Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hòm Thư Số 110

Tình yêu của anh nhón chân rón rén bước "Em đã bước vào vườn hoa của anh rồi nhỉ. Dù chưa được cho phép." Ở độ tuổi 30, bận bịu trong nhịp sống thường ngày quen thuộc khiến Jin Sol lẳng lặng đem cất những rung động tình yêu xa xỉ vào góc sâu trái tim. Mục tiêu cô đề ra là “Đừng để lòng vướng bận”. Song lẽ dĩ nhiên, trời chẳng chiều lòng người, đợt cải tổ nhân sự định kỳ của đài phát thanh đã mang đến cho cô một cộng sự khó nhằn - một nhà sản xuất chương trình còn sáng tác cả thơ. Để đối phó với anh ta, dường như mọi sự phòng bị là không đủ, hoặc chỉ một cốc smoothie đã đủ… Viết về những con người gần gũi trong cuộc đời bình dị, những người lớn dù đã khoác lên mình lớp vỏ trưởng thành song vẫn còn vô số khuyết điểm cũng như nhược điểm, ngày ngày vẫn đối mặt với nỗi cô đơn trong chừng mực cho phép, đây là câu chuyện “thử yêu thêm lần nữa” của họ, của bạn và của tôi. *** [Review nhè nhẹ] Hòm thư số 110 – Yi Do Woo “Bạn biết bạn đã đọc một cuốn sách hay, khi giở đến trang cuối cùng và cảm nhận như mình vừa mất đi một người bạn.” (Paul Sweeny) Thú thật thì mình là người yêu thích văn học (tiểu thuyết) Hàn Quốc nên khi cuốn sách vừa xuất bản là lao ngay tới quầy sách Nhã Nam để đón “Hòm thư số 110” về. Không nhiều hy vọng về một câu chuyện tình yêu phải có những tình tiết nhân văn hay đưa lại một ký ức thật đặc biệt, mình đón nhận cuốn sách với tâm thế đọc để “giao lưu học hỏi”. Thế rồi ba ngày trôi qua, chỉ rời cuốn sách khi nấu cơm, ăn cơm, vệ sinh cá nhân, đi ngủ, làm việc, mình đã bị “đốn gục” bởi cái sự bình dị mà không tầm thường của “Hòm thư số 110”.  Câu chuyện kể về tình yêu đầy tự nhiên của những con người nhỏ sống ở Seoul. Là cái cách nữ biên kịch Jin Sol từng bước một thoát khỏi cuộc sống nội tâm đầy cô đơn của mình, để bước ra với thế giới bên ngoài và “nhảy” vào tình yêu với vị PD Lee Geon mà cô làm chung. Tình yêu của họ tự nhiên đến độ không có một sự đưa đẩy khiên cưỡng nào làm độc giả lấn cấn hay phản đối. Bầu không khí trong phòng thu, cách họ dạo bước trên cầu Mapo, những cuộc đối thoại trong xe, cảm xúc lúc họ cùng trốn bảo vệ để khám phá cung điện ở Gwanghwamun vào giờ cấm, rồi cùng ngắm sao băng với bạn bè hay uống với nhau vài chén… đều rất trong trẻo và dịu dàng. Ngay cả cái cách miêu tả Jin Sol khi ầng ậc nước mắt, quay người sửa gối vì mất ngủ, khóc òa nơi chân cầu thang thoát hiểm cũng rất mượt mà và làm tim người đọc quặn thắt theo. Là câu chuyện tình yêu của cặp đôi phụ Ae Ri và Seon Woo “chặt không đứt, bứt không rời” cứ như thể họ đã gặp nhiều thật nhiều kiếp, nên ở kiếp này dù có khó khăn thế nào cũng vẫn sẽ tìm thấy nhau, vì nhau mà thay đổi. Vì Seon Woo, cô nàng học giỏi Ae Ri có thể từ bỏ cả việc học hành cao lên, chỉ để cùng nhau làm những việc họ thích đó là mở một quán trà trong con ngõ nhỏ ở Insadong – quán trà “Mở cửa vào ngày mưa”. Vì Seon Woo, Ae Ri có thể mòn mỏi chờ đợi ngay cả khi anh ích kỉ đi du lịch một mình cả tháng trời không liên lạc lại – vào mỗi lần anh thấy u uất trong lòng. Thương Ae Ri, khó chịu với tính cách của Seon Woo, nhưng rồi cứ càng đọc, người ta lại càng hiểu ra thật ra trong lòng Seon Woo luôn có sự tự ti chưa có thuốc giải, và Ae Ri cuối cùng cũng là người “bào chế” thuốc giải đó cho anh. Là hình ảnh người ông của PD Lee Geon với một cuộc sống vui vẻ, hào sảng và luôn thích chuyện trò. Dù xuất hiện không nhiều, nhưng cách mà ông gây cười rồi gây xúc động, cách mà ông xuất hiện dần dần – rõ nét – và tan biến đi lại giống như ánh sáng của con đom đóm - khi đèn điện sáng choang, ta sẽ không chú ý tới chúng, nhưng trong màn đêm thăm thẳm, chúng lại rõ nét và xúc động đến lạ kì. Ngoài những câu chuyện tình yêu đầy tự nhiên và ý nghĩa, “Hòm thư số 110” còn được tác giả viết ra những đoạn văn sinh động như thể đang xem một cảnh phim. Những con chữ lúc thì biến thành chiếc lá bay bay trên đường, khi lại là hạt tuyết rơi trắng xóa, lúc lại là những cơn mưa xối xả, hay vệt sao băng rơi trên bầu trời. Mỗi lần đọc đến đoạn văn mang tới cảm xúc như xem một bộ phim đang hiện hữu là mình lại thầm chắp tay cảm ơn tác giả, dịch giả và biên tập viên. Cuốn sách này đã được mình vừa đọc vừa chép vào sổ tay những đoạn văn, đoạn đối thoại ý nghĩa. Nhưng 2 trong số đó làm mình yêu thích nhất, đó là: 1. “Lát nữa chúng ta sẽ được ngắm những ngôi sao băng rơi từ 150 năm trước sao?” “Những ngôi sao ấy bay hàng vạn năm ánh sáng tới đây mà. Chúng xuất phát từ ba mươi nghìn năm trước tới giờ mới rơi xuống. Đúng là sự tình cờ mất rất nhiều thời gian nhỉ.” 2. “Qua 3 tháng nữa là em đã đi làm được 10 năm rồi. Không hiểu sao em có cảm giác như này. Chắc chắn… bên trong em có một cái giếng, và em đã dùng gàu múc hết số nước trong giếng ra… Giờ chỉ còn trơ đáy giếng mà thôi.” ------- *Bonus 1 chút, tiểu thuyết mới nhất của cô tác giả này đã được đài JTBC chuyển thể thành phim và sẽ phát sóng cuối tháng 2 này với tiêu đề "TRỜI ĐẸP EM SẼ ĐẾN - If the Weather Is Good, I’ll Find You" do Park Min Young và Seo Kang Joon thủ vai chính.* ® Nguyễn Thanh Hương *** Những mạt gỗ mỏng manh rơi từ đầu cây bút chì còn mới nguyên xuống tờ giấy đã dùng một mặt. Jin Sol dùng dao chuốt cho đến khi ruột bút lộ ra, bột chì đen mịn lả tả rơi xuống dính vào mặt giấy. “Vậy tóm lại là PD Lee Geon cũng thuộc phe Daeho à?” Jin Sol vừa áng chừng độ nhọn của ruột chì vừa hững hờ hỏi. Chỉ còn một tuần nữa là đến ngày cải tổ nhân sự mùa thu. Từ sáng sớm phòng biên kịch đã nhốn nháo bàn tán về các chương trình mới cũng như PD được phân công phụ trách. “Nếu phân rạch ròi thì là thuộc phe Daeho chứ còn gì nữa, dù xét về quan hệ đồng môn hay đồng hương anh ta cũng thuộc bên đó thôi, đám người có thế lực ấy!” Biên kịch Kim miệt mài gõ bàn phím máy tính xách tay ngay bên cạnh Jin Sol, từ ban nãy đã liên tục cung cấp thông tin về PD Lee Geon cho Jin Sol. Phía đối diện, biên kịch Choi, người phụ nữ U40 đã lập gia đình đang chăm chú viết bản thảo ôn tồn chen vào cuộc trò chuyện giữa hai người. “Đừng có nói linh tinh. Theo chị anh chàng này, dù sống trong chung cư Daeho đi chăng nữa cũng không thuộc phe Daeho đâu. Đài phát thanh có việc gì còn chưa bao giờ thấy cậu ta ló mặt nữa là. Đây chính là mẫu người chỉ muốn một mình nhẹ thân. Chị từng làm việc với cậu ta nên biết.” Jin Sol thầm nghĩ, những lời này có lẽ đúng bởi kỳ vừa rồi biên kịch Choi đã làm chương trình Nhạc phim đêm cùng với Lee Geon. Đột nhiên bị chọc mạnh vào mạng sườn, Jin Sol lập tức liếc nhanh sang hướng biên kịch Kim vừa chỉ. Ở một góc phòng, biên kịch Song vẫn được đồn là có mối quan hệ thân thiết với hội chung cư Deaho mặt lạnh tanh, tay đặt lên bàn phím ra điều đang làm việc, nhưng kỳ thực tai lại dỏng lên nghe ngóng. Biên kịch Kim lén lè lưỡi còn Jin Sol cười tủm. Jin Sol đặt ngay ngắn chiếc bút chì đã gọt nhọn vào hộp bút rồi lại bắt đầu gọt một cái mới. Những lúc rảnh rỗi hay khi đột nhiên thấy hưng phấn hoặc bồn chồn, cô lại có thói quen lôi vài cây bút chì ra gọt. Jin Sol thích ngắm những mạt gỗ mỏng manh rơi xuống khỏi mũi dao và ruột chì đen lộ dần ra nơi đầu bút. Dù bao năm trôi qua, cô vẫn say đắm hương gỗ phảng phất mỗi khi gọt bút chì, mùi hương vẫn vẹn nguyên như thời cô còn ấu thơ. Kể từ năm cuối đại học đến giờ, đã tròn chín năm cô đặt chân đến đài phát thanh, đảm nhận chân viết kịch bản quèn. Sau khoảng hai năm làm trợ lý biên kịch, phụ trách vài phần kịch bản dưới sự hướng dẫn của các tiền bối, cô đã được mang danh biên kịch đúng nghĩa và tự viết chương trình của riêng mình. Sau khi làm việc tại vài đài phát thanh, ba năm trước, cô bắt đầu chuyển về công tác tại FM Radio có trụ sở đặt ở quận Mapo. Jin Sol không thuộc típ người quá hoạt bát năng nổ hay hòa đồng quảng giao nên ngoại trừ những người làm việc chung, cô chỉ duy trì mối quan hệ xã giao với người khác ở mức nếu gặp thì khẽ cúi đầu chào mà thôi. Cô vô thức thở dài khiến đống mạt gỗ nằm trên mặt giấy bay lên nhè nhẹ rồi lại rơi xuống. Trong vòng một năm rưỡi qua, cô đã đảm nhận công việc viết kịch bản cho hai chương trình phát thanh: Chiếc xe ngựa hoa chuyên gửi tặng các ca khúc truyền thống và Studio hạnh phúc dành cho phái đẹp. Không hiếm trường họp các PD đảm nhận một chương trình trong suốt vài năm trời nên cũng có khi biên kịch phải gắn bó với chương trình đến ba kỳ liên tiếp. Tuy nhiên, trong đợt cải tổ nhân sự lần này, giám đốc đài cho rằng chương trình Chiếc xe ngựa hoa đang trong giai đoạn cần phải đổi mới. Tức là sẽ được chuyển giao cho PD Lee Geon 33 tuổi mới vào công ty được năm năm phụ trách. Với một người mắc bệnh sợ người lạ nặng như Jin Sol, việc phải hòa hợp với cộng sự mới quả có chút đáng ngại. “Gong Jin Sol, giờ cô đã là bậc thầy trong lĩnh vực gọt bút chì rồi đấy.” Biên kịch Kim nửa xuýt xoa nửa trêu chọc khi nhìn thấy đầu bút chì xinh xắn Jin Sol vừa gọt. “Đúng thế. Em đắc đạo rồi.” Jin Sol cười khúc khích hưởng ứng. Đột nhiên cửa phòng mở tung, một giọng nói trong trẻo vang lên khiến ánh mắt mọi người đều đổ dồn về phía đó. “Chào mọi người. Lâu lắm rồi không gặp!” Là biên kịch Ahn Hee Yeon, cô gái luôn khiến người đối diện phải chú ý bởi phong cách thời trang nổi bật và ngoại hình tươi sáng, tràn đầy năng lượng. Biên kịch Kim khẽ nghiêng người thầm thì. “Chuyện gì thế này, sao cô ả lại hạ cố đến cái phòng biên kịch xa xôi hẻo lánh này cơ chứ. Trước giờ toàn ngồi cạnh PD một lát rồi đi ngay cơ mà.” Hee Yeon đi thẳng vào phòng biên kịch, tiến đến vị trí gần cửa sổ nơi Jin Sol đang ngồi, duyên dáng ghếch bộ mông xinh đẹp của mình lên bàn làm việc. “Biên kịch Gong, lần này cô làm việc với PD Lee Geon đúng không?” Mái tóc đen dày, óng mượt của Hee Yeon được tết năm sin sít và cột lại bằng dây nơ màu lá phong. Nhìn bím tóc trước mặt, Jin Sol chợt nghĩ, tết năm như vậy thì phải tết theo thứ tự thế nào nhỉ. “Ừ. Có vấn đề gì sao?” “Tôi vừa đi họp về. Chương trình World Music của chúng tôi kỳ này vẫn sẽ tiến hành như thường lệ. Cô biết anh Geon sẽ làm Chiếc xe ngựa hoa và một chương trình khác nữa rồi chứ? Anh ấy dò hỏi tôi xem biên kịch Gong là người như thế nào, đương nhiên tôi đã nói tốt về cô trước mặt anh ấy rồi.” Nói tốt về mình ư? Ahn Hee Yeon lại biết rõ về mình sao? Dù nghi ngờ nhưng Jin Sol vẫn cố nở nụ cười. “Thế à? Cảm ơn cô nhé.” “Tôi nghĩ biên kịch Gong và anh Geon sẽ làm việc ăn ý với nhau thôi. Anh ấy vốn rất thông minh.” Jin Sol gượng cười, lẳng lặng lấy cây bút chì thứ ba và chỉ gật đầu. Anh Geon cơ đấy. Cho đến tận giờ, cô nàng Ahn Hee Yeon 28 tuổi này chưa từng gọi bất cứ ai trong số các biên kịch ở đài phát thanh bằng chị hay tiền bối. Cả với Jin Sol năm nay đã 31 tuổi hay với những người lớn tuổi hơn nữa, Hee Yeon cũng chỉ gọi trống không là “biên kịch X” để tạo cảm giác ngang hàng. Trước thái độ dửng dưng của Jin Sol, Hee Yeon lén nhìn cô một lượt từ đầu đến chân. Gong Jin Sol dáng người nhỏ bé, đang chăm chú nhìn xuống đầu ngón tay lẳng lặng gọt bút chì. Nghe bảo cô ta viết bản thảo rất chắc tay, lại được các PD đánh giá rất cao? Nhưng theo Hee Yeon thấy, Jin Sol chỉ là một phụ nữ hết sức bình thường, không giỏi xã giao, không có tham vọng, cả chí tiến thủ cũng không nốt. “Cô có biết PD Lee Geon là nhà thơ không?” “Gì cơ?” Suýt chút nữa thì bị dao cứa vào tay. Jin Sol khựng lại, ngước lên nhìn Hee Yeon như thể vừa nghe thấy điều không nên nghe. Cô há hốc miệng vì ngạc nhiên. Phải đến lúc này, Hee Yeon mới mỉm cười tươi tắn. “Cô không biết sao? Cách đây mấy năm, PD Lee Geon còn ra một tập thơ. Viết hay lắm.” Vẻ mặc cảm thoáng hiện lên trên gương mặt Jin Sol, cô khẽ thở dài. “… Chết tiệt.” Hee Yeon nở nụ cười thỏa mãn rồi nhấc mông khỏi bàn. “Tôi phải đi trước đây, còn phải đến Yeouido nữa. À, cô có xem chương trình tôi viết kịch bản không? 12 giờ đêm thứ Năm hằng tuần nha. Mong cô giúp tăng tỉ suất người xem một chút nha. Hẹn gặp lại mọi người sau.” Hee Yeon rạng rỡ vẫy tay chào tạm biệt tất cả mọi người trong phòng rồi bỏ đi. Biên kịch Song ngồi ở phía cửa ra vào cười khẩy như thể vừa nghe một chuyện thật hoang đường. Ngoài chương trình World Music,Hee Yeon còn đảm nhận cả kịch bản Jazz Concert và cô nàng chưa bao giờ ngừng khoe khoang về việc này. Jin Sol nhìn biên kịch Choi ngồi phía đối diện với vẻ mặt oán trách. “Tiền bối, sao chị không nói với em?” “Chuyện PD Geon là nhà thơ á? Cái đó có gì quan trọng đâu cơ chứ?” Biên kịch Choi đưa tay đẩy lại gọng kính trên sống mũi rồi rời mắt khởi màn hình máy tính, ngước lên nhìn Jin Sol. Ở đài phát thanh có rất nhiều nhà sản xuất họ Lee nên Lee Geon thường được các đồng nghiệp gọi là PD Geon. “Với em thì có đấy. Chị biết trước đây em từng khổ sở như thế nào với tay phê bình âm nhạc kia còn gì?” “Em cứ thử làm việc với người ta đi đã. Thật tình, PD Geon khó tính trong chuyện bản thảo lắm nhưng cậu ta cũng không phải kiểu người thích gây sự lung tung đâu. Cứ làm việc với tâm trạng thoải mái là được.” “Đâu có dễ vậy ạ.” Jin Sol lẩm bẩm trong miệng nghe như tiếng thở dài. Đoạn, cô bỏ dao và bút chì vào ống đựng bút rồi gói tờ giấy hứng bột chì và mạt gỗ lại. Anh ta mà viết lách giỏi thật thì con đường gian nan lại sắp mở ra trước mắt Jin Sol rồi đây. Jin Sol không thích những PD giỏi viết lách, kiểu làm thơ, viết tiểu thuyết hay phê bình văn học. Đâu phải mình cô nghĩ vậy. Mọi biên kịch đều muốn tránh các PD giỏi viết lách. Vài năm trước, Jin Sol từng làm việc chung với một nhà sản xuất kiêm phê bình âm nhạc mà đến tận bây giờ chỉ cần nhớ đến quãng thời gian đó cô lại lắc đầu nguầy nguậy. Người đó luôn vặn vẹo về các bình luận ca khúc, thậm chí là từng câu chữ diễn đạt của cô. Anh ta thuộc típ người trong một ngày phải sửa được một chỗ theo đúng ý mình mới vừa lòng, cho dù nội dung trước và sau sửa không khác biệt là mấy. Jin Sol nghĩ anh ta cứ sửa theo thói quen vậy thôi. Mời các bạn mượn đọc sách Hòm Thư Số 110 của tác giả Yi Do Woo & Trần Hải Dương (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

SOS
Có một nghề được gọi là “làm mẹ”. Đó là trở thành mẹ của những đứa trẻ không do mình mang nặng, rứt ruột sinh ra. Đó là trở thành mẹ trong một khoảng thời gian định sẵn, với những qui định không mấy dễ chịu, và một trong số những qui định ấy là quên đi hạnh phúc của cá nhân mình. Và cái chốn được gọi là gia đình ấy hẳn phải là nơi đầy ắp tình yêu thương, chan chứa sự vỗ về và an ủi tâm hồn người ta lắm. Bởi chỉ có như thế, “mẹ” mới sẵn sàng quên mình vì hạnh phúc của các “con”. Thế thì điều đó lí tưởng quá còn gì. Thực tế, làng trẻ để các cô gái trẻ tự nguyện vào đây làm mẹ, để chăm sóc những đứa trẻ mồ côi, bất hạnh, lại không được lý tưởng đến thế. Một làng trẻ mà thiếu tiếng trẻ nô đùa, nghịch ngợm. Một làng trẻ mà trật tự khuôn phép được đặt lên hàng đầu. Một làng trẻ không khác nào môi trường quân sự, mà những đứa trẻ chính là những chú lính tí hon dễ bảo. Một làng trẻ mà những đứa trẻ bị đánh mất tuổi thơ… Làm sao để yêu thương và được yêu thương tại một nơi nhân danh yêu thương, nhưng yêu thương lại không hề tồn tại? Làm sao có thể giải quyết được mâu thuẫn giữa yêu thương lí tưởng và lí tưởng yêu thương? Và “làm sao biết được những đôi mắt sớm suy tư đang nghĩ gì?” S. O. S! *** Có một công việc được gọi là “làm mẹ”. Có một quy định được gọi là “làm con”. Tình mẫu – tử chỉ trọn vẹn khi “mẹ” phải mang nặng và đứt ruột khi sinh ra “con”, có phải? Làm sao để yêu thương và được yêu thương tại một nơi mà tính yêu thương nhiều khi là bổn phận? _______________________________ Những câu văn trên được tớ trích ra từ tác phẩm truyện dài “SOS” của Nguyên Hương. Nguyên Hương có lẽ là một cái tên hơi xa lạ với các độc giả nhưng các tác phẩm của cô đều chứa đựng những lí tưởng cao đẹp, quý giá. Tuy “SOS” không phải là quyển sách đầu tiên của Nguyên Hương mà mình đọc, nhưng mình thực sự rất ấn tượng với nó. Ấn tượng từ cái tên, cái bìa và cả nội dung. Toàn bộ câu chuyện dài 180 trang kể về cô gái tên Thùy. Cô đang ở tuổi đời thanh xuân phơi phới, tương lai phía trước đang rộng mở đón chờ cô. Nhưng cô không chọn một công việc bình thường, rồi cưới chồng, rồi chăm lo cho đứa con chính mình đứt ruột sinh ra, mà lại chọn công việc làm “mẹ” ở trại trẻ SOS – trại trẻ dành cho các trẻ em cơ nhỡ, gia đình bỏ rơi. Một mình cô, nuôi 8 đứa “con”, đứa lớn nhất 11 tuổi và đứa nhỏ nhất mới chỉ 4 tuổi. Tại đây, những tình yêu chân thành, chất phát tỏa ra. Với văn phong tự nhiên, ngôn ngữ bình dị nhưng lại giàu cảm xúc xuyên suốt cả nội dung quyển sách, Nguyên Hương đã cho ta thấu cảm được tình mẫu – tử thiêng liêng từ giữa một người mẹ và các đứa con không cùng huyết thống. Những tình cảm chất phác, trong sang của các đứa trẻ đối với “người mẹ” xa lạ nhưng tình cảm ấy lại thân thuộc và ấm áp vô cùng. Đây thực sự là một quyển sách hay, một câu chuyện đẹp và đầy ý nghĩa nhân văn về tình cảm gia đình. Đây thực sự là một quyển sách rất đáng để đọc. _______________________________ Làm sao biết được những đôi mắt sớm suy tư đang nghĩ gì? Làm sao để giải quyết được mâu thuẫn giữa yêu thương lí tưởng và lí tưởng yêu thương? Làm mẹ có phải là một công việc không? REVIEW CỦA BẠN Le Hoang Thuy Vy   Mời các bạn đón đọc SOS của tác giả Nguyên Hương.
Nụ Cười Dưới Chân Thang
Henry Miller là người Mỹ, sinh tại New York, tại một thành phố tượng trưng cho Sinh mệnh Tây phương trong trạng thái huy hoàng nhất, với tất cả khám phá mới mẻ nhất của khoa học và cơ khí, mẫu mực của đời sống con người ở thời đại nguyên tử. Henry Miller chính là người đã phá hủy đời sống theo điệu Mỹ, đã phá Văn minh Mỹ một cách khốc liệt; đối với Henry Miller, tất cả những gì tàn bạo nhất, ngu xuẩn nhất, khờ khệch nhất, bi đát nhất, rỗng tuếch nhất, nhạt nhẽo nhất đều xuất phát từ Mỹ quốc, quê hương của ông. Tất cả những quyển sách của Henry Miller đều tố cáo Văn minh Mỹ quốc, tố cáo sự điêu tàn của Tây phương, tố cáo đời sống nông cạn của con người thời đại, tố cáo những ảo tưởng điên rồ của xã hội, đoàn thể, tôn giáo, đảng phái; luân lý, đạo đức; Henry Miller đánh dấu sự cáo chung của văn chương, thi ca và nghệ thuật: “Cách đây một năm, cách đây sáu tháng, tôi nghĩ rằng tôi là nghệ sĩ. Bây giờ tôi không nghĩ về việc ấy nữa, tôi LÀ!“ (Henry Miller, Tropic of Cancer, trang 1), “Tất cả những gì là văn chương, văn nghệ, văn học đều tách rời khỏi tôi” (op. cit, trang 1); Henry Miller “khạc nhổ vào mặt của nghệ thật, đá vào đít của Thượng đế, của Người, của Sinh mệnh, của Thời gian, của cái Đẹp, của Tình yêu!” (op. cit, trang 2); Henry Miller cho rằng Rimbaud đã thất bại một cách chua xót là vì “thời gian chưa chín muồi” (The time was not ripe) (cf. Henry Miller, the Books in my life, Icon Books; 1963, trang 96); Henry Miller khơi mở tất cả ý nghĩa trong sắc lệnh của Rimbaud: “A bas l’histoire!) (Đả đảo lịch sử!) (cf. Henry Miller, op. cit trang 86); Henry Miller ca tụng Rimbaud và gọi Rimbaud là “Kha Luân Bố của Tuổi trẻ” (cf. New Directions IX, New Directions XI) và cho rằng hành động của Rimbaud (khi lìa bỏ Tây phương để sống cuộc đời vất vả kỳ lạ ấy ở Phi châu) là một sự tự tử, vì Rimbaud thất vọng khi thấy Tây phương không còn thoát khỏi Tất mệnh đau thương kia. Bài văn đầu tiên trong đời Henry Miller là bài cảo luận ông viết về quyển Anti-Christ của Nietzsche; Henry Miller khinh miệt Heidegger, nhưng ông quí Eckhart và trích dẫn câu văn của Eckhart: “Hãy nhìn, tất cả là Bây giờ duy nhất” (cf. Henry Miller, Remember to Remember) và chính Henry Miller thốt lên: “Tất cả phải là một”. “Tất cả là một”, đi ngược lại với εν Πάντα của Héraclite trong tinh thần tương tức tương nhập của Kinh hoa nghiêm Phật giáo, “nhất tức nhất, nhất tức nhất thiết, nhất thiết tức nhất, nhất thiết tức nhất thiết”; khi đứng tại Mycenae tại Hy Lạp, trước mồ của Clytemnestra, Henry Miller đã sống lại tất cả những bi kịch Hy Lạp Thượng cổ (Eschyle, Sophocle, Euripide, vân vân); tác phẩm vĩ đại nhất của Henry Miller là quyển Colossus of Marcussi, nói lên sự trở về nguồn của Henry Miller khi ông khám phá lại đất trời Hy Lạp, sống lại buổi Triêu Dương của Sinh mệnh Tây phương; niềm vui vô hạn của sự tỉnh thức kỳ diệu lan tràn chan chứa trong quyển Colossus of Maroussi. Henry Miller là người duy nhất (trong mấy ngàn năm của Sinh mệnh Tây phương) người độc nhất đã tỉnh thức hoàn toàn, yêu Hố thẳm và đã mọc cánh bay vút từ Hố thẳm lên đến Thiên Không xanh lơ; ông ôm choàng cuộc đời vũ trụ trong vòng tay âu yếm (Henry Miller: Instinctively; just as a bird takes wing, he threw ou: his arms in an all-encompassing embrace), run say sung sướng tràn trề trong niềm vui lai láng vô biên, thốt lên mừng rỡ ở giây phút tối hậu: “Thế là đến rồi! Đến rồi!” (“At last, At last!”). Henry Miller tự xưng là “một thằng hề” truyện The Smile at the Foot of the Ladder (Cười dưới chân thang) của Henry Miller là nói về một anh hề kỳ lạ nhất chưa từng có trong lịch sự loài người; Henry Miller cho rằng truyện ấy là “truyện kỳ lạ nhất mà tôi đã viết trong đời” (undoubtedly it is the strangest story I have yet written); trong truyện ấy, Henry Miller đã đưa Sinh mệnh đến Tất mệnh và bay lên bầu trời xanh lơ của Tính mệnh trong Bình minh của Hố thẳm: “Niềm vui giống như một con sông: nó chảy miên man không ngừng. Đối với tôi, đó dường như tất cả lời nhắn gửi mà người hề đang cố gắng mang đến cho chúng ta, nhắn gửi chúng ta hãy nhập thế với dòng tuôn chảy di động không ngừng, nhắn gửi chúng ta đừng dừng lại để suy nghĩ, để so sánh, để phân tích, để ghì giữ, mà hãy tiếp tục tuôn chảy không ngừng vô cùng vô tận như dòng nhạc miên man. Đó là dâng bỏ, buông rơi, siêu thoát; người hề đã diễn tả sự siêu thoát ấy một cách tượng trưng. Còn chúng ta hãy làm sự siêu thoát ấy thành hiện thể”. (Joy is like a river: it flows ceaselessly. It seems to me that this is the message which the clown is trying to convey to us, that we should participate through ceaseless flow and movement that we should not stop to reflect, compare, analyze, possess, but flow on and through, endlessly, like music. This is the gift of surrender, and the clown makes it symbolically. It is for us to make it real). Henry Miller đã sống qua hết những mâu thuẫn, những bi kịch đau đớn khôn cùng của cuộc đời: “Chúng ta chết đang khi vùng vẫy để sinh ra đời. Chúng ta không bao giờ đã là, không bao giờ đang là. Chúng ta đang luôn luôn trong tiến trình biến dịch, luôn luôn ly cách và đứt lìa. Luôn luôn ở bên ngoài”. (We die struggling to get born. We never were, never are. We are always in process of becoming, always separate and detached. Forever outside). Những dòng chữ trên nói lên Sinh mệnh cựa quậy trên bờ đất, khi Sinh mệnh không còn tuôn chảy trong dòng sông Tính mệnh. Muốn sống lại, chúng ta chỉ cần khơi mở và khám phá: tất cả đều đã có sẵn trong ta rồi (we uncover and discover. All has been given, as the mystics say). Chúng ta chỉ cần mở mắt và lòng để trở nên một với toàn thể (we have only to open our eyes and hearts, to become one with that which is). Henry Miller là một trong số rất ít người mà Sinh mệnh đã được giải thoát; Henry Miller nhìn thế giới này qua một màu sắc mới lạ khác hẳn cách nhìn của đôi mắt thường nhân. Henry Miller nhìn thấy cuộc đời với một đôi mắt khác. Henry Miller sống tràn trề trọn vẹn trong khoảnh khắc hiện tại và sự hiện diện của Henry Miller chiếu tỏa rực ngời ánh dương buổi sớm, tuôn dậy một bài ca bất diệt của niềm vui chan chứa hương mai. Henry Miller mỉm cười dưới chân thang, một nụ cười thênh thang thiên sứ tuyệt trần (it was a broad, seraphic smile). Mời các bạn đón đọc Nụ Cười Dưới Chân Thang của tác giả Henry Miller.
Một Giọt Nắng Nhạt
Trong nhiều sáng tác Nguyễn Khải ta đã bắt gặp nhân vật xưng tôi. Một nhân vật tôi nửa là nhân vật hư cấu, nửa là chính nhà văn, tức là có một sự mơ hồ, lẫn lộn một cách chủ ý. Lối viết này thực ra không hoàn toàn mới trong lịch sử phát triển của văn học trong nước cũng như trên thế giới. Cái đặc sắc của Nguyễn Khải ở chỗ cái tình rất thực, tự bạch cũng là tự kiểm, tự đánh giá qua tự truyện. Kể cả tự giễu- một khuynh hướng đánh giá có màn sắc triết lý mà cũng rất trần đời. Một giọt nắng nhạt kể về quãng tuổi thơ đầu đời_"cái tuổi 15". Có nhiều nét giống Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng, lại có cả những khía cạnh như Cỏ dại của Tô Hoài, nhưng có cái vẻ "dữ dội" hơn ở khía cạnh tâm lý. Cái khổ của vật chất cộng cái khổ tinh thần trĩu xuống tâm hồn thơ dại nhưng cũng đủ hiểu biết, thức tỉnh. *** Nguyễn Khải (3/12/1930 - 15/1/2008) Nhà văn được trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh. - Nguyễn Khải tên thật là Nguyễn Mạnh Khải, sinh năm 1930 tại Hà Nội. Quê nội ở thành phố Nam Định nhưng tuổi nhỏ sống ở nhiều nơi. Đang học trung học thì gặp Cách mạng tháng Tám. - Trong Kháng chiến chống Pháp, Nguyễn Khải gia nhập tự vệ chiến đấu ở thị xã Hưng Yên, sau đó vào bộ đội, làm y tá rồi làm báo. Bắt đầu viết văn từ những năm 1950, được chú ý từ tiểu thuyết Xung đột (phần I năm 1959, phần II năm 1962). - Sau năm 1975, ông chuyển vào sinh sống tại tp. Hồ Chí Minh. - Năm 1988, ông rời quân đội với quân hàm đại tá để về làm việc tại Hội Nhà văn Việt Nam. Nguyễn Khải từng là Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam các khóa 2, 3 và là Phó tổng thư ký khóa 3. Ông là Đại biểu Quốc hội khóa VII. - Các sáng tác của ông khá phong phú: về nông thôn trong quá trình xây dựng cuộc sống mới, về bộ đội trong những năm chiến tranh chống Mỹ, về những vấn đề xã hội–chính trị có tính thời sự và đời sống tư tưởng, tinh thần của con người hiện nay trước những biến động phức tạp của đời sống. Sáng tác của Nguyễn Khải thể hiện sự nhạy bén và cách khám phá riêng của nhà văn với các vấn đề xã hội, năng lực phân tích tâm lý sắc sảo, sức mạnh của lý trí tỉnh táo. - Năm 1982, ông nhận Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam với tiểu thuyết Gặp gỡ cuối năm. - Năm 2000, nhà văn được phong tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt II về Văn học nghệ thuật. - Ông mất năm 2008 tại thành phố Hồ Chí Minh do bệnh tim. Tác phẩm đã xuất bản Ông sáng tác nhiều thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, ký sự, kịch. Trong đó, Nguyễn Khải để dấu ấn qua nhiều tác phẩm như: Xây dựng (truyện vừa, 1952) Xung đột (ghi chép nhiều tập, truyện, 1959-1962) Câu chuyện giữa một người đọc và một người chép (Nghiên cứu lý luận, 1959) Mùa lạc (tập truyện ngắn, 1960)  Một chủ đề chung quán xuyến tất cả sáng tác của tôi: Làm thế nào cho con người sống được hạnh phúc hơn. (trả lời phỏng vấn, báo Văn học, 1962) Sức mạnh của ngòi bút là được chiến đấu cho lẽ phải, cho chân lý (trao đổi, báo Văn học, 1962) Hãy đi xa hơn nữa (tập truyện vừa, NXB Văn học, 1963) Đường vào nghệ thuật (NXB Thanh niên, 1963) Gia đình lớn (Truyện vừa, Tạp chí Văn nghệ Quân đội, 1964) Người trở về (Tập truyện vừa, NXB Văn học, 1964)  Sáng tạo những tác phẩm nghệ thuật thật cao đẹp xứng đáng với nhân dân anh hùng (Báo nhân dân, 1968) Người 40 tuổi (Tự sự lúc bước sang một năm mới, Tạp chí Văn nghệ quân đội, 1970) Ra đảo (tiểu thuyết, NXB Quân đội nhân dân, 1970) Đường trong mây (tiểu thuyết, NXB Văn học, 1970) Hãy đi xa hơn nữa (tập truyện vừa, NXB Văn học, 1971) Chủ tịch huyện (truyện, NXB Văn học 1972) Chiến sĩ (tiểu thuyết, NXB Quân đội nhân dân, 1973) Đối mặt (kịch, Tạp chí Tác phẩm mới, 1974) Tháng ba ở Tây Nguyên (ký sự, NXB Quân đội nhân dân, 1976) Cách mạng (kịch 4 màn, NXB Quân đội nhân dân, 1978) Cha và Con và... (tiểu thuyết, NXB Tác phẩm mới, 1979) Hành trình đến tự do (Kịch, NXB Văn nghệ, 1980) Khoảnh khắc đang sống. (Kịch bản điện ảnh, Báo Văn nghệ, 1980)  Bạn bè trên cao nguyên (truyện, Tạp chí Văn nghệ quân đội, 1981) Gặp gỡ cuối năm (tiểu thuyết, NXB Tác phẩm mới, 1982) Khoảnh khắc đang sống (kịch bản phim, truyện ngắn, NXB Văn nghệ, 1982)  Văn xuôi một chặng đường 1963-1983. Báo cáo bổ sung trình bày trong Đại hội lần thứ III Hội Nhà văn Việt Nam (Tạp chí Văn nghệ Quân đội, 1984) Thời gian của người (tiểu thuyết, NXB Tác phẩm mới, 1982) Điều tra về một cái chết (tiểu thuyết, NXB Tác phẩm mới, 1986) Cái thời lãng mạn (truyện vừa, Báo Văn nghệ, 1987) Vòng sóng đến vô cùng (truyện, NXB Trẻ, 1987)  Nghề văn, nhà văn và Hội nhà văn (ý kiến, Báo Văn nghệ, 1988) Một giọt nắng nhạt (sách măng non, NXB Trẻ, 1988)  Những suy nghĩ về đổi mới văn nghệ (Báo Văn nghệ, 1989) Đến một nơi rất xa để được hiểu lại mình (Tạp chí Tác phẩm văn học, 1989) Một cõi nhân gian bé tý(tiểu thuyết, NXB Văn nghệ, 1989) Một người Hà Nội (tập truyện, NXB Hà Nội, 1990) Danh nhân của làng (truyện ngắn, 1991)  Cặp vợ chồng ở chân động Từ Thức (truyện ngắn, báo Văn nghệ, 1991)  Chuyện tình của mỗi người (truyện ngắn, Tạp chí Văn nghệ quân đội, 1992) Nghề văn cũng lắm công phu (Báo Văn nghệ, 1992-1993) Sư già chùa Thắm và ông đại tá về hưu (tập truyện, NXB Hội nhà văn, 1993) Một thời gió bụi (tập truyện ngắn, NXB Lao động, 1993)  Tôi nhiệt liệt ủng hộ các cây bút trẻ có tài. Thư ngỏ gửi nhà văn (báo Văn nghệ trẻ, 1995)  Nhìn lại những trang viết của mình. Tham luận tại Hội thảo Việt Nam nửa thế kỷ văn học (1995) Hà Nội trong mắt tôi (tập truyện ngắn, NXB Hà Nội, 1995) Nguyễn Khải với nghề văn (Báo Văn nghệ trẻ, 1996) Bắt đầu từ một câu nói (9-1996) Cuộc tìm kiếm mãi mãi (3-1996)  Tâm sự văn chương của nhà văn Nguyễn Khải (Báo Văn nghệ trẻ, 1997) Truyện ngắn và tạp văn (NXB Trẻ, 1997) Chị Xuân, chị Đào (Bút ký, Phụ san Văn nghệ Quân đội, 1998)  Người Ngu (Báo Văn nghệ trẻ, Xuân Mậu Dần, 1998) Những tháng năm yên tĩnh (Bút ký, Báo Văn nghệ, Tết Mậu Dần, 1998)  Ước gì tôi được trẻ lại, Chuyện cà kề, Một lá phiếu và một lá phiếu (Lão Bộc) (Phụ san Văn nghệ Quân đội, 1998)  Hạnh phúc đến muộn (Kịch nói, Tạp chí Tác phẩm mới, 1998) Một bài tiểu luận làm tôi thay đổi cả quan niệm về tiểu thuyết (trả lời phỏng vấn, Báo Tuổi trẻ chủ nhật, 1998)  Chút phấn của đời. (kịch nói 2 màn, Tạp chí Văn nghệ quân đội, 1999) Hãy biết cách cống hiến bạn đọc cái phần mạnh nhất của mình. Bài phát biểu tại lễ trao giải thưởng văn học 1998 của Hội nhà văn  Một cuộc bàn giao chậm lại đúng nửa thế kỷ (Báo Văn nghệ Tết Kỷ Mão, 1999)  Đến một nơi rất xa để được hiểu lại mình. (bút ký, Báo Văn nghệ, 1999) Đọc "Tiểu thuyết thứ bảy" (Báo Văn nghệ, 1999)  Chế Lan Viên - một nghệ sĩ, một chiến sĩ (Báo Văn hóa thể thao, 1999) Tìm đất sống (bút ký, Báo Văn nghệ, 1999) Truyện nghề (NXB Hội Nhà văn, 1999)  Tết của một chiến sĩ tình báo (Báo Văn nghệ Tết Canh thìn, 2000) "Tiểu thuyết là tinh hoa của hiện thực" (Báo Văn nghệ Tết Canh thìn, 2000)  Mạch nước trong vẫn lặng lẽ chảy (Báo Sài Gòn tiếp thị, 2000)  Đôi điều biết thêm về Nguyễn Văn Vĩnh (Phụ san Văn nghệ quân đội, 2000) Danh dự (truyện, Tạp chí Văn nghệ Quân đội, 2000)  Người Việt nam những chục năm đầu thế kỷ XX (Báo Văn nghệ, 2000) Tây Nguyên nửa đầu thế kỷ XX (Báo Văn nghệ, 2000)  Tôi là người may mắn (trả lời phỏng vấn, Báo Lao động, 2000)  Giận ông giời (truyện ngắn, Báo Văn nghệ, 2001) Má hồng (truyện ngắn, Báo Văn nghệ, 2001) Sống ở đời (tập truyện, NXB Trẻ, 2002) Thượng đế thì cười (tiểu thuyết, NXB Hội nhà văn, 2003), mang giọng văn hồi ký về cuộc đời viết lách của ông. Cuối đời, ông dành thời gian đúc kết những nghĩ suy, đau đáu trong tùy bút: Nghĩ muộn (Tùy bút, 2000) Đi tìm cái tôi đã mất (Tùy bút, 2006) Mời các bạn đón đọc Một Giọt Nắng Nhạt của tác giả Nguyễn Khải.
Anh Meaulnes
Một trăm năm nay, người ta vẫn không ngừng hỏi và tự hỏi, Alain-Fournier đã làm như thế nào mà Anh Meaulnes cứ giữ mãi được sự huyền diệu vô song chưa từng bao giờ bị mai một, qua liên tiếp biết bao thế hệ độc giả. Rất có thể, sự tồn tại không vương xước xát của thời gian và ánh mắt con người ấy bắt nguồn từ một lòng quả cảm vô cùng hiếm hoi dám phiêu lưu tới những miền mong manh nhất của tâm tưởng và ký ức, để cho thực tại không ngừng chạm vào lãnh thổ của cái bí ẩn thuần khiết. Nhưng cũng cần thêm vào đó cảm hứng từ các thần tượng văn chương của Alain-Fournier, Maurice Maeterlinck và nhất là Charles Péguy. Dẫu là như thế nào, ra đời năm 1913, cùng tập thứ nhất À la recherche du temps perdu của Marcel Proust,Anh Meaulnesđánh dấu sự kết thúc của một thời đại lớn của nước Pháp và châu Âu; ngay sau đó, cuộc chiến tranh dữ dội sẽ làm tan biến biết bao con người ưu tú hạng nhất, trong đó trước hết phải kể tới chính Alain-Fournier. *** "Anh Meaulnes": tác phẩm văn chương huyền diệu chạm vào lãnh thổ của sự bí ẩn thuần khiết Một trăm năm, Anh Meaulnes vẫn là một tác phẩm văn chương huyền diệu vô song chưa từng bao giờ bị mai một, qua liên tiếp biết bao thế hệ độc giả Alain-Fournier là một trong những con người ưu tú của văn đàn nước Pháp. Ra đời vào khoảng những thập niên đầu của thế kỷ XX, tác phẩm đầu tay của Alain-Fournier đã trở thành kinh điển. Truyện không chỉ có ảnh hưởng mạnh tới những thế hệ nhà văn tây phương hiện đại mà còn làm rung cảm những tâm hồn trẻ tuổi sắp sửa vượt qua mốc quan trọng của tuổi hai mươi. Năm 1967 và 2006, Anh Meaulnes đã được chuyển thể thành phim. Kể về câu chuyện của những chàng trai trẻ tuổi trên hành trình khám phá cuộc đời, cuốn tiểu thuyết khai thác đề tài về sự chênh lệch và đối lập giữa sự vô hạn của ước mơ cùng sự hữu hạn của đời người. Xuyên suốt cả thiên truyện, Alain-Fournier đã khắc họa nỗi khắc khoải của con người trong cuộc đụng độ chênh lệch với định mệnh. Có thể nói trong thế giới văn chương, hiếm có tác phẩm nào giống như Anh Meaulnes. Dù không phải tự truyện nhưng trong đó người ta thấy rõ một sự đồng nhất gần như trọn vẹn giữa tác giả và những nhân vật chính, với những chi tiết hầu như hoàn toàn phản ánh cuộc đời ngắn ngủi của tác giả. Một trăm năm nay, người ta vẫn không ngừng hỏi và tự hỏi, Alain-Fournier đã làm như thế nào mà Anh Meaulnes cứ giữ mãi được sự huyền diệu vô song chưa từng bao giờ bị mai một, qua liên tiếp biết bao thế hệ độc giả. Rất có thể, sự tồn tại không vươngphôi pha của thời gian và ánh mắt con người ấy bắt nguồn từ một lòng quả cảm vô cùng hiếm hoi dám phiêu lưu tới những miền mong manh nhất của tâm tưởng và ký ức, để cho thực tại không ngừng chạm vào lãnh thổ của cái bí ẩn thuần khiết. Nhưng cũng cần thêm vào đó cảm hứng từ các thần tượng văn chương của Alain-Fournier, Maurice Maeterlinck và nhất là Charles Péguy. Dẫu là như thế nào, ra đời năm 1913, cùng tập thứ nhất Đi tìm thời gian đã mất của Marcel Proust, Anh Meaulnes đánh dấu sự kết thúc của một thời đại lớn của nước Pháp và châu Âu; ngay sau đó, cuộc chiến tranh dữ dội sẽ làm tan biến biết bao con người ưu tú hạng nhất, trong đó trước hết phải kể tới chính Alain-Fournier. *** Alain-Fournier (1886 – 1914) lớn lên tại Sologne, nơi bố mẹ ông là giáo viên tiểu học.  Ông gặp Yvonne de Quièvrecourt, mối tình đầu, vào năm 1905. Chuyện tình này không đi đến hồi kết bởi ông chỉ gặp lại Yvonne vào tám năm sau, khi cô đã kết hôn và là mẹ của hai đứa trẻ. Lấy nguyên mẫu từ mối tình ấy, Anh Meaulnes được hoàn thành vào đầu năm 1913, trước tiên được in thành nhiều kỳ trên tạp chí La Nouvelle Revue Française, sau khi in thành sách tại nhà Émile-Paul Frères. Ngay khi chiến tranh nổ ra vào năm 1914, Alain-Fournier được điều động đến mặt trận Lorraine và cuối tháng Chín năm ấy, ông đã hy sinh trong một trận đánh tại rừng Saint-Rémy, khi ông chưa tròn hai mươi tám tuổi. *** Augustin Meaulnes, người hùng lớn hơn cả cuộc đời trong tác phẩm kinh điển Pháp quyến rũ năm 1913 của Alain-Fournier, là sự pha trộn tò mò giữa vị thành niên bị dày vò và hiệp sĩ sai lầm. Soubriquet "vĩ đại" luôn gắn liền với anh ta có lẽ là để chỉ kích thước của anh ta (lớn, cao) nhưng cũng là sức mạnh trong những giấc mơ của anh ta (hoành tráng, hoặc thậm chí vĩ đại). Như lời kể của con trai giáo viên mười lăm tuổi François Seurel, tác động của cậu bé mười bảy tuổi này đến nhập học tại trường của cha mình có phép thuật biến hình trong cuộc gặp gỡ đầu tiên của Nick Carraway với Jay Gatsby, chỉ chuyển đến thế giới của những cô cậu học sinh ở tỉnh. Việc so sánh với The Great Gatsby chỉ là một trong nhiều hiểu biết tuyệt vời của Adam Gopnik, người đã viết lời giới thiệu cho bản dịch Penguin Classics xuất sắc này của Robin Buss (tôi cũng đã kiểm tra cuốn sách trong bản gốc). Văn bản bây giờ có vẻ hơi cũ, với các nhân vật có nhiều ý tưởng hơn là người thực, nhưng Gopnik đặt những ý tưởng đó trong bối cảnh văn học, lịch sử và Freud rõ ràng; ấn bản này gần như đáng mua cho riêng bài luận của anh ấy. Monsieur Seurel và các học sinh của ông dường như dành nhiều thời gian ở nông thôn như khi họ ở trong lớp học, và cuộc sống của vùng nông thôn đó chính xác là nằm ở vùng Cher của Pháp, không xa Bourges. Nhưng ở giữa nó, có một gia sản đã mất gần như là một giấc mơ, không bao giờ tìm lại được. Meaulnes đến đó một cách tình cờ vào một đêm, sau khi ngủ quên trên xe ngựa, và thấy mình đang chuẩn bị cho một đám cưới. Đó là một đoạn văn của phép thuật tuyệt đối: một nhà hát Watteauesque fête đông đúc bởi những đứa trẻ ăn mặc lộng lẫy và những nhân vật từ một nhà hát kịch. Anh gặp con gái của trang viên và yêu ngay lập tức. Nhưng đám cưới được gọi tắt và khách mời giải tán. Meaulnes dành nhiều năm tiếp theo để cố gắng tìm đường trở lại, cuối cùng theo chân Yvonne yêu xa của mình đến Paris. Giấc mơ thức dậy không khác gì thế giới hiệp sĩ bí ẩn trong tác phẩm Pelléas et Mélisande năm 1892 của Maurice Maeterinck, được nhìn thấy ở đây qua con mắt của tuổi thơ như một lời than thở cho sự kết thúc của tuổi thơ.   Mời các bạn đón đọc Anh Meaulnes của tác giả Alain-Fournier.