù ăn nốt. Tôi xin lỗi bà chủ hiệu sách vì sự lộn xộn tôi đã để lại trong căn hộ của bà. Bà nói: - Có quan trọng gì đâu. Tôi và con gái tôi đã dọn dẹp cả rồi. Chỉ có rất nhiều giấy. Tôi đã đốt những tờ giấy nhàu nát và những tờ ném vào sọt. Những tờ khác, tôi đã đặt lên bàn, nhưng cảnh sát đã đến và lấy đi. Tôi im lặng một lát, rồi nói: - Tôi còn thiếu bà hai tháng tiền nhà. Bà ấy cười: - Tôi đã đòi ông quá đắt cho căn hộ nhỏ đó. Nhưng nếu ông muốn thì ông có thể hoàn lại cho tôi khi ông được về. Có lẽ là sang năm. - Tôi không nghĩ là sẽ về. Người được ủy thác của tôi sẽ thanh toán cho bà. Bà ấy hỏi tôi có cần gì không, tôi nói: - Có, tôi cần giấy và bút chì. Nhưng tôi không còn tiền. - Đáng lẽ tôi đã phải tự nghĩ ra. Hôm sau, bà ấy trở lại với món xúp, một gói giấy kẻ và nhiều bút chì. Mời các bạn đón đọc Lời Nói Dối Thứ Ba của tác giả Agota Kristof.
Bằng Chứng
Tiểu thuyết Cuốn Sổ Lớn (Le Grand Cahier) được viết dưới hình thức một cuốn sổ ghi chép của hai cậu bé sinh đôi. Trong thời gian về miền quê để tránh chiến tranh, hai cậu bé tự học cách mô tả những sự kiện xảy ra chung quanh và ở chính mình. Hai cậu tập làm văn trên những tờ giấy rời. Khi nào viết được một bài hoàn chỉnh, thì hai cậu chép nó vào một cuốn sổ lớn. Các chương của cuốn tiểu thuyết chính là những bài tập làm văn ấy. Hai cậu bé sinh đôi đã tự quy định cho mình một nguyên tắc hành văn như sau: "Les mots qui définissent les sentiments sont très vagues; il vaut mieux éviter leur emploi et s'en tenir à la description des objets, des êtres humains et de soi-même, c'est-à-dire à la description fidèle des faits." [Những chữ định tính các xúc cảm thì rất mơ hồ. Tốt hơn nên tránh dùng chúng, và hãy chú tâm vào việc miêu tả các vật thể, con người, và chính mình, nghĩa là miêu tả trung thành các sự kiện.] (trang 34, chương “Nos études” [Việc học của chúng tôi]) Đó chính là cái bút pháp độc đáo của cuốn tiểu thuyết Le Grand Cahier: đơn giản và vô cảm. Mọi sự kiện đều được nhìn qua con mắt của hai đứa trẻ, ghi lại bằng ngòi bút của hai đứa trẻ, và không bị diễn dịch theo bất cứ một định kiến nào. Và chính vì thế, độc giả sẽ thấy cuộc sống bày ra tất cả những góc cạnh lạ lùng nhất của nó. Một điểm độc đáo khác: suốt cả cuốn tiểu thuyết, hai đứa trẻ sinh đôi luôn luôn có cái nhìn hoàn toàn đồng nhất, luôn luôn có hành động hoàn toàn đồng nhất, và luôn luôn phát ngôn hoàn toàn đồng nhất. "Chúng tôi", chứ không bao giờ "tôi". "Chúng tôi thấy", "chúng tôi làm", "chúng tôi nói"... Điều này có nghĩa là gì? Phải chăng đó là một ẩn dụ? Câu trả lời sẽ dần dần hiện ra trong hai cuốn tiểu thuyết tiếp theo. *** Tiểu thuyết được viết dưới hình thức một cuốn sổ ghi chép của hai cậu bé sinh đôi. Trong thời gian về miền quê để tránh chiến tranh, hai cậu bé tự học cách mô tả những sự kiện xảy ra chung quanh và ở chính mình. Hai cậu tập làm văn trên những tờ giấy rời. Khi nào viết được một bài hoàn chỉnh, thì hai cậu chép nó vào một cuốn sổ lớn. Các chương của cuốn tiểu thuyết chính là những bài tập làm văn ấy. Hai cậu bé sinh đôi đã tự quy định cho mình một nguyên tắc hành văn như sau: "Les mots qui définissent les sentiments sont très vagues; il vaut mieux éviter leur emploi et s'en tenir à la description des objets, des êtres humains et de soi-même, c'est-à-dire à la description fidèle des faits." [Những chữ định tính các xúc cảm thì rất mơ hồ. Tốt hơn nên tránh dùng chúng, và hãy chú tâm vào việc miêu tả các vật thể, con người, và chính mình, nghĩa là miêu tả trung thành các sự kiện.] (trang 34, chương “Nos études” [Việc học của chúng tôi] - tập 1 - Cuốn sổ lớn.) * Đó chính là cái bút pháp độc đáo của bộ 3 cuốn tiểu thuyết của Agota Kristof: đơn giản và vô cảm. Mọi sự kiện đều được nhìn qua con mắt của hai đứa trẻ, ghi lại bằng ngòi bút của hai đứa trẻ, và không bị diễn dịch theo bất cứ một định kiến nào. Và chính vì thế, độc giả sẽ thấy cuộc sống bày ra tất cả những góc cạnh lạ lùng nhất của nó. Một điểm độc đáo khác: suốt cả cuốn tiểu thuyết, hai đứa trẻ sinh đôi luôn luôn có cái nhìn hoàn toàn đồng nhất, luôn luôn có hành động hoàn toàn đồng nhất, và luôn luôn phát ngôn hoàn toàn đồng nhất. "Chúng tôi", chứ không bao giờ "tôi". "Chúng tôi thấy", "chúng tôi làm", "chúng tôi nói"... Điều này có nghĩa là gì? Phải chăng đó là một ẩn dụ? Câu trả lời sẽ dần dần hiện ra trong hai cuốn tiểu thuyết tiếp theo. Bộ sách Twins Trilogy gồm có: Cuốn Sổ Lớn Bằng Chứng Lời Nói Dối Thứ Ba *** Agota Kristof sinh năm 1935 tại Hungary, rời bỏ quê hương năm 1956 khi quân đội Liên-Xô tràn vào đàn áp cuộc nổi dậy của sinh viên và công nhân ở Budapest. Cùng chồng và đứa con gái 4 tuổi, bà sang tỵ nạn ở Neuchâtel, Thụy-sĩ. Sau 5 năm sống với cảm thức cô đơn và đau đớn của một người lưu vong, bà quyết định từ bỏ việc làm của một công nhân, ly dị với chồng, rồi bắt đầu học tiếng Pháp và viết truyện, viết kịch, viết tiểu thuyết và làm thơ. Sau nhiều năm vật vã với ngòi bút, Agota Kristof cho ra đời cuốn tiểu thuyết đầu tay Le Grand Cahier [Cuốn sổ lớn] năm 1986. Tác phẩm này là một thành công, đoạt giải "Prix du Livre Européen", và thúc đẩy bà tiếp tục viết thêm hai cuốn tiểu thuyết nữa để hoàn tất một bộ ba. Cuốn thứ nhì La Preuve [Bằng chứng] được xuất bản năm 1988, và cuốn cuối cùng của bộ ba tiểu thuyết là Le Troisième Mensonge [Lời nói dối thứ ba] được xuất bản năm 1991 và đoạt giải "Prix du Livre Inter" năm 1992. Sau đó, bà xuất bản tiểu thuyết Hier [Hôm qua] năm 1995, rồi tiểu thuyết L'Analphabète [Người Đàn Bà Mù Chữ] năm 2004. Hoàng Ngọc-Tuấn Sydney, 14/08/2006 *** Trở về ngôi nhà của bà, Lucas nằm xuống gần cái barie trong vườn, dưới bóng các bụi cây. Anh đợi. Một chiếc xe quân đội dừng trước tòa nhà bộ đội biên phòng. Vài chiến sĩ xuống xe và đặt xuống đất một cái xác bọc trong vải bạt ngụy trạng. Một viên trung sĩ ra khỏi tòa nhà, làm hiệu cho các chiến sĩ mở tấm bạt. Viên trung sĩ huýt sáo : - Muốn nhận dạng không phải dễ dàng gì đâu! Thật là ngu xuẩn mới đi vượt cái biên giới khốn kiếp này giữa ban ngày ban mặt. Một chiến sĩ nói: - Lẽ ra chúng ta phải biết rằng làm thế là không thể được. Một chiến sĩ khác nói: - Mọi người ở đây đều biết điều đó. Chính những người ở nơi khác đến mới ngu thế. Trung sĩ nói: - Thôi được, ta hãy đến gặp cái thằng ngốc ở kia xem sao. Có lẽ nó biết chút ít gì đó chăng. Lucas vào nhà. Anh ngồi trên chiếc ghế trong nhà bếp. Anh cắt bánh mì, đặt một chai rượu vang và pho mát sữa dê lên bàn. Có tiếng gõ cửa. Viên trung sĩ và một người kính bước vào. Lucas nói: - Tôi đang đợi các ông đây. Mời các ông dùng rượu vang và pho mát chứ. Người lính nói: - Rất sẵn sàng. Hắn lấy bánh mì và pho mát, Lucas rót rượu. Trung sĩ hỏi: - Cậu đang đợi chúng tôi à? Tại sao vậy? - Tôi nghe thấy có tiếng nổ. Sau tiếng nổ, nhất định thế nào cũng có người đến hỏi xem tôi có nhìn thấy ai đó không. - Thế cậu có nhìn thấy ai không? - Không. - Như mọi lần? - Vâng, như mọi lần, chẳng có ai đến báo cho tôi biết ý định vượt qua biên giới cả. Viên trung sĩ cười, rồi hắn cũng dùng rượu và pho mát: - Lẽ ra cậu phải thấy một kẻ nào đó lảng vảng quanh đây hoặc trong rừng chứ. - Tôi không hề trông thấy ai cả. - Nếu cậu trông thấy kẻ nào đó thì cậu có nói không? - Nếu tôi có nói cho ông biết thì ông cũng không tin tôi. Viên trung sĩ lại cười: - Đôi khi tôi tự hỏi tại sao người ta lại gọi cậu là thằng ngốc.- Tôi cũng tự hỏi như vậy. Chả là thời niên thiếu, trong chiến tranh tôi bị thần kinh do một chấn thương. Người lính hỏi: - Đó là bệnh gì vậy? Ý cậu muốn nói gì? Lucas giải thích: - Các cuộc ném bom đã làm cho cái đầu của tôi trục trặc. Điều đó xảy ra với tôi khi còn nhỏ. Trung sĩ nói: - Pho mát của cậu rất ngon. Cảm ơn, cậu hãy đi với chúng tôi. Lucas đi theo họ. Chỉ cái xác, trung sĩ hỏi: - Cậu có biết người đàn ông này không? Cậu đã trông thấy hắn bao giờ chưa? Lucas ngắm nhìn cái xác tan tác của bố anh: - Nó hoàn toàn biến dạng rồi. Trung sĩ nói: - Có thể nhận ra một người nào đó nhờ quần áo, giày dép hoặc nhờ bàn tay, hoặc tóc của người đó. Lucas nói: - Tôi thấy rõ là người này không ở thành phố chúng ta. Quần áo của hắn không phải của vùng này. Trong thành phố chúng ta không ai mặc quần áo lịch sự như vậy. Trung sĩ nói: - Cảm ơn cậu. Tất cả cái đó, chúng tôi cũng không ngu đâu. Tôi chỉ muốn hỏi xem cậu có nhìn thấy hoặc thoáng thấy hắn ở đâu đó không thôi. - Không, không thấy ở đâu cả. Nhưng tôi thấy móng tay của hắn bị dứt ra. Hắn đã ngồi tù. - Nhà tù của chúng tôi không tra tấn ai cả. Có điều lạ là trong túi của hắn hoàn toàn trống rỗng, ngay cả một tấm ảnh, một cái chìa khóa hoặc một cái ví cũng không có. Tuy nhiên để vào được khu biên giới hắn phải có thẻ căn cước và giấy thông hành chứ. - Chắc là hắn đã vứt trong rừng rồi. - Tôi cũng nghĩ vậy. Hắn không muốn bị nhận dạng. Tôi tự hỏi hắn muốn bảo vệ ai. Nếu tình cờ trong khi đi hái nấm cậu có tìm được cái gì khác thì cậu hãy mang đến cho chúng tôi nhé. - Hãy tin tôi đi, thưa trung sĩ. ° Lucas ngồi trên ghế dài trong vườn, tựa đầu vào bức tường trắng của ngôi nhà. Mặt trời làm anh chói mắt. Anh nhắm mắt lại: - Làm thế nào bây giờ? - Như trước kia thôi. Phải tiếp tục thức giấc buổi sáng, đi ngủ buổi tối, và làm cái phải làm để mà sống. - Sẽ lâu đấy. - Có lẽ là suốt đời. Tiếng kêu của gia súc đánh thức Lucas. Anh đứng dậy và đi chăm sóc chúng. Anh cho lợn, gà, thỏ ăn. Anh đi tìm dê bên bờ sông, đưa chúng về và vắt sữa, rồi mang vào nhà bếp. Anh ngồi xuống ghế và ở đó cho đên khi trời tối. Rồi anh đứng dậy, ra khỏi nhà, và đi tưới vườn. Đêm trăng rằm. Khi trở vào nhà bếp, anh ăn một chút pho mát và uống rượu vang. Anh nghiêng người nôn qua cửa sổ. Anh dọn lại bàn, vào buống bà và mở cửa sổ cho thoáng khí. Anh ngồi trước bàn trang điểm và soi mình trong gương. Một lát sau Lucas mở cửa buồng. Anh nhìn cái giường to, đóng cửa lại và đi ra thành phố. Phố xa vắng tanh. Lucas bước nhanh. Anh dừng chân trước một cửa sổ mở và có ánh đèn. Đó là một nhà bếp. Một gia đình đang dùngbuwax tối, có một bà mẹ và ba đứa con chung quanh bàn, hai đứa trai và một bé gái. Họ ăn súp khoai tây. Người cha không có đó, Có lẽ hắn đi làm, hoặc ngồi tù hoặc trong trại tập trung. Hoặc nữa hắn đã không trở về sau chiến tranh. Lucas đi ngang các quán rượu ồn ào mà cách đây không lâu, đôi khi anh đã từng chơi kèn harmonica. Anh không vào mà tiếp tục đi. Anh theo cái phố tối tăm dẫn đến nghĩa trang. Anh dừng lại trước mộ ông và mộ bà. Bà chết năm ngoái sau một trận tai biến não thứ hai. Ông thì chết đã lau lắm rồi. Người trong thành phố kể rằng ông đã bị vợ đầu độc. Cha Lucas hôm nay chết khi cố vượt biên giới, và rồi Lucas sẽ không bao giờ biết được nấm mộ của ông. Lucas về nhà. Bằng một sợi thừng, anh leo lên buồng áp mái. Trên đó có một ổ rơm, một cái chăn nhà binh cũ, một cái hòm. Lucas mở hòm, anh lấy ra một quyển vở học sinh và viết vào đó vài dòng. Anh đóng quyển vở lại, nằm xuống ổ rơm. Mẹ và em gái Lucas chết vì đạn trái phá, cách đây năm năm, chỉ vài ngày trước khi chiến tranh kết thúc, tại đây, trong vườn nhà bà. ° Lucas ngồi trên chiếc ghế dài trong vườn, mắt nhắm, Một chiếc xe tải ngựa kéo dừng trước nhà. Tiếng động làm Lucas thức giấc. Joseph, người trồng rau đi vào vườn. Lucas nhìn ông: - Bác Joseph, bác cần gì vậy? - Tôi cần gì ư? Hôm nay là phiên chợ. Tôi đã đợi cậu đến tận bây giờ. Lucas nói: - Cháu xin lỗi bác. Cháu quên mất hôm nay là phiên chợ. Nếu bác muốn thì chúng ta có thể nhanh chóng chất hàng lên xe. - Cậu không đùa chứ? Hai giờ chiều rồi. Tôi đến không phải để chất hàng, mà để hỏi xem cậu có còn muốn tôi bán hàng cho cậu không. Nếu không thì phải bảo tôi. Tôi thì thế nào cũng xong. Tôi làm thế chỉ là để giúp cậu tôi. - Tất nhiên là thế, bác Joseph. Chỉ là cháu quên mất phiên chợ. - Không chỉ có hôm nay cậu quên. Cậu còn quên cả tuần trước và tuần trước nữa kia. - Ba tuần kia ư? Cháu không nhận ra đấy.   Mời các bạn đón đọc Bằng Chứng của tác giả Agota Kristof.
Cuốn Sổ Lớn
Tiểu thuyết Cuốn Sổ Lớn (Le Grand Cahier) được viết dưới hình thức một cuốn sổ ghi chép của hai cậu bé sinh đôi. Trong thời gian về miền quê để tránh chiến tranh, hai cậu bé tự học cách mô tả những sự kiện xảy ra chung quanh và ở chính mình. Hai cậu tập làm văn trên những tờ giấy rời. Khi nào viết được một bài hoàn chỉnh, thì hai cậu chép nó vào một cuốn sổ lớn. Các chương của cuốn tiểu thuyết chính là những bài tập làm văn ấy. Hai cậu bé sinh đôi đã tự quy định cho mình một nguyên tắc hành văn như sau: "Les mots qui définissent les sentiments sont très vagues; il vaut mieux éviter leur emploi et s'en tenir à la description des objets, des êtres humains et de soi-même, c'est-à-dire à la description fidèle des faits." [Những chữ định tính các xúc cảm thì rất mơ hồ. Tốt hơn nên tránh dùng chúng, và hãy chú tâm vào việc miêu tả các vật thể, con người, và chính mình, nghĩa là miêu tả trung thành các sự kiện.] (trang 34, chương “Nos études” [Việc học của chúng tôi]) Đó chính là cái bút pháp độc đáo của cuốn tiểu thuyết Le Grand Cahier: đơn giản và vô cảm. Mọi sự kiện đều được nhìn qua con mắt của hai đứa trẻ, ghi lại bằng ngòi bút của hai đứa trẻ, và không bị diễn dịch theo bất cứ một định kiến nào. Và chính vì thế, độc giả sẽ thấy cuộc sống bày ra tất cả những góc cạnh lạ lùng nhất của nó. Một điểm độc đáo khác: suốt cả cuốn tiểu thuyết, hai đứa trẻ sinh đôi luôn luôn có cái nhìn hoàn toàn đồng nhất, luôn luôn có hành động hoàn toàn đồng nhất, và luôn luôn phát ngôn hoàn toàn đồng nhất. "Chúng tôi", chứ không bao giờ "tôi". "Chúng tôi thấy", "chúng tôi làm", "chúng tôi nói"... Điều này có nghĩa là gì? Phải chăng đó là một ẩn dụ? Câu trả lời sẽ dần dần hiện ra trong hai cuốn tiểu thuyết tiếp theo. *** Tiểu thuyết được viết dưới hình thức một cuốn sổ ghi chép của hai cậu bé sinh đôi. Trong thời gian về miền quê để tránh chiến tranh, hai cậu bé tự học cách mô tả những sự kiện xảy ra chung quanh và ở chính mình. Hai cậu tập làm văn trên những tờ giấy rời. Khi nào viết được một bài hoàn chỉnh, thì hai cậu chép nó vào một cuốn sổ lớn. Các chương của cuốn tiểu thuyết chính là những bài tập làm văn ấy. Hai cậu bé sinh đôi đã tự quy định cho mình một nguyên tắc hành văn như sau: "Les mots qui définissent les sentiments sont très vagues; il vaut mieux éviter leur emploi et s'en tenir à la description des objets, des êtres humains et de soi-même, c'est-à-dire à la description fidèle des faits." [Những chữ định tính các xúc cảm thì rất mơ hồ. Tốt hơn nên tránh dùng chúng, và hãy chú tâm vào việc miêu tả các vật thể, con người, và chính mình, nghĩa là miêu tả trung thành các sự kiện.] (trang 34, chương “Nos études” [Việc học của chúng tôi] - tập 1 - Cuốn sổ lớn.) * Đó chính là cái bút pháp độc đáo của bộ 3 cuốn tiểu thuyết của Agota Kristof: đơn giản và vô cảm. Mọi sự kiện đều được nhìn qua con mắt của hai đứa trẻ, ghi lại bằng ngòi bút của hai đứa trẻ, và không bị diễn dịch theo bất cứ một định kiến nào. Và chính vì thế, độc giả sẽ thấy cuộc sống bày ra tất cả những góc cạnh lạ lùng nhất của nó. Một điểm độc đáo khác: suốt cả cuốn tiểu thuyết, hai đứa trẻ sinh đôi luôn luôn có cái nhìn hoàn toàn đồng nhất, luôn luôn có hành động hoàn toàn đồng nhất, và luôn luôn phát ngôn hoàn toàn đồng nhất. "Chúng tôi", chứ không bao giờ "tôi". "Chúng tôi thấy", "chúng tôi làm", "chúng tôi nói"... Điều này có nghĩa là gì? Phải chăng đó là một ẩn dụ? Câu trả lời sẽ dần dần hiện ra trong hai cuốn tiểu thuyết tiếp theo. Bộ sách Twins Trilogy gồm có: Cuốn Sổ Lớn Bằng Chứng Lời Nói Dối Thứ Ba *** Agota Kristof sinh năm 1935 tại Hungary, rời bỏ quê hương năm 1956 khi quân đội Liên-Xô tràn vào đàn áp cuộc nổi dậy của sinh viên và công nhân ở Budapest. Cùng chồng và đứa con gái 4 tuổi, bà sang tỵ nạn ở Neuchâtel, Thụy-sĩ. Sau 5 năm sống với cảm thức cô đơn và đau đớn của một người lưu vong, bà quyết định từ bỏ việc làm của một công nhân, ly dị với chồng, rồi bắt đầu học tiếng Pháp và viết truyện, viết kịch, viết tiểu thuyết và làm thơ. Sau nhiều năm vật vã với ngòi bút, Agota Kristof cho ra đời cuốn tiểu thuyết đầu tay Le Grand Cahier [Cuốn sổ lớn] năm 1986. Tác phẩm này là một thành công, đoạt giải "Prix du Livre Européen", và thúc đẩy bà tiếp tục viết thêm hai cuốn tiểu thuyết nữa để hoàn tất một bộ ba. Cuốn thứ nhì La Preuve [Bằng chứng] được xuất bản năm 1988, và cuốn cuối cùng của bộ ba tiểu thuyết là Le Troisième Mensonge [Lời nói dối thứ ba] được xuất bản năm 1991 và đoạt giải "Prix du Livre Inter" năm 1992. Sau đó, bà xuất bản tiểu thuyết Hier [Hôm qua] năm 1995, rồi tiểu thuyết L'Analphabète [Người Đàn Bà Mù Chữ] năm 2004. Hoàng Ngọc-Tuấn Sydney, 14/08/2006 Mời các bạn đón đọc Cuốn Sổ Lớn của tác giả Agota Kristof.
Mùa Xuân Và Haru
Mùa xuân và Haru kể về Suzaki Akane là một nữ sinh yêu thích Haiku (Haiku: tiếng Nhật: 俳句) (Bài cú) là loại thơ độc đáo của Nhật Bản, xuất phát từ ba câu đầu (発句 hokku, phát cú) của những bài renga (連歌 liên ca) có tính trào phúng gọi là renga no haikai (連歌の俳諧) mà sau gọi là haikai (俳諧 bài hài), theo học trường Cấp ba Nữ sinh Fujigaoka. Một ngày, cô phản đối Fuji - giáo viên môn Quốc ngữ của mình bởi cô giáo muốn phủ nhận sự ảnh hưởng Haiku trong nền văn hóa truyền thống. Từ những điểm tương đồng trong sở thích ấy, Suzaki đã kết bạn với Touko – cô bạn có cùng đam mê với nét văn hoa tinh tế của Nhật Bản với mình . Hai người nhắm tới hội thi “Haiku Koushien” và thành lập câu lạc bộ Haiku, nhưng cần đến năm người mới có thể tham gia thi đấu. Akane và Touku bằng niềm đam mê với Haiku cũng như sự chân thành muốn duy trì cũng như phát triển nét văn hóa tinh tế của Nhật Bản, cố gắng nỗ lực từng ngày tìm kiếm “bạn đồng hành” xung quanh ngôi trường cho đến khi tập hợp cho đủ các thành viên. Năm thành viên của nhóm chính là năm mảnh ghép với mỗi cá tính, mỗi thế mạnh riêng biệt. Akane có kinh nghiệm sáng tác Haiku, Touko hoạt bát, Mana với ngòi bút thư pháp điêu luyện, Rika cảm âm sắc sảo, Natsuki nhanh miệng, Mizuho giàu cảm xúc... Mỗi người một điểm mạnh và ma lực hấp dẫn riêng đã tỏa sáng trong “trận chiến Haiku”! Không chỉ là một tác phẩm làm nổi bật lên được sự tinh tế của văn hóa Nhật Bản, tác giả còn gửi gắm trong “Mùa xuân và Haru” tình bạn, niềm đam mê, nhiệt huyết cũng như sự quyết tâm – những phẩm chất đáng quý của người Nhật Bản. Nếu bạn là người yêu thích và đam mê tình hiểu văn hóa Nhật Bản, thì “Mùa xuân và Haru” chắc chắn là một tác phẩm không thể bỏ qua. *** Akiko Moriya Sinh năm 1961 tại Kanagawa. Năm 2003, bà đã đạt giải thưởng Ayukawa Tetsuya lần thứ 13 cho tác phẩm đầu tay “Nghìn năm Genji truyện”. Các tác phẩm của bà được ngợi khen bởi sự tinh tế trong văn phong và bút pháp khắc họa hình ảnh con người trong xã hội. Các tác phẩm tiêu biểu: “Haru ya Hasu”. “Shiro no Shukuen”, “Renge Nohara no Mannaka de”. “Nana-hime Genso”, “Kuzuno Seisuki”. v.v... “Haru ya Haru” - “Mùa xuân và Haru” là cuốn sách sẽ đưa bạn đọc đến gần hơn với văn hóa đầy độc đáo của Nhật Bản. *** Về Haiku Koushien Haiku* Koushien* là cuộc thi sáng tác thơ Haiku cho học sinh cấp ba. Một đội có tư cách dự thi phải bao gồm năm học sinh đang theo học tại các trường cấp ba của Nhật Bản. Để đăng ký dự thi, các thí sinh của đội phải nộp bài thơ trước hạn cuối, dựa theo quý đề* (còn gọi là nghiêm đề) được thành viên Ban tổ chức Haiku Koushien công bố trước cuộc thi. Để được tham gia đại hội toàn quốc tổ chức vào tháng Tám, cần phải đạt một trong hai điều kiện sau: • Đứng đầu trong vòng thi địa phương tổ chức vào tháng Sáu hằng năm. • Vượt qua vòng đánh giá của của thành viên Ban tổ chức Haiku Koushien. (1) Nghiêm đề như sau: Vòng thi địa phương: Phân thắng thua trong ba bài, ba đề. (2) Đại hội toàn quốc vòng sơ khảo: Phân thắng thua trong ba bài, ba đề. Đại hội toàn quốc vòng loại một, hai: Phân thắng thua trong năm bài, hai đề. Đại hội toàn quốc vòng bán kết: Phân thắng thua trong năm bài, hai đề. (3) Ngoài ra, những đội bị loại trước vòng bán kết sẽ được cho một nghiêm đề riêng để thi vớt vào buổi thi bán kết. 1: Những đội đã đăng ký vòng thi địa phương tự động được coi như đã đăng ký bài kiểm tra của thành viên Ban tổ chức Haiku Koushien. 2: Tùy vào số lượng đội đăng ký, để chọn ra đội tham gia vòng chung kết, số nghiêm đề cho các vòng thi địa phương có thể sẽ tăng lên. 3: Trong các đại hội trước, hầu hết nghiêm đề đều là quý ngữ*, nhưng trong các vòng bán kết, chung kết của đại hội toàn quốc thì nghiêm đề có thể là một chữ Hán không phải quý ngữ (ví dụ như “tiên*”, “sinh”, “chỉ”*, “chỉ*”...). (Katou Touko - Phó hội trưởng câu lạc bộ Haiku trường Cấp ba Nữ sinh Fujigaoka) *** Một cuốn sách trong trẻo về thanh xuân rực rỡ, tình bạn và sự trưởng thành của các thiếu nữ! Trong văn hóa Nhật Bản, những gì đặc sắc nhất luôn nhỏ bé và tinh tế, như những vì sao lấp lánh trong dải ngân hà bao la rộng lớn, đây là cuốn sách sẽ đưa bạn đọc đến gần hơn với văn hóa đầy độc đáo của xứ sở mặt trời mọc một cách chân thực và giàu cảm hứng nhất. “Mùa xuân và Haru” kể về  Suzaki Akane là một nữ sinh yêu thích Haiku (Haiku: tiếng Nhật: 俳句) (Bài cú) là loại thơ độc đáo của Nhật Bản, xuất phát từ ba câu đầu (発句 hokku, phát cú) của những bài renga (連歌 liên ca) có tính trào phúng gọi là renga no haikai (連歌の俳諧) mà sau gọi là haikai (俳諧 bài hài), theo học trường Cấp ba Nữ sinh Fujigaoka. Một ngày, cô phản đối Fuji – giáo viên môn Quốc ngữ của mình bởi cô giáo muốn phủ nhận sự ảnh hưởng Haiku trong nền văn hóa truyền thống. Từ những điểm tương đồng trong sở thích ấy, Suzaki đã kết bạn với Touko – cô bạn có cùng đam mê với nét văn hoa tinh tế của Nhật Bản với mình . Hai người nhắm tới hội thi “Haiku Koushien” và thành lập câu lạc bộ Haiku, nhưng cần đến năm người mới có thể tham gia thi đấu. Akane và Touku bằng niềm đam mê với Haiku cũng như sự chân thành muốn duy trì cũng như phát triển nét văn hóa tinh tế của Nhật Bản, cố gắng nỗ lực từng ngày tìm kiếm ‘bạn đồng hành” xung quanh ngôi trường cho đến khi tập hợp cho đủ các thành viên. Năm thành viên của nhóm chính là năm mảnh ghép với mỗi cá tính, mỗi thế mạnh riêng biệt. Akane có kinh nghiệm sáng tác Haiku, Touko hoạt bát, Mana với ngòi bút thư pháp điêu luyện, Rika cảm âm sắc sảo, Natsuki nhanh miệng, Mizuho giàu cảm xúc… Mỗi người một điểm mạnh và ma lực hấp dẫn riêng đã tỏa sáng trong “trận chiến Haiku”! Không chỉ là một tác phẩm làm nổi bật lên được sự tinh tế của văn hóa Nhật Bản,  tác giả còn gửi gắm trong “Mùa xuân và Haru” tình bạn, niềm đam mê, nhiệt huyết cũng như sự quyết tâm – những phẩm chất đáng quý của người Nhật Bản. Nếu bạn là người yêu thích và đam mê tình hiểu văn hóa Nhật Bản, thì “Mùa xuân và Haru” chắc chắn là một tác phẩm không thể bỏ qua.   Mời các bạn đón đọc Mùa Xuân Và Haru của tác giả Akiko Moriya.