Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Và Chúa Đã Tạo Ra Đàn Bà

"Và Chúa đã tạo ra đàn bà, nhưng quỷ dữ đã tạo nên B.B." – đó là câu quảng bá quen thuộc về bộ phim năm 1956 của đạo diễn Roger Vadim. Điện ảnh đã tạo ra hiện tượng nhục cảm khiêu khích với B.B – Brigitte Bardot – như biểu tượng của thế hệ "Làn sóng Mới" những năm hậu chiến ở châu Âu. B.B đã trở thành liều thuốc độc ngọt ngào hạ gục mọi trái tim đàn ông thế giới. Câu chuyện không thể đặc trưng hơn cho một thế hệ nổi loạn bằng vẻ tự nhiên tươi mát đến choáng váng, chống lại những luân lý và định kiến bảo thủ của một xã hội cũ kỹ. Câu chuyện kể về Juliette Hardy, một cô gái mồ côi khao khát tình yêu, nhưng vấp phải những rào cản định kiến xã hội và những người đàn ông không mấy thực tâm đối xử tốt với cô. Nhưng chính sự hoang dại tự nhiên của cô làm tất thảy không yên ổn với sự đạo đức giả của họ. Như một bài ca lãng mạn không chút bi ai xoa dịu những chấn thương tâm lý, câu chuyện thể hiện truyền thống ái tình hoan lạc rất Pháp. Người ta đã so sánh Bardot với nàng tiên cá cất tiếng hát bằng ánh mắt và diễn xuất tự nhiên trời phú. Giai điệu mà đạo diễn Vadim tạo nên qua Bardot đã định cư trong đầu óc thời đại, bài ca đã dụ được đám kiểm duyệt thời đó va vào những thành vách ẩn sau sương mù và đập vỡ vĩnh viễn cái vỏ nghiêm cẩn của điện ảnh tránh né tình dục. Bộ phim gây nên tranh cãi liệu có phải chính sự đơn giản của cốt truyện lại là đất để cho Vadim khai thác được vẻ đẹp diễn như không diễn của B.B. Sự tinh quái của nhà làm phim nằm ở chỗ không nhọc công biện giải cho vấn đề đạo đức, trưng ra một cô gái đẹp làm sững sờ tất thảy – vốn chẳng xa lạ gì trong kho tàng nghệ thuật nước Pháp, nhưng khác với Victor Hugo cho Esmeralda bị tử hình trong câu chuyện thời Trung cổ thì Juliette Hardy đã được tôn vinh ngầm qua những góc quay đầy khoái cảm của Vadim. Với lối kể hấp dẫn, người đọc vẫn có thể cảm nhận được sức nóng của câu chuyện trên từng câu chữ và những hình ảnh đẹp về B.B in kèm trong cuốn sách. *** Simone Colette là bút danh của Sidonie-Gabrielle Colette - nữ tiểu thuyết gia người Pháp (28.1.1873 – 3.8.1954). Bà nổi tiếng về quyển tiểu thuyết Gigi, mà Alan Jay Lerner và Frederick Loewe đã dựa vào để viết cuốn phim và nhạc kịch mang cùng tên Colette là con gái của viên sĩ quan nghỉ hưu Jules-Joseph Colette và vợ là Adèle Eugénie Sidonie "Sido" Colette (nhũ danh Landoy). Colette sinh tại Saint-Sauveur-en-Puisaye, Yonne, vùng Bourgogne-Franche-Comté của Pháp. Bà học dương cầm từ khi còn nhỏ và đậu bằng tiểu học với điểm cao về môn toán và chính tả. Năm 1906, Colette bỏ ông chồng Gauthier-Villars không chung thủy, tới sống chung với nhà văn nữ người Mỹ Natalie Clifford Barney. Hai người có mối quan hệ tình ái ngắn, và họ giữ tình bạn suốt đời. Colette vào làm việc ở các phòng nhạc Paris, dưới sự bảo trợ của nữ hầu tước Mathilde de Morny, biệt danh Missy, hai người có một mối quan hệ đồng tính lãng mạn. Năm 1907, Colette và Morny cùng diễn xuất trong một vở kịch câm tựa đề Rêve d'Égypte (Giấc mộng Ai Cập) ở Moulin Rouge. Nụ hôn trên sân khấu của họ gần như gây ra một cuộc náo loạn, đến nỗi người ta phải gọi cảnh sát tới để lập lại trật tự. Do vụ bê bối này, buổi trình diễn tiếp theo của vở Rêve d'Égypte đã bị cấm, và họ đã không có thể sống chung với nhau một cách công khai, mặc dù mối quan hệ của họ vẫn tiếp tục trong 5 năm.[9] Trong thời gian này, Colette cũng có quan hệ tình dục khác giới Bà là viện sĩ của Viện hàn lâm Hoàng gia Bỉ về Ngôn ngữ và Văn học Pháp (1935) Nữ thành viên thứ nhì của Hội văn học Goncourt (1945) Chủ tịch Hội văn học Goncourt (1949) Bắc Đẩu Bội tinh hạng Chevalier (1920) Bắc Đẩu Bội tinh hạng Grand Officier (1953) Bà là người phụ nữ đầu tiên được cử hành lễ quốc táng ở Pháp và được mai táng ở Nghĩa trang Père-Lachaise, Paris - mặc dù bị từ chối các lễ nghi Công giáo do đã ly dị - vì đã có công che giấu các người bạn Do Thái và chồng mình trên tầng gác xép sát mái nhà trong thời Đức Quốc xã chiếm đóng Pháp. Nữ ca sĩ kiêm người viết ca khúc Rosanne Cash đã viết ca khúc "The Summer I Read Colette" trong album 10 Song Demo (1996) của mình để tỏ lòng ngưỡng mộ bà. Truman Capote đã viết truyện ngắn "The White Rose" (1970) về bà. Năm 2012, la Monnaie de Paris đã phát hành đồng tiền kim loại 10 euro bằng bạc có hình Colette. Trung tâm nghiên cứu Colette của Pháp có nhiều đề tài liên quan tới cuộc đời của Colette. Tiến sĩ Jane Gilmour đã viết quyển Colette’s France: Her Lives, Her Loves (Hardie Grant Books), nói về cuộc đời của Colette xuyên suốt các nơi mà bà đã từng sống Trường Trung học cơ sở Colette là ngôi trường ở quận 3, thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam, có bề dày thành tích trong việc dạy và học không chỉ của quận mà còn của thành phố. *** Và Chúa đã tạo ra đàn bà (tên tiếng Pháp: Et Dieu... créa la femme, 1956) không phải là phim đầu tiên Brigitte Bardot đóng nhưng được xem như cỗ máy đưa Bardot trở thành biểu tượng điện ảnh và văn hóa thế giới. Bardot, với tên gọi âu yếm B.B, đóng đinh vẻ đẹp của mình qua vai diễn Juliette với biệt danh “mèo con nhục cảm” đã làm dấy lên cơn sốt hâm mộ toàn cầu. Khi bộ phim được phát hành ở Mỹ, nó đã vấp phải rào cản kiểm duyệt và trở nên quá phóng túng so với tiêu chuẩn đạo đức xã hội đương thời. Vào thời điểm đó, bộ phim bị Liên đoàn Đạo đức Thiên chúa giáo của Mỹ kết án và cấm đoán. Tuy vậy, năm 1958, bộ phim đã thu được 4 triệu đôla ở Mỹ, trong khi chi phí sản xuất ước chừng 300.000 đôla. Khi bộ phim chiếu ở Mỹ, Bosley Crowther, nhà phê bình phim của tờ The New York Times đã nhận xét: “Bardot chuyển động trong một lối thời trang hoàn toàn làm nổi bật lên vẻ quyến rũ của nàng. Nàng hiển nhiên là kết quả của một sự sáng tạo siêu việt không thể phủ nhận. Nhưng ngoài điều đó ra thì bộ phim khá rời rạc với kịch bản đơn giản. Chúng tôi không thể giới thiệu bộ phim nhỏ này như một sản phẩm hay nhất của phim ảnh xứ Gô-loa. Nó sắp đặt các yếu tố với nhau khá vụng về và được diễn xuất một cách kỳ quặc. Không có gì đáng kể ngoài sức nóng bỏng kinh khủng trong diễn xuất của Cô Bardot.” Gần nửa thế kỷ sau, nhà phê bình phim Dennis Schwartz viết: “Bộ phim khiêu dâm hạng nhẹ được tô điểm thêm tuyến truyện có màu sắc bi kịch song vẫn khó có thể coi là một phim bi nghiêm túc. Nhưng dù cốt truyện mỏng thì nó vẫn luôn sống động và hút mắt, nhờ vào không gì hơn là một chuỗi những cảnh Bardot thể hiện mình như một con mèo con nhục cảm trong các lớp cảnh khỏa thân. Công chúng yêu thích bộ phim và nó đã trở thành một cú đột phá phòng vé, tạo nên làn sóng cho những bộ phim khêu gợi sau này. Bộ phim phơi ra những lời thoại dớ dẩn cùng sự phô trương của Bardot thành một đối tượng tình dục, mà ẩn bên dưới là lời kêu gọi cho sự giải phóng phản kháng lại giáo điều cũng như cái nhìn nhục cảm về tình dục.” Mặc dù đã tham gia đóng phim từ năm 17 tuổi với không dưới 15 phim, nhưng phải đến Và Chúa đã tạo ra đàn bà, B.B mới trở thành ngôi sao thực sự. Lúc này B.B mới 21 tuổi. Bộ phim đầu tay của đạo diễn Roger Vadim ghi dấu ấn quan trọng đến nỗi người ta cứ ngỡ đó là bộ phim đầu tiên của B.B, song trên thực tế khi bộ phim ra mắt cũng là thời điểm hai người chia tay nhau sau 5 năm chung sống. Ông đã viết về người vợ trẻ của mình (ông đã là tình nhân của B.B từ năm nàng 15 tuổi) trong hồi ký: “Cô ấy là vợ tôi, con gái tôi và bà chủ của tôi.” Vốn là một nhà báo của tờ Paris-Match, Vadim (1928-2000) đã sớm phát hiện ra B.B và khi bắt đầu tiến hành thực hiện bộ phim, điện ảnh Pháp cũng đang chấn hưng với phong trào “Làn sóng Mới” (nouvelle vague), đua tranh với “Tân Hiện thực” của Ý, trở thành những ngọn cờ đầu của điện ảnh châu Âu. Ba chục năm sau, Vadim đã nói về sự ảnh hưởng của những bộ phim thời đầu: “Tôi cảm thấy mình như một Bonaparte trẻ trung lúc khởi sự chiến dịch Ý, mà tôi chắc thắng.” (Bardot Deneuve Fonda, hồi ký, 1987). Những bộ phim về sau của Vadim dần chìm vào tâm thế u tối của sự bi quan, không còn vẻ quyến rũ của thời ông liên tiếp là tình nhân và kết hôn với những minh tinh đẹp nhất thế giới. Sau Bardot là Annette Stroyberg (1958-1960), Catherine Deneuve (1962-1964), Jane Fonda (1965-1972). Người ta nhận xét rằng sự xuất hiện của B.B trong bộ bikini bên bãi biển là một hình ảnh xoa dịu sự khắc kỷ hậu chiến của châu Âu - có sức mạnh ma thuật hơn nhiều so với lời lẽ hay một hiệu ứng hào nhoáng - không giống như ảnh hưởng của thuyết tương đối Einstein hay cú lắc hông của Elvis Presley, những biểu tượng truyền thông toàn cầu khi ấy - Bardot đánh bại mọi ký ức văn hóa dễ dàng khi nàng hiện lên màn ảnh. Vadim ca tụng: “Nàng đến từ một chiều không gian khác, ở đâu đó ngoài vũ trụ. Khi người ta phát hiện ra nàng, họ không thể nào rời mắt khỏi nàng nữa.” vẻ đẹp của B.B vừa hoang dại lại vừa siêu thực, và từ Và Chúa đã tạo ra đàn bà, hình mẫu này đã đi trước cách mạng tình dục của thập niên 1970. Trong hình hài một nàng Eva trong vườn địa đàng đầy rắn độc, Bardot đóng vai Juliette, linh hồn tự do bị cầm tù của St. Tropez: một thực thể quá tự nhiên đến nỗi giày dép dường như vướng cẳng nàng, và ngay cả trong thứ lẽ ra không thể bị xem là khiêu dâm như bộ váy cưới, nàng vẫn gây bàng hoàng. Juliette chạy theo bản năng, cự tuyệt những mơn trớn của nhà triệu phú Carradine để theo đuổi gã đê tiện to khỏe Antoine. Khi Antoine từ chối Juliette, nàng miễn cưỡng cưới em trai gã ta, anh chàng Michel nhân hậu nhưng ngây thơ. Cuối cùng; Juliette trút cơn cuồng vọng của mình vào điệu Mambo ma quái. Tạp chí Time viết về khoảnh khắc Vadim giới thiệu B.B đầu phim: “Brigitte nằm đó, trườn dài hết cả màn ảnh, chổng mông lên và trần trụi như con ngươi của nhà kiểm duyệt.” Khi bộ phim được chiếu lần đầu cho các nhà kiểm duyệt Paris, Vadim kể lại, một vị tức giận đến mức ông ta quyết định cảnh Bardot không mặc quần lót diễu trước mặt một cậu trai vị thành niên phải bị cắt bỏ. Vadim cười thầm và cho chiếu lại cảnh đó, và quả nhiên không có vụ khỏa thân nọ. Trên thực tế, Bardot mặc một bộ đồ thể dục màu đen bó sát suốt đoạn đó. Nhà kiểm duyệt khăng khăng cho rằng Vadim đã quay hai bản, và bằng cách nào đó đã đánh tráo khi chiếu. Vadim nhận xét: “Đó là một trong những điều kinh ngạc nhất về sự xuất hiện của Brigitte trên phim. Người ta cứ nghĩ nàng khỏa thân lúc đó trong khi không phải vậy.” Nhà phê bình John Baxtor nhận xét: “‘Mông nàng là một bài ca’, nhân vật nào đó đã thốt lên lời ngưỡng mộ Bardot ngay từ đầu phim. Có lẽ ý họ đó là tiếng hát của mỹ nhân ngư. Từ khoảnh khắc tạo tác đó, Bardot - biểu tượng tình dục, siêu sao, ký hiệu, ảo ảnh - trở thành giai điệu đã định cư trong đầu óc thời đại, bài ca đã dụ được đám kiểm duyệt va vào những thành vách ẩn sau sương mù và đập vỡ vĩnh viễn cái vỏ nghiêm cẩn của điện ảnh tránh né tình dục.” Sau này vào năm 1963, đạo diễn Jean-Luc Godard đã chọn Bardot đóng trong bộ phim Contempt [Sự khinh bỉ, dựa theo tiểu thuyết của Alberto Moravia], được xem như cùng một công thức với Và Chúa đã tạo ra đàn bà, đều khai thác vẻ đẹp bốc lửa hoang dại của B.B. Bộ phim được như một liều thuốc độc ngọt ngào cho khán giả hậu chiến, và người ta tranh cãi rằng chính sự đơn giản của cốt truyện lại là đất để cho Vadim khai thác được vẻ đẹp diễn như không diễn của B.B. Sự tinh quái của nhà làm phim nằm ở chỗ không nhọc công biện giải cho vấn đề đạo đức, trưng ra một cô gái đẹp làm sững sờ tất thảy - vốn chẳng xa lạ gì trong kho tàng nghệ thuật nước Pháp, nhưng khác với Victor Hugo cho Esmeralda bị tử hình trong câu chuyện thời Trung cổ thì Juliette Hardy đã được tôn vinh ngẫm qua những góc quay đầy khoái cảm của Vadim. Người ta vẫn coi năm 1959 như “một năm diệu kỳ” của điện ảnh Làn sóng Mới, khi những đạo diễn mới Truffaut, Camus và Resnais chiếm lĩnh Liên hoan phim Cannes. Nhưng sự khởi đầu thực sự chính là ở vào ba năm trước đó, khi cựu nhà báo 28 tuổi Roger Vadim tung ra sản phẩm đầu tay Và Chúa... Thành công khởi đầu có tính scandal này (succès de scandale) được chứng minh qua cơn sốt phòng vé, và lần đầu tiên những nhà sản xuất độc lập đã mở hầu bao ra đầu tư cho thế hệ đang lên của nền điện ảnh Pháp mới. Sau khi làm trợ lý cho đạo diễn Marc Allegret một thời gian, Vadim cảm thấy đủ tự tin để đạo diễn một bộ phim dành cho người đẹp tính khí thất thường và hay gây sự của mình. Trong dàn diễn viên, có sự tham gia của diễn viên người Đức Curd Jurgens trong vai nhà triệu phú Carradine nhằm đảm bảo sự quảng bá quốc tế. Diễn viên Jean-Louis Trintignant lúc đó hãy còn vô danh, đóng vai người chồng của Juliette, đã mau chóng có mối quan hệ tình ái khá ầm ĩ với cô. Nhà phê bình John Baxter phân tích: “Theo đuổi ý tưởng về một bộ phim kịch tính và dùng màu sắc gây ấn tượng khêu gợi, Vadim dựng bối cảnh cho một Bardot da rám nắng giữa những cảnh nền trắng - cát, vải đũi thô - nhằm khuếch trương hiệu ứng. Hình ảnh cô đang tắm nắng phía sau những tấm ga trải giường phơi bập bồng trong gió và sau đó là cảnh dùng bữa sáng tân hôn quấn mình trong tấm ga trắng, là chứng minh cho dụng công đặc biệt đó của Vadim.” Nữ diễn viên kỳ cựu Jeanne Moreau đã ghi nhận dấu ấn mang tính biểu tượng của bộ phim và Bardot: “Brigitte là một nhân vật cách mạng hiện đại thực sự đối với phụ nữ. Và Vadim, với tư cách một người đàn ông, người tình và một đạo diễn, đã cảm nhận được điều đó. Điều không thể chối cãi trong Làn sóng Mới, đó là bộ phim đột nhiên quan trọng này chứa đầy sự sống, nhục cảm, năng lượng, tình ái và đam mê. Bất kỳ ai cũng phải ghi nhớ rằng Vadim đã bắt đầu mọi thứ, cùng với Bardot.” Năm 1987, đạo diễn Roger Vadim đã một bộ phim cùng tên bằng tiếng Anh song nội dung hoàn toàn khác, bối cảnh New Mexico ở miền Tây nước Mỹ, với diễn viên Rebecca de Mornay và Frank Langella nhưng không thành công. Đơn giản là vì không có Bardot. *** Những câu thoại đáng nhớ [Juliette đang tắm nắng khỏa thân] ERIC CARRADINE: A! Vườn Địa đàng ở Saint-Tropez! JULIETE HARDY: Ôi ông Carradine! Và em chắc ông là Quỷ dữ? ERIC CARRADINE: Có lẽ vậy. Đằng nào thì tôi cũng mang táo đến. *** JULIETE HARDY: Đó là bài hát yêu thích của em! ANTOINE TARDIEU: Lần đầu tiên anh nghe đấy. JULIETE HARDY: Em cũng vậy. *** BÀ VIGIER-LEFRANC: Eric, tôi lo cho anh. ERIC CARRADINE: Lo ư? BÀ VIGIER-LEFRANC: Anh phải lòng cô ả rồi. ERIC CARRADINE: Sao cô chắc vậy? BÀ VIGIER-LEFRANC: Mỗi khi anh nhìn cô ta là trông anh ngốc hẳn đi. *** ÔNG VIGIER-LEFRANC: Đã bao giờ cô nghe đến giày hiệu Vigier chưa? JULIETE HARDY: Rồi. ÔNG VIGIER-LEFRANC: Tôi đấy. Có khi cô cũng đã nghe nói đến máy hút bụi Lefranc rồi? JULIETE HARDY: Rồi. ÔNG VIGIER-LEFRANC: Cũng là tôi. Em có muốn nhảy một bài cha-cha-cha không? JULIETE HARDY: Với máy hút bụi thì không!   Mời các bạn đón đọc Và Chúa Đã Tạo Ra Đàn Bà của tác giả Simone Colette.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Chuyện Tình Tự Kể
Lyudmila Zakharovna Uvarova* xuất hiện trên văn đàn Xô-viết vào giữa những năm 60 bằng những truyện ngắn mang sắc thái riêng – trữ tình, tinh tế và sâu sắc, đã thu hút ngay cảm tình của đông đảo bạn đọc, nhất là giới trẻ. Từ đó tới nay, L. Uvarova đã cho ra đời hơn mười cuốn sách. Đáng chú ý hơn cả là các tập truyện ngắn và truyện vừa: Vừa giữa trưa đã hoàng hôn, Mới đây hoặc trước kia, Sẽ có âm nhạc, Chuyện tình tự kể… Qua những cảnh đời thường, những chuyện xảy ra hàng ngày, ngòi bút của L. Uvarova đã tái tạo được những tính cách đặc sắc, những con người có đời sống nội tâm phong phú và luôn khao khát tự vượt lên chính mình để vươn tới một thái độ sống trung thực, nhân hậu… Nữ văn sĩ không hề “khua chuông gõ mõ” về các phẩm chất nhân vật của mình. Văn của chị không trực tiếp miêu tả thế giới bên trong con người nhưng tất cả cái vẻ bề ngoài của mọi sự vật được khắc họa một cách hết sức tinh tế ấy lại toát ra những bài học đạo đức rất sâu sắc. Bạn đọc Việt Nam đã được biết tới tài năng của L. Uvarova lần đầu tiên qua truyện ngắn Chú gà trống trên ban công (trong tập truyện Tiếng nhạc trên sân ga – Nhà xuất bản Văn học 1973), sau đó là các truyện ngắn: Chòm sao Song tử xanh, Hồi ức triệu năm qua…, Bé Olya của tôi và truyện vừa Vừa giữa trưa đã hoàng hôn (trong tập truyện Nửa đời nhìn lại – Nhà xuất bản Tác phẩm mới 1982). CHUYỆN TÌNH TỰ KỂ in trong tập truyện cùng tên (Nhà xuất bản Nước Nga Xô-viết 1984) đã được đông đảo bạn đọc Xô-viết đón nhận nồng nhiệt và góp phần đưa tác giả của nó lên hàng những cây bút văn xuôi được mến mộ nhất hiện nay ở đất nước Xô-viết. NHÀ XUẤT BẢN LONG AN *** Đây là lời giới thiệu của nhà xuất bản ở thời điểm tác phẩm được in (1986). Lyudmila Uvarova là nhà văn và nhà viết kịch Liên Xô, sinh 21 tháng 11 năm 1918 và mất 24 tháng 8 năm 1990 đều tại Moskva. *** Irina Tôi không hề có ảo tưởng. Tôi biết tại sao anh ấy muốn lấy tôi làm vợ. Anh đã yêu một người phụ nữ khác, nhưng đột nhiên cô ta đã bỏ anh, rồi vì buồn, vì uất ức, vì nỗi giận hờn đắng cay của mình, và cũng có thể do muốn vươn tới một sự tự khẳng định nào đó, anh bỗng ngỏ lời hỏi tôi làm vợ. Chúng tôi quen biết nhau đã nhiều năm, đã sống hàng xóm láng giềng với nhau trên cùng một đường phố. Anh lớn hơn tôi ba tuổi rưỡi, thuở nào khi tôi học lớp bốn chẳng hạn thì anh học lớp bảy, cái đó đã tạo nên một khoảng cách lớn giữa chúng tôi. Nhưng về sau, khi tôi tròn hai mươi ba tuổi, còn anh – hai mươi sáu, thì chúng tôi đã bằng vai với nhau. Hơn nữa, người ta vẫn bảo rằng phụ nữ bao giờ cũng trưởng thành sớm hơn về mặt sinh học. Thực ra tôi không hề thấy mình trưởng thành hơn anh. Ngược lại, tôi luôn cảm thấy anh trưởng thành hơn, thông minh hơn và lớn lao hơn tôi. Có lẽ trên thực tế cũng là như vậy. Chúng tôi tốt nghiệp đại học vào thời gian khác nhau – anh ở đại học xây dựng, còn tôi – đại học kinh tế kế hoạch. Tôi mới qua tuổi hai mươi ba, làm việc ở một cơ quan thiết kế với mức lương tương đối khá, còn anh là kỹ sư trưởng của một công ty xây dựng. Một buổi sáng nọ, vào thứ bảy, anh bỗng đến nhà tôi. Chúng tôi đã lâu không gặp nhau, thế mà bây giờ bỗng nhiên anh lại đến. Ông chú Oleg Georgievich của tôi hỏi: - Tôi phải nói với cháu nó thế nào, ai đến thăm nó? Anh đã trả lời: - Xin ông nói giùm là có Pikaskin đến. Ông chú có thói quen không hề ngạc nhiên trước chuyện gì bao giờ, hỏi lại một cách lịch sự: - Xin lỗi, thế nào? Pikaskin ư? Tôi nghe có đúng không? Mời các bạn đón đọc Chuyện Tình Tự Kể của tác giả Lyudmila Uvarova.
Forrest Gump (Tiếng Việt)
Tiểu thuyết Forrest Gump của Winston Groom in năm 1986 thoạt tiên không phải là cuốn sách ăn khách cho đến khi bộ phim chuyển thể ra đời năm 1994 với ngôi sao Tom Hanks. Theo một thống kê, trước khi có bộ phim này thì cuốn sách đã được bán 30.000 bản, và khi Forrest Gump qua mặt rất nhiều bộ phim xuất sắc cùng năm để giành giải Oscar phim hay nhất, đã có 1,7 triệu bản sách được bán trên khắp thế giới. Còn bộ phim đã xếp thứ tư trong các bộ phim có doanh thu lớn nhất mọi thời đại cho đến thời điểm đó. Năm 2011, Thư viện Quốc hội Mỹ đã chọn Forrest Gump vào danh sách bảo tồn của Cơ quan Lưu trữ Phim ảnh Quốc gia vì "có ý nghĩa về mặt văn hóa, lịch sử và mỹ học."  Winston Groom là một cựu binh thời chiến tranh ở Việt Nam, sau khi trở về, ông làm phóng viên và chuyển sang viết tiểu thuyết năm 32 tuổi và đã gặt hái được nhiều thành công. Cuốn tiểu thuyết Conversations with the Enemy (1982). [Trò chuyện với kẻ thù] với chủ đề cựu chiến binh Chiến tranh Việt Nam đã lọt vào chung kết giải Pulitzer năm 1983. Năm 1985, Groom quay về Mobile và bắt đầu viết Forrest Gump. Cuốn sách đã trở thành dấu mốc cho sự nghiệp sáng tác của ông. Nhân vật Forrest Gump đã được Groom xây dựng như một người "tự kỷ bác học'", đã có những thay đổi khi được chuyển thể trên màn ảnh Hollywood. Sự khác biệt ở hình tượng Forrest Gump giữa truyện và phim dường như là nhà văn chủ ý xây dựng một nhân vật phản anh hùng, trong khi các nhà làm phim Hollywood thực hiện theo hướng ngược lại, người hùng kiểu mới có kết cục thành công có màu sắc Giấc mơ Mỹ. Truyện và phim đều đã gây nên những cuộc tranh luận về khía cạnh chính trị và tính biểu tượng của nhân vật Gump cũng như mối quan hệ với xã hội của chàng ngốc có chỉ số IQ (chỉ số thông minh) chỉ có 75 nhưng đã đi khắp nơi và gặp đủ loại người. Cuộc phiêu lưu của Forrest Gump suốt ba thập niên bao trùm lịch sử sau thế chiến II đã vẽ nên chân dung một nước Mỹ: Gump đã gặp 2 tổng thống Mỹ, lên tàu vũ trụ, đóng phim ở Hollywood, sang Trung Quốc và tham chiến ở Việt Nam mà không hiểu mình chiến đấu vì lẽ gì.  Forrest Gump đề cập vấn đề muôn thuở của kiếp nhân sinh: chúng ta từ đâu tới, chúng ta làm gì và chúng ta đi về đâu? Thừa hưởng cái tên của ông tướng thời nội chiến đẻ ra phong trào phân biệt chủng tộc Klu Klux Klan,Forrest Gump sinh ra với chỉ số thông minh của "thằng đần" nhưng mẹ cậu bé luôn đấu tranh cho con mình có được nền giáo dục công bằng nhất. Người mẹ tuyệt vời này luôn dạy con khi cậu bé bị chúng bạn trêu chọc "con không có gì khác biệt hết". Và hễ ai cật vấn "sao mày ngu vậy?" thì Gump có câu trả lời mẹ dặn: "Người ta chỉ ngu khi làm trò ngu".  Bằng giọng văn hài hước, châm biếm, gây cười nhưng cũng để lại dư vị cay đắng, những trang sách dẫn dụ người đọc đi vào thế giới nội tâm với cái nhìn ngây thơ mà không hề giản đơn của một kẻ đần. Cuộc phiêu lưu dị thường mà Gump đã trải qua, vẽ nên chân dung nước Mỹ sau thế chiến II - một đế quốc đã phát động cuộc chiến phi nghĩa với Việt Nam và phải trả giá.  Đó là sự mất mát niềm tin của thế hệ trẻ, hàng nghìn người chết, các cuộc biểu tình. Forrest Gump tham gia cuộc chiến mà không hề hiểu mình chiến đấu vì lẽ gì, “sao chuyện này lại xảy ra?”. Sáng lên trên cảnh nền tăm tối, hỗn loạn đó là ước mơ về hạnh phúc, về hòa bình qua hình ảnh một chiếc thuyền câu tôm, một đầm nuôi tôm.  Mỗi số phận trong tác phẩm là một câu trả lời về sự tồn tại, tin ở các giáo lý, luật lệ, mệnh lệnh hay chính mình. Trên lộ trình đưa ra các đáp án, tác phẩm cũng kịp lấy ngay những câu chuyện thời cuộc để nói về "chúng ta làm gì" của những thanh niên Mỹ khi phải tham chiến. Người bạn Bubba trước khi chết trên chiến trường Việt Nam đã đau xót hỏi Gump: "Tại sao chuyện này lại xảy ra?". Cuộc chiến tranh ở Việt Nam trên phim được khắc họa đậm nét hơn so với tiểu thuyết phần nào cho thấy cuộc chiến hằn dấu ấn đậm nét trong truyền thông nước Mỹ, đến mức nhà làm phim đã gạt bớt các chuyện phiêu lưu khác như bay vào vũ trụ, đóng phim, đấu vật, tranh cử nghị viện... trong truyện để dành đất cho Gump và các bạn của chàng ta đối diện câu hỏi "đi về đâu?". Ðây chính là sự khác biệt lớn giữa phim và truyện khi nhà văn để nhân vật tiếp tục phiêu lưu.  Các nhân vật của phim có vẻ hành động logic với hiện thực hơn nhưng cũng buông xuôi theo thời hơn. Phim vừa có vẻ khẳng định thắng lợi của triết lý Tin Lành Max Weber (Gump phải đổ máu, mất mát và lao động cật lực để giàu có), vừa có màu sắc hư vô (cuộc đời như một hộp kẹo, bạn không thể biết mình sẽ chọn được cái nào). Truyện làm rõ hơn tinh thần không thúc thủ trước hoàn cảnh của Gump và bè bạn của chàng ta, hết keo này đến keo khác khiến người đọc phải mê say và nghĩ "ờ, cuộc đời này quả không đến nỗi tồi để sống".  Cả phim và truyện đều giữ một hình ảnh Forrest Gump khờ nhưng nhân hậu, luôn đối xử tốt với mọi người xung quanh mà không toan tính. Bút pháp cường điệu hài hước của hai tác phẩm đã khiến chàng khờ Gump không còn là thằng ngốc - nạn nhân kiểu nhân vật của Dostoyevsky, mà là người còn lại sau rốt để thanh thản kể câu chuyện đời mình, đầy nụ cười và niềm phấn khích bất tận. Mời các bạn đón đọc Forrest Gump của tác giả Winston Groom & Ngọc Trà (dịch).
Phi Trường Tập 2
Thông qua câu chuyện hồi hộp về quá trình nghi ngờ, điều tra phát hiện, và tìm cách ngăn chặn một vụ âm mưu cho nổ một chuyến máy bay hành khách quốc tế đông người ngay trên không. Arthur Hailey muốn cung cấp cho bạn đọc những hiểu biết tương đối tường tận và lý thú về hoạt động của một sân bay dân dụng vào loại lớn và hiện đại nhất nước Mỹ, sân bay quốc tế Lincoln, với lưu lượng máy bay lên xuống trung bình 30 giây một chiếc. Qua đó, tác giả muốn nói đến những vấn đề xã hội đang đặt ra hiện nay cho nước Mỹ: đó là những mâu thuẫn và bất công không thể tránh khỏi trong cuộc chạy đua theo tiến bộ khoa học kỹ thuật không phải vì hạnh phúc con người, mà trước hết vì lợi nhuận, đẩy con người đi đến chỗ có những hành động mù quáng điên rồ, tìm lối thoát trước cảnh ngộ bế tắc bằng cách tự giết mình và giết oan nhiều người vô tội khác. *** Arthur Hailey (người Anh có quốc tịch Canada) (1920 - 2004) là tác giả của mười một cuốn best-sellers, trong đó có "Bản tin chiều" đã được dựng thành phim. Ông có 11 tiểu thuyết bán rất chạy được in ở 40 quốc gia với 170 triệu bản. Hailey được coi là người trường vốn trong sự nghiệp sáng tác. Những cuốn truyện ông viết đã vượt khỏi quê hương, được xuất bản trên 40 nước với hơn 170 triệu bản. Điểm nổi bật trong tác phẩm của ông là những nhân vật có xuất xứ rất tầm thường nhưng khi bị đẩy vào hoàn cảnh bi hùng đã vượt lên thành một số phận khác.  Sinh ngày 5/4/1920, Hailey sớm phải bỏ học ở tuổi mười bốn, bởi cha mẹ không đủ tiền chu cấp ăn học cho con trai. Sau đó, chàng trai Arthur trở thành phi công trong quân chủng Hoàng gia Anh trong đại chiến 2. Năm 1947, nhà văn tương lai rời bỏ xứ sở sương mù đến Canada và nhập quốc tịch tại đây. Thời gian đầu nơi đất khách, Hailey phải kiếm sống như một nhân viên tiếp thị cho nhà máy sản xuất máy kéo. Được một thời gian thì việc viết lách đã cám dỗ Hailey. Cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông là The Final Diagnosis, xuất bản năm 1959, kể về một bác sĩ chẳng may gây ra cái chết với một bé sơ sinh.  Mải mê với những con chữ trong một thập kỷ, rồi ông trở về công việc kinh doanh, chỉ ngồi vào bàn viết như một thú vui. Bà vợ của Hailey cho biết, nhà văn rất khiêm tốn và giản dị, nhưng ông có một niềm hân hoan đặc biệt khi đọc những bức thư của độc giả tán dương tác phẩm mình. Hậu duệ của ông dự định sẽ tổ chức một bữa tiệc tưởng nhớ ông vào tháng giêng theo đúng nguyện ước của người quá cố. Mười bốn tuổi đã nghỉ học vì cha mẹ không đủ tiền cho ông đi học tiếp, Arthur Hailey tham gia thế chiến thứ 2 với tư cách là phi công trong không lực hoàng gia Anh và trở thành nhà văn khi xuất bản tác phẩm đầu tay The final diagnoisis vào năm 1959.  Arthur Hailey có cách viết tiểu thuyết rất hấp dẫn, mô tả những người bình thường trong hoàn cảnh bất thường. Năm 2001 ông nói với hãng tin AP: "Tôi không thật sự tạo ra ai cả. Tôi chỉ lấy từ đời thật". Một số tác phẩm của ông đã được ra tiếng Việt như Phi trường, Bản tin chiều, Trong khách sạn... Mời các bạn đón đọc Phi Trường Tập 2 của tác giả Arthur Hailey.
Phi Trường Tập 1
Thông qua câu chuyện hồi hộp về quá trình nghi ngờ, điều tra phát hiện, và tìm cách ngăn chặn một vụ âm mưu cho nổ một chuyến máy bay hành khách quốc tế đông người ngay trên không. Arthur Hailey muốn cung cấp cho bạn đọc những hiểu biết tương đối tường tận và lý thú về hoạt động của một sân bay dân dụng vào loại lớn và hiện đại nhất nước Mỹ, sân bay quốc tế Lincoln, với lưu lượng máy bay lên xuống trung bình 30 giây một chiếc. Qua đó, tác giả muốn nói đến những vấn đề xã hội đang đặt ra hiện nay cho nước Mỹ: đó là những mâu thuẫn và bất công không thể tránh khỏi trong cuộc chạy đua theo tiến bộ khoa học kỹ thuật không phải vì hạnh phúc con người, mà trước hết vì lợi nhuận, đẩy con người đi đến chỗ có những hành động mù quáng điên rồ, tìm lối thoát trước cảnh ngộ bế tắc bằng cách tự giết mình và giết oan nhiều người vô tội khác. *** Arthur Hailey (người Anh có quốc tịch Canada) (1920 - 2004) là tác giả của mười một cuốn best-sellers, trong đó có "Bản tin chiều" đã được dựng thành phim. Ông có 11 tiểu thuyết bán rất chạy được in ở 40 quốc gia với 170 triệu bản. Hailey được coi là người trường vốn trong sự nghiệp sáng tác. Những cuốn truyện ông viết đã vượt khỏi quê hương, được xuất bản trên 40 nước với hơn 170 triệu bản. Điểm nổi bật trong tác phẩm của ông là những nhân vật có xuất xứ rất tầm thường nhưng khi bị đẩy vào hoàn cảnh bi hùng đã vượt lên thành một số phận khác.  Sinh ngày 5/4/1920, Hailey sớm phải bỏ học ở tuổi mười bốn, bởi cha mẹ không đủ tiền chu cấp ăn học cho con trai. Sau đó, chàng trai Arthur trở thành phi công trong quân chủng Hoàng gia Anh trong đại chiến 2. Năm 1947, nhà văn tương lai rời bỏ xứ sở sương mù đến Canada và nhập quốc tịch tại đây. Thời gian đầu nơi đất khách, Hailey phải kiếm sống như một nhân viên tiếp thị cho nhà máy sản xuất máy kéo. Được một thời gian thì việc viết lách đã cám dỗ Hailey. Cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông là The Final Diagnosis, xuất bản năm 1959, kể về một bác sĩ chẳng may gây ra cái chết với một bé sơ sinh.  Mải mê với những con chữ trong một thập kỷ, rồi ông trở về công việc kinh doanh, chỉ ngồi vào bàn viết như một thú vui. Bà vợ của Hailey cho biết, nhà văn rất khiêm tốn và giản dị, nhưng ông có một niềm hân hoan đặc biệt khi đọc những bức thư của độc giả tán dương tác phẩm mình. Hậu duệ của ông dự định sẽ tổ chức một bữa tiệc tưởng nhớ ông vào tháng giêng theo đúng nguyện ước của người quá cố. Mười bốn tuổi đã nghỉ học vì cha mẹ không đủ tiền cho ông đi học tiếp, Arthur Hailey tham gia thế chiến thứ 2 với tư cách là phi công trong không lực hoàng gia Anh và trở thành nhà văn khi xuất bản tác phẩm đầu tay The final diagnoisis vào năm 1959.  Arthur Hailey có cách viết tiểu thuyết rất hấp dẫn, mô tả những người bình thường trong hoàn cảnh bất thường. Năm 2001 ông nói với hãng tin AP: "Tôi không thật sự tạo ra ai cả. Tôi chỉ lấy từ đời thật". Một số tác phẩm của ông đã được ra tiếng Việt như Phi trường, Bản tin chiều, Trong khách sạn... Mời các bạn đón đọc Phi Trường Tập 1 của tác giả Arthur Hailey.