Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nửa Mặt Trời Vàng - Chimamanda Ngozi Adichie

Chimamanda Ngozi Adichie đã mang đến một tác phẩm thông minh, hy vọng và từ bi cho lịch sử đau đớn của Biafra trong cuốn tiểu thuyết "Nửa mặt trời vàng". Để nắm bắt được câu chuyện của cuốn tiểu thuyết này, trước hết cần biết về địa danh Biafra. Đây là một bang ly khai của miền Đông Nigeria, chỉ tồn tại được ba năm, và tên nó đã trở thành khẩu hiệu toàn cầu trong cuộc chiến tranh chống nạn đói. Cuốn tiểu thuyết Nửa mặt trời vàng tập trung vào câu chuyện của hai chị em sinh đôi, Olanna và Kainene, con cái của giới tinh hoa. Họ phải đấu tranh với lòng trung thành với sự thất vọng và phản bội. Du học Anh quốc trở về, hai chị em song sinh Olanna và Keinene với hai tính cách trái người đã đi theo hai con đường khác nhau. Keinene nối nghiệp cha - một ông trùm có thanh thế của miền Bắc Nigeria, và bắt đầu mối tình với Richard, một người say mê nghiên cứu văn hóa nghệ thuật Igbo. Còn Olanna chuyển đến sống cùng anh chàng “người tình cách mạng” Odenigbo của mình, họ tìm được sự hòa hợp tuyệt đối về tâm hồn và chí hướng. Olanna là một mẫu người phụ nữ cũ, yêu chồng và chăm con, nhân ái với người giúp việc, hòa hợp với láng giềng và bạn bè, vâng lời cha mẹ, chiều chuộng người chị sanh đôi của mình. Là cô gái con nhà giàu lái xe hơi riêng, được chàng công tử Hausa tên là Mohammed yêu say đắm nhưng Olanna từ chối tình yêu này để chọn yêu một anh giảng viên nghèo thích làm cách mạng. Chiến tranh khiến cuộc sống của nàng trở nên nghèo khó, thiếu thốn đến độ không có cả cháo ăn với cá khô (một món ăn của dân nghèo mà Olanna có dịp chứng kiến ở nhà láng giềng của người cậu khi Olanna đến thăm cậu). Tình yêu của Olanna và Odenigbo là một tình yêu rất bình thường. Trong khi đó, Keinene lại là điển hình cho mẫu người phụ nữ hiện đại, cá tính mãnh mẽ, quyết liệt. Cô có một mối tình với Richard, nhưng bản thân cô luôn băn khoăn, cô xem trọng sự nghiệp, và luôn thể hiện bản lĩnh trước mọi sóng gió của đời sống. Khi cuộc nội chiến Biafra còn trong thời kỳ phôi thai, Kainene đã viết một lá thư ngắn, trong đó cô phân vân: “Có phải tình yêu là cái nhu cầu đặt không đúng chỗ mà hầu như lúc nào em cũng cần có anh bên cạnh? Có phải tình yêu là cái cảm giác an toàn em cảm thấy trong sự im lặng của hai đứa mình? Có phải là cái cảm giác chúng ta thuộc về nhau, cái cảm giác có đầy đủ mọi thứ khi chúng ta có nhau?” Trong tình yêu, cô gái da đen tuyệt đối là người cầm cương, dẫn dắt chàng trai da trắng vào thế giới của cô. Có lẽ, hình tượng Kainene cũng chính là một ẩn dụ nghệ thuật mà tác giả muốn hướng đến, trong mối quan hệ giữa châu Phi và nền văn minh phương Tây. Cuốn tiểu thuyết được kể qua những quan điểm lồng vào nhau của ba nhân vật: Ugwu, chú bé nhà quê 13 tuổi, ít học, mê tín, ngô nghê, thần tượng hóa ông chủ và bà chủ của chú là Odenigbo và Olanna. Ugwu thông minh, ham học, được sự bảo bọc và thương yêu của hai vợ chồng Odenigbo – Olanna. Chú cũng yêu thương gia đình chủ như chính gia đình mình. Olanna, một phụ nữ thượng lưu của Biafra đã từ bỏ cuộc sống tươi đẹp của mình để đến sống cùng người yêu, chàng giáo sư nghèo, Odenigbo; và Richard, một nhà báo Anh, nhận được tài trợ để viết một cuốn tiểu thuyết Nigeria. Cuộc sống đẩy ba nhân vật chính đến Nsukka, ở phía Nam Nigeria, nơi trở thành trung tâm của cuộc nội chiến ở nước này. Adichie đã đào sâu cuộc xung đột chính trị này, tạo nên nhưng căng thẳng về kinh tế, sắc tộc, văn hóa và tôn giáo giữa các dân tộc khác nhau của Nigeria, để rồi sau đó làm bật lên những hậu quả nặng nề về tình cảm và những tổn thương tâm lý đối với mỗi nhân vật. Đồng thời khắc họa một vùng đất xa xôi, oằn mình trong bi thương mà rực rỡ và say đắm. Đây là một cuốn tiểu thuyết siêu việt với nhiều vấn đề sắc xảo, trong đó đã làm bật rõ ảnh hưởng tàn bạo của cuộc chiến tranh đối với nông dân và trí thức, là một bài học lịch sử trong hình thức hư cấu, được viết một cách mạnh mẽ, đầy đặn, chảy trôi. Lối kể chuyện của Adichie trong cuốn tiểu thuyết dù không phong phú, có đôi lúc khá nghèo nàn, đơn thuần, nhưng khi viết về lòng trung thành và sự phản bội, nữ nhà văn tỏ rõ bút lực của mình nhất, với những trang viết thấm đẫm đời sống. Cô dường như là người rất thích đặt nhân vật của mình tại các ngã tư, nơi những giá trị trái ngược đụng độ và va chạm nhau. Những tác phẩm văn học phản ánh cuộc chiến Biafra đã có một lịch sử khá lâu đời với những tác phẩm của các nhà thơ Christopher Okigbo, đến Chinua Achebe, Cyprian Ekwensi và Flora Nwapa. Sinh năm 1977, Adichie không sống trong giai đoạn nội chiến, nhưng trí tưởng tượng của cô dường như được hình thành từ đó: Một số thành viên trong gia đình cô sống sót qua Biafra, một số khác thì không. Và giống như nhà văn trẻ người Mỹ Tom Bissell, người mà cuộc chiến tranh Việt Nam đã trở thành một người say mê định hình thông qua người cha cựu chiến binh bị tàn phế, Adichie tiếp cận bạo lực trong quá khứ của đất nước với sự pha trộn giữa khoảng cách thế hệ và ám ảnh gia đình. Sự xa lạ và gắn bó này mang lại cho Nửa mặt trời vàng một giai điệu đồng cảm, xúc động, vượt lên những câu chuyện về anh hùng, bạo lực hay quỷ dữ. Nền văn học Nigeria dường như còn khá xa lạ với bạn đọc Việt Nam.   sẽ là một cơ hội thú vị để làm quen và hiểu về lịch sử đất nước Nigeria của lục địa đen. Chắc chắn bạn sẽ hoàn toàn bị hấp dẫn bởi những chi tiết sinh động của cuốn sách này với bối cảnh là cuộc nội chiến Biafra. Chiến tranh và những hậu quả do chiến tranh gây ra như chết chóc, tàn phá, đói kém... ở bất cứ nơi nào trên thế giới cũng có những điểm giống nhau. Nỗi đau đớn do cuộc chiến Biafra mang đến cho mỗi người dân Nigeria trở nên thêm sâu sắc, bi thương bởi sự kỳ thị sắc tộc, tôn giáo, giai cấp. Chimamanda Ngozi Adichie hiện nay được coi là nhà văn nữ trẻ tuổi xứ Nigeria xuất sắc nhất từ khi quyển tiểu thuyết Nửa mặt trời vàng có số bán hàng triệu bản trên khắp thế giới và được trao tặng giải thưởng văn chương Orange của Anh quốc. *** Đây là một quyển sách phong phú về lịch sử, lấy chiến tranh Biafra làm bối cảnh và bao gồm mấy chủ đề có thể được phân tích. Chúng ta có thể đọc quyển sách này qua chủ đề kỳ thị sắc tộc, tôn giáo, giai cấp trong một quốc gia hay có thể nhìn qua một lăng kính đơn giản hơn, đó là cuộc đời và chuyện tình của hai chị em song sinh trong thời chiến tranh. Tuy nhiên đối với tôi, một độc giả Việt Nam, thì điểm quan trọng nhất trong Nửa Mặt Trời Vàng chính là cuộc nội chiến Biafra có nhiều điểm tương đồng với chiến tranh Việt Nam. Một trong những điểm tương đồng này là, tuy là nội chiến nhưng lại có một hay vài cường quốc “giật dây” phía sau. Cũng giống như chính quyền Pháp đã chia Việt Nam thành ba miền và áp dụng chính sách chia để trị, chính quyền Anh đã chia Nigeria thành ba miền và lợi dụng sự khác biệt về ngôn ngữ, phong tục, tôn giáo, sắc tộc để chia rẽ nội bộ Nigeria. Để bạn đọc tiện theo dõi cốt truyện lồng vào bối cảnh lịch sử chiến tranh Biafra, tôi xin giới thiệu sơ lược lịch sử hình thành cuộc nội chiến này. Vào năm 1885, sau cuộc chiến tranh với Napoleon, đế quốc Anh bành trướng sang châu Phi. Năm 1901, Nigeria chính thức nằm dưới sự bảo hộ của Anh. Con sông Niger chảy từ miền Tây Bắc của Nigeria gặp sông Benue chảy về hướng Đông Nam tạo thành hình chữ “Y” chảy dọc xuống miền Nam, chia Nigeria thành ba miền. Miền Bắc cua Nigeria có diện tích lớn nhất và dân số đông nhất, đa số là người Hausa-Fulani và theo tôn giáo Muslim. Người dân vùng này sinh sống bằng cách khai thác quặng mỏ và buôn bán. Họ tuân phục các vị tiểu vương Hồi giáo gọi là Emir. Các Emir là lãnh tụ cả về tôn giáo lẫn chính trị và áp dụng chế độ chuyên chế. Họ sống cô lập, hạn chế tiếp xúc với ngoại quốc để chống sự xâm nhập của Thiên Chúa giáo. Tước vị và của cải được lưu truyền từ đời cha qua đời con. Càng về sau miền Bắc của Nigeria càng trở nên cô lập hơn, người dân ngày càng nghèo khổ và ít học hơn. Phía Tây Nam của Nigeria, đa số là người Yoruba sinh sống. Chế độ chính trị cũng gần giống như chế độ của người Hausa ở miền Bắc; họ tuân phục những vị tiểu vương Oba nhưng chế độ này ít chuyên chế hơn. Họ có thể thăng tiến trong xã hội nhờ tài nghệ hay của cải. Sự giàu có hay chức vị không bị bắt buộc phải theo truyền thống cha truyền con nối. Người Igbo sống ở vùng Đông Nam bao gồm khoảng hơn 600 bộ lạc độc lập, tự trị, và theo chế độ dân chủ. Mọi chuyện quan trọng đều được mang ra thảo luận và bình bầu ở sân làng. Người dân Igbo có quyền tham gia ý kiến vào những quyết định ảnh hưởng trực tiếp đến sự sinh tồn của chính họ và của bộ lạc. Anh quốc áp dụng chính sách chia để trị, lợi dụng sự khác biệt về phong tục, ngôn ngữ và sự tự hào của ba miền để gây chia rẽ nội bộ. Các tiểu vương Emir nộp thuế cho chính quyền Anh để được bảo vệ chống sự xâm nhập của Thiên Chúa giáo. Vì thế các nhà truyền giáo hoạt động ở khu vực phía Nam của Nigeria. Dân Igbo và Yoruba tiếp cận với nền văn hóa mới của chính quyền bảo hộ Anh. Họ cho con đi học các trường đại học ở nước ngoài nhiều hơn và khuếch trương các hải cảng để giao dịch thương mại. Người Igbo ở vùng Đông Nam trở nên giàu có, thịnh vượng và hấp thụ văn hóa Tây phương. Người ta khám phá ra những mỏ dầu lớn ở khu vực sông Niger. Vào những năm 1940 và 1950, người Igbo và Yoruba là những lực lượng tiên phong giành quyền độc lập cho Nigeria. Năm 1960, người Anh trao trả quyền độc lập cho Nigeria. Họ chủ trương thống nhất quốc gia và chia làm các tiểu bang để quản lý. Người miền Bắc của Nigeria e ngại rằng dân Igbo sẽ chiếm thế thượng phong trong việc điều hành chính quyền vì họ có nền học vấn tân tiến, có khuynh hướng cởi mở với Công giáo và Tây phương, do đó cương quyết tiếp tục chia Nigeria làm ba miền như trước. Năm 1965, có một cuộc nổi loạn, khoảng 30.000 người Igbo bị giết và cả triệu người phải chạy loạn. Tháng Giêng năm 1966, một nhóm sĩ quan trẻ người Igbo đảo chính cướp chính quyền. Tháng Bảy năm 1966, sĩ quan miền Bắc đảo chính lại, chọn Yakubu Gowon, một sĩ quan Công giáo của một bộ lạc nhỏ, lên làm lãnh tụ. Gowon dùng quân đội để cai trị. Người dân chống đối đòi trở lại chế độ dân sự. Cuộc bạo động kéo dài, có khoảng tám đến mười ngàn người Igbo bị giết; cả người miền Bắc sống ở các thành phố miền Đông Nam cũng bị sát hại. Tháng Giêng năm 1967, lãnh tụ của ba miền họp mặt ở Aburi ký hiệp ước liên bang nhưng người miền Bắc không đồng ý. Obafemi Awolowo, lãnh tụ của quân đội miền Tây Nam, tuyên bố nếu miền Đông Nam rút tên ra khỏi liên bang thì miền Tây Nam cũng rút lui. Chính phủ miền Đông Nam không chấp nhận Hiệp ước Aburi. Tháng Năm ngày 26, miền Đông Nam tuyên bố ly khai và ngày 30, Chukwuemeka Odumegwu Ojukwu, lãnh tụ lực lượng quân đội miền Đông Nam tuyên bố thành lập xứ Cộng hòa Biafra vì lý do người Hausa đã giết người Igbo. Nguyên do chính là vì nhiều mỏ dầu được khám phá ở khu vực miền Nam; trong khi sự phồn thịnh của nền kinh tế Nigeria chủ yếu dựa vào việc khai thác dầu. Thoạt tiên Lực lượng Quân sự Liên bang xem đây là một cuộc nổi loạn nhỏ, chỉ cần lực lượng cảnh sát là có thể tái hồi trật tự nhưng Biafra đã đánh lui lực lượng cảnh sát. Tuy nhiên chỉ vài tháng sau, lực lượng quân sự của liên bang đã đánh chiếm lại phần lớn lãnh thổ và vào năm 1968, Biafra chỉ còn lại một phần mười lực lượng ban đầu. Tháng Chín năm 1968, quân đội Biafra bị kiệt lực vì thiếu vũ khí. Tháng Sáu năm 1969, chính quyền Nigeria bắt đầu phong tỏa thuốc men và lương thực. Tháng Mười năm 1969, Ojukwu kêu gọi sự hỗ trợ của Liên Hiệp Quốc để ngưng chiến. Chính quyền liên bang Nigeria kêu gọi Biafra đầu hàng. Tháng Mười hai, quân đội liên bang cắt Biafra thành hai mảnh. Ojukwu chạy sang Ivory Coast giao quyền lãnh đạo cho Philip Effiong. Tháng Giêng năm 1970, Effiong đầu hàng. Con số người chết vì nạn đói lên đến hơn một triệu. Chiến tranh và những nỗi buồn do chiến tranh gây ra như chết chóc, tàn phá và đói kém, ở bất cứ nơi nào trên thế giới cũng có những điểm giống nhau. Người dân sống trong chiến tranh là người dân bất hạnh. Qua quyển sách này độc giả sẽ nhìn thấy nỗi bất hạnh của người dân sống trong vùng đất đòi độc lập và tự trị Biafra và tôi nghĩ độc giả có lúc sẽ đặt quyển sách xuống, thở dài, đôi khi lau giọt nước trào ra nơi khóe mắt khi liên tưởng đến những đau khổ và sự đối diện với cái chết hằng ngày của người Việt Nam. Chiến tranh là một đề tài rất rộng lớn mà tôi không hiểu biết đủ; lạm bàn có thể gây ngộ nhận. Với vai trò của một người dịch, sau vài tháng đọc từng lời từng chữ của cuốn sách, tôi cảm thấy rất gần gũi và yêu mến các nhân vật mà tôi tin là sau khi đọc xong cuốn tiểu thuyết này, bạn cũng sẽ yêu mến họ. Người đầu tiên tôi chắc chắn bạn sẽ yêu mến là Ugwu, chú bé nhà quê mười ba tuổi, ít học, mê tín dị đoan, ngô nghê, thần tượng hóa ông chủ và bà chủ của chú là Odenigbo và Olanna. Ugwu thông minh, ham học, được sự bảo bọc và thương yêu của hai vợ chồng Odenigbo-Olanna. Chú cũng yêu thương gia đình chủ như chính gia đình mình. Ugwu bị đẩy vào chiến trận và trưởng thành trong chiến tranh. Chimamanda Ngozi Adichie đã chăm sóc, “vun trồng” kỹ lưỡng nhân vật Ugwu. Ugwu là biểu tượng của Nigeria mà Adichie đã gởi tất cả hy vọng, từ một quốc gia nghèo nàn, kém phát triển về kinh tế và văn hóa sau cuộc nội chiến sẽ trưởng thành, có tiếng nói và chỗ đứng trên thế giới. Đây là nhân vật chính và quan trọng nhất trong quyển sách này; tôi nghĩ là nên để bạn đọc thưởng thức và nhận xét. Bạn cũng sẽ yêu mến đôi vợ chồng Odenigbo — Olanna. Đây là đại diện cho giới trí thức trẻ của Nigeria lúc bây giờ. Odenigbo là một giảng viên ở Đại học Nsukka. Anh cùng với một nhóm giảng sư và sinh viên đã khởi đầu đòi hỏi được quyền thành lập quốc gia Biafra. Odenigbo, nhà trí thức trẻ tuổi, nhiệt tâm yêu nước, có ý chí cách mạng, có lòng nhân đạo, và là người bạn tốt của Ugwu. Có tài biện luận và yêu chủ nghĩa xã hội, tuy là nhà Toán học, anh dùng hết thì giờ của mình viết báo kêu gọi người dân Nigeria đứng lên đòi quyền độc lập và cải tổ xã hội. Odenigbo yêu rất nồng nàn nhưng cũng dễ sa ngã. Mẹ mất trong chiến tranh, tài trí của anh bị thui chột cũng vì chiến tranh, về phương diện tình yêu và hôn nhân, Odenigbo là một thí dụ điển hình mà khi yêu, người phụ nữ đã đặt kỳ vọng vào tiềm năng của một người đàn ông để rồi sau khi kết hôn, người phụ nữ sẽ nhận ra rằng những kỳ vọng này là ảo vọng. Những điểm đáng yêu ban đầu, về sau trở thành những điều khó chịu. Ban đầu rượu brandy làm Odenigbo hứng chí, ánh mắt long lanh và dễ dàng trở thành nhà hùng biện xuất chúng, chỉ sau vài ly rượu. Về sau, nỗi buồn chiến tranh và cái chết của mẹ biến anh thành người bạc nhược về tinh thần. Rượu trở thành chất độc giết chết khả năng suy nghĩ của anh. Sự phấn đấu không còn, rượu được dùng để khuây khỏa nỗi buồn chiến tranh. Anh phụ lòng yêu thương của Olanna ít nhất là một lần. Còn lần thứ hai, tác giả cố tình nhập nhằng để độc giả muốn hiểu thế nào cũng được. Olanna, một cô gái trẻ thuộc tầng lớp thượng lưu trong xã hội, có nhan sắc của một mỹ nhân ngư. Nhan sắc của cô chinh phục tất cả mọi người từ những đồng nghiệp của Odenigbo như bác sĩ Patel, nhà thơ Okeoma, bác sĩ Nwala anh em họ của Okeoma. Ngay cả Richard, tuy yêu thương Kainene nhưng cũng ngã lòng trước sắc đẹp của nàng. Và cả chú bé Ugwu nhà quê cũng say mê nhan sắc của cô chủ, tuy nhiên sự say mê này mang sắc thái vừa sợ vừa phục một thần tượng. Tuy là một thiếu nữ được hấp thụ nền văn hóa Tây phương, học chương trình Anh từ lúc tiểu học, tốt nghiệp đại học ngành Xã hội học ở London, Olanna được Adichie chọn làm biểu tượng của người phụ nữ Nigeria truyền thống. Một mẫu người vượng phu ích tử, yêu chồng và chăm con, nhân ái với người giúp việc, hòa hợp với láng giềng và bạn bè, vâng lời cha mẹ, chiều chuộng người chị sanh đôi của mình. Là con gái một nhà giàu có, lái xe hơi riêng, được chàng công tử Hausa tên là Mohammed yêu say đắm nhưng Olanna từ chối tình yêu này để yêu một anh giảng viên nghèo thích làm cách mạng. Chiến tranh khiến cuộc sống của nàng trở nên nghèo khó, thiếu thốn đến độ không có cả cháo ăn với cá khô (một món ăn của dân nghèo mà Olanna có dịp chứng kiến ở nhà láng giềng của người cậu khi Olanna đến thăm cậu). Tình yêu của Olanna và Odenigbo là một tình yêu rất bình thường. Bạn đọc sẽ nhìn thấy qua Olanna hình ảnh người mẹ và người vợ Việt Nam trong chiến tranh. Một người phải lo lắng hôm nay ăn gì, phải tìm mua thức ăn ở đâu, và nhất là làm sao chi tiêu cho hợp lý. Người đọc dễ dàng cảm thấy một tình yêu chân thật, say đắm, nồng nàn của đôi uyên ương này. Và cũng qua nhân vật Olanna, người đọc cảm nhận được nỗi sợ hãi của một người dân sống trong bom đạn, hằng ngày phải đối diện với cái chết của người thân yêu và của chính mình. Ugwu, Odenigbo và Olanna là những nhân vật mà người đọc sẽ dễ dàng yêu mến họ. Kainene và Richard cũng đáng yêu nhưng phức tạp hơn. Cái đáng yêu của họ không dễ dàng được nhận thấy bởi vì hai nhân vật này không giống mẫu người đáng yêu truyền thống. Trong một xã hội da màu đã từng bị đặt dưới sự bảo hộ của chính quyền thuộc địa như Anh và Pháp, người đàn ông da trắng có một vị trí khá cao. Tuy nhiên Chimamanda Adichie đã truất phế cái quyền lực của một người da trắng mà xã hội thuộc địa ưu ái dành cho Richard. Richard là một thanh niên nghèo, mồ côi, sống nhờ tình thương và sự dưỡng nuôi của người bác. Anh đẹp trai, đỏm dáng, dịu dàng, hiền lành đến độ có thể bị xem là nhu nhược. Richard có cái mơ mộng của một nghệ sĩ và không thích đua chen với cuộc đời. Ngay cả cái nghề ký giả của anh cũng do bà bác dàn xếp. Rời Anh quốc để qua Nigeria, Richard có ý muốn thoát ly và tự lập. Anh muốn tìm hiểu bản thân và định hướng cuộc đời mình. Bác Elizabeth dàn xếp cho anh gặp Susan, một phụ nữ nhiều tuổi hơn Richard. Susan ngỏ ý muốn giúp anh có chỗ ở yên tĩnh để anh có thể viết văn. Richard về sống chung với Susan và rất nhanh chóng, cô yêu anh. Tuy không có ý định nhưng vô tình Richard trở thành một “gigolo” hay trai bao của Susan. Richard khám phá nghệ thuật đúc đồng thành bình hoa có cột dây của người Igbo và vì yêu bộ môn nghệ thuật này, anh ở lại Nigeria để nghiên cứu với ý định viết sách về nó. Trong một buổi tiệc Richard đi dự với tư cách người hộ tống Susan, anh gặp Kainene và ngay lập tức anh say mê Kainene bởi vẻ đẹp kỳ lạ và cá tính độc đáo của nàng. Hấp lực của Kainene mạnh đến độ anh chỉ muốn gạt Susan ra khỏi cuộc đời anh. Anh đã không ngần ngại nói dối Susan để mình có thì giờ riêng tiếp tục trò chuyện với Kainene. Kainene là hiện thân của một phụ nữ mới, đi trước thời đại khoảng chừng 50 năm. Có thể nói hiện nay, số người phụ nữ thật sự nắm quyền lãnh đạo kinh tế và thương mại tuy có nhiều hơn những năm 60 của thế kỷ XX nhưng vẫn còn là thiểu số. Nigeria của những năm 60, người đàn ông là chủ gia đình. Dân Igbo có tục lệ đa thê. Người đàn ông ở gian nhà chính. Mỗi người vợ và con của họ ở trong gian nhà riêng, chung quanh căn nhà chính. Các bà vợ tự trồng rẫy, làm ruộng của mình. Đến bữa ăn họ được chia phiên người nào nấu thức ăn gì và mang đến cho chồng. Họ trọng nam khinh nữ. Tuy nhiên, Kainene vừa tốt nghiệp đại học ở ngoại quốc về đã lập tức nắm quyền quản lý cơ sở thương nghiệp của bố và được ông bố tán dương là có giá trị gấp đôi một người con trai. Kainene là một cô gái vượt qua những giới hạn mà xã hội Nigeria đã dành sẵn cho phụ nữ. Kainene khẳng định quyền tự do chọn lựa và quyết định cuộc đời mình, cho dù sự quyết định hay chọn lựa của Kainene không được xã hội chấp nhận hay tán thành. Tính tự quyết và tự do trong việc chọn lựa thể hiện qua cách trang điểm, ăn mặc, cách chọn người để yêu và bạn giao du. Ngay cả cái quyết định tối hậu ảnh hưởng đến mạng sống của cô là vượt vòng đai cấm để đi tìm mua thức ăn cho dân tị nạn cũng là một quyết định đơn độc. Kainene không phải là một người quyết định dựa vào sự tán đồng của người chung quanh. Cô có thái độ kiên định của một người lãnh đạo, quyết đi trên con đường đã chọn cho dù phải hy sinh tính mạng. Độc giả có thể không thích Kainene lúc mới vừa gặp cô. Không thể nói là Kainene đẹp bởi vì cô không có vẻ đẹp mà xã hội của cô đã tạo tiêu chuẩn. Cô có hình dáng khác thường, cao bằng một người đàn ông ngoại quốc, gầy đến độ trông giống như một thanh niên. Tính khí thì kỳ quặc, tô môi son đỏ chóe, hút thuốc phì phèo. Trong cái nhìn của Richard, anh cho rằng cô giống những cô nàng “bồ nhí” của các ông lớn hơn là con gái của một Ông Trùm thầu khoán, tốt nghiệp đại học ở ngoại quốc mới về. Kainene ít nói đến lạnh lùng, hay châm biếm mỉa mai. Thế nhưng người đọc sẽ nhận ra rằng không thể nhìn hình bìa mà đánh giá nội dung của quyển sách. Càng vào sâu trong truyện, Kainene càng để lộ lòng nhân ái, biết suy nghĩ, quyết định đúng đắn. Kainene dùng tài quản lý của mình để săn sóc, nuôi nấng người tị nạn. Cô dùng sự suy xét và quyết đoán để cứu người thanh niên đào ngũ vì đói nên đi trộm khoai và bị dân tị nạn đánh đập. Cô can đảm mạo hiểm vượt tuyến để đi tìm mua thức ăn về nuôi sống mọi người trong trại tị nạn. Cô có thái độ và lòng can đảm của một nhà lãnh đạo đáng kính phục. Thông thường trong những cuộc tình dị chủng, đa số là người đàn ông da trắng kết hợp với phụ nữ da màu. Trường hợp ngược lại, người đàn bà da trắng kết hợp với đàn ông da màu, ít xảy ra hơn. Rất thường xuyên, người đàn ông da trắng ở cương vị chủ động cung cấp tài chánh, vật chất và bảo vệ người phụ nữ da màu. Người đàn ông da trắng mang người phụ nữ da màu vào trong cái xã hội mà anh ta đã quen thuộc và người phụ nữ như loài cá sống trong nước lạ thường ở cương vị phục tùng. Trong Nửa Mặt Trời Vàng, Adichie đã cấu tạo một môi trường ngược lại. Kainene mang Richard vào thế giới của nàng, một nơi mà nàng có quyền hành và thế lực. Kainene là người che chở và bảo bọc người tình. Chẳng những Adichie đã tước đoạt tất cả sức mạnh và quyền lực của người da trắng trong xã hội da đen bằng cách khắc họa một nhân vật Richard nghèo, không vây cánh, không quyền lực, mà còn cấu tạo ra một Richard đầy thất bại; suốt thời gian ở Nigeria anh đã không xuất bản được tác phẩm nào (một bị thất lạc trong chiến tranh và một bị Kainene đốt bỏ khi cô biết Richard đã ngủ với Olanna). Adichie còn tước đoạt cả quyền làm người đàn ông của Richard bằng cách biến anh thành kẻ bất lực khi lần đầu hai người giao hoan. Tại sao Adichie lại sáng tạo một nhân vật nữ có cá tính rất mạnh và một nhân vật nam có bản tính rất mềm mại, dịu dàng đến độ nhu nhược và cho hai nhân vật này yêu nhau? Tôi nghĩ nên để các bạn tự tìm câu trả lời. Bạn đọc có thể nhận thấy Richard yêu Kainene say đắm, yêu đến độ tôn thờ và khiếp sợ bản lĩnh của cô. Tuy nhiên khó có thể khẳng định là Kainene yêu Richard. Cô vẫn còn phân vân không biết tình cảm của cô đối với Richard có phải là tình yêu hay không. Lúc cuộc nội chiến Biafra còn trong thời kỳ phôi thai, Kainene đã viết một lá thư ngắn, trong đó cô phân vân: ”Có phải tình yêu là cái nhu cầu đặt không đúng chỗ mà hầu như lúc nào em cũng cần có anh bên cạnh? Có phải tình yêu là cái cảm giác an toàn mà em cảm thấy trong sự im lặng của hai đứa mình? Có phải tình yêu là cái cảm giác chúng ta thuộc về nhau, cảm giác có đầy đủ mọi thứ khi chúng ta có nhau?” ... Mời các bạn đón đọc Nửa Mặt Trời Vàng của tác giả Chimamanda Ngozi Adichie.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Mùa Xuân Và Haru
Mùa xuân và Haru kể về Suzaki Akane là một nữ sinh yêu thích Haiku (Haiku: tiếng Nhật: 俳句) (Bài cú) là loại thơ độc đáo của Nhật Bản, xuất phát từ ba câu đầu (発句 hokku, phát cú) của những bài renga (連歌 liên ca) có tính trào phúng gọi là renga no haikai (連歌の俳諧) mà sau gọi là haikai (俳諧 bài hài), theo học trường Cấp ba Nữ sinh Fujigaoka. Một ngày, cô phản đối Fuji - giáo viên môn Quốc ngữ của mình bởi cô giáo muốn phủ nhận sự ảnh hưởng Haiku trong nền văn hóa truyền thống. Từ những điểm tương đồng trong sở thích ấy, Suzaki đã kết bạn với Touko – cô bạn có cùng đam mê với nét văn hoa tinh tế của Nhật Bản với mình . Hai người nhắm tới hội thi “Haiku Koushien” và thành lập câu lạc bộ Haiku, nhưng cần đến năm người mới có thể tham gia thi đấu. Akane và Touku bằng niềm đam mê với Haiku cũng như sự chân thành muốn duy trì cũng như phát triển nét văn hóa tinh tế của Nhật Bản, cố gắng nỗ lực từng ngày tìm kiếm “bạn đồng hành” xung quanh ngôi trường cho đến khi tập hợp cho đủ các thành viên. Năm thành viên của nhóm chính là năm mảnh ghép với mỗi cá tính, mỗi thế mạnh riêng biệt. Akane có kinh nghiệm sáng tác Haiku, Touko hoạt bát, Mana với ngòi bút thư pháp điêu luyện, Rika cảm âm sắc sảo, Natsuki nhanh miệng, Mizuho giàu cảm xúc... Mỗi người một điểm mạnh và ma lực hấp dẫn riêng đã tỏa sáng trong “trận chiến Haiku”! Không chỉ là một tác phẩm làm nổi bật lên được sự tinh tế của văn hóa Nhật Bản, tác giả còn gửi gắm trong “Mùa xuân và Haru” tình bạn, niềm đam mê, nhiệt huyết cũng như sự quyết tâm – những phẩm chất đáng quý của người Nhật Bản. Nếu bạn là người yêu thích và đam mê tình hiểu văn hóa Nhật Bản, thì “Mùa xuân và Haru” chắc chắn là một tác phẩm không thể bỏ qua. *** Akiko Moriya Sinh năm 1961 tại Kanagawa. Năm 2003, bà đã đạt giải thưởng Ayukawa Tetsuya lần thứ 13 cho tác phẩm đầu tay “Nghìn năm Genji truyện”. Các tác phẩm của bà được ngợi khen bởi sự tinh tế trong văn phong và bút pháp khắc họa hình ảnh con người trong xã hội. Các tác phẩm tiêu biểu: “Haru ya Hasu”. “Shiro no Shukuen”, “Renge Nohara no Mannaka de”. “Nana-hime Genso”, “Kuzuno Seisuki”. v.v... “Haru ya Haru” - “Mùa xuân và Haru” là cuốn sách sẽ đưa bạn đọc đến gần hơn với văn hóa đầy độc đáo của Nhật Bản. *** Về Haiku Koushien Haiku* Koushien* là cuộc thi sáng tác thơ Haiku cho học sinh cấp ba. Một đội có tư cách dự thi phải bao gồm năm học sinh đang theo học tại các trường cấp ba của Nhật Bản. Để đăng ký dự thi, các thí sinh của đội phải nộp bài thơ trước hạn cuối, dựa theo quý đề* (còn gọi là nghiêm đề) được thành viên Ban tổ chức Haiku Koushien công bố trước cuộc thi. Để được tham gia đại hội toàn quốc tổ chức vào tháng Tám, cần phải đạt một trong hai điều kiện sau: • Đứng đầu trong vòng thi địa phương tổ chức vào tháng Sáu hằng năm. • Vượt qua vòng đánh giá của của thành viên Ban tổ chức Haiku Koushien. (1) Nghiêm đề như sau: Vòng thi địa phương: Phân thắng thua trong ba bài, ba đề. (2) Đại hội toàn quốc vòng sơ khảo: Phân thắng thua trong ba bài, ba đề. Đại hội toàn quốc vòng loại một, hai: Phân thắng thua trong năm bài, hai đề. Đại hội toàn quốc vòng bán kết: Phân thắng thua trong năm bài, hai đề. (3) Ngoài ra, những đội bị loại trước vòng bán kết sẽ được cho một nghiêm đề riêng để thi vớt vào buổi thi bán kết. 1: Những đội đã đăng ký vòng thi địa phương tự động được coi như đã đăng ký bài kiểm tra của thành viên Ban tổ chức Haiku Koushien. 2: Tùy vào số lượng đội đăng ký, để chọn ra đội tham gia vòng chung kết, số nghiêm đề cho các vòng thi địa phương có thể sẽ tăng lên. 3: Trong các đại hội trước, hầu hết nghiêm đề đều là quý ngữ*, nhưng trong các vòng bán kết, chung kết của đại hội toàn quốc thì nghiêm đề có thể là một chữ Hán không phải quý ngữ (ví dụ như “tiên*”, “sinh”, “chỉ”*, “chỉ*”...). (Katou Touko - Phó hội trưởng câu lạc bộ Haiku trường Cấp ba Nữ sinh Fujigaoka) *** Một cuốn sách trong trẻo về thanh xuân rực rỡ, tình bạn và sự trưởng thành của các thiếu nữ! Trong văn hóa Nhật Bản, những gì đặc sắc nhất luôn nhỏ bé và tinh tế, như những vì sao lấp lánh trong dải ngân hà bao la rộng lớn, đây là cuốn sách sẽ đưa bạn đọc đến gần hơn với văn hóa đầy độc đáo của xứ sở mặt trời mọc một cách chân thực và giàu cảm hứng nhất. “Mùa xuân và Haru” kể về  Suzaki Akane là một nữ sinh yêu thích Haiku (Haiku: tiếng Nhật: 俳句) (Bài cú) là loại thơ độc đáo của Nhật Bản, xuất phát từ ba câu đầu (発句 hokku, phát cú) của những bài renga (連歌 liên ca) có tính trào phúng gọi là renga no haikai (連歌の俳諧) mà sau gọi là haikai (俳諧 bài hài), theo học trường Cấp ba Nữ sinh Fujigaoka. Một ngày, cô phản đối Fuji – giáo viên môn Quốc ngữ của mình bởi cô giáo muốn phủ nhận sự ảnh hưởng Haiku trong nền văn hóa truyền thống. Từ những điểm tương đồng trong sở thích ấy, Suzaki đã kết bạn với Touko – cô bạn có cùng đam mê với nét văn hoa tinh tế của Nhật Bản với mình . Hai người nhắm tới hội thi “Haiku Koushien” và thành lập câu lạc bộ Haiku, nhưng cần đến năm người mới có thể tham gia thi đấu. Akane và Touku bằng niềm đam mê với Haiku cũng như sự chân thành muốn duy trì cũng như phát triển nét văn hóa tinh tế của Nhật Bản, cố gắng nỗ lực từng ngày tìm kiếm ‘bạn đồng hành” xung quanh ngôi trường cho đến khi tập hợp cho đủ các thành viên. Năm thành viên của nhóm chính là năm mảnh ghép với mỗi cá tính, mỗi thế mạnh riêng biệt. Akane có kinh nghiệm sáng tác Haiku, Touko hoạt bát, Mana với ngòi bút thư pháp điêu luyện, Rika cảm âm sắc sảo, Natsuki nhanh miệng, Mizuho giàu cảm xúc… Mỗi người một điểm mạnh và ma lực hấp dẫn riêng đã tỏa sáng trong “trận chiến Haiku”! Không chỉ là một tác phẩm làm nổi bật lên được sự tinh tế của văn hóa Nhật Bản,  tác giả còn gửi gắm trong “Mùa xuân và Haru” tình bạn, niềm đam mê, nhiệt huyết cũng như sự quyết tâm – những phẩm chất đáng quý của người Nhật Bản. Nếu bạn là người yêu thích và đam mê tình hiểu văn hóa Nhật Bản, thì “Mùa xuân và Haru” chắc chắn là một tác phẩm không thể bỏ qua.   Mời các bạn đón đọc Mùa Xuân Và Haru của tác giả Akiko Moriya.
Thanh Kiếm Và Lá Chắn
Cuốn tiểu thuyết tình báo Thanh kiếm và lá chắn của nhà văn - phóng viên chiến trường Vadim Kozhevnikov nói về số phận chìm nổi của Aleksandr Belov - một chiến sĩ tình báo Xô Viết từng hoạt động ở Đức trong những năm chiến tranh Thế giới II. Thanh kiếm và lá chắn là bộ tiểu thuyết có chủ đề sắc bén viết về thời kỳ chiến tranh Liên Xô - Đức (1941-1945), khi Đức Quốc xã đang ở đỉnh cao sức mạnh quân sự của chúng, sau khi đã chiếm đóng hầu hết châu Âu và lăm le tấn công lấn chiếm Liên Xô từ phía Đông, trong tác phẩm có xung đột kịch tính cao độ khắc họa những mâu thuẫn sâu sắc giữa hai thế giới đối kháng nhau. Một bên là những người lính trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, một bên là bọn đế quốc phát xít, những kẻ xâm lược. Người chiến sĩ tình báo xô-viết không chỉ phải vượt qua ranh giới về mặt địa lý để tiến sâu vào lòng địch mà còn phải vượt qua cả ranh giới vô hình, những khác biệt về văn hóa, tâm lý, phải hóa thân thành kẻ thù đối mặt với Tổ quốc, đồng bào mình. Anh đã phải vượt qua những thử thách ấy như thế nào, bằng cách nào, khi những tin tức của anh chuyển về có ý nghĩa trọng đại với Tổ quốc? Thanh kiếm và lá chắn là một tác phẩm đặc sắc của văn học Nga mà chúng tôi muốn giới thiệu đến các bạn. *** Lời Giới Thiệu Trước ngày nổ ra cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, chiến sĩ tình báo Xô Viết Alexander Belov không những chỉ vượt qua biên giới địa lý giữa hai nước mà còn vượt qua cả giới tuyến vô hình ngăn cách thế giới của chủ nghĩa xã hội với bọn đế quốc phát xít đế chế thứ ba. Người chiến sĩ Xô Viết sẽ phải trở thành một người Đức tên là Johann Weiss: Và không phải là một người Đức bình thường. Nhiệm vụ của Belov là phải đeo cái mặt nạ của kẻ thù đối với Tổ quốc mình. Lối sống và cách suy nghĩ của anh về bề ngoài không được khác với lối sống và đạo đức của bọn kẻ cướp lớn hoặc nhỏ của nước Đức Hitler. Đây là một thử thách nặng nề đối với Belov, nhưng anh đã biết khắc phục và vượt qua được những thử thách đó. Những tin tức của anh đã có nhiều ý nghĩa trọng đại đối với Tổ quốc. Weiss Belov đã lần lượt sống qua những cuộc sống của các tầng lớp xã hội quốc xã. “Thanh kiếm và lá chắn” là một tác phẩm đặc sắc. Đây là bộ tiểu thuyết tâm lý xã hội có chủ đề sắc bén, có xung đột kịch tính cao độ, khắc họa nên những mâu thuẫn sâu sắc giữa hai thế giới đối kháng. “Thanh kiếm và lá chắn” đã được dựng thành phim cùng tên và đã được khán giả Việt Nam nhiệt liệt hoan nghênh. Xin trân trọng giới thiệu với toàn thể bạn đọc. *** Mùa hè năm 1940 một công dân Xô Viết quốc tịch Đức bị giết hại ở Riga. Các cán bộ công an điều tra của Latvia xác định rằng: kẻ giết người đã dùng một loại súng đặc biệt có lắp các ống đựng chất kali xyanua, khi các ống bị vỡ sẽ xuất hiện một loại hơi tập trung làm chết người ngay tức khắc và không gây tiếng nổ. Mặc dù nhiều đồ vật quý giá của nạn nhân như nhẫn cưới, đồng hồ, tiền bạc bị cướp mất, nhưng sau đó người ta tìm thấy một số các đồ vật đó gói lại quẳng xuống đáy cống. Điều này gạt bỏ giả thuyết cho rằng đây là một vụ giết người cướp của. Thế là chỉ ít lâu sau có thể đoán được ngay là một thủ đoạn khủng bố có tổ chức. Nạn nhân là kỹ sư Rudolf Schwarzkopf, một chuyên gia nổi tiếng trong ngành vô tuyến điện. Con trai nạn nhân là Heinrich Schwarzkopf, sinh viên trường Đại học Bách khoa Riga, bàng hoàng trước cái chết của cha, không cung cấp một dẫn chứng nào cả. Johann Weiss, thợ nguội kiêm thợ máy xưởng sửa chữa ô tô của Friedrich Kunz, bị gọi đến cơ quan công an điều tra. Theo các tài liệu điều tra vào ngày xảy ra vụ án mạng, Weiss đã có mặt rất lâu trong nhà Schwarzkopf để chữa những dụng cụ gì đó của kỹ sư đặt làm. Ngoài ra Weiss còn có quan hệ bạn bè với con trai Schwarzkopf đang rất ham mê môn đua mô tô. Weiss là một thợ máy có tài, đã giúp Heinrich hoàn thiện chiếc mô tô nhãn hiệu Zundap, nên mới đây Heinrich đã đoạt giải. Người ta còn biết rằng Weiss đã nghiêm chỉnh tham dự các cuộc họp của “Hội liên hiệp kiều dân Đức vùng Baltic” đã sửa chữa không công một chiếc xe hơi của luật sư Sebastian Funk, liên khu trưởng Hội này, thời giờ nhàn rỗi Weiss còn làm lái xe cho viên luật sự này nữa. Trong thời gian bị hỏi cung, Weiss tỏ ra biết kiềm chế mình, và trả lời hơi lung tung. Khi anh cán bộ công an Latvia bực tức trách Weiss là không muốn giúp đỡ việc điều tra, mặc dù nạn nhân là người cùng dân tộc với anh, Weiss đáp là không có gì đáng ngạc nhiên cả vì nạn nhân lại là người Đức như anh. Bởi vì bây giờ người Latvia đối xử với người Đức không có gì là thân thiện cả. Điều này làm người thẩm phán tức giận. Anh trách Weiss là một công nhân trẻ mà lại không thấy xấu hổ khi nói năng như vậy. Lẽ nào Weiss lại không hiểu rằng lúc này hơn lúc nào hết tình đoàn kết vô sản phải liên hiệp tất cả mọi công nhân lại không kể dân tộc nào hay sao? Weiss nghiêm chỉnh, chăm chú ngồi nghe, nhưng qua nét mặt lạnh lùng và bình thản của anh, khó mà hiểu nổi anh tiếp thu những lời người thẩm phán vừa nói như thế nào. Thẩm phán cũng là một công nhân trẻ, mới trở thành nhân viên cơ quan công an. Tổ chức Đảng nhà máy thủy tinh đã cử anh đến đây, mặc dù đối với nghề nghiệp mới mẻ này anh không có một bằng cấp nào cả, mà cũng không có khả năng gì! Về vấn đề này anh cũng nóng nảy nói với Weiss, nhưng vẫn không làm cho Weiss thông cảm. Ở cơ quan công an ra, Weiss đi đến hiệu cà phê. Anh mua bia, xúc xích rồi từ tốn ngồi ăn sáng. Cũng với dáng điệu bình tĩnh đó anh đi ra bến xe, bỏ lỡ một chuyến tàu điện và lên chuyến sau, dọc đường anh chỉ lãnh đạm nhìn qua cửa kính tàu điện. Tàu còn chưa chạy tới bến đỗ ở phía nhà luật sư Funk, trưởng khu “Hội liên hiệp kiều dân Đức vùng Baltic”. Weiss đã xuống và vội vã chạy về phía trước. Sebastian Funk là một người mập mạp, vai rộng, thân hình gần như vuông, bụng nở căng, đôi má nặng trễ xuống, sốt ruột dậm chân ở bên cửa ra vào nhà mình. Khi Weiss đánh chiếc xe “Adler” kiểu cổ đến cổng chính, Funk khó nhọc ngồi vào ghế sau và tức giận hỏi: - Tại sao tôi phải chờ xe mà xe không chờ tôi? Weiss trả lời ngắn gọn: - Xin lỗi ngài Funk, vì tôi có những chuyện không may. - Anh mà còn có những chuyện không may nữa kia à? - Funk lầu bầu khinh bỉ rồi bảo: - Hay là hôm nay tôi làm anh không may mắn? - Sau đó hắn động lòng thương hại hỏi Weiss: - Thế có chuyện gì xảy ra với anh? Nghe Weiss kể lại tỉ mỉ việc anh bị hỏi cung ở cơ quan điều tra, nét mặt Funk dần dần khoan dung hơn. Lão vỗ vai Weiss bảo: - Cũng không sao đâu nếu như họ có bỏ tù anh. Vì họ cần một thủ phạm người Đức. Mà anh là người Đức. - Nhưng, thưa ngài Funk, chắc ngài đã hiểu tôi. Tôi rất muốn nhờ ngài một việc, nếu cần xin ngài làm luật sư cho tôi. - Cũng chẳng cần đâu. - Funk chẳng cần suy nghĩ nói luôn - Anh là công nhân, mà họ thì không nghi ngờ công nhân đâu. - Công nhân cái gì ở tôi cơ chứ? - Weiss nóng nảy phản đối. - Ngài đã biết, tôi đang tính toán để trở thành một chủ trại. Tôi còn chưa rõ là trang trại có thuộc về cô tôi nữa hay không? - Phải, vì chính anh không biết điều đó nên suốt mấy tháng anh lo lắng chăm sóc bà cô ốm đau của mình khiến cả xã người ta khen ngợi anh là một thanh niên vô cùng đứng đắn. Đừng có ngạc nhiên, Weiss ạ. Tôi là khu trưởng, tôi có trách nhiệm phải biết tất cả về anh, thậm chí cả những điều bản thân anh cũng không biết về mình. - Nhưng tôi cũng yêu quý cô tôi, mặc dù tất nhiên thôi, chỉ rất giận một điều là chẳng nhận được của thừa tự gì cả. Funk lắc đầu. - Tôi cho rằng ở nghĩa địa anh đã khóc vì thương bà cô ngang với tiếc của thừa kế… - Rồi lão xẵng giọng. - Anh vẫn còn dao động chứ? Anh định về nước hay ở lại với bọn Bolshevik? - Thưa ngài, Weiss nói tiếp: - Bây giờ tôi đã quyết định trở về Đức càng sớm càng tốt. - Tại sao bây giờ mà không phải trước đây? - Hôm nay ở cơ quan điều tra tôi đã hiểu rằng, ở đây người ta đối xử với người Đức không tốt. Ngài Kunz hứa để lại cho tôi xưởng của mình để tôi trở thành chủ nhân hờ của xưởng. Tôi đã nghĩ là ở đây tôi có triển vọng lớn hơn ở bên nước. Nhưng bây giờ thì tôi đã rõ rồi, xưởng sẽ bị tịch thu. Và tôi buộc sẽ phải vào nhà máy như một công nhân bình thường. Tôi cho rằng làm một người lính ở bên nước mình còn hơn làm công nhân ở đây. - Cho tới bây giờ tôi mới nghe thấy giọng nói mang dòng máu Đức của anh: - Funk tán thưởng gật đầu. Chiều hôm đó, rửa xe xong, Weiss đang lau cửa kính xe bằng miếng da hươu, bỗng nhiên Funk đến gara (trước kia không bao giờ lão đến đây) và hỏi: - Hôm nay anh sẽ đến chia buồn với con trai ông Schwarzkopf chứ? - Vâng, ông Schwarzkopf đối xử với tôi rất tốt. - Điều đó tôi biết, - Funk tức giận nói tiếp, - nhưng tôi không thể hiểu nổi tại sao lại như vậy? - Bao giờ tôi cũng nghiêm chỉnh hoàn thành những việc làm theo yêu cầu của ông ấy. - Còn gì nữa? - Trong những lúc rỗi rãi tôi có giúp ông ta đôi chút, vì ông ấy là nhà phát minh. - Rất tiếc là tôi không đủ trình độ để hiểu nổi ông ấy nghiên cứu gì. - Phải, đầu óc anh thật ngốc nghếch, - Funk hạ thấp giọng nói với vẻ cương quyết và chắc chắn - Còn bây giờ thì thế này Weiss ạ, mặc dù anh đã quyết định về nước, song hoàn toàn chưa có nghĩa là anh sẽ được về, vì rằng chúng tôi còn chưa quyết định. Chúng tôi quyết định anh sẽ được về Đức nếu Heinrich về theo. Và muốn cho Heinrich về nước thì phải cho cậu ta biết rằng cha cậu ta cũng đã dự định như vậy. - Chẳng lẽ Heinrich lại không biết điều đó? - Cho đến nay cậu ta vẫn chưa biết. Cậu ta cũng chưa biết là mới đây ông Rudolf có gửi cho tôi một bức thư… Anh hãy bảo với Heinrich rằng tôi có bức thư đó. - Như vậy cho Heinrich xem bức thư đó thì tốt hơn, vì cậu ta vẫn thường làm những điều bố mình muốn. Funk nhăn trán, nhưng rồi dịu giọng ngay: - Weiss, tôi tin anh như tin đứa con trai tôi. Bức thư này tôi đánh mất rồi và tôi nghĩ là các tình báo Bộ nội vụ Liên Xô đã lấy cắp mất. Chúng cần Schwarzkopf vì ông ta là một kỹ sư có tài, hiểu biết rất sâu về kỹ thuật thông tin quân sự. Khi chúng biết Schwarzkopf chuẩn bị về nước, chúng bèn giết kỹ sư. - Funk cất giọng huênh hoang - Bây giờ nghĩa vụ của chúng ta phải đưa con trai Schwarzkopf trở về Tổ quốc. Chú của Heinrich hiện giờ mà một nhân vật quan trọng ở Đức. Ông ta muốn giang tay ôm chặt anh trai và cháu mình vào ngực, và tôi đã hứa với ông ta rằng sau khi về Đức gia đình Schwarzkopf sẽ có địa vị đặc quyền hơn chúng ta nhiều. Anh hiểu tất cả chứ? - Vâng, tôi sẽ nói với Heinrich rằng tôi sẽ là người trung thành nhất với anh ta nếu như anh ta đồng ý về nước trong một ngày gần đây. - Vấn đề là như thế, nhưng anh còn có nhiệm vụ đối với tôi, - Funk nhắc lại - Không được sự đồng ý của tôi anh không được bỏ nơi này. •º• Ngay cả chuyên gia có tài cũng không thể tạo cho nét mặt của Rudolf Schwarzkopf bị biến đổi vì sợ hãi một nét bình tĩnh trở lại. Người ta phủ lên quan tài tấm nhiễu đỏ. Những người Đức sống ở Riga hồi đó không mến phục Schwarzkopf vì tính tự cao đối với đồng bào bởi uy thế của mình, và vì sự thể hiện quá kính trọng giáo sư Goldblatt. Kết bạn với một người Do Thái, dù cho người này có tài đi nữa, cũng là một sự khiêu khích đối với xã hội.   Mời các bạn đón đọc Thanh Kiếm Và Lá Chắn của tác giả Vadim Kozhevnikov.
Xứ Mộng Hồn Hoa
Năm 2014, bạn đọc được làm quen với chàng trai trẻ trong thân hình của một cậu bé qua tác phẩm đầy xúc động: Con đến như một phép màu, viết cho con trai. Sau đó, Nam trở thành "hiện tượng" với Mật ngữ rừng xanh. Xứ mộng hồn hoa, cuốn sách mới nhất của Nam được xuất bản, là cuốn sách đẹp như những giấc mơ. Giấc mơ đó được tạo nên từ những màu nhiệm đơn sơ nhất, giản dị nhất. Xa Đà Lạt từ tuổi 12 để bước vào cuộc sống gần như trong bệnh viên Nhi Đồng 2 suốt thời thơ ấu, Nam đã không thể trở về lại phố núi vì lý do sức khoẻ, anh đã viết về Đà Lạt mộng mơ với những thước phim rực rỡ nhất trong cuộc đời mình, nơi anh tự nhận mình vừa là cố nhân, vừa là lữ khách, dù giờ đây Đà Lạt với anh chỉ còn là nỗi nhớ nhung luôn chực tuôn như tiếng thở dài. Với anh, hiện tại là Sài Gòn. Sài Gòn bao dung nhân hậu và đầy yêu thương; Sài Gòn là nơi đã ôm anh, giúp anh có đủ niềm tin, có đủ tình yêu, mang đến cho anh những giấc mơ bỏng cháy và cùng anh lớn lên. Đọc những tác phẩm của anh, người ta không khỏi ngạc nhiên trước sức sống, sức viết mãnh liệt của một người mang bệnh tim bẩm sinh mà chính bác sĩ cũng thừa nhận "được sống đã là một điều kỳ diệu". Trích đoạn "Và cứ thế Đà Lạt ùa về trong tâm trí tôi những hạt nắng đang hong khô bức tượng nơi nhà thờ, những cơn mưa vồ vập bên ngọn đồi hoang vu, gõ vào khung kính trên căn gác nhỏ một bản tình ca sơn cuớc, mà cõi lòng tôi không bao giờ quên." (Có những Đà Lạt trong tôi) "Tôi nằm trong căn phòng có tiếng ồn của chiếc quạt máy mà nghe tiếng gió rít qua đồi thông, tôi cầm lẵng hoa đất sét của cô bạn chợt thấy màu xanh của hoa móng rồng trên bờ tường của nhà hàng xóm, thấy lá thông cháy trong lửa, nghe tiếng láo nháo của bầy chim ăn dêm, nghe thấy tay mình lạnh cóng trong lớp túi mỏng, hít hà mùi dạ lan trong đêm, ngửi thấy mùi của lớp nhựa trạng nguyên. Tôi thấy mình đang ôm, đang hôn những ký ức Đà Lạt." (Hồn nhớ thương) "Sài Gòn với những con nguời lạ nhiều hơn quen, với con đường mới trải dài những ngọt ngào lẫn nghiệt ngã, với giấc mơ mới không bao giờ tắt. Của những kẻ khao khát tự do, tự do nơi chính thành phố trọn vẹn một cái tên: Sài Gòn đẹp - xấu." (Sài Gòn đẹp - xấu) Nhận định "Đà Lạt luôn ở sâu trong tâm khảm gợi nhớ những ký ức tuyệt vời, và Sài Gòn còn đó một lòng bao dung nâng đỡ bước chân tôi." Lê Hữu Nam đã khẳng định như vậy trong cuốn tản văn Xứ mộng hòn hoa của mình. Anh sinh ra ở Đà Lạt và lớn lên ở Sài Gòn. Đà Lạt trong mắt anh là đôi mắt trẻ thơ hồn nhiên. Sài Gòn trong mắt anh là đôi mắt của một thanh niên ưu tư. Đọc cuốn tản văn này, bạn sẽ không khám phá ra những danh lam thắng cảnh ở Đà Lạt và Sài Gòn. Nhưng bạn sẽ khám phá ra vẻ đẹp thơ mộng của thiên nhiên Đà Lạt và tấm lòng bao dung của người Sài Gòn. (Đoàn Thạch Biền) ***   Được viết bằng tâm hồn và trái tim nhạy cảm của một chàng trai tha thiết với quê hương xứ sở, Xứ mộng hồn hoa của Lê Hữu Nam là cuốn sách đẹp như những giấc mơ. Giấc mơ đó được tạo nên từ những nhiệm màu đơn sơ nhất, giản dị nhất. Những điều bé nhỏ, đơn sơ ấy, kì diệu thay, đã tạo nên những quyến luyến không thôi trong từng câu chữ mà bất kỳ ai đã từng cầm lên cũng khó lòng đặt xuống. Bởi vì khi đã yêu mến rồi, có điều gì còn có thể cách ngăn? Hữu Nam đã viết về những thước phim rực rỡ nhất trong cuộc đời mình: những thước phim về Đà Lạt mộng mơ, xứ mà anh tự nhận mình vừa là cố nhân, vừa là lữ khách. Đó là một Đà Lạt với bầu trời nắng vàng rực giăng đầy mây trắng, những con đường tràn ngập sắc hoa cùng tiếng chuông nhà thờ rộn vang. Đó còn là một Đà Lạt u buồn thống thiết với cơn mưa như giằng xé một khoảng trời thăm thẳm. Dù là thời khắc nào, anh cũng vẫn luôn yêu Đà Lạt bằng một tình yêu bỏng cháy. Tình yêu ấy cùng kỉ niệm đã nuôi anh lớn lên, tiễn anh đi và chắc chắn sẽ đón anh trở về. Bởi Mùi dã quỳ, Chiếc áo len xanh, Ngôi nhà trên đồi, Bánh căn phố núi… mãi mãi là những hoài niệm đẹp nhất trong anh về Đà Lạt. Anh viết tự nhiên như thể Đà Lạt chính là hơi thở, là tình yêu vẹn tròn của đời anh rồi, dù giờ đây, Đà Lạt chỉ còn là nỗi nhớ nhung luôn chực tuôn ra như tiếng thở dài. Và trái tim của anh còn đập mãnh liệt với một vùng đất khác: Sài Gòn với những con người cũ - mới song hành cùng anh trên con đường tuổi trẻ. Những con người nồng hậu đã nuôi dưỡng tâm hồn anh từ khi còn là một cậu bé được đặt giữa sự sống và cái chết, mang đến cho anh những giấc mơ bỏng cháy, cùng anh lớn lên và thành người. Và hơn hết, Sài Gòn chính là nơi đã ôm anh trong những ngày côi cút, giúp anh có đủ niềm tin, có đủ tình yêu để chờ đợi một ngày đón bước chân của chàng trai trẻ quay về bên cha nó, tìm về nơi đã sinh ra mình. Để không còn gì có thể chia cắt được những con người mang tâm hồn Sài Gòn. Sài Gòn trong anh là thế: bao dung, nhân hậu và đầy tình thương yêu với biết bao phận người đa đoan. Đằm thắm và nhiều suy tư, Xứ mộng hồn hoa đã gởi lại những tâm tình rất mực chân thành. Cứ thế, Đà Lạt – Sài Gòn trong những trang viết của Hữu Nam vừa gần gũi quen thuộc, vừa lạ lẫm mới mẻ. Và hơn hết, Xứ mộng hồn hoa ấy không còn là Đà Lạt, Sài Gòn của riêng mình Hữu Nam, đó sẽ mãi là những thành phố thân thương khác, bởi kỳ diệu như tên gọi, tập sách của anh đã là món quà quý giá để mỗi người yêu thêm nơi mình sinh ra và trưởng thành. BBT Phương Nam Book *** Mỗi người trong chúng ta đều có những kỷ niệm với nơi mình sinh ra cũng như lòng biết ơn với vùng đất đã nuôi dưỡng ta trưởng thành, bao bọc ta những năm tháng khó khăn trong cuộc đời, đưa ta đến những nơi chốn khó quên, gặp gỡ những con người nhân ái, mạnh mẽ. Tất cả truyền cho ta một nguồn năng lượng sống dồi dào, mà trong mọi thời khắc ta nguyện dùng nó để đốt cháy hết những đam mê và khát vọng. Tôi có những thước phim rực rỡ và quyến luyến về Đà Lạt trong chuỗi hành trình tìm kiếm kỷ niệm. Những năm tháng ngắn ngủi ở Đà Lạt và những lần trở lại sau đó là nguồn cảm hứng vô tận cho cuộc đời tôi. Những kỷ niệm và nguồn cảm hứng đó giúp tôi có một tinh thần hài hòa, lắng đọng ngay cả khi tôi phải rời xa nơi đây. Và cũng chính tại nơi này, Sài Gòn, tôi có những mẩu chuyện nhỏ với những con người cũ và mới, họ đang cùng tôi song hành với hành trang là tuổi trẻ. Tôi còn rất nhiều điều chưa thể viết ra, những câu chuyện chưa kịp kể, những cái tên chưa thể nhắc đến trong quyển sách nhỏ này, và như vậy đây chưa phải là tất cả những gì mà tôi hằng muốn viết để tri ân vùng đất này. Xin dành lời cảm ơn chân thành đến anh Kỳ Phong Dalatnm, Nora L, Hoàng Tùng, Như Toàn, những người bạn dù chưa một lần gặp nhưng đã nhiệt tình giúp đỡ tôi hoàn thành quyển sách này với những bức hình đẹp, đầy thơ mộng về Sài Gòn – Đà Lạt. Xứ mộng hồn hoa chỉ là góc nhỏ xuất phát từ trái tim tôi, nhưng sẽ vô cùng ý nghĩa đối với tôi nếu như ai đó còn nhớ đến nó với cái tên gần gũi: Tản mạn Đà Lạt – Sài Gòn. 11/11/2015 Mời các bạn đón đọc Xứ Mộng Hồn Hoa của tác giả Lê Hữu Nam.
Nhật Ký Phi Thường
Nhật Ký Phi Thường: - Tiểu thuyết tâm lý giới tính đầu tiên của sinh viên đại học Trung Quốc đương đại. - Cuốn sách cần đọc của thanh niên đương đại. - Một trong mười chủ đề nóng của các trường đại học Trung Quốc năm 2002. - Một trong các tác phẩm bán chạy được sinh viên yêu thích nhất năm 2002. - Một trong các gương mặt sách quen thuộc nhất của người Trung Quốc năm 2002. - "Nếu các tác phẩm như thế này ra đời sớm hơn, cùng với sự đánh giá và hướng dẫn của xã hội, những kẻ bi quan, kẻ tự ti, kẻ tự tử, kẻ thủ dâm sẽ giảm đi rất nhiều, trong đó bao gồm cả bản thân tôi, phương pháp giáo dục mở đã phát huy vai trò quan trọng như thế đối với sự hình thành của nhân cách lành mạnh và sự vun đắp thế giới tinh thần cao đẹp. Xét về ý nghĩa này, có lẽ Nhật Ký phi thường có thể giúp những con người tự ti lạc quan, yêu đời hơn rất nhiều" (Trích trong bài viết Phân tích tiểu thuyết tâm lí giới tính đầu tiên của sinh viên Trung Quốc đương đại - Nhật ký phi thường trên báo Thanh niên Bắc Kinh ra ngày 24 tháng 6 năm 2002). - "Nhật ký phi thường được giới xuất bản gọi là "tiểu thuyết tâm lý đầu tiên của sinh viên Trung Quốc", Bộ giáo dục Trung Quốc gọi nó là "Nỗi đau của chàng Werthwer mới". Tác giả mượn lời của tiến sĩ Tâm lý học Dư Vĩ mới du học từ Mỹ về, kêu gọi phải nhanh chóng tiến hành giáo dục giới tính cho sinh viên. Sau đó tôi mới đọc cuốn sách này và cảm thấy rất cảm động về sự can đảm và tinh thần trách nhiệm của tác giả. Vấn đề giáo dục giới tính cho sinh viên đại học đã được kêu gọi từ những năm 1980, hiện nay vấn đề này đã được coi trọng hơn, một số trường đại học đã có môn học giáo dục giới tính cho sinh viên. Trong này có công lao của Nhật ký phi thường" (Lời bình của giáo sư Lưu Đạt Lâm - nhà xã hội học, nhà tình dục học nổi tiếng của Trung Quốc). "Tiếu Nhân kể cho Dư Vĩ nghe một chuyện kì lạ. Ký túc xá nữ của cô gần đây liên tục xảy ra hiện tượng trộm cắp; quần lót, áo con của nữ nghiên cứu sinh vừa phơi ra ngoài là bị mất ngay. Cô cũng bị mất một chiếc áo con. "Thật ghê tởm! Lấy gì không lấy, lại đi lấy ba cái thứ đó của người ta!" Tiểu Nhân lắc đầu, cảm thấy không sao hiểu nổi. "Anh không nghĩ như thế. Hồi anh còn ở nước ngoài....." "Anh có thể không nói câu "Hồi anh còn ở nước ngoài" được không, nghe cứ thế nào ấy!" Tiểu Nhân càu nhàu. Đây là ngày thứ bảy sau khi họ quyết định chính thức yêu nhau. Quen nhau qua mạng được một tuần thì họ gặp nhau. Cả hai đều rất hài lòng. Điều duy nhất khiến Tiếu Nhân không thích là Dư Vĩ, cứ mở miệng ra lại nói câu "anh ở nước ngoài". Lúc đầu, cô cũng cảm thấy tự hào, hãnh diện, nhưng sau bạn bè cùng phòng nói Dư Vĩ giống nhân vật trong tiểu thuyết Vi Thành, cô lại thấy Dư Vĩ hơi buồn cười. Dư Vĩ cũng không giận, anh nói tiếp: "Ở nước ngoài, hiện tương này rất hay xảy ra, đặc biệt là ở các nước công nghiệp phát triển như Mỹ và một số quốc gia khác. Ý của anh không chỉ nói số vụ xảy ra nhiều hơn ta, mà còn muốn nói rằng họ coi trọng nghiên cứu và trị liệu vấn đề này hơn chúng ta. Anh đã từng tiếp xúc lâm sàng với rất nhiều đối tượng. Lúc đầu, anh cũng cảm thấy hành vi của những người này thật ghê tởm; song sau này anh không nghĩ như thế nữa. Chẳng qua họ bị mắc các chứng bệnh về tâm sinh lý, do không thể làm chủ được mình nên hành động như vậy." "Em không tin là họ không làm chủ được hành vi của mình. Em thấy đó là họ thiếu đạo đức, không biết thế nào là xấu hổ, hành vi của họ đủ để kết tội rồi đấy, cần phải trừng trị trước pháp luật." "Thế thì thật quá đáng. Em tưởng những người này không đau khổ hay sao? Em tưởng họ muốn như thế sao? Họ cũng biết làm vậy là không được, nhưng họ không thể làm chủ được mình. Hơn nữa, tại sao họ lại ra nông nỗi đó? Một trong những nguyên nhân là do sự trói buộc của đạo đức khiến họ mắc các chứng bệnh tâm lý, chẳng hạn chứng thị dâm - thích nhìn trộm ngực, cơ quan sinh dục của người khác giới, chứng phơi bày cơ quan sinh dục - em chưa bao giờ nghe thấy chứng phơi bày cơ quan sinh dục đúng không, tức là chuyện để lộ cái đó ra trước mặt bạn khác giới." Tiểu Nhân cười, mặc dù không trả lời Dư Vĩ, nhưng cô lại nhớ đến thời còn học cấp hai, hằng ngày phải đi xe bus. Trong lớp có mấy cậu bạn nghịch ngợm, cứ giờ giải lao lại tụ tập một chỗ, nói chuyện bậy bạ. Thực ra, có lúc họ cố ý nói cho bạn gái như Tiểu Nhân nghe. Bọn họ nói hay mấy gã đàn ông trên xe bus lôi cái đó ra ngoài và quệt lên người phụ nữ. Thật ghê gớm! Đám con gái hiếu kỳ, họ vừa không dám nhìn, vừa muốn xem thực hư ra sao. Cuối cùng cũng không nhìn thấy. Thời học đại học, trong khu ký túc xá nữ có một tầng dành cho nam sinh. Cầu thang nằm ngay bên cạnh nhà vệ sinh, có rất nhiều sinh viên nam, tối mùa hè thường cởi trần đi đi lại lại, thấy con gái đến là lại giở trò đó. Có mấy cô sinh viên cũng thích nhìn. Phòng Tiểu Nhân có một cô bạn, cứ tối đến lại kể chuyện về con trai. Thực lòng mà nói, mặc dù Tiểu Nhân cảm thấy ghê tởm, nhưng được nghe, kể ra cũng thích........." *** Tiếu Nhân kể cho Dư Vĩ nghe một chuyện kì lạ. Ký túc xá nữ của cô gần đây liên tục xảy ra hiện tượng trộm cắp; quần lót, áo con của nữ nghiên cứu sinh vừa phơi ra ngoài là bị mất ngay. Cô cũng bị mất một chiếc áo con. “Thật ghê tởm! Lấy gì không lấy, lại đi lấy ba cái thứ đó của người ta!” Tiếu Nhân lắc đầu, cảm thấy không sao hiểu nổi. “Anh không nghĩ như thế. Hồi anh còn ở nước ngoài...” “Anh có thể không nói câu “Hồi anh còn ở nước ngoài” được không, nghe cứ thế nào ấy!” Tiếu Nhân càu nhàu. Đây là ngày thứ bảy sau khi họ quyết định chính thức yêu nhau. Quen nhau qua mạng được một tuần thì họ gặp nhau. Cả hai đều rất hài lòng. Điều duy nhất khiến Tiếu Nhân không thích là Dư Vĩ, cứ mở miệng ra lại nói câu “anh ở nước ngoài”. Lúc đầu, cô cũng cảm thấy tự hào, hãnh diện, nhưng sau bạn bè cùng phòng nói Dư Vĩ giống nhân vật trong tiểu thuyết Vi thành1, cô lại thấy Dư Vĩ hơi buồn cười. Dư Vĩ cũng không giận, anh nói tiếp: 1 Tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn Tiền Trung Thư, nhân vật chính Phương Hồng Tiệm là một du học sinh ở châu Âu về ‐ ND. “Ở nước ngoài, hiện tượng này rất hay xảy ra, đặc biệt là ở các nước công nghiệp phát triển như Mỹ và một số quốc gia khác. Ý của anh không chỉ nói số vụ xảy ra nhiều hơn ta, mà còn muốn nói rằng họ coi trọng nghiên cứu và trị liệu vấn đề này hơn chúng ta. Anh đã từng tiếp xúc lâm sàng với rất nhiều đối tượng. Lúc đầu, anh cũng cảm thấy hành vi của những người này thật ghê tởm; song sau này anh không nghĩ như thế nữa. Chẳng qua họ bị mắc các chứng bệnh về tâm sinh lý; do không thể làm chủ được mình nên đã hành động như vậy.” “Em không tin là họ không làm chủ được hành vi của mình. Em thấy đó là do họ thiếu đạo đức, không biết thế nào là xấu hổ, hành vi của họ đủ để kết tội rồi đấy, cần phải trừng trị trước pháp luật.” “Thế thì thật quá đáng. Em tưởng những người này không đau khổ hay sao? Em tưởng họ muốn như thế sao? Họ cũng biết làm vậy là không được, nhưng họ không thể làm chủ được mình. Hơn nữa, tại sao họ lại ra nông nỗi đó? Một trong những nguyên nhân là do sự trói buộc của đạo đức khiến họ mắc các chứng bệnh tâm lý, chẳng hạn chứng thị dâm ‐ thích nhìn trộm ngực, cơ quan sinh dục của người khác giới, chứng phơi bày cơ quan sinh dục ‐ em chưa bao giờ nghe thấy chứng phơi bày cơ quan sinh dục đúng không, tức là chuyên để lộ cái đó ra trước mặt bạn khác giới. Tiếu Nhân cười, mặc dù không trả lời Dư Vĩ, nhưng cô lại nhớ đến thời còn học cấp hai, hằng ngày phải đi xe bus. Trong lớp có mấy cậu bạn nghịch ngợm, cứ đến giờ giải lao lại tụ tập một chỗ, nói chuyện bậy bạ. Thực ra, có lúc họ cố ý nói cho các bạn gái như Tiếu Nhân nghe. Bọn họ nói hay gặp mấy gã đàn ông trên xe bus lôi cái đó ra ngoài và quệt lên người phụ nữ. Thật ghê tởm! Đám con gái rất hiếu kỳ; họ vừa không dám nhìn, vừa muốn xem thực hư ra sao. Cuối cùng cũng không nhìn thấy. Thời học đại học, trong khu ký túc xá nữ có một tầng dành cho nam sinh. Cầu thang nằm ngay bên cạnh nhà vệ sinh, có rất nhiều sinh viên nam, tối mùa hè thường cởi trần đi đi lại lại, thấy con gái đến là lại giở trò đó. Có mấy cô sinh viên cũng thích nhìn. Phòng Tiếu Nhân có một cô bạn, cứ tối đến lại kể chuyện về con trai. Thực lòng mà nói, mặc dù Tiếu Nhân cảm thấy ghê tởm, nhưng được nghe, kể ra cũng thích. Dư Vĩ cho rằng không nên có thái độ đối địch với những người đó; do bị mọi người xung quanh kì thị, khinh bỉ, do tính cách tự ti, và còn do cuộc sống bất hạnh trong gia đình nên họ mới như vậy. Đây không chỉ là lỗi của riêng họ. Nói thì như vậy, nhưng Tiếu Nhân vẫn cảm thấy rất bất bình. Nếu chuyện này xảy ra với người khác thì đã đi một nhẽ, đằng này lại xảy ra với chính cô, nên cô vẫn cảm thấy ấm ức. Để thuyết phục Tiếu Nhân, Dư Vĩ lại kể cho cô nghe các câu chuyện biến thái, ngông cuồng mà anh từng gặp; càng nghe Tiếu Nhân càng sợ. Cuối cùng, cô đã hiểu ra vấn đề, nhưng cô không dám tiếp tục ở trong ký túc xá nữa. Buổi tối, bố mẹ Tiếu Nhân muốn gặp Dư Vĩ. Dư Vĩ mời họ đến Trung tâm Âu Á ăn cơm. Bố Tiếu Nhân là một nhà văn, thuộc mẫu nhà văn nghiêm túc. Thời còn trẻ ông từng viết rất nhiều thơ trữ tình đậm màu sắc chính trị, sau đó ông còn sáng tác tiểu thuyết, chủ yếu viết về thời Cách mạng Văn hóa, về nông thôn lao động, tức là loại tiểu thuyết kết hợp cả đề tài nông thôn và đề tài thành thị. Ông luôn nghĩ mình có mặt trên thế gian này là để gánh vác một trách nhiệm nặng nề; mặc dù bản thân ông không có tác phẩm gì thực sự nổi tiếng, nhưng tinh thần của ông vẫn khiến Dư Vĩ cảm động. Ông là một người ôn hòa, nói nhiều, thích chuyện trò. Mục đích của câu chuyện cũng rất rõ ràng, đó là phát biểu ý kiến về mọi vấn đề của xã hội. Bố Tiếu Nhân rất phấn khởi, ông từng đọc khá nhiều bài viết của Dư Vĩ, kể cả luận văn Tiến sĩ Tâm lý học của anh. Dư Vĩ cũng là một người yêu văn học; thời đại học, anh theo khoa Văn, đã từng được đăng một số tác phẩm. Khi còn học tiến sĩ ở nước ngoài, anh cũng gửi rất nhiều bài cho các tạp chí trong nước và đều được đăng. Chỉ có điều những bài đó viết theo lối phát biểu cảm nghĩ, giá trị tư tưởng lớn hơn giá trị nghệ thuật. Trong bữa ăn, bằng một giọng hài hước, Tiếu Nhân đã kể cho bố mẹ nghe chuyện xảy ra trong ký túc xá của mình. Mẹ Tiếu Nhân phát hoảng, chỉ sợ sẽ có chuyện xảy ra với con gái. Bà là một công chức nhà nước, chưa nghe thấy những chuyện như vậy bao giờ. Tiếu Nhân kể xong, ông bố liền lớn tiếng chỉ trích đạo đức xã hội xuống cấp. Ông cho rằng không thể tha thứ hành vi đó, nhưng xét cho cùng là do xã hội gây ra. Ông nói: “Thời còn lao động ở nông thôn, tôi đã từng nghe vài chuyện tương tự. Cũng do môi trường xã hội dạo ấy không tốt, những kẻ làm việc đó đều là người chẳng ra gì. Nhưng khi lên đại học, tôi không còn nghe thấy những chuyện như vậy nữa. Làm sao chuyện này có thể xảy ra trong học đường? Mọi người cùng vùi đầu vào sách vở, học hành bận rộn, quý trọng thời gian, đâu như sinh viên bây giờ, suốt ngày chỉ nghĩ đến chuyện yêu đương, lãng phí tuổi trẻ. Bà xem, thật không thể ngờ lại có chuyện như vậy!” “Ông thì lúc nào chẳng nói thời đó tốt; môi trường xã hội bây giờ khác xưa rồi, đầu óc ông vẫn cổ hủ quá.” Mẹ Tiếu Nhân trách. Nghe vậy, bố Tiếu Nhân càng bực mình hơn. “Ông Chu, hàng xóm nhà mình – cái ông diễn viên kịch nói có thời đoạt giải Hoa Mai gì gì ấy, có một đứa cháu gái mới chín tuổi. Một hôm, ông bực tức kể đã gặp mấy đứa trẻ đứng ở cửa cầu thang đang bắt chước cảnh làm tình trên tivi, ông ấy không dám tin vào mắt mình. Ông ấy bảo rất lo cho đứa cháu gái, chỉ sợ xảy ra chuyện gì. Nhưng phòng tránh thế nào? Mình không thể theo sát nó ngày ngày, cũng không thể cấm nó tiếp xúc với xã hội. Thật đáng ngại quá!” Dư Vĩ nói: “Ở nước ngoài thì khác; ngay từ nhỏ người ta đã tiến hành giáo dục giới tính cho trẻ. Không chỉ nhà trường dạy các kiến thức đó, mà cả phụ huynh cũng không né tránh; thế nên suy nghĩ của họ rất cởi mở, không thần bí hóa, cũng không kiêng kị nó như chúng ta ở đây. Cần phải hiểu một tâm lý phổ biến của con người là: càng cấm lại càng muốn lao đến.” Dư Vĩ kể cho bố mẹ Tiếu Nhân nghe những chuyện mình được tận mắt chứng kiến ở nước ngoài, nhưng chắc bố Tiếu Nhân đã mất hứng từ lâu, ông ngắt khéo lời Dư Vĩ: “Thanh niên bây giờ, động một tí là lại nói nước ngoài, cứ như nước ngoài cái gì cũng tốt, còn ta cái gì cũng xấu.” Tiếu Nhân cũng lườm Dư Vĩ một cái. Dư Vĩ vừa ấm ức vừa ân hận, vội giải thích: “Dạ không phải thế, ý cháu muốn nói rằng, chuyện này ở nước ngoài là rất bình thường, nhưng ở trong nước thì mãi gần đây mới được mọi người chú ý. Thực tế ở nước mình, chuyện này không hiếm. Tuy nhiên từ trước tới nay, người ta mới chỉ nói về nó một cách bông đùa chứ chưa chú trọng nghiên cứu.” “Nghiên cứu thì được, để cho thoải mái thì không được. Lấy ví dụ ở nước ngoài nhé, từ nhỏ đã coi những chuyện đó như chuyện thường nhật, thanh thiếu niên mới tí tuổi đầu đã có quan hệ tình dục. Cháu bảo như thế có hay không? Nước ngoài có rất nhiều người đang nghiên cứu về vấn đề này, kết quả nghiên cứu ra sao? Càng mở cửa thì càng nảy sinh nhiều vấn đề.” Rõ ràng bố Tiếu Nhân cũng đang cố gắng kìm chế mình. “Nhưng mở cửa còn tốt hơn là không mở cửa.” Tiến sĩ Tây học không chịu nhường lời. “Chưa chắc. Việc gì cũng phải có cái “độ”’ của nó. Đạo trung dung mà tổ tiên chúng ta nói chính là ám chỉ ý đó.” “Chính vì phải chú trọng cái “độ” đó nên mới cần người nghiên cứu.” Không khí có phần căng thẳng. Cả hai người phụ nữ đều cảm thấy khó xử. Lần đầu gặp nhau đã tranh cãi, bảo vệ ý kiến của mình, có thể thấy tư tưởng không phải là thứ hay. Nhưng hình như đàn ông lại không nghĩ như thế, cứ đòi phải thắng bằng được đối phương về mặt tư tưởng.   Mời các bạn đón đọc Nhật Ký Phi Thường của tác giả Từ Triệu Thọ.