Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Con Nhân Mã Ở Trong Vườn

"Con Nhân mã trong vườn" trước hết là một câu chuyện rất hấp dẫn, lối kể chuyện giản dị, tình tiết lạ lùng, bất ngờ, và đọc xong rất sảng khoái. Ai đọc tiểu thuyết cũng cần được giải trí như vậy đã. Thứ đến, sau khi đã gập sách lại, đặt nó lên giá, bạn mới bắt đầu thấy vấn vương, mỗi lúc mỗi sâu xa, với những ý tưởng và cảm xúc mà câu chuyện ấy đã mang đến cho mình. Và đó mới thật là phẩm chất giải trí sâu xa của "Con Nhân mã ở trong vườn". Chủ đề của cuốn sách chính là câu chuyện muôn thủa về mối mâu thuẫn giữa cá nhân và xã hội, giữa bản ngã cá thể và luật chơi bầy đoàn. Cuốn sách này đã được 48 dịch giả ở 48 nước khác nhau dịch ra tiếng của mình cho đồng bào của họ thưởng thức. Và Trịnh Lữ là người thứ 49, Việt Nam là nước thứ 49. Trong cuốn "Cuộc đời của Pi" (một cuốn sách thu hút đông đảo bạn đọc Việt Nam), tác giả Yann Martel viết: "Còn về cái tia lửa thổi được sự sống vào cuốn tiểu thuyết, tôi xin mắc nợ ông Moacyr Scliar". Dịch giả Trịnh Lữ liền tìm đọc một số tiểu thuyết của ông Scliar, và lập tức mong muốn bạn đọc Việt Nam cũng được thưởng thức tác giả này. *** Trong khi dịch cuốn Cuộc đời của Pi, tôi thấy tác giả Yann Martel viết: “Còn về cái tia lửa thổi được sự sống vào cuốn tiểu thuyết, tôi xin mắc nợ ông Moacyr Scliar”. Tôi liền tìm đọc một số tiểu thuyết của ông Scliar và lập tức mong muốn bạn đọc Việt Nam cũng được thưởng thức tác giả này. Về thân thế sự nghiệp của Moacyr Scliar, cũng như chuyện thiên hạ đồn Yann Martel có lấy một cốt truyện của ông Scliar để viết cuộc đời của Pi, xin bạn đọc xem bài giới thiệu của Ilan Stavans về Con Nhân mã ở trong vườn, ấn bản năm 2003. Ông Stavans viết bài đó cho giới bạn đọc ở Mỹ, nên tôi nghĩ nên để ở cuối sách để bạn đọc Việt Nam tiện tham khảo. Còn với tư cách người dịch và giới thiệu cuốn tiểu thuyết này ở Việt Nam tôi trộm nghĩ mình nên có đôi lời về chuyện tại sao Con Nhân mã ở trong vườn lại đáng được có mặt trên giá sách của bạn, người đang đọc những dòng này. Trước hết là vì tôi thấy câu chuyện rất hấp dẫn, lối kể chuyện giản dị, tình tiết lạ lùng, bất ngờ, và đọc xong rất sảng khoái. Tôi nghĩ, ai đọc tiểu thuyết cũng cần được giải trí như vậy đã. Thứ hai, sau khi đã gập sách lại, đặt nó lên giá, tôi bắt đầu thấy vấn vương, mỗi lúc mỗi sâu xa, với những ý tưởng và cảm xúc mà câu chuyện ấy đã mang đến cho mình. Tôi thấy mình cũng giống như Guedali, nhân vật chính trong truyện, suốt đời thèm được mọi người chấp nhận, cố hết sức để có được điều đó, để khi có rồi lại chợt điên cuồng nhớ tiếc con người thật của mình. Đối với tôi, chủ đề của Con Nhân mã ở trong vườn chính là chuyện ấy, câu chuyện muôn thưở về mối mâu thuẫn giữa cá nhân và xã hội, giữa bản ngã cá thể và luật chơi bầy đoàn. Hồi nhỏ tôi nghĩ Người là cá thể. Lớn lên lại thấy Người là bầy đoàn; phải bầy đoàn mới sống được. Đến khi qua bờ dốc bên này của cuộc đời thì lại nghĩ chưa chắc đã phải thế. Bầy đoàn nghĩa là sói sống với sói, sơn dương sống với sơn dương, con nào khác lọt vào bầy là bị loại trừ ngay. Nhưng đấy là thú vật. Mà bây giờ tôi thấy hình như người với thú vật có khác nhau thì phải. Hình như vì được Thượng đế yêu, ghét, và nặn theo hình của mình, lại thổi hơi cho có sống nên Người có trong mình đủ thứ của Thượng đế (ADN mà, thoát làm sao được); nó vừa là Thần thánh vừa là Thú vật, vừa là Thiện vừa là Ác, vừa là Một vừa là Tất cả (một Người là thành được một cõi rồi). Thế thì nhẽ ra nó phải có quyền vừa là chính nó, một cá thể khác biệt với tất cả các cá thể khác, vừa là một thành viên của cộng đồng mình. Khi nào mà cá nhân còn phải trấn áp, loại trừ những riêng tư độc đáo của chính mình để có thể sống được với xã hội, thì xã hội ấy chưa thực là của Người. Nói theo kiểu học giả, xã hội ấy vẫn nằm trong phạm trù thú vật. Giờ đây (và liệu có khi nào chấm dứt) khi con người lại còn đang khủng bố chém giết nhau để khẳng định cái gọi là bản sắc riêng của mình (một biến tướng rất ung thư của mâu thuẫn cá nhân – cộng đồng) thông điệp đó trong Con Nhân mã ở trong vườn lại càng có ý nghĩa cấp bách hơn với chúng ta; và “cái tia lửa của sự sống” trong sáng tạo văn chương của Moacyr Scliar càng thêm Promethean hơn, gần gũi quí giá với chúng ta hơn. Đấy, nếu bạn đã nhiều lúc phải giấu diếm dẹp bỏ những cái độc đáo khác biệt của mình để có được sự chấp nhận của mọi người, và thường khắc khoải về chuyện đó, thì Con Nhân mã ở trong vườn là câu chuyện tâm đắc của bạn. Chắc phải có hàng tỷ người thường khắc khoải như thế nên cuốn sách này mới được những 48 dịch giả ở 48 nước khác nhau dịch ra tiếng của mình cho đồng bào của họ thưởng thức. (Tôi là người thứ 49, Việt Nam là nước thứ 49, vì tôi nghĩ người Việt chúng ta cũng có chung khắc khoải này với nhân loại). Và không phải chỉ có thế: trong khi theo chân nhân vật chính Guedali trong suốt cuộc hành trình gian khổ để trút bỏ phần ngựa của anh đặng hòa nhập được vào xã hội Người, chúng ta sẽ còn được trải nghiệm và vỡ nhẽ rất nhiều điều thú vị về Tình yêu, cái thứ mà chắc là ai cũng mắc phải nhiều lần, nào là tình ruột thịt, tình lứa đôi, tình vợ chồng, tình bạn bè, tình đồng chí, tình đồng loại... Và mọi người thứ tình ấy trong Con Nhân mã ở trong vườn đều hồi hộp, phập phồng chất nhục cảm phóng khoáng tự nhiên, với những bản năng tuôn trào khôn cưỡng, những thèm khát bạo liệt và những dịu dàng thơ mộng, những mưu mô tinh quái và ân hận nhầu nát, những lý tưởng ngây thơ và thực tại phũ phàng, những tình huống huyền thoại mà xù xì sặc sụa ngay trước mặt; nói tóm lại là những cái rất là “chúng ta”. Và thú vị hơn cả là toàn bộ câu chuyện chỗ nào cũng long lanh những giọt hài hước mà chỉ một tâm hồn trung thực, mạnh mẽ và hướng thiện mới toát ra được. Chắc ông bác sỹ - nhà văn Scliar theo thuyết cho rằng mọi hành vi của bạn và tôi đều chỉ do một vài giọt hóa chất trong cơ thể chúng ta quyết định, nên ông mới có được cái giọng hài hước không cố tình như thế. Phải, hài hước với tất cả - may, rủi, họa, phúc, yêu, ghét, được, mất – với một chút giễu cợt, nhất là với chính câu chuyện mình viết ra, với chủ đề mình đã chọn. Vì đọc xong, bạn sẽ có cảm giác rằng, ồ, có khi những cái riêng tư độc đáo của mình cũng chỉ là do mình tưởng tượng ra để cho cuộc đời có vẻ như ghê gớm hơn mà thôi. Chính cái chất hài hước bao dung và không hề làm dáng ấy của câu chuyện đã khiến cho người đọc, khi gập sách lại, cảm thấy cuộc đời vẫn đáng sống. Và đó mới thật là phẩm chất sâu xa của Con Nhân mã ở trong vườn. Và rồi chắc bạn cũng như tôi, cũng như nhân vật chính Guedali, lúc đến những dòng cuối cùng, sẽ thấy mình đã đang đứng lên, đang đứng lên rồi, như một con ngựa có cánh, à thôi (mình nên khiêm tốn) như một Con Nhân mã ở trong vườn, sẵn sàng nhảy qua tường rào... Ôi chao tôi lại nhiều lời rồi. Bạn hãy đọc câu chuyện của mình đi đã. *** Con Nhân mã ở trong vườn - Sự khác biệt từ bản năng Đồng hồ đã điểm đến 2 giờ 30 phút sáng. Và rõ ràng là tôi đã chẳng thể nào ngủ được. Tôi vừa đọc một mạch hết hơn 400 trang của Con nhân mã ở trong vườn. Nói là “không ngủ được” thì cũng không hẳn là chính xác, vì sự thực là tôi nghĩ mình đã thức giấc mất rồi, sau khi vừa trải qua một cơn mơ dài, rất dài, với tất cả những chuyện mà tôi đinh ninh là “không thể nào có thật trên đời”. Con nhân mã ở trong vườn - The Centaur in the Garden. Đây là lần đầu tiên tôi đọc một kiểu tiểu thuyết lạ lùng chưa từng thấy. Và sự “chưa từng thấy” này thể hiện ở nhiều mặt: cốt truyện, kết cấu, tuyến nhân vật, và đặc biệt hơn nữa, trí tưởng tượng mênh mông bát ngát lồng vào cái thần thoại huyền hoại ẩn nấp một cách rõ ràng đến mức có thể nhìn xuyên thấu của tác giả. Ừ thì, tôi cứ mặc nhiên công nhận rằng có lẽ mình đã bị phép thuật của Scliar mê hoặc có hơn không? Nhưng, còn hơn cả mê hoặc. Scliar đem đến cho tôi những thứ còn hơn thế. Với một cuốn sách mà tôi không biết phải dùng từ gì cho chính xác và tổng quát nhất để nói về nó, tôi chỉ có thể nói rằng, có lẽ trong một khoảnh khắc nào đó, nó đã tan biến trong tôi, và chúng tôi rất có thể đã từng tồn tại song song nhau ở cùng một thời điểm. Guedali, con Nhân mã trong vườn, gần với tôi đến mức như hơi thở của anh ta đang phà vào mặt tôi vậy. Câu chuyện xảy ra giản dị và êm thắm tựa như một lời bộc bạch, khiến tôi cảm thấy có phần hơi khó hiểu ở đoạn mào đầu. Và rồi Nhân mã. Thứ được miêu tả là một sinh linh huyền thoại, một sinh vật nửa người nửa ngựa vốn trước giờ chỉ có trong các truyền thuyết Hy Lạp cổ đại, hay sâu hơn nữa, trong sự hình dung lạ lẫm và ngạc nhiên của trí tưởng tượng con người, xuất hiện. Cách xuất hiện không bình thường của một kẻ không bình thường, và những phản ứng hoàn toàn bình thường của những con người rất đỗi bình thường xung quanh nó. Nó đến với thế giới này trước tiên bằng sự mong đợi háo hức của tất cả những người thân yêu và mở mắt ra sau những cái nhìn kinh hãi, lạnh lùng của cha nó, anh chị em nó và cú choáng váng đến nỗi ngất đi suốt mấy ngày liền của mẹ nó. Nó chẳng biết gì cả, và nó không có tội gì cả. Nhưng cay đắng thay, cái sự chẳng biết gì vô tình lại trở nên có tội, trong chính bản thân và hình hài của nó. Guedali, tên con Nhân mã, theo một cách nói nào đó, có thể là kẻ không may, cũng có thể là kẻ đáng nguyền rủa, một sinh vật không nên có mặt trên đời, cho dù nó đích xác là một sinh vật huyền thoại. Thế đấy, trong khi người Hy Lạp tôn sùng những vị thần nửa người nửa ngựa dũng mãnh tuyệt đẹp của họ, thì Guedali nhận ra mình đáng là thứ bị tống khứ đi khỏi cái thế gian này. Vấn đề ở chỗ là Guedali nhận thức rõ sự khác biệt sâu sắc giữa mình với người - những con người xinh đẹp, và họ, dưới mắt anh ta, xinh đẹp vì hoàn chỉnh. Đó là cái mà nó, một con Nhân mã, ao ước đến phát điên lên, mà vẫn không được. Nhưng như thế thì có sao. Bù lại Guedali có vẻ ngoài dễ coi, sự thông minh chăm chỉ và hơn nữa, một bộ chân khỏe mạnh đính trên nửa phần thân sau cường tráng, những cái giúp nó có thể phi nước đại trên thảo nguyên Nam Mỹ tươi đẹp và đầy nắng gió với tốc độ mà bất cứ chàng cưỡi ngựa nào cũng đều mơ đến. Phi nước đại, đó là một điều hay, và cũng là điều khiến Guedali hạnh phúc. Một cách nào đó, có thể nó đã từng hạnh phúc vì nó có, một chút, khác người. Với tôi, đó dù sao vẫn là một sự khác người đáng yêu ở một con Nhân mã. Nhưng không phải người nào cũng trông thấy sự đáng yêu đến ngạc nhiên đó. Guedali sống trong nỗi lo sợ nơm nớp của những người trong gia đình về sự phát hiện của những kẻ xung quanh. Thời đó, người Do Thái vẫn chưa được chấp nhận hoàn toàn. Thêm vào nữa là mâu thuẫn với người anh cả, Bernado. Guedali có một dự cảm mãnh liệt là anh không thể tiếp tục một kiếp sống chui rúc như thế này nữa, cho dù đó là cuộc sống bình an, thảnh thơi trong sự bảo bọc tuyệt đối của gia đình, những người mà anh yêu mến nhất. Hơn nữa, có một chuyện bất ngờ đã xảy ra với anh - đó là việc anh thầm thương trộm nhớ một cô gái. Đó là điều cấm kỵ, nghe cứ như tình yêu giữa Adam và Eva. Guedali ngắm trộm cô ta qua viễn vọng kính, mơ tưởng này nọ, ngồi hàng giờ ngơ ngẩn, nuôi bồ câu đưa thư, v.v… tóm lại là anh ta đang làm tất cả mọi chuyện vơ vẩn nhất trên đời. Anh ta biết tương tư, biết đau khổ, và biết gục ngã khi trông thấy một người đàn ông bước đến chỗ cô ta trên sân thượng và họ âu yếm nhau. Anh ta phát ốm. Và anh ta phát ngán. Anh ta muốn tự mình giải thoát cho mình khỏi sự ràng buộc này. Tất cả chỉ vì anh ta là Nhân mã. Thế rồi, mọi chuyện tiếp theo diễn biến thật nhanh. Guedali nhận ra cuộc sống tù ngục hoàn toàn trái ngược với những thèm khát ẩn sâu đằng sau cái ước nguyện tưởng nhỏ bé và điên rồ nhưng sẽ là một bước ngoặt lớn trong đời anh: lấy lại sự hoàn chỉnh của một con người và quan hệ như một tên đàn ông. Rõ ràng, Guedali - Nhân mã đã định hình được trong đầu cái tương lai của mình những điều anh muốn làm, những thứ mà anh muốn trở thành, và những cái mà anh hướng đến. Nhân mã cũng được quyền sống và được quyền ước mơ chứ, và để được chấp nhận, để được sống và ước mơ, để hòa đồng vào xã hội Do Thái và thế giới đầy biến động, Guedali chấp nhận rời bỏ phần thân thể không-giống-ai của mình. Anh bỏ nhà đi, rong ruổi tháng ngày trên khắp các đồng cỏ, phi nước đại cho đến khi cả bốn chân đều rã rời và đi đến những vùng đất xa lạ mà anh chưa từng biết đến. Anh đã đi rất nhiều nơi, đã gặp rất nhiều người, gây ra nhiều chuyện, thường nhật cũng có mà lạ lùng cũng có. Người-đàn-ông-Nhân-mã trải qua lần đầu tiên quan hệ với một con người, một đàn-bà-con-người, để tìm mọi cách thỏa mãn dục vọng điên cuồng của mình, nhưng không thành công, vì nói gì thì nói, anh ta vẫn là Nhân-mã. Anh ta làm cho mọi người phát cuồng, rồi sau đó làm họ kinh hãi, và cuối cùng, khiến họ chĩa súng vào anh ta khi phát hiện ra sự thật về anh. Mọi việc có vẻ đều ổn thỏa khi Guedali tìm được một Nhân-mã-cái, một cô gái xinh xắn tên là Tita, sống cùng cô, quan hệ với cô, và sau đó cả hai được Dona Cotinha đưa sang Morroco để phẫu thuật. Như thế là xong, mọi vấn đề được giải quyết, và Guedali những tưởng mình đã có thể có một cuộc sống hạnh phúc kể từ ngày anh không còn trông thấy cái hông to lớn của mình ngúng nguẩy trên bốn chân móng sắt và cái đuôi óng ả như lụa nữa. À, và tới đây thì, câu chuyện đã sẵn sàng rẽ qua một hướng khác. Guedali - Cựu Nhân-mã-đực. Đó là một thế giới thu nhỏ của những rắc rối mà một cựu Nhân mã phải đối đầu. Công việc, gia đình, hai đứa con sinh đôi với Tita, một hình hài đang dần dần trở nên hoàn chỉnh, những người bạn tốt và đáng tin cậy, một con Nhân-mã-đực khác, một con Nhân-sư-cái… tất cả mọi thứ xuất hiện và xoay vòng trong cái suy nghĩ đã già dặn hơn rất nhiều nhưng thỉnh thoảng vẫn không giấu nổi những sự bồng bột trẻ con của Guedali. Đã có lúc anh ta muốn lại trở thành Nhân-mã như ngày xưa, và rồi anh ta sợ hãi. Vợ anh ta, Tita, quan hệ với một con Nhân-mã-đực khác, trong hình dáng con người, và anh ta cũng thế, nhưng với một con Nhân-sư-cái. Mọi chuyện tưởng chừng như đã có lúc rối tung lên. Mọi sự rối tung quay quanh những loài sinh vật lẽ ra đã là huyền thoại. Tôi sẽ cảm thấy đau đầu, cảm thấy chóng mặt, nhưng tôi biết mình sẽ không bao giờ cảm thấy chán nản với Guedali. Cuộc sống là những chuỗi ngày dai dẳng và mâu thuẫn đối nghịch, và chính vì thế anh ta luôn phải phi nước đại để níu kéo nó. Và cũng vì, mỗi con người đều có riêng cho mình một cách phi nước đại, Guedali đã lựa chọn, với tư cách một con người, bằng việc trút bỏ lốt Nhân-mã, về mọi mặt, cho dù nó có phải là quá khứ của mình hay không. Anh ta muốn mình chỉ từng là Nhân-mã, ngoài ra, không hơn. Anh ta có thành công hay không? Câu trả lời nằm ngay trong sự phi nước đại của anh ta. Scliar đã không nói ra điều đó. Đoạn cuối cùng, ông kể lại một câu chuyện hoàn chỉnh quay quanh Guedali, với giọng kể đắc thắng và tự nhiên của Tita, vợ anh. Guedali đã thực sự là một con người, và cuộc đời đầy biến động của anh chẳng khác nào một đoạn phim quay chậm. Tôi thích điều đó. Thân phận và số phận của Guedali không nhất thiết phải rõ ràng và mặc định phải đi theo một con đường nào cả. Và, chính xác là như thế, tôi thích Guedali ở trong đoạn kết này, cười nói theo kiểu con người và quan sát một người phụ nữ theo kiểu con người. Như con ngựa có cánh sắp cất vó bay lên về phía những ngọn núi hoan lạc vĩnh hằng, về phía bộ ngực của Abraham. Như con ngựa với những bộ móng đang nhảy múa, sẵn sàng phi nước đại qua thảo nguyên. Như con Nhân mã ở trong vườn, sẵn sàng nhảy qua tường rào để tìm kiếm tự do. Tự do, không chỉ là hy vọng và nỗ lực của người Do Thái, của Guedali mà còn là của những ai thực sự muốn vươn tới và nắm bắt được nó. Đó là cách mà con người, theo đúng nghĩa đen, nhìn nhận sự tồn tại của mình. Một cái kết hay theo đúng phong cách Scliar. Con Nhân mã ở trong vườn. Nếu ai đó hỏi tôi rằng tác phẩm này có thực sự gây chú ý ngay từ những dòng đầu tiên hay không, tôi sẽ rất thẳng thừng trả lời là hoàn toàn không. Văn phong lạ lẫm của một người Brazil, cách xử lí cốt truyện theo vòng tuần hoàn, có xuất hiện chủ nghĩa cá nhân (vốn là cái mà tôi không hề ưa thích), tự do tín ngưỡng và tôn giáo, những nghi thức của người Do Thái xa lạ, và cuối cùng, một con Nhân mã, được tung ra như thể muốn níu kéo lại sự quan tâm của tôi hơn là muốn gửi gắm một thông điệp gì đó như các tác phẩm khác. Tôi đã đọc tiểu thuyết này với tất cả sự tò mò của mình hơn là một sự đam mê và yêu thích. Nhưng chính cái tò mò ấy đã dẫn đường và mở ra một lối đi cho sự đam mê yêu thích của tôi, sau đó, biến chúng thành cuồng nhiệt. Bằng một cách nào đó, Moacyr Scliar đã khéo léo biến những cái ngáp dài ngáp ngắn ban đầu của tôi thành ba giờ đồng hồ ngắn ngủi mà khó quên của một giấc mơ. Giấc-mơ-mà-tôi-thậm-chí-còn-không-biết-đến-sự-hiện-diện-của-nó. Moacyr Scliar, một bác sĩ y khoa tình cờ trở thành một tiểu thuyết gia. Bằng tất cả lòng chân thành và sự trân trọng của tôi, tôi xin cảm ơn ông vì đã viết Con nhân mã ở trong vườn, một quyển sách xứng đáng chiếm một vị trí quan trọng trên tủ sách mà tôi yêu thích. Ông đã chứng minh rằng những sự so sánh tầm thường, cố gắng loại bỏ một cái gì đó khác biệt, hay hơn thế nữa, những sự “hơn người” và lòng kiêu ngạo sẵn có sẽ chẳng làm nên được trò gì nếu thiếu niềm tin. Dưới ngòi bút giản dị mà quyến rũ và đầy thuyết phục, con Nhân mã hiện lên trong tiểu thuyết của Scliar như một hình hài bé bỏng và chân thật vẫn thường nép mình sau mỗi “chúng ta”. Là một con người không hoàn chỉnh, Guedali thiếu cái mà chúng ta có, và có cái mà chúng ta thiếu. Mặc dù vậy, trên hết, anh vẫn có một thứ ý chí đáng phục và tâm hồn trong sáng, chân thật đáng yêu. Nghĩ đến người khác một cách tự nhiên, luôn dằn vặt mình theo đúng kiểu của một Nhân-mã-muốn-trở-thành-người, và sau đó, đã có lúc tự chôn vùi mình trong mớ hỗn độn về nguyên nhân của mọi việc và mục đích sống, những cái đó đã khiến tôi yêu thích nhân vật này hơn Tita - nàng Nhân-mã-cái. Không phủ nhận rằng Tita đáng thương và nhạy cảm, nhưng tôi nghĩ, ở nàng, ở một phương diện nào đó, về lối sống và cách nhìn nhận, nhân vật này vẫn còn mang vẻ bi quan chán nản và dường như luôn gặp khó khăn mỗi khi đối diện với sự thật. Cô có lẽ đã không đủ tự tin để vượt qua nếu không có một người bạn đời như Guedali bên cạnh. Tuy nhiên, dù gì đi nữa, vì những điều mà Thượng đế không hề ưu ái khi chọn lựa một kiểu hình dáng cho họ, vì những gian khổ mà họ phải chịu đựng, suy cho cùng, họ vẫn xứng đáng được hưởng hạnh phúc. Hạnh phúc “làm người”. Nói như Trịnh Lữ - người dịch tác phẩm này thì: “… Sau khi đã gập sách lại, đặt nó lên giá, tôi bắt đầu thấy vấn vương, mỗi lúc mỗi sâu xa, với những ý tưởng mà cảm xúc mà câu chuyện ấy đã mang đến cho mình. Tôi thấy mình cũng giống như Guedali. Nhân vật chính trong truyện, suốt đời thèm được mọi người chấp nhận, cố hết sức để có được điều đó, để khi có rồi lại điên cuồng nhớ tiếc con người thật của mình…” Và, tôi đặc biệt thích những dòng bộc bạch chân thật và cởi mở sau đây của Trịnh Lữ: “… Đấy, nếu bạn đã nhiều lúc phải giấu diếm dẹp bỏ những cái độc đáo khác biệt của mình để có được sự chấp nhận của mọi người, và thường khắc khoải về điều đó, thì Con Nhân mã ở trong vườn là câu chuyện tâm đắc của bạn… Và mọi thứ Tình ấy trong Con Nhân mã ở trong vườn đều hồi hộp phập phồng chất nhục cảm phóng khoáng tự nhiên, với những bản năng tuôn trào khôn cưỡng, những thèm khát bạo liệt và những dịu dàng thơ mộng, những mưu mô tinh quái và ân hận nhầu nát, những lí tưởng ngây thơ và thực tại phũ phàng, những tình huống huyền thoại mà xù xì sặc sụa ngay trước mặt; nói tóm lại, những cái rất là “chúng ta”. … Và, chính cái chất hài hước bao dung và không hề làm dáng ấy của câu chuyện đã khiến cho người đọc, khi gập sách lại, cảm thấy cuộc đời vẫn đáng sống…” Bản năng và cuộc sống, ấy là hai thứ mà tôi và bạn, và tất cả những người khác không dễ dàng gì chối bỏ. Tôi có lẽ sẽ để tâm tới sự kì thị, nhưng tôi sẽ không khước từ những sự khác biệt và khả năng mà tôi sẵn có. Tôi nên tự hào về điều đó, vì những điều khác biệt có thể làm nên một con người. Điều quan trọng là tôi có nhận ra được sự khác biệt đó, trân trọng nó hết mức mà tôi có thể và tìm mọi cách phát huy nó theo một chiều hướng tốt hay không. Và tôi tin vào sự phán quyết của mình. Cũng như Guedali, cũng như Con Nhân mã ở trong vườn, cứ hãy nỗ lực hết mình, để rồi sẽ có ngày vươn cánh bay lên, bay một cách thoải mái và tự do bằng chính đôi cánh trên lưng, bên trên những thảo nguyên hoang vu lộng gió. Moacyr Scliar, ông đã nghĩ gì khi viết Con Nhân mã ở trong vườn? Ông nghĩ gì khi khuyên những người đọc của ông hãy cứ vui sống và chấp nhận những khác biệt quanh mình cho đến một ngày họ có thể nói: BÂY GIỜ KHÔNG CÒN PHI NƯỚC ĐẠI NỮA. BÂY GIỜ, MỌI THỨ ĐÃ ỔN CẢ RỒI? Tôi chẳng biết được, và có thể là tôi cũng chẳng bao giờ được biết. Nhưng với tôi, Scliar đã thành công, về mọi mặt. Tôi chắc chắn rằng người đọc của ông sẽ nhớ mãi tên ông, cũng giống như Yann Martel - chúng tôi là những người đã mắc nợ ông vì “cái tia lửa sự sống” mà ông đã thổi vào từ mọi góc độ của quyển tiểu thuyết. Khi đọc Moacyr Scliar, tôi sẽ không bao giờ quên cái sức hấp dẫn của thứ tình yêu cuộc sống mãnh liệt và dồi dào. Cái gì cũng phải làm hết mình, cái gì cũng phải cố gắng hết sức, không được từ bỏ hy vọng chỉ vì không có quyền hy vọng, và sử dụng sự khác biệt như một điểm nhấn mà chỉ riêng bản thân mình mới có. Tạo hóa làm nên con người, nhưng không thể áp đặt con người. Bản thân Guedali, với sự lạc quan và kiêu hãnh, đã là thông điệp đáng giá. Chính vì vậy, những câu chuyện của Scliar đi vào lòng tôi rất nhẹ nhàng mà không cần gõ cửa. Đặt quyển Con Nhân mã ở trong vườn xuống bàn, tôi ngồi đây, nhìn ra phía chân trời xa kia một màu xanh ngắt, và thực sự tin rằng mình đã nhìn thấy, hẳn hoi, một con ngựa có cánh, hệt như trong huyền thoại của ông./. Chuông gió *** SAO PAOLO   QUÁN LẠC VIÊN, MỘT QUÁN ĂN TUNISIA NGÀY 21 THÁNG 9, 1973     Bây giờ không còn phi nước đại nữa. Bây giờ, mọi thứ đã ổn cả rồi. Bây giờ chúng tôi cũng hệt như mọi người; không còn làm ai phải để ý đến mình nữa. Cái thời chúng tôi bị coi là kỳ quặc đã qua rồi, tại sao chúng tôi không bao giờ ra bãi biển, và tại sao vợ tôi, Tita, lúc nào cũng mặc quần dài? Chúng tôi mà lạ ư? Làm gì có chuyện ấy. Tuần trước, Peri, thầy phù thủy người Indian, đến thăm Tita, và anh ấy mới là người kỳ quặc, một thân hình bé tí gầy gò với một bộ râu cằm lưa thưa, đầy những hoa tai và vòng cổ, tay cầm gậy và nói một thứ tiếng nghe rất tức cười. Việc một anh chàng bộ dạng lạ lùng như vậy đến thăm chúng tôi có vẻ không bình thường; nhưng biết làm thế nào, ai chả có quyền rung chuông gọi cửa. Hơn nữa, anh chàng mới là kẻ ăn mặc lạ đời chứ đâu phải chúng tôi. Chúng tôi ấy à, không đâu, bộ dạng chúng tôi tuyệt đối bình thường. Chúng tôi đang ở đây cùng con cái, bạn bè, và con cái của bạn bè, cùng nhau ăn tối trong cái nhà hàng Tunisia này. Dạo trước chúng tôi đến đây thường xuyên hơn. Từ ngày Tita và tôi dọn về Porto Alegre thì những bữa ăn tối như thế này hiếm hoi hơn, nhưng vẫn là dịp tốt để nhóm bạn cũ gặp gỡ nhau. Thực ra hôm nay chúng tôi có một lý do đặc biệt để ăn mừng, đó là sinh nhật tôi. Ba mươi tám tuổi. Ba mươi tám, cỡ nòng của khẩu súng lục vẫn được các nhân viên an ninh trong khu biệt thự của chúng tôi sử dụng, nếu tôi nhớ không lầm. Một cái tuổi tuyệt vời. Tuổi trưởng thành, mà cũng là tuổi cường tráng, hiểu đời, cái tuổi biết đánh giá đúng những gì tốt đẹp, ví du như các món ăn tuyệt hảo ở đây trong quán Lạc Viên này, một nơi mà chúng tôi thú vị cảm thấy như ở nhà vậy. Đúng là chỉ một phút trước tôi đã có một cảm giác khó chịu khi liếc nhìn anh bồi bàn người Arab. Anh ta làm tôi nhớ lại chuyến đi đầu tiên của chúng tôi sang Morocco, cái mùi lộn mửa trên tàu thủy. Tôi đã rất khó chịu, thực sự đã rùng hết cả mình. Paulo, ngồi cạnh tôi bên chiếc bàn dài, đã thấy điều đó. Sao thế Guedali, mặt cậu tái mét đi thế ! Có gì đâu, tôi nói, tớ chỉ hơi đau bụng một tí, nhưng hết rồi, tớ không sao mà. Paulo liền nhân dịp hỏi xem dạo này tôi có còn tập thể dục nữa không, có còn chạy như thời chúng tôi còn hay chạy với nhau nữa không. Tớ thường đi xem đá bóng với các con, chúng nó đều là cổ động viên cho đội Quốc tế của Porto Alegre, nhưng chỉ vậy thôi, chứ không có tập tành gì khác. Á à..., Paulo đắc thắng, thảo nào mà cậu bắt đầu béo bụng rồi kìa, hèn gì mà không đau. Nhìn tớ đây này, Guedali, tớ vẫn đâu vào đấy nhá. Tớ vẫn chạy, tối nào cũng vậy, rất đều. Cậu không nên bỏ tập, Guedali à. Chạy đi, anh bạn ạ. Cố gắng một chút. Không phải vì tuân thủ phương pháp đâu, mà để cho nó có thách thức, cậu hiểu không. Đời mà không có thách thức thì chẳng đáng sống nữa. Hãy nghe lời thằng bạn già Paulo này một cái xem nào. Paulo nói đúng. Tôi nên chạy thường xuyên. Tôi đã định tiếp tục chạy trong trang trại mà tôi có ở gần Quatro Irmão, trong nội địa Rio Grande do Sul. Nhưng bây giờ đất ở đó trồng trọt hết rồi, chẳng còn chỗ mà chạy nữa. Anh ruột tôi, Bernardo, cai quản cái trại ấy cho tôi. Ai cũng nói có điên mới đâm đầu vào việc trang trại, chưa nói đến việc lại còn làm việc đó với một cộng sự như Bernardo. Anh ấy thất thường, bắt đầu việc gì là bỏ dở việc ấy và đã lang bạt khắp xứ Brazil. Nhưng khi anh đến gõ cửa nhà tôi một ngày nọ và để nghị được giúp đỡ, tôi đã quyết định chấp nhận rủi ro. Thế mà mọi việc lại thành tốt. Bernardo đã cho thấy anh là một quản lý trang trại hạng nhất. Anh cơ giới hóa công việc và học hỏi một nhà nông học về việc sử dụng phân bón và thuốc diệt cỏ. Anh quản người làm rất chặt, tóm lại, anh khiến cho mọi thứ vận hành thật tốt. Anh bạn cũ tốt bụnb Paulo. Một người bạn tốt, một cộng sự tốt. Nhờ có đầu óc tỉnh táo và nhìn xa trông rộng của anh, chúng tôi đã vào được đường dây xuất khẩu. Thật là một ý tưởng lớn. Đó là cái đã cứu chúng tôikhi việc làm ăn cứ bê bối dần trong thời gian tôi còn sống ở Sao paulo. Chúng tôi đã xuất khẩu hết tấn hàng này đến tấn hàng khác, đặc biệt là sang Morocco, nơi tôi có nhiều quan hệ tốt. Đúng là một người bạn hay, Paulo. Paulo với Fernanda, Julio với Bela, Armando với Beatrice, Joel với Tânia... toàn là bạn hay. Hay biết bao khi được ở giữa bạn bè, uống rượu vang, nặng nhưng ngon làm sao - trong bầu không khí đẹp đẽ và đầm ấm. Đúng thế, thật sung sướng được ngồi ở đây, trong cái tiệm ăn Tunisia này. Cái duy nhất hơi làm tôi khó chịu ngay lúc này là tiếng nhạc Arab - chói tai, mở âm lượng rất to. Nhưng chính cái đó cũng lại có cái lợi điểm của nó : nếu những đôi cánnh có rung lên xao xác ở ngoài kia, phía trên ngọn cái cây cọ nhìn thấy được qua cái cửa sổ kia, tôi sẽ không biết, không nghe thấy chúng. Tôi nghĩ cái tiếng xao xác mà tôi nghe thấy đó là tiếng gió, một thứ gió nóng đã nổi lên suốt buổi chiều. Có lẽ sắp mưa. Tita mỉm cười. Nàng đang ngồi đối diện với tôi, xinh đẹp hơn bao giờ hết. Quãng đồi gian khó mà nàng đã trải qua có để lại dấu ấn trong những đường nét trên gương mặt nàng, thì cũng chỉ khiến cho vẻ đẹp của nàng thêm chín, thêm sâu, thêm mềm mại. Tita yêu dấu, người vợ thương mến của tôi. Bên trái tôi là cặp con trai sinh đôi của chúng tôi. Suốt nửa tiếng đồng hồ chúng đã không ngừng thì thầm vào tai nhau, hai thằng quái con. Con lạ gì những chuyện khỉ của chúng. Hai thằng con trai tốt lành, thông minh và chịu khó. Mà chúng mới lớn nhanh làm sao! Chẳng mấy chốc chúng sẽ cao hơn cả tôi, mà tôi đã rất cao rồi. Chúng đã bắt đầu hỏi xin ôtô; một ngày gần đây chúng sẽ đem bạn gái về nhà. Rồi chúng sẽ lấy vợ, sẽ đến một ngày tôi thành ông nội. Mọi việc đều tốt đẹp. Nghĩa là, mọi việc đều hầu như tốt đẹp cả. Vẫn còn những cái khiến tôi khó chịu. Chứng mất ngủ của tôi, những giấc ngủ vật vã của tôi. Tôi rất hay sực tỉnh giữa đêm, tưởng như vừa nghe thấy một tiếng động gì quái lạ (có phải tiếng xao xác của những chiếc lông trên cặp cánh con ngựa bay?) nhưng đó chỉ là tưởng tượng mà thôi. Tita cực kỳ thính tai, chẳng bao giờ nghe thấy gì hết; nàng ngủ thật say. Và lại còn nằm mơ nữa. Chẳng cần phải kéo mi mắt nàng lên và nhìn trộm vào đồng tử như nhìn qua cửa sổ để xem nàng mơ thấy gì. Ngủ cạnh nhau boa nhiêu lâu như thế đã làm cho những giấc mơ của chúng tôi hòa trộn vào nhau. Con ngựa mà vừa một lúc trước tôi đã thấy đang im lặngbay giữa những đám mây giờ đây đã phi nước đại trên những cánh đồng cỏ trong giấc mơ của nàng. Và nó không làm phiền gì nàng. Những giấc mơ của tôi mới là cái tôi phải chỉnh sửa. Tôi phải bắt được con ngựa của mình và lột bỏ tất cả những thứ dư thừa lạ lùng của nó. Hoặc giả loại bỏ nó hòan toàn ra khỏi các giấc mơ của tôi. Có những viên thuốc ngủ đặc hiệu để làm việc này. Một vài điều lạ lùng cũng xẩy ra với tôi, làm cho những thông điệp khắc khoải kia cứ nhiều thêm mãi. Ví dụ : một vài phút trước, tôi đang nguệch ngoạc vài chữ lên tờ giấy ăn với cây bút bi bằng vàng mà các bạn tôi vừa tặng, một cây bút nhập khẩu tuyệt đẹp, thì tôi giật mình khi thấy mình viết ra câu: Bây giờ mọi việc đều ổn cả. Một câu tuyệt đối tầm thường, nhưng viết bằng những con chữ gãy góc trông rất kỳ quặc. Cái gì, sức mạnh nào, trường lực nào, đã đưa đẩy tay tôi viết ra những chữ ấy ? Tôi không biết. Tôi phải thú nhận là mình không biết, mặc dù cái tuổi 38 của tôi, mặc dù những trải nghiệm dị thường mà tôi đã có. Còn có nhiều thứ không biết, nhiều cái bí ẩn trong con người tôi. Chẳng phải đã đến lúc mở hết các cửa đập, để cho các dòng thác được tuôn chảy hay sao ? Hôm qua tôi thấy những cảnh nước lụt trên TV. Các con vật bơi giữa dòng nước đục ngầu, tìm kiếm nơi trú ngụ trên những ngọn cây vẫn còn cao hơn mặt nước. Khuôn mặt ướt đẫm của một con khỉ được quay cận cảnh đặc biệt làm tôi xúc động; đó là hình ảnh của sự thơ ngây bất lực. Chẳng phải đã đến lúc bộc bạch mọi chuyện với các bạn hay sao? Bây giờ, khi mọi thứ đã ổn cả rồi, tôi có nên nói cho họ biết không? Không có gì phải sợ. Chẳng có cái đuôi nào sẽ vẫy lên nhặng xị để đuổi lũ ruồi đang vo ve quanh tôi nữa đâu mà. Nói đến ruồi, quả thực ở đây lắm ruồi quá. Quán ăn nấu ngon, nhưng không phải là một nơi sạch sẽ nhất. Họ phải biết đem rách đổ ra thật xa đằng sau nhà mới phải. Dù sao, phải nhắm mắt làm ngơ và đừng phàn nàn gì cả. Những người này rất dễ nổi giận, và sẽ trả thù. Vừa mới hôm qua họ còn cưỡi lạc đà băng qua các đụn cát sa mạc, những dải khăn quấn trên đầu còn phấp phới bay trong gió. Nếu bị phản thùng, họ sẽ thề phải trả thù, và sẽ dùng dao găm đâm chết ngay cả bạn bè khi có cơ hội đầu tiên. Họ là những người Berber[i]. Tất nhiên họ không còn cưỡi lạc đà nữa. Khi đóng cửa quán ăn họ sẽ về nhà bằng ôtô. Nhưng tôi vẫn thấy một tia hiểm độc trong mắt họ. Có thể đó chỉ là chứng tự kỉ ám thị kiểu Do Thái của tôi.   ***   Vâng, tôi có thể kể tất cả mọi chuyện. Khiêm nhường nhưng cao giọng. Đàng hoàng, không rơi vào hài hước rẻ tiền, cũng không chơi chữ. Không ám chỉ gì đến Cavalleria Rusticana, hoặc đến con lừa của Buridan[ii]. Những người Indian có xuất hiện trong câu chuyện của tôi, mà đúng là vẫn có người Indian sống trong vùng Quatro Irmãos trong năm 1935, họ sẽ không cưỡi ngựa như những người khai hoang dũng cảm, mà chỉ đi bộ, khiêm tốn cho dù vẫn mang một dáng vẻ bí ẩn, và tìm kiếm việc làm. Tôi sẽ không nói gì đến những con ngựa riêng tư đang phi nước đại trong mỗi chúng ta, tôi không biết chúng có tồn tại hay không. Toi cũng sẽ không nói gì đến các đoàn người cưỡi ngựa, nghĩa là đến quá trình tiến hóa không ngừng của lịch sử tới một định mệnh không ai biết. Chẳng hiểu tại sao con người ta lại phải gọi cuộc hành quân không ngừng ấy của lịch sử bằng một cái tên gì khác. Thì cứ gọi nó là cuột hành quân không ngừng của lịch sử thì đã sao, còn nếu có ai vẫn chưa hài lòng thì ta thêm vào rằng cuộc hành quân ấy không bao giờ chậm lại hoặc đảo ngược chiều. Thế thì tại sao tôi không đứng dậy đi? Tại sao tôi không lấy cây bút gõ gõ vào ly rượu vang để kêu gọi mọi người chú ý, và tuyên bố rằng một bí mật sắp được tiết lộ? Tại sao? Tôi không biết. Tôi cảm thấy không an toàn. Tôi sợ phải đứng lên. Tôi sợ hai chân tôi sẽ không mang nổi tôi; sự thật là tôi vẫn chưa tin tưởng hẳn ở chúng. Loài hai chân không vững chắc như loài bốn chân. Hơn nữa, tôi say rồi. Hết lần nâng cốc này đến lần nâng cốc khác, vì người ta đang ăn mừng sinh nhật của mình, vì vợ anh ta, vì con trai anh ta, vì các bạn anh ta, vì cha mẹ và anh chị em anh ta, vì công ty xuất khẩu của anh ta, vì trang trại của anh ta, vì đội bóng đá mà anh ta ủng hộ, và rượu vang đã ngấm vào đầu tôi. Ngồi đối diện tôi, Tita đã ra hiệu cho tôi ngừng uống. Nàng đang nói chuyện với một cô gái ngồi cạnh, thực sự là một cô gái rất xinh đẹp. vẻ đẹp của cô ta thuộc loại dị thường : tóc dài màu đồng đỏ, cặp kính râm đen (tại sao đeo kính râm buổi tối?) che gần kín khuôn mặt bí hiểm. Một chiếc áo sơmi kẻ sọc kiểu đàn ông, khuy mở một nửa, phô bày những vòng đeo cổ và nét lượn của cặp vú đầy đặn thật đẹp. Tôi không biết cô ta. Tôi chỉ biết cô ta là bạn của gia đình Tânia và vừa mới ly hôn. Tôi nâng li về phía cô : chúc sức khỏe! Tita liếc nhanh cảnh cáo tôi. Nàng không ghen đâu. Nàng biết tôi say, và sợ tôi sẽ nói lung tung, kể những chuyện vô lý. Nàng thường nói trước khi giải phẫu tôi có lý hơn nhiều. Tita nghĩ cũng phải. Tốt hơn cả là im lặng. Thà viết nguệch ngoạc còn hơn. Bây giờ mọi thứ đều ổn cả. Mặc dù nét bút kỳ quặc này, mặc dù tiếng xao xác của những đôi cánh, mặc dù những cảnh trí mà tôi đang nhớ lại.     Mời các bạn đón đọc Con Nhân Mã Ở Trong Vườn của tác giả Moacyr Scliar & Trịnh Lữ (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Thời Khắc Chúng Ta Không Thể Quay Trở Lại
Tác phẩm văn học viết về tuổi trẻ chân thực và cảm động nhất đến từ tác giả của series đình đám No.6 Hơn 1 triệu bản đã được bán ra ở Nhật năm 2010 và tạo nên làn sóng thức tỉnh mạnh mẽ đến nhận thức và tư duy của hàng triệu độc giả. Người ta nói, mỗi người nếu được nuôi dưỡng, dạy dỗ trong  môi trường gia đình khác nhau, chúng khác nhau về tính cách và cách sống. Thế nhưng trường học, há chẳng phải cũng là một môi trường, một gia đình, một cái nôi nuôi dưỡng không chỉ một, mà còn nhiều cá thể đấy ư? “Thời khắc chúng ta không thể quay trở lại” là một câu chuyện trong trẻo về những đứa trẻ ở độ tuổi 13 - trong những ngày tháng đầu tiên tại ngôi trường trung học. Đó là cô bạn Mari Fujihira cả tin, tốt bụng, là Ayabe Miyuki cương trực thẳng thắn, là Karino Shingo có đôi phần trẻ con trong tính cách nhưng lại rất mạnh mẽ, là Chihiro Komaki thông minh lanh lợi. Bốn con người, 4 đường thẳng lớn lên trong 4 môi trường hình thành tính cách khác nhau nhưng rồi họ đã tìm được một điểm giao nhau qua một mùa hè gắn liền với môn lịch sử! Năm đầu trung học của họ trôi qua, là những buổi sáng cuống cuồng lên lớp cho kịp giờ, là những bài toán khó nhằn khô khan, là những trò đùa khả ố chưa kịp được nhận thức đúng đắn, là những giận hờn vu vơ, là những điều khó nói với bố mẹ… Tuổi thơ của những đứa trẻ ấy, dù có lúc ngập tràn màu hồng, đôi khi lại xen kẽ những màu xám, nhưng đều là bài học nhân văn giúp chúng tự trưởng thành, lớn lên khi lễ “Thành nhân” ngày càng đến gần. Tình bạn, tình yêu, gia đình, những nhận thức dần được nuôi dưỡng khi những con người ấy ở bên nhau, cùng nhau tìm lời giải cho những khó khăn, cùng cười nói vui đùa tận hưởng những ngày tháng vô ưu vô lo. Mỗi dòng trong cuốn sách này sẽ khiến bạn thấy như chính mình đang soi gương, chính mình là nhân vật trong truyện, giúp bạn biết trân quý những người thương bên cạnh, biết tận hưởng hoặc nuối tiếc tuổi trẻđể sống một cuộc đời bớt vô nghĩa hơn! Không chỉ là một tác phẩm làm nổi bật lên được nét văn hóa đặc sắc, tinh tế của văn hóa Nhật Bản,  tác giả còn gửi gắm trong “Thời khắc chúng ta không thể quay trở lại” những cảm nhận tinh tế về tình bạn, niềm đam mê, nhiệt huyết cũng như sự quyết tâm – những phẩm chất đáng quý của người Nhật Bản. Nếu là một tín đồ yêu mến những cuốn sách có cốt truyện nhẹ nhàng nhưng để lại ấn tượng vô cùng sâu đậm trong tiềm thức thì đừng bỏ lỡ câu chuyện thấm đượm giá trị nhân văn của văn hóa Nhật Bản này nhé! *** Atsuko Asano Sinh năm 1954 tại tỉnh Okayama. Nhận Giải thưởng Văn học thiếu nhi Noma với tác phẩm “Battery”, giải thưởng của Hiệp hội Văn học Thiếu nhi Nhật Bản với tác phẩm “Battery II”, Giải thưởng Xuất bản Văn học thiếu nhi của nhà xuất bản Shogakukan với loạt tác phẩm “Battery”. Năm 2011, bà nhận Giải thưởng Văn học lãng mạn Shimase lần thứ 18 cho tác phẩm “Tamayura”. Phạm vi sáng tác rộng, từ văn học thiếu nhi đến văn học đại chúng, tiểu thuyết lịch sử, tiểu thuyết thể thao, lôi cuốn nhiều độc giả. *** CHIẾC GƯƠNG GẤU TRÚC  MARI Bất ngờ quá. Tim mình vẫn đang đập thình thịch trong lồng ngực. Tính từ lúc nhập học cấp hai đến giờ mới chưa đầy một tháng, vậy mà đã xảy ra chuyện như thế này. Lại còn với một đứa con gái như mình nữa chứ. Mình lấy chiếc gương cầm tay ra khỏi túi ngực của áo đồng phục. Chị hai đã tặng nó cho mình làm quà mừng mình vào cấp hai. Chiếc gương nhỏ hình tròn có hình vẽ chú gấu trúc và có thể gấp làm đôi. “Con gái ấy, Mari à, lúc nào cũng phải mang theo gương bên mình. Không phải chỉ để trông cho điệu đà thôi đâu, mà còn để khi nhìn khuôn mặt mình trong gương, em có thể lên tinh thần kiểu như ‘Được, hôm nay cũng hoàn hảo, trông mình rất xinh’. Nếu tóc tai bù xù, nếp nhăn giữa hai lông mày cứ cau lại rồi trưng ra vẻ mặt u ám thì rất xấu đúng không nào? Những lúc như thế, em phải nhìn vào gương và thử cười lên thật xinh xắn đấy...” Người chị gái năm nay sẽ tròn hai mươi tuổi của mình đã nói thế rồi đưa cho mình chiếc gương gấu trúc này. Giấy gói có họa tiết hình hoa màu đỏ, đến cả ruy băng cũng màu đỏ. Chị hai đã chọn cho mình trong cửa hàng chuyên bán những món đồ mộng mơ ở Shinjuku. Mình đáp “Em cảm ơn”. Mình đã suýt khóc. Không phải mình không vui trước tình cảm của chị. Nhưng mà... Ước gì không phải gương mà là một thứ khác, bút chì kim, sổ tay hay một món trang sức nhỏ thôi cũng được, một thứ gì đó khác... Mình đã trót nghĩ thế. Mình thấy ghét chính bản thân vì suy nghĩ đó. Chắc mặt mình trông khó coi lắm. Chị mình rất đẹp. Mắt chị hai mí to tròn, gương mặt nhỏ, sống mũi cũng thẳng tắp, trông như diễn viên vậy. Chị còn thông minh nữa. Chị đang là sinh viên năm hai của một trường đại học tư thục nổi tiếng trong thành phố. Chị ấy có thể soi mình trong gương mà nói “Được, hôm nay cũng hoàn hảo, trông mình rất xinh” để lên tinh thần. Nhưng mình thì... Mình không làm được. Cả mặt lẫn mũi mình đều tròn. Da mình trắng, nhưng lại nổi đầy tàn nhang. Và hơn hết, mình ghét đôi mắt của mình. Vừa một mí, vừa nhỏ. Mỗi lần nhìn vào gương, mình lại thở dài. Sao có thể lấy tinh thần với gương mặt thế này được? Hóa ra chị mình không hiểu cảm giác đó. Nghĩ vậy, mình có chút buồn. Chiếc gương gấu trúc vẫn nằm trong túi áo ngực của mình suốt từ hôm khai giảng. Hôm nay là lần đầu tiên mình lấy nó ra. Cuối tháng Tư. Từ hoa sang lá, mùa đang chuyển mình trên từng tán cây. Mình đang trên đường từ trường về, lúc này chắc cũng hơn bốn giờ chiều rồi. Bầu trời vẫn sáng lên màu xanh rất đẹp. Tựa người vào một thân cây ven đường, mình nhìn vào gương. Cái mũi tròn, những đốm tàn nhang, đôi mắt nhỏ. Vẫn là gương mặt mình, chưa có chỗ nào thay đổi. Mà không, hình như má có đỏ hơn mọi khi. Nó hơi ửng lên màu hồng nhạt. Mình thử cười. Hai gò má ửng hồng khẽ chuyển động. “À, ừm,... Xin lỗi cậu vì đường đột quá, nhưng mà, cậu hẹn hò với tớ nhé?” Gương mặt của Karino hiện ra trong đầu mình. Mình như nghe lại được giọng nói của cậu ấy. Lúc nãy, khi chuẩn bị ra về, cậu ấy gọi mình dừng lại, rồi tỏ tình như thế ở khu tủ đựng giày. Mình đã rất bất ngờ, thực sự bất ngờ. Trong đám con trai lớp 7C, Karino hẳn là thuộc dạng được con gái quý mến. Nghe nói từ hồi tiểu học cậu ấy đã khá đào hoa rồi. ‘Cậu ta không hẳn đẹp trai, nhưng nụ cười thân thiện và thần kinh vận động rất được.’ Kurisaka ở cùng tổ với cậu ấy đã nói thế. Một Karino hoàn hảo như vậy lại đề nghị chuyện hẹn hò với mình. Như thế nghĩa là cậu ấy thích mình phải không nhỉ? Lại có chuyện như vậy sao? Khuôn mặt mình ở trong gương đang nhìn lại mình chằm chằm. Cậu thích tớ ở chỗ nào? Cậu thích điều gì ở tớ? Mình đã muốn hỏi cậu ấy. Tại sao Karino lại muốn hẹn hò với một đứa con gái hoàn toàn bình thường và nhàm chán như mình? Mình không hiểu. Mình muốn cậu ấy cho mình biết điều đó. “Fujihira ơi!” Có tiếng gọi từ đằng sau. Mình giật mình tới mức tưởng như đã nhảy dựng cả lên. Chiếc gương trượt khỏi tay mình, rơi xuống. Nó phát ra một tiếng động chói tai rồi vỡ choang trên vỉa hè. “Ối...” Hai tiếng kêu thảng thốt đồng thanh vang lên. Một là của mình, và một giọng nữa là của... “Ayabe à...” Là cô bạn cùng lớp với mình, Ayabe Miyuki. Trong lúc mình còn đang đứng thần người ra, Ayabe đã nhanh nhẹn nhặt lại những mảnh vỡ của chiếc gương cho mình. Một mùi hương dễ chịu chợt thoảng qua. Không phải nước hoa. Đó là hương thơm thoang thoảng rất dịu nhẹ. “Xin lỗi nhé, Fujihira. Tớ không cố ý làm cậu giật mình đâu...” Chiếc gương gấu trúc đã vỡ thành ba mảnh gọn gàng. Mình gói chúng lại bằng khăn giấy và bỏ vào túi áo ngực. Rồi mình bắt gặp ánh mắt Ayabe. Bạn ấy xinh thật đấy. Mái tóc ngắn suôn thẳng. Làn da rám nắng nhưng rất mịn màng. Đôi đồng tử mang màu sắc kỳ lạ, như hòa trộn giữa đen và tím. Trông bạn ấy không giống một đứa học sinh lớp bảy như mình. Bạn ấy rất xinh đẹp, xinh và rất chững chạc. Bị bạn ấy nhìn chăm chú, mình chợt cảm thấy hồi hộp. Mình đành giả bộ cúi xuống tìm kiếm những mảnh vỡ của chiếc gương. Ayabe vươn tay ra, chạm vào tóc mình. “Vừa rồi tại tớ để ý thấy cái này nên mới gọi bạn, xin lỗi nhé.” Ayabe phe phẩy một cái lá nhỏ màu xanh nhạt trước mắt mình. Là lá cây ven đường. Không biết nó vướng vào khi nào nữa. Mình đã không nhận ra. Thì ra mình mải soi gương trong khi vẫn để nguyên cái lá vướng trên tóc. Và Ayabe đã nhìn thấy cảnh đó. Xấu hổ thật. Đầu mình vẫn cúi xuống, không thể ngẩng mặt lên được. “Lá xanh vẫn đẹp hơn chứ nhỉ?” Ayabe chợt nói. Nghe như bạn ấy đang tự nói với mình. “Sao cơ?” “Thì, mọi người hay khen lá đỏ đẹp, phải không? Nhưng mà, cậu không thấy lá đỏ có vẻ gì đó hơi già cỗi sao?” Mình gật đầu. Mình không nghĩ lá đỏ có vẻ gì già cỗi, nhưng sắc đỏ của lá trước khi lìa cành có gì đó thật buồn. Mình mím môi rồi thì thầm. “Không hẳn là mình cảm thấy nó già cỗi, mà là... ừm, mình thích lá xanh hơn nên...” “Vậy thì, cái này tặng cho Fujihira.” Bạn ấy đặt chiếc lá nhỏ xíu, vẫn còn quá non để gọi là lá xanh lên tay mình. Đây là lần đầu tiên mình có một cuộc chuyện trò đúng nghĩa với Ayabe. Ayabe thường hay chống cằm rồi nhìn ra bên ngoài qua cửa sổ lớp học. Cũng có người bảo bạn ấy khó gần, còn mình thì thấy gương mặt nhìn nghiêng của bạn ấy trông như thể lúc nào cũng đang chuyên tâm suy nghĩ về một chuyện gì đó. Mình hơi tò mò, không biết bạn ấy đang nghĩ gì. Chỉ đơn giản là tò mò thôi, chứ mình không thể vô tư hỏi “Cậu đang nghĩ gì thế?” được. Dù có là bạn học cùng lớp, mình vẫn không thể thoải mái bắt chuyện khi mà mình hầu như chẳng biết gì về người ấy. Hơn nữa Ayabe lại đặc biệt khó gần... Không phải mình có ý xấu, chỉ là trong ấn tượng của mình, bạn ấy luôn đứng một mình. Mình chưa từng tưởng tượng đến chuyện bạn ấy lại đột nhiên bắt chuyện như thế này. “Cái gương vỡ rồi, để tớ đền cho cậu nhé...” Ayabe đột ngột thở ra một hơi rồi nói. Mình lắc đầu nguầy nguậy, đến nỗi chóng cả mặt. “Đền gì chứ... không cần đâu. Tớ đứng thẫn thờ soi gương là... tớ soi gương là vì, hôm nay, ừm, tớ được Karino bày tỏ tình cảm ấy...” Lưỡi mình líu cả lại. Hai má nóng bừng. “Karino sao? Ra vậy, hai cậu sẽ hẹn hò à?” “Hả? Tớ không biết... Nhưng mà, tớ cảm thấy vui vui. À, không phải là tớ thích Karino đâu... Tớ chẳng có gì nổi bật cả, vậy mà lại được tỏ tình... Nói sao đây, vì thế nên tớ thấy vui, một chút thôi...” Mình đang nói cái gì vậy? Mình đang nói gì với Ayabe - cô bạn chẳng mấy khi mình nói chuyện cùng thế này? Mình cuống lên. Ayabe nghiêng đầu. “Thế à? Riêng tớ thấy Fujihira là người khá nổi bật đấy chứ.” “Sao cơ?” “Cậu thường lặng lẽ thay nước cho bình hoa, đúng không nào? Hễ thấy rác rơi lung tung là cậu lại nhặt rồi cẩn thận bỏ vào thùng rác nữa này. Nhìn cậu như vậy, tớ thấy cậu đáng khâm phục lắm.” Mình tròn mắt nhìn Ayabe. Thay nước? Vứt rác? Hóa ra có những người quan sát cả những chuyện như thế. Gương mặt Ayabe chợt giãn ra thành một nụ cười. Bạn ấy giơ tay lên, nói “thế nhé” rồi quay lưng đi. Cứ như thế, bạn ấy lẫn vào con đường đông đúc buổi chiều tối. Nhịp tim của mình trở nên nhanh hơn. Ngày hôm nay, mình đã được hai người bạn cùng lớp là Karino và Ayabe bắt chuyện. Mình đã được tỏ tình, được nhận xét là “đáng khâm phục”. Đúng là một ngày tuyệt vời. Cảm giác hân hoan tràn ngập trong lòng mình. Chiếc gương gấu trúc đã vỡ mất rồi, nhưng tâm trạng của mình thì bừng sáng đầy hân hoan như mùa mới đang bắt đầu vậy. Về đến nhà, mình thấy mẹ đang ngồi một mình trên ghế trong nhà bếp. Mình chào mẹ “Con về rồi ạ”, nhưng mẹ không đáp lại. “Mẹ ơi?” Mình gọi một lần nữa. Mẹ nhìn mình, mắt nheo lại ngờ ngợ. Tâm trạng hân hoan khi nãy của mình chùng xuống. “Mẹ à, con là Mari đây.” “Ơ... à, Mari à. Mẹ không để ý.” “Mẹ lại thấy không khỏe sao?” Mẹ nhăn mặt, cố để cười. Mình thở dài. Mẹ đã đổ bệnh hơn nửa năm nay. Mẹ mắc nhiều chứng bệnh, gồm cả chóng mặt, bốc hỏa, tê cơ... Hình như ở bệnh viện, mẹ được chẩn đoán có triệu chứng của thời kỳ mãn kinh. Có vẻ tình trạng này xảy ra khá phổ biến với những phụ nữ tầm tuổi mẹ. “Thời gian sẽ chữa khỏi hết ấy mà. Trước mắt em cứ nghỉ ngơi đi đã.” Bố đã nói thế rồi bắt đầu đảm đương việc nhà. Chị mình cũng đang rất cố gắng. Mình cũng sẽ giúp một tay. Dù không giỏi mấy chuyện này, nhưng mọi người đều cố gắng thu xếp. Tất cả đang hợp sức với nhau để không khí trong nhà không xấu đi. Nhưng mình đã nhận ra. Gần đây, mẹ không nhận ra mình. Chỉ thỉnh thoảng thôi, nhưng mẹ không nhận ra mình. Kể cả mình có gọi mẹ, mặt mẹ cũng ngơ ngác như muốn hỏi “Ai thế?”. Ngay sau đó, mẹ sẽ mỉm cười và à lên một tiếng, “Mari đây mà”. Nhưng mỗi lần như thế, mình lại có cảm giác một cái hố sâu không đáy vừa mở ra dưới chân. Như thể sự tồn tại của mình trong mắt mẹ đang dần mờ nhạt đi, điều đó khiến mình thấy sợ. “Sang năm, Haruna cũng đón Lễ Thành nhân nhỉ, mẹ đang tính sẽ may furisode cho chị con đây.” Mẹ dò ngón tay trên trang tạp chí về kimono. Haruna, Haruna. Đó là tên của chị. Trong lòng mẹ, chị lúc nào cũng vô cùng sống động. Sẽ chẳng bao giờ có chuyện mẹ không nhìn thấy chị. Mình đưa tay lên túi áo ngực để cảm nhận sự tồn tại của chiếc gương. Mình nhớ lại lời của Karino và Ayabe. “Cậu hẹn hò với tớ nhé?” “Tớ thấy cậu đáng khâm phục lắm.” Chiếc gương đã vỡ làm ba mảnh nằm trong túi áo không hiểu sao lại khiến mình có cảm giác ấm áp như có hơi thở. Trái tim mình trở nên nhẹ nhõm. Ngước nhìn ra ngoài cửa sổ, mình bắt gặp một nhành cây đầy lá non đang đung đưa trong gió dưới bầu trời cao rộng. Mời các bạn đón đọc Thời Khắc Chúng Ta Không Thể Quay Trở Lại của tác giả Atsuko Asano & Thu Vũ (dịch).
Người Máy Có Mơ Về Cừu Điện Không?
Người Máy Có Mơ Về Cừu Điện Không?- một trong những cuốn tiểu thuyết khoa học viễn tưởng viết năm 1986 đưa lại hình dung đình đám nhất về đời sống hậu-nhân loại (post-human) của Phillip K.Dick. *** Cốt truyện diễn ra trong vòng 24 giờ, từ khi Rick phát hiện bọn người máy, tiêu diệt chúng cho đến lúc gã lạc lõng trong chính thế giới quan của mình.   Ngôn ngữ của hội họa với màu vẽ vốn là ngôn ngữ im lặng, nhưng lại có những tác phẩm ngồn ngộn âm thanh, bức tranh The Scream (tạm dịch: Tiếng thét) của Edvard Munch là một ví dụ.  Ngôn ngữ của văn chương nằm ở câu chuyện bên trong tác phẩm, nhưng có những sáng tác mà chỉ nhan đề của chúng đã đẩy người xem đến cuộc phiêu lưu suy tưởng, Người máy có mơ về cừu điện không? - tiểu thuyết của Philip K. Dick nắm giữ sự khiêu khích như vậy. Tác phẩm của Philip K. Dick đặt bối cảnh trong một tương lai gần: sau khi cuộc thế chiến bom hạt nhân kết thúc, con người phải di cư lên sao Hỏa để tránh những cơn mưa axit, trong khi một số ít ở lại Trái đất, còn động vật gần như bị tuyệt chủng.  Rick Deckard - gã thợ săn tiền thưởng đang muốn có đủ tiền để mua một con cừu thật thay cho cừu điện ở nhà - đã vướng vào vụ truy quét những con robot trốn từ sao Hỏa đến Trái đất. Cốt truyện diễn ra trong vòng 24 giờ, từ khi Rick phát hiện bọn người máy, tiêu diệt chúng cho đến lúc gã lạc lõng trong chính thế giới quan của mình. Tạo ra mớ bòng bong về nhân tính, Philip K. Dick để Rick Deckard chao đảo liên tục trước câu hỏi liệu người máy có được quyền sống hay không, một con cừu thật sẽ cứu vớt cuộc đời gã ra sao và liệu con người có thấu cảm được lũ robot dây nhợ chằng chịt? Nhịp điệu trong cuốn sách là sự đan xen kỳ lạ giữa tiết tấu chậm rãi khi nói về thú vui của con người, hay trong cách miêu tả thế giới ảm đạm, nhưng lại chuyển nhịp gấp gáp với cái chết của sáu người máy đào thoát. Điều đó tạo nên không khí kỳ ảo, siêu nhiên trong tác phẩm, nửa kéo người xem vào thế giới hư cấu, nửa khác lại quăng độc giả rất nhanh vào những chất vấn về mối quan hệ người - máy. Thế nhưng tại sao cuốn sách này lại liên quan mật thiết đến bức tranh của Edvard Munch? Tác giả đã có một trong những trang viết hay nhất về bức Tiếng thét: "...sinh vật ấy gào thét trong cô độc. Bị cách ly bởi tiếng la hét của nó".  Những bình phẩm về bức tranh của Edvard Munch cũng chính là lời ta thán của chính Philip K. Dick dành cho sự đơn độc của người máy. Trong thế giới văn chương của ông, dẫu sao con người vẫn có sự lựa chọn, có con cừu điện hoặc mua một con vật thật, tiêu diệt người máy hoặc thấu cảm với chúng. Còn người máy, chúng nằm hoàn toàn ở phía của sự bế tắc. Bức tranh của Edvard Munch và tiểu thuyết của Philip K. Dick đã tạo nên một giao điểm trong nghệ thuật, nơi sự cô độc được đẩy lên mức cao nhất bằng cả tranh vẽ lẫn câu chữ. Đó cũng chính là câu trả lời đanh thép (dù gián tiếp) của Philip K. Dick khi hỏi người máy có mơ về cừu điện không? Không. Họ mơ về những con cừu thật. Người máy có mơ về cừu điện không? (Triều Dương dịch, Nhã Nam và NXB Hội Nhà Văn) là tác phẩm quan trọng bậc nhất của nền văn học viễn tưởng.  Tiểu thuyết đã gợi cảm hứng cho bộ phim Blade Runner (1982) của đạo diễn Ridley Scott ra đời. Bản thân bộ phim cũng đã thay đổi hoàn toàn nền điện ảnh giả tưởng. Bất kỳ một phiên bản nào của Blade Runner hay chính cuốn sách cũng đều tạo nên một sức hút đặc biệt cho công chúng và tạo ra những tranh luận gay gắt về đạo đức trí tuệ nhân tạo. *** Luồng điện nhẹ vui tươi được chuông đánh thức tự động bơm lên từ thiết bị tâm trạng ở bên giường làm Rick Deckard tỉnh giấc. Bất ngờ – gã luôn bị bất ngờ khi thấy mình đã tỉnh mà không báo trước – gã nhổm khỏi giường, đứng dậy trong bộ đồ ngủ sặc sỡ, và vươn người. Lúc này, ở trên giường, Iran vợ gã đã mở cặp mắt xám rất thiếu vui tươi, chớp chớp rồi rên khẽ, đoạn nhắm mắt lại. “Em đặt cái Penfield yếu quá,” gã bảo cô. “Để anh đặt lại rồi em sẽ tỉnh táo và…” “Đừng động vào cài đặt của em.” Giọng cô gắt gỏng. “Em không muốn tỉnh.” Gã ngồi lại cạnh cô, cúi xuống cô và dịu dàng giải thích. “Nếu em đặt luồng điện đủ cao, em sẽ khoan khoái khi thấy mình đã tỉnh, toàn bộ mục đích là ở đó. Tới mức C nó sẽ vượt qua ngưỡng ngăn ý thức, như với anh.” Niềm nở, vì gã đang cảm thấy khá yêu mến thế giới – mức cài đặt của gã là D – gã vỗ lên bờ vai trần trắng nhợt của cô. “Bỏ cái tay cảnh sát thô bạo của anh ra.” “Anh đâu phải cảnh sát.” Lúc này gã cảm thấy cáu kỉnh, dù gã không quay số chọn cáu kỉnh. “Anh còn tệ hơn cả cảnh sát,” vợ gã nói, mắt vẫn nhắm nghiền. “Anh là kẻ được cảnh sát thuê để giết người.” “Trong đời anh chưa giết một con người nào cả.” Lúc này cơn tức giận của gã đã dâng cao, biến thành thù địch rõ rệt. “Chỉ giết bọn người máy đáng thương thôi.” “Thế mà tiền thưởng anh mang về, anh thấy em chưa bao giờ nghĩ ngợi trước khi ném ra mua món đồ nào theo ý thích bất chợt của em cả.” Gã đứng dậy, bước đến bảng điều khiển thiết bị tâm trạng của mình. “Thay vì tiết kiệm để nhà mình có tiền mua một con cừu thực, để thay con cừu điện giả trên kia. Một con thú điện thôi mà anh phải phấn đấu suốt mấy năm ròng để đạt được.” Ở bàn điều khiển, gã băn khoăn không biết nên quay số chọn áp chế đồi não (sẽ xóa bỏ tâm trạng giận dữ của gã) hay kích thích đồi não (sẽ khiến gã bực tức đủ để thắng cuộc cãi cọ lần này). “Nếu anh chọn,” Iran nói, mắt mở ra quan sát, “mức độc địa hơn, thì em cũng chọn y vậy. Em sẽ chọn tối đa và anh sẽ được thấy một vụ cãi nhau mà mọi cuộc cãi cọ giữa chúng ta từ trước tới nay sẽ chẳng là gì hết. Cứ thử xem nào.” Cô đứng phắt dậy, lao tới bảng điều khiển tâm trạng của mình, nhìn chằm chằm gã và đợi. Gã thở dài, đầu hàng trước lời đe dọa của cô. “Anh sẽ chọn chế độ mà anh lên lịch hôm nay.” Kiểm tra lịch ngày 3/1/1992, gã thấy lịch yêu cầu thái độ chuyên nghiệp tích cực trong công việc. “Nếu anh chọn theo lịch,” gã cẩn trọng nói, “em cũng đồng ý làm như thế chứ?” Gã đợi, khôn khéo không thi hành ngay cho tới khi vợ gã đồng ý làm theo. “Lịch của em hôm nay là sáu tiếng trầm cảm tự buộc tội.” “Sao cơ? Sao em lại lên lịch như vậy?” Thế là đi trái với toàn bộ mục đích của thiết bị tâm trạng. “Anh còn không biết là có thể cài đặt lựa chọn đó,” gã nói gầm gừ. “Một buổi chiều em đang ngồi đây, và tất nhiên là em đã bật Buster Thân thiện và những Thân hữu Thân thiện. Ông ta đang nói về một tin quan trọng sắp công bố thì cái quảng cáo kinh khủng ấy bật lên. Cái em ghét nhất, anh biết đấy, cái Khố chì Mountibank ấy. Nên em tắt tiếng chừng một phút. Và em nghe thấy tòa nhà, cái tòa nhà này. Em nghe thấy những…” Cô huơ tay. “Những căn hộ trống trải,” Rick nói. Đôi khi gã cũng nghe thấy chúng vào ban đêm khi lẽ ra phải ngủ. Nhưng, vào ngày hôm nay và ở thời đại này, một tòa chung cư với nửa số căn hộ có người ở đã được xếp hạng là mật độ dân số cao. Ở ngoài kia, nơi hồi tiền chiến là vùng ngoại ô, còn có thể bắt gặp những tòa nhà hoàn toàn trống trơn… hay là gã nghe bảo vậy. Thông tin ấy gã nghe vậy thì cứ biết vậy. Như hầu hết mọi người, gã không có ý định đi kiểm nghiệm trực tiếp. “Lúc đó, khi em tắt tiếng ti vi đi, em vừa mới quay số xong ở tâm trạng 382. Nên tuy về lý trí em vẫn nghe thấy sự trống rỗng kia, nhưng em không cảm nhận được nó. Phản ứng đầu tiên của em là mừng vì mình có tiền mua máy tâm trạng Penfield. Nhưng rồi em nhận ra như vậy không lành mạnh chút nào: hiểu được sự thiếu vắng cuộc sống, không chỉ trong tòa nhà này mà khắp mọi nơi, mà lại không có phản ứng – anh không thấy sao? Em đoán là không. Nhưng một thời đó được xem là dấu hiệu của bệnh tâm thần đấy. Họ gọi đó là ‘thiếu xúc động phù hợp’. Nên em vẫn tắt tiếng ti vi và ngồi vào máy tâm trạng thử nghiệm các mức khác nhau. Rồi cuối cùng em tìm thấy mức cài đặt cho tuyệt vọng.” Khuôn mặt lanh lợi, sẫm màu của cô lộ vẻ hài lòng, như thể cô đã đạt được điều gì đó giá trị. “Nên em đặt lịch hai lần một tháng. Em nghĩ chừng đó thời gian là hợp lý để cảm thấy vô vọng về mọi thứ, về việc ở lại Trái đất này sau khi tất cả những người khôn ngoan đã di cư, anh không nghĩ thế sao?” “Nhưng tâm trạng như vậy, em sẽ rất dễ ở lại trong tâm trạng đó, không quay chọn mức khác để thoát ra. Nỗi tuyệt vọng như vậy, tuyệt vọng với toàn bộ thực tại, sẽ chỉ càng lúc càng thêm đậm.” “Em lên chương trình tự động cài đặt lại sau ba tiếng,” vợ gã nói ngọt xớt. “Chế độ 481. Nhận ra những khả năng phong phú mở ra với em trong tương lai, hy vọng mới rằng…” “Anh biết 481,” gã cắt lời. Gã đã chọn số đó nhiều lần, gã dựa rất nhiều vào nó. “Em nghe này,” gã nói, ngồi xuống giường, cầm tay kéo cô ngồi bên cạnh gã, “dù có thiết lập ngắt tự động, thì trải qua một cơn trầm cảm vẫn là nguy hiểm dù ở bất cứ dạng nào. Hãy quên lịch của em đi, còn anh sẽ quên đi lịch của anh. Chúng ta sẽ cùng quay số 104 và trải nghiệm bên nhau, và rồi em cứ ở trong trạng thái đó, còn anh sẽ chỉnh lại về thái độ chuyên nghiệp tích cực trong công việc như thường lệ. Như vậy anh sẽ có ý muốn lên sân thượng xem cừu rồi đến văn phòng, và anh sẽ biết là em không ngồi ủ rũ ở đây không buồn xem ti vi.” Gã buông những ngón tay dài và gầy của cô, đi qua không gian rộng rãi của căn hộ vào phòng khách thoảng mùi thuốc lá đêm trước. Tại đây gã cúi xuống bật ti vi. Giọng Iran từ phòng ngủ vọng ra. “Em không chịu được ti vi khi chưa ăn sáng.” “Chọn 888 đi,” Rick nói khi ti vi đang nóng lên. “Mong muốn xem ti vi, bất kể trên đó đang chiếu gì.” “Em không muốn chọn gì lúc này cả.” “Vậy chọn số 3.” “Em không thể chọn cài đặt kích thích vỏ não để đâm ra muốn chọn được! Nếu đã không muốn chọn, thì em không muốn chọn nhất là số đó, vì sau đó em sẽ muốn chọn, mà ngay lúc này thì muốn chọn là cái ý tưởng xa vời nhất em có thể tưởng tượng ra. Em chỉ muốn ngồi trên giường này nhìn sàn nhà.” Giọng cô trở nên sắc lạnh pha lẫn nét ảm đạm khi tâm hồn cô đông lại và cô ngừng cử động, khi làn sương bản năng tỏa khắp mang sức nặng to lớn - sức ì gần như tuyệt đối - bao trùm lên cô. Gã tăng âm lượng ti vi, và giọng Buster Thân thiện ồm ồm vang đầy căn phòng. “… Hô hô, chào các bạn. Bây giờ là vài tin vắn về thời tiết. Vệ tinh Cầy Lỏn cho biết bụi phóng xạ sẽ đặc biệt dày đặc khi gần đến trưa, rồi sau đó loãng dần, nên nếu quý vị nào định phiêu lưu…” Iran xuất hiện bên cạnh gã, chiếc váy ngủ dài của cô lả lướt sau lưng, cô tắt ti vi. “Thôi được, em đầu hàng. Em sẽ quay số. Bất cứ điều gì anh muốn. Khoái cảm tình dục ngất ngây – em cảm thấy tồi tệ đến mức có thể chịu đựng được cả cái đó. Mẹ nó chứ. Có khác gì đâu?” “Anh sẽ quay cho cả hai,” Rick nói, rồi dẫn cô vào phòng ngủ. Ở đó, trên bảng điều khiển của cô, gã quay số 594: hài lòng thừa nhận trí tuệ vượt trội của người chồng trong mọi chuyện. Trên bảng điều khiển của gã, gã chọn thái độ sáng tạo và tươi mới khi bắt tay vào công việc, dù gã không thực sự cần. Đó là thái độ bẩm sinh, quen thuộc của gã, không cần sự kích thích giả tạo của máy Penfield lên não bộ. Mời các bạn đón đọc Người Máy Có Mơ Về Cừu Điện Không? của tác giả Philip K. Dick.
Người Đàn Bà Đang Yêu
“Người đàn bà đang yêu” xuất bản năm 1920. Cuốn tiểu thuyết được coi là phần tiếp theo của tác phẩm “Cầu vồng” đã ra mắt trước đó, với nội dung tiếp tục kể về câu chuyện tình của hai chị em nhà Brangwen, Gudrun, một họa sĩ theo đuổi mối tình với Gerald - một nhà tư bản. Lawrence miêu tả mối tình của của Ursula và Birkin - một kẻ thông minh đến bất thường. Tình cảm của hai cô gái càng được nhấn mạnh và khắc sâu hơn bởi sự quyến rũ mãnh liệt của hai chàng trai ấy. Thông qua mối tình và quan hệ của họ, Lawrence khắc tả về xã hội Anh trước Thế Chiến thứ hai. Như phần lớn các cuốn tiểu thuyết khác của Lawrence, vấn đề về tình dục trong Người đàn bà đang yêu đã gây ra những tranh luận và phản ứng gay gắt. Năm 1998, Người đàn bà đang yêu được xếp thứ 49 trong số 100 cuốn tiểu thuyết tiếng Anh hay nhất thế kỷ 20. *** TÁC GIẢ David Herbert Richards Lawrence (11/9/1885 - 2/3/1920) là nhà thơ, nhà văn, nhà viết kịch và nhà phê bình văn học người Anh. Các tác phẩm của ông chủ yếu phản ánh những vấn đề mất nhân tính trong xã hội hiện đại ở Anh một thời. Ở đó con người dường như luôn phải biết cách đối mặt với những cảm xúc, sự sống và bản năng của chính mình. Nhưng chính những quan điểm của Lawrence đã khiến ông có rất nhiều kẻ thù, vì thế ông phải chịu đựng sự khắc nghiệt, kiểm duyệt của chính quyền, và cả sự xuyên tạc những tác phẩm của ông trong suốt cuộc đời. Phần lớn những quan điểm sống khác biệt đó ông có được trong quãng thời gian xa quê hương mà ông gọi là "cuộc hành hương hoang dã". Gần cuối đời, ông bị coi là người chuyên viết sách báo khiêu dâm và nhiều người còn cho rằng ông đã quá lãng phí tài năng của mình. Còn E.M. Forster, một nhà văn lớn của Anh, đã miêu tả ông như "Nhà tiểu thuyết giàu tưởng tượng vĩ đại nhất trong thế hệ của chúng ta." Người đàn bà đang yêu xuất bản năm 1920. Cuốn tiểu thuyết được coi là phần tiếp theo của tác phẩm Cầu vồng đã ra mắt trước đó, với nội dung tiếp tục kể về câu chuyện tình của hai chị em nhà Brangwen, Gudrun, một họa sĩ theo đuổi mối tình với Gerald - một nhà tư bản. Lawrence miêu tả mối tình của của Ursula và Birkin - một kẻ thông minh đến bất thường. Và qua tình yêu của họ, Lawrence khắc họa lại hình ảnh xã hội Anh trước Thế Chiến thứ hai. Như phần lớn các cuốn tiểu thuyết khác của Lawrence, vấn đề tình dục trong Người đàn bà đang yêu đã gây ra những tranh luận và phản ứng gay gắt. Năm 1998, Người đàn bà đang yêu được xếp thứ 49 trong số 100 cuốn tiểu thuyết tiếng Anh hay nhất thế kỷ 20. *** CHỊ EM GÁI Buổi sáng, Ursula và Gudrun Brangwen ngồi bên khung cửa sổ ngôi nhà của bố mẹ ở Beldover, vừa làm việc vừa chuyện trò. Ursula đang tỉ mỉ khâu móc một mẫu thêu với những họa tiết màu sắc sặc sỡ, còn Gudrun đang chăm chú phác thảo một bức tranh trên giá vẽ nho nhỏ đặt trên đầu gối. Cả hai gần như chìm đắm trong im lặng, chỉ thỉnh thoảng lên tiếng trao đổi với nhau những ý nghĩ lơ đễnh tản mát trong tâm trí mỗi người. “Ursula này” Gudrun lên tiếng trước, “Thực sự chị vẫn KHÔNG MUỐN kết hôn sao?” Ursula nhẹ nhàng đặt mẫu thêu vào lòng, ngẩng đầu. Cô tỏ vẻ bình thản và thận trọng. “Chị không biết,” cô trả lời. “Còn tùy thuộc ý em là gì.” Gudrun khẽ xoay người ra sau. Ánh mắt cô chăm chăm nhìn chị gái. “Ừm,” cô tiếp tục câu chuyện bằng giọng điệu mỉa mai, “Em chỉ có ý đề cập đến duy nhất một chuyện! Nhưng dù sao đi nữa thì chị không hề có ý nghĩ, chị sẽ...” Nói đến đây nét mặt cô đột nhiên u ám “có một vị trí tốt đẹp hơn so với hiện tại sao.” Khuôn mặt Ursula bỗng chốc sa sầm. “Có thể,” cô trả lời. “Nhưng chị không chắc.” Đáp lại, Gudrun chỉ im lặng, có vẻ bực bội. Rõ ràng cô nên im lặng. “Thế chị không nghĩ mỗi người đều phải TRẢI NGHIỆM trong vấn đề hôn nhân sao?” Cô hỏi. “Thế em có nghĩ chuyện ấy là cần thiết phải giống như một sự trảinghiệm hay không?” Ursula trả lời. “Chắc chắn, trong một số trường hợp nào đấy,” Gudrun nói, vẻ thờ ơ. “Có thể sẽ mang lại đôi chút rắc rối phiền toái, nhưng ắt hẳn cũng sẽ mang lại không ít kinh nghiệm.” “Không hẳn,” Ursula đáp trả. “Giống kết thúc của sự trải nghiệmnhiều hơn.” Gudrun ngồi bất động, miên man với những ý nghĩ trong đầu. “Tất nhiên,” cô nói, “đấy chính là điều cần phải suy nghĩ thật kỹ.” Câu chuyện kết thúc ở đấy. Gudrun, đầy hờn dỗi và giận dữ, nhặt lấy cục tẩy,nghiến răng xát mạnh lên bức vẽ của mình. Ursula tiếp tục chăm chú vào đường kim trong tay. “Chị vẫn nhất định không cân nhắc đến một lời đề nghị tốt đẹp nàosao?” Gudrun tiếp tục hỏi. “Chị nghĩ mình đã từ chối một số.” Ursula thản nhiên trả lời. “THẬT SAO!” Gudrun sa sầm... “Có điều gì là thực sự quan trọng? Chị nói thật chứ?” “Một ngàn lần một năm và một người đàn ông tuyệt vời. Chị mê mẩn anh ấy đến phát điên,” Ursula trả lời. “Thật thế sao! Không phải là chị bị quyến rũ đến quên cả đường đi lối về đấy chứ?” “Về mặt lý thuyết chứ không phải thực tế.” Ursula trả lời. “Khi đến thời điểm, thậm chí không một ai bị cám dỗ... Ôi, nếu quả thật chị bị quyến rũ, chắc chắn chị đã kết hôn ngay lập tức, không một chút lưỡng lự. Chị là người duy nhất không gục ngã trước cám dỗ.” Khuôn mặt của hai chị em bỗng chốc bừng sáng, rạng rỡ. “Đấy không phải là điều ngạc nhiên thú vị sao,” Gudrun reo lên, “sức mạnh của sự cám dỗ, không hề!” Cả hai đưa mắt nhìn nhau, cười vang. Trong thâm tâm, nỗi sợ hãi đang trào dâng bóp nghẹn trái tim hai chị em. Không gian bên ô cửa sổ chìm trong tĩnh lặng, Ursula trở về với mũi kim và mẫu thêu trên tay, Gudrun tiếp tục chăm chú vào bức tranh vẽ dở của mình. Hai chị em họ là đàn bà, Ursula hai sáu tuổi, còn Gudrun hai lăm. Cả hai đều mang trong mình những quan điểm mới mẻ của các thiếu nữ hiện đại, cả hai thuộc tuýp những cô gái giống Artemis hơn là Hebe . Gudrun cực kỳ xinh đẹp, thuộc tuýp các cô gái thụ động, làn da mượt mà, hai cánh tay mềm mại đầy nữ tính. Cô mặc một chiếc váy lụa màu xanh thẫm, với những dải đăng ten tua rua màu xanh da trời và màu xanh lá cây điểm xuyết ở cổ và tay áo; đôi tất màu ngọc lục bảo xỏ duới chân. Lúc nào cũng phơi phới tự tin, hoàn toàn trái ngược với một Ursula đầy nhạy cảm và mong manh đến nao lòng. Đám người tỉnh lẻ quê mùa thô kệch trong vùng trước thần thái lúc nào cũng điềm tĩnh như không, trước thái độ kể cả ra vẻ bề trên của Gudrun, đã tỏ ra khúm núm và sợ hãi, bọn họ nói về cô như thế này: “Đấy là một cô gái rất thông minh.” Gudrun vừa từ London trở về, suốt mấy năm qua cô đã miệt mài học tập ở đấy, tại trường mỹ thuật, cô đã có những tháng ngày gắn bó với những xưởng vẽ, xưởng điêu khắc. “Giờ thì em chỉ hy vọng sẽ cùng người đàn ông của đời mình đi đến hết cuộc đời,” Gudrun nói, đột nhiên cắn chặt môi dưới, vờ nhăn mặt, nửa như mỉm cười, nửa đau đớn. Ursula cảm thấy bất an, mơ hồ sợ hãi. “Thế nên em mới quay về và chờ đợi anh ấy ở đây?” Cô cười lớn. “Ôi chị tôi,” Gudrun hét lên, the thé, “em không từ bỏ con đường mà mình đã chọn để kiếm tìm anh ấy. Nhưng giả dụ có một chàng trai khiến em mê mẩn, một chàng trai đủ sức lôi cuốn em, có ý nghĩa với cuộc đời em, ừm...” thái độ mỉa mai nhạt dần sau từng giọng nói. Đôi mắt cô nhìn Ursula, sắc sảo, như thể xuyên thấu tâm can chị gái mình. “Chị không cảm thấy tẻ nhạt sao?” Cô hỏi dồn chị gái. “Chẳng lẽ chị không nhận thấy rằng những điều ấy sẽ không thể trở thành hiện thực hay sao? KHỒNG HỀ LÀ THẬT! “Tất cả rồi sẽ tàn phai héo úa trong chồi non lộc biếc.” “Cái gì sẽ tàn phai héo úa trong chồi non lộc biếc?” Ursula hỏi. “Ôi, mọi thứ - tự mình - tất cả.” Im lặng. Cô chị mơ màng mường tượng đến số phận mình. “Đấy không phải là điều gì ghê gớm khiến ta phải sợ hãi.” Ursula nói, rồi lại rơi vào im lặng. “Thế liệu em có hy vọng sẽ đạt được điều gì đấy, chạm đến một nơi nào đấy chỉ nhờ vào hôn nhân?” “Có vẻ đấy là bước tiếp theo không thể nào tránh khỏi,” Gudrun trả lời. Ursula trầm tư, miên man về điều cô em gái vừa nói, cảm giác cay đắng chua xót chợt len lén ùa về trong cô. Cô là giáo viên, ở trường trung học Willey Green, chỉ vài năm trước. “Chị hiểu,” cô nói, “điều này có vẻ giống như khi ta suy nghĩ về mặt lý thuyết. Nhưng thực ra lại tưởng tượng về nó: tưởng tượng về bất kỳ một người đàn ông nào đấy mà ta biết, ta tưởng tượng đến hình ảnh anh ấy trở về nhà vào mỗi tối, nhoẻn miệng cất lên hai tiếng “chào em,” rồi trao cho ta một nụ hôn...” Im lặng. “Đúng thế,” giọng Gudrun từ tốn. “Chỉ là điều bất khả thi. Chính loài người chúng ta khiến nó trở thành không thể.” “Tất nhiên sẽ có cả những đứa con...” Giọng Ursula đầy hoài nghi. Khuôn mặt Gudrun chợt đanh lại. “Chị có THỰC SỰ muốn có con không, Ursula?” Giọng Gudrun lạnh băng, hờ hững. Nét mặt Ursula bỗng rạng rỡ. “Có cảm giác vượt ra ngoài khả năng của chị” cô trả lời. “Chị có thích có con không?” Gudrun vẫn không chịu dừng lại. “Em không thể suy nghĩ được điều gì hay ho mỗi khi thao thức với ý nghĩ phải chịu đựng bọn trẻ.” Gudrun nhìn Ursula bằng đôi mắt vô cảm, khuôn mặt thẫn thờ đến ngây ngô. Ursula khẽ nhíu mày. “Cũng có thể điều đấy chưa hẳn đã đúng,” cô ấp úng. “Có thể ai đấy không thực sự muốn có những đứa con của mình, tự trong sâu thẳm tâm hồn... đó chỉ là quan điểm nông cạn và hời hợt.” Khuôn mặt Gudrun đanh lại. Cô không hề muốn trở thành một kẻ quá trần trụi. “Khi một người nghĩ đến những đứa trẻ, là con của ai đấy...” Ursula tiếp tục. Ánh mắt của Gudrun lại dán vào chị mình, giận dữ. “Chính xác.” Cô chỏng lỏn, để kết thúc câu chuyện. Hai chị em tiếp tục làm việc trong im lặng, luôn là vậy, trong con người Ursula lúc nào cũng hừng hực đến lạ kỳ với ngọn lửa đang bùng cháy, bão bùng và đầy mâu thuẫn. Cô đã sống cùng một thỏa thuận khá nghiêm ngặt với chính bản thân mình, cho chính bản thân cô, làm việc, miệt mài từ ngày này sang ngày khác, không ngừng tư duy, nỗ lực hết mình để sắp xếp, kiểm soát cuộc đời mình, để thấu hiểu nó bằng chính tri thức của riêng cô. Cuộc sống năng động của cô đã rời xa, rất xa, nhưng ẩn sâu bên dưới nó, ngay trong bóng tối, có những điều đang duềnh dàng kéo đến chực chờ tuôn trào. Chỉ cần cô phá vỡ lớp vỏ bọc cuối cùng! Có vẻ cô cũng đã cố gắng và đã chìa tay ra ngoài, hệt như một bào thai còn nằm trong tử cung và rồi cô đã không thể, không làm được điều đấy. Cô đã nhìn thấu trước những viễn cảnh hết sức xa lạ, về một điềm báo cho biết những điều chưa hề xuất hiện trong đời. Cô tạm ngừng công việc thêu thùa, đưa mắt nhìn em gái. Trong mắt cô, Gudrun mới QUYẾN RŨ làm sao, cực kỳ quyến rũ, trong hình hài mềm mại và thanh tú ấy, với những đường cong duyên dáng, mong manh và dịu dàng quá đỗi. Gudrun còn là một cô gái tinh nghịch, có khướu hài hước, đôi khi hơi mỉa mai song vẫn phảng phất nét duyên ngầm. Ursula ngưỡng mộ cô em gái bằng tất cả trái tim mình. “Thế sao em lại quyết định trở về nhà, Prune?” Cô hỏi. Gudrun hiểu cô đang được ngưỡng mộ. Cô ngồi quay lưng với bản vẽ của mình, đôi mắt ẩn sâu dưới hai hàng mi cong vút nhìn chằm chằm vào chị gái. “Tại sao em lại quay về, hở Ursula?” Cô lặp lại câu hỏi của chị. “Em đã tự hỏi chính mình cả ngàn lần trước đấy.” “Và em vẫn chưa tìm được câu trả lời?” “Rồi, em nghĩ mình đã tìm thấy. Em nghĩ quyết định trở về nhà của mình chỉ đơn giản là LÙI MỘT BƯỚC ĐỂ TIẾN THÊM NHIỀU BƯỚC.” Ánh mắt cô chậm rãi nhìn Ursula, thấu hiểu. “Chị biết!” Ursula reo lên, khuôn mặt cô giãn ra, rạng rỡ, tuy nhiên vẫn giả vờ như thể cô KHÔNG hiểu. “Nhưng ta có thể tiến đến đâu?” “Ôi, không quan trọng,” Gudrun cao giọng, vẻ bề trên. “Nếu ta tiến đến ngoài rìa, ta sẽ nhảy lên cao và đáp xuống một nơi nào đấy.” “Như thế không mạo hiểm sao?” Ursula hỏi. Một nụ cười mỉa mai vụt hiện lên trên khóe miệng Gudrun. “A!” Cô cười lớn. “Chẳng nghĩa lý gì cả!” Một lần nữa, cô lại kết thúc câu chuyện. Nhưng Ursula vẫn ủ ê với những ý nghĩ trong đầu. “Làm thế nào em tìm được một tổ ấm, bây giờ em có phải quay về nơi ấy?” Cô hỏi. Gudrun im lặng, lạnh lùng trước khi cô trả lời chị. Ít phút sau, rất chân thành, cô trả lời: “Em thấy mình hoàn toàn đứng ngoài một tổ ấm.” “Thế còn bố?” Gudrun nhìn Ursula bằng đôi mắt đầy ắp oán giận, như thể cô muốn gào lên. “Em không hề nghĩ về ông ấy: Em đã cố nhịn.” Giọng cô lạnh băng. “Ừ,” Ursula dao động. Câu chuyện thực sự kết thúc. Cả hai chị em đều có chung cảm giác như đang đứng bên bờ vực thẳm, trống rỗng và kinh hoàng, như thể đang cúi đầu nhìn xuống khoảng trống hoang hoác và sâu hun hút dưới chân. Cả hai vẫn cặm cụi làm việc trong im lặng, đôi gò má của Gudrun ửng hồng bởi những cảm xúc đang dồn nén chất chồng trong lòng. Cảm giác bực bội cứ xâm chiếm trong cô. “Liệu chúng ta có nên ra ngoài đến dự đám cưới ấy không nhỉ?” Cô hỏi, giọng thản nhiên, ra vẻ tình cờ. “Tất nhiên!” Ursula reo lên, hơn cả hăm hở, vứt mẫu thêu và kim chỉ sang một bên, nhanh nhẹn vụt đứng dậy, như thể cô đang cố trốn thoát khỏi điều gì đấy và vì thế, cô đã vô tình để lộ ra ngoài cảm giác căng thẳng đang xâm chiếm trong mình, dẫn đến cảm giác bẳn gắt ghét bỏ kích thích trong từng tế bào thần kinh của Gudrun. Khi vừa bước chân lên những bậc cầu thang, Ursula đã nhìn thấy ngôi nhà của gia đình cô, nằm im lìm vây quanh chỗ cô đứng. Cảm giác ghê tởm ùa về trong cô, cả cảm giác bẩn thỉu nhớp nhúa nữa, một không gian quá quen thuộc! Cô cảm thấy sợ hãi bởi sâu thẳm trong lòng mình, những dòng cảm xúc ghét bỏ chính ngôi nhà đang cuộn lên trong cô, là hoàn cảnh, là không khí và điều kiện của một cuộc sống cũ kỹ, lỗi thời và lạc hậu. Những dòng cảm xúc khiến cô sợ hãi. Mời các bạn đón đọc Người Đàn Bà Đang Yêu của tác giả D. H. Lawrence.
Gửi Asuka Và Đứa Con Chưa Chào Đời Của Bố
Tác giả Kazukiyo (1947-1979) là một bác sĩ nội khoa 31 tuổi, đang ở vào 4 tháng cuối cùng của cuộc đời do ung thư di căn. 11/1977, bác sĩ Kazukiyo phát hiện ra khối u ở đầu gối nên đã quyết định cắt bỏ chân phải. Anh lạc quan và can trường luyện tập phục hồi chức năng tới 5/1978 để quay lại bệnh viện làm việc. Nhưng số phận nghiệt ngã, tới cuối 8/1978, Kazukiyo thấy đau ngực và phát hiện ra tế bào ung thư đã di căn lên phổi. Không đầu hàng số phận, anh bắt đầu tự thực hiện liệu pháp miễn dịch mà không nói cho ai hay kể cả vợ và cha mẹ, ngoài 4 người giúp anh thực hiện liệu pháp. Anh đã kiên trì điều trị và gắng gượng làm việc được đến 12/1978 rồi đành nghỉ việc vì kiệt sức và về quê tĩnh dưỡng. Anh đã ngoan cường chiến đấu với bệnh tật tới giây phút cuối cùng và ra đi vào 21/1/1979. Từ khoảnh khắc biết ung thư đã di căn vào phổi và tự tính được thời gian còn lại, Kazukiyo đã quyết định viết cuốn sách để tặng cho trước hết là hai con của mình, Asuka 2 tuổi và con thứ hai đang trong bụng mẹ, và thứ nữa là cho vợ, cha mẹ, bạn bè đồng nghiệp, bệnh nhân cùng những ai đang giúp họ chiến đấu với bệnh tật. *** [REVIEW] GỬI ASUKA VÀ ĐỨA CON CHƯA CHÀO ĐỜI CỦA BỐ   Cuốn sách kể lại câu chuyện có thật về quá trình chiến đấu với căn bệnh ung thư của bác sĩ nội khoa Kazukiyo Imura dành tặng cho cô con gái nhỏ Asuka, và đứa con còn chưa chào đời. Cuốn sách best-seller đã bán được một triệu năm trăm nghìn bản, được chuyển thể thành movie và phim dài tập. Sự tử tế, trái tim nhân ái và lòng trân trọng cuộc sống của vị bác sĩ đã truyền động lực, niềm tin cho những người đang sống. Một cuốn sách lay động đến trái tim của hàng triệu độc giả tại xứ sở hoa anh đào và được chuyển ngữ tại Việt Nam. Cuốn sách là những chiêm nghiệm của tác giả về cuộc sống từ ngày còn nhỏ đến khi trở thành một bác sĩ nội khoa. Từ những sai lầm thủa ấu thơ để rồi sửa chữa mà lớn lên với tấm lòng đầy bao dung và ấm áp. Trong suốt quá trình làm việc tại bệnh viện, bác sĩ Kazukiyo Imura đã gặp rất nhiều trường hợp khi con người đứng giữa sự sống và cái chết. Và anh đã nhận ra rằng mọi người lựa chọn sống hay chết, nỗ lực từng ngày hay tuyệt vọng buông xuôi đều có lý do của nó. Đừng buông những lời cay đắng khi bạn chưa biết được người khác đã phải trải qua những gì. Anh viết “ Người ta thường nói rằng những kẻ tự sát là những kẻ yếu đuối. Bố không nghĩ thế. Bố tự hỏi, liệu nỗi đau phải lớn tới mức nào mới dồn ép họ tới hành động đòi hỏi dũng khí như tự tử.”   Khi biết mình mang căn bệnh quái ác, bác sĩ Kazukiyo Imura đã chiến đấu với nó thật can trường. Sau khi cắt bỏ một chân, anh vẫn tiếp tục đến bệnh viện làm việc với cái chân giả. Dù khó khăn hơn những bác sĩ khác nhưng điều đó không cản được mong muốn chữa bệnh cho bệnh nhân trong anh. Anh hiểu rằng không ai hiểu người bệnh hơn một bác sĩ cũng đang bị căn bệnh giống họ. Với tinh thần lạc quan ấy, cuốn sách dù viết về quá trình chiến đấu với căn bệnh ung thư, có những đoạn khiến người đọc nghẹt thở vì thương cảm, xót xa nhưng lại không mang đến cảm giác u buồn, tuyệt vọng. Bởi khi đối diện với cái chết đến gần, bác sĩ Kazukiyo Imura vẫn luôn mang lòng biết ơn đối với cuộc sống, với những người đã giúp đỡ, yêu thương mình trong cuộc đời ngắn ngủi. Bên cạnh đó cũng có những phút giây vị bác sĩ dũng cảm ấy yếu lòng khi nghĩ đến việc phải rời xa gia đình thân yêu, đặc biệt là Asuka bé nhỏ và đứa con còn chưa chào đời. Những phút giây ấy cũng khiến độc giả thấy tim mình trùng xuống vì đọc những lời nghẹn ngào “Bố có thể ở cùng Asuka đến khi nào? Bố còn có thể ôm Asuka đến khi nào? Nhìn Asuka, nước mắt bố cứ trào ra”. Cũng chính tình yêu thương ấy đã là động lực to lớn để giúp tác giả hoàn thành cuốn sách để giành tặng hai đứa con bé nhỏ trong khi phải chiến đấu với những cơn đau bởi khối u di căn sang phổi. Người đàn ông 31 tuổi nhắn gửi các con rằng: “Khi lớn lên, hãy trở thành những đứa trẻ tốt bụng và có lòng vị tha. Thêm vào đó, hãy biết trân trọng mẹ các con. Để nuôi dạy các con, mẹ đã phải chịu đựng bao nhiêu là khổ cực. Và ngay cả với bố, mẹ cũng dốc hết tâm can mà hết mực dịu dàng”. Một cuốn sách không lời văn hoa sáo rỗng, vì đó là tất cả tấm lòng của người bố viết cho con mình vì sợ khi chúng lớn lên không có chút ký ức nào về người bố đã mất sớm. Đó là tình yêu đã đi cùng vợ và hai con trong suốt quãng thời gian sau này, khi không có anh ở bên... *** Lời nói đầu Chồng tôi, Imura Kazukiyo, qua đời vào ngày 21 tháng 1 năm 1979, thấm thoắt cũng đã hai mươi sáu năm. Thời gian gần đây, quyển sách này đã trở thành ấn phẩm bán chạy, thường xuyên xuất hiện trên đài NHK và còn được dựng thành phim, giúp cho rất nhiều quý vị biết đến người chồng quá cố của tôi. Chúng tôi cũng nhận được vô số lời động viên khích lệ từ khắp nơi trên cả nước. Từ đáy lòng tôi cảm thấy vô cùng biết ơn. Thực tình, tôi rất muốn hồi đáp từng vị một, nhưng việc đó là quá sức nên tôi thành thật ngỏ lời xin lỗi. Khi chồng tôi mất, con gái đầu Asuka của chúng tôi mới được hai tuổi, giờ cháu đã hai mươi tám. Còn “đứa con chưa chào đời” mà chồng tôi đã không thể gặp mặt vào ngày hạ sinh - thứ nữ Seiko cũng đã bước sang tuổi hai mươi sáu. cho tới nay, điều duy nhất tôi ngóng trông là sự trưởng thành của hai con, và may thay chúng đều khỏe mạnh, bình yên vô sự mà nên người. Cũng giống như tôi và chồng, cả hai cháu đều làm công việc liên quan tới lĩnh vực y tế. Bản thân tôi, nhờ các con gái, cũng được trau dồi thêm về khái niệm đời sống thời nay và sự đổi thay, cải thiện của môi trường chăm sóc sức khỏe. Ngoài ra, mùa xuân vừa rồi, con gái thứ hai Seiko của tôi đã nên duyên và kết hôn. Chú rể cũng là người làm trong ngành Y. Nhân cơ hội đó, nhà xuất bản Shodensha đã nói chuyện với tôi về việc tái bản sách. Ngẫm ra thì, tôi cảm thấy chưa có thời đại nào mà câu hỏi về sức nặng của sinh mệnh lại được đặt ra nhiều như bây giờ. Tôi quyết định chấp nhận lời đề nghị tái bản, bởi tôi mong muốn rằng, càng nhiều người càng tốt có thể thấu hiểu lòng biết ơn vô vàn mà người chồng quá cố của tôi đã dành cho những điều rất đỗi hiển nhiên. Tôi cũng mượn dịp này để gửi lời cảm tạ chân thành tới những người đã luôn giúp đỡ chúng tôi bấy lâu nay. Thực sự cảm ơn mọi người. Một ngày đẹp trời tháng 7 năm 2005 Imura Michiko *** Vì biết rằng mình chẳng còn sống được bao lâu nữa, nên tôi đã luôn suy nghĩ về một chuyện. Tranh thủ những ngày tháng ít ỏi còn lại, tôi muốn viết một quyển sách. Đó sẽ là bằng chứng cho thấy tôi đã sống trên đời này hơn ba mươi năm, là lời cảm ơn từ tận trong tâm dành cho những người đã vì tôi mà rơi lệ, cũng là món quà duy nhất của một người bố dành tặng hai đứa con thơ ngây cờn chưa hiểu sự đời, và là kỉ vật của lòng tôi. Bởi vậy, tôi muốn viết lời đề tặng cho quyển sách này như sau: Xin dành tặng quyển sách nhỏ này cho hai con đáng yêu của bỗ; cho vợ - người tới tận những giây phút cuối cùng vẫn hết lòng yêu thương anh; cho bố mẹ đáng kính - hai người đã đau buôn vì bệnh tật của con hơn bất kì ai; cho những người bạn tuyệt vời; cho các em, họ hàng, đồng nghiệp, người thân quen đã dùng thương yêu mà bao bọc giúp đỡ tôi; cho các bệnh nhân vẫn luôn chờ đợi tôi trở về; cho những người đang thống khổ vật lộn trên giường bệnh và cho những ai mang trái tim thiện lương đang chung nỗi đau cùng họ trên toàn thế giới. Imura Kazukiyo Mời các bạn đón đọc Gửi Asuka Và Đứa Con Chưa Chào Đời Của Bố của tác giả Kazukiyo Imura & Thùy Dương (dịch).