Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đông Lai Bác Nghị - Dương Tấn Tươi

Nếu không có tài dàn xếp của bao sự ngẫu nhiên thì đâu có quyển Đông-Lai bác nghị nầy ! Đầu tiên, một vị túc nho của chốn Thần kinh, lúc tản cư vào Sài-thành, ngẫu nhiên đến trú ngụ cạnh phòng khám bịnh của chúng tôi. Đó là việc hệ trọng : vì đối với chúng tôi, bực đại nhân ấy là một người thầy đáng kính, mặc dầu Cụ vẫn có nhã ý tự xem mình là bạn vong niên ; vì đối với quyển sách này, bực lão thành ấy mới thật là người cha tinh thần, mặc dù Cụ ấy vẫn một mực chối từ không nhìn nhận. Vả lại, vì muốn giữ vẹn cốt cách của nhà ẩn dật, Cụ yêu cầu chúng tôi đừng nêu danh Cụ vào trong sách ! Thật đáng phục thay đức tính khiêm tốn của bực nho phong, mà cũng khổ cho chúng tôi vì phải dài dòng nhắc lại tiểu sử của bổn dịch mà chỉ được phép dùng một chữ « Cụ » vỏn vẹn để kể cho tròn câu chuyện ! Thì cũng bởi vai tuồng quan trọng của vị túc nho ấy trong khi phiên dịch cho nên chúng tôi xin độc giả niệm tình tha thứ khi thấy chúng tôi lắm lời nói về thân thế của một người đương cầu xin đời đừng nhắc đến tên. Sanh trưởng trong một thế gia của chốn đế đô, cha làm Thượng thơ bộ Lễ, thì khi vào sân Trình, Cụ chiếm bằng cử nhân, việc ấy, theo chúng tôi, cũng chưa đáng kể. Đáng nể là khi rời cửa Khổng để theo tân học, chỉ trong mấy năm Cụ theo kịp các bạn đồng niên nơi lớp tú tài « Tây » ! Rồi sang Pháp để trau giồi học mới, rồi xông pha nơi bể hoạn, rồi cuối cùng nối được chức của cha, thì với sức học đó, với thông minh đó, âu cũng là một việc có thể đoán trước được. Ngày nay, đã chứng kiến bao cuộc bể dâu, Cụ chỉ còn giữ lại một ham muốn là tận hưởng chữ « nhàn » trong thời hưu trí. Muốn được thế, Cụ ẩn mình trong đám rừng người để thưởng thức một câu thơ đẹp với chén trà ngon hoặc cùng vài ba tri kỷ luận bàn về văn học. Cụ nhứt quyết chủ trương : « Lịch sử và địa dư đặt nước nhà vào giữa hai nguồn văn hóa, muốn trở nên một công dân đất Việt, chúng ta phải thâu thập cả đôi. Âu Tây giúp ta kỹ thuật, Á Đông cho ta nghệ thuật làm người ». Để chứng minh lời nói, Cụ nhắc lại một gay cấn vừa xảy ra trong trường quốc tế, rồi chỉ rõ giải pháp của người xưa khi gặp cảnh ngộ tương tợ để bắt buộc kẻ đối thoại phải nhìn nhận : « Thiếu Hán học là một sự thiệt thòi rất lớn ». Sẵn có quan niệm ấy nên Cụ nhận lời ngay khi chúng tôi ngỏ ý cầu học. Lối dạy của Cụ thật là đặc biệt. thường ngày Cụ dùng tiếng Việt để giảng bài, nhưng khi gặp áng văn quá bóng-bảy hay huyền-diệu thì Cụ dùng cả tiếng Pháp để diễn-tả tư-tưởng, mượn triết-học Đức để so-sánh, đem học-thuyết Hy-Lạp để chứng minh, cốt-yếu là giúp học trò hiểu cho thấu đáo, tận-tường. Khi gặp tư-tưởng thanh-cao hoặc áng văn bất-hủ, chúng tôi lật đật ghi rồi chép lại trong giờ nhàn rỗi để trình lên cho Cụ xem-xét. Cụ dò từng câu, đối-chiếu từng chữ để phê-bình. Nhờ Cụ tiến dẫn, chúng tôi mới « nuốt hận » chép thơ của Tư-mã Thiên, sụt sùi thảo tờ biểu xuất-sư của Gia-Cát, băn khoăn đứng trên lầu Nhạc-Dương với Trọng-Yêm, ngạo nghễ biên thơ từ-chức cùng Tạ-Phùng-Đắc. * Ngẫu-nhiên khéo sắp cho chúng tôi gặp được một bực thầy đáng kính, thì cũng nhờ ngẫu-nhiên chúng tôi lại gặp quyển sách đáng yêu. Kẻ vừa nhập đạo thường không tiếc lời ca-tụng tôn-giáo mới của mình. Chúng tôi nào có tránh được thường tình đó trong khi hầu chuyện với ông Trương-Quan, một nhân vật mà giới mại bản Huê-kiều và làng « thanh sắc » bổn xứ vẫn còn nhớ tiếng. Nghe chúng tôi ca tụng nhân tánh của nền văn-hóa Trung-Hoa, Trương-quân đột-ngột hỏi : « Như thế chắc bác-sĩ đã đọc quyển Đông-Lai bác nghị rồi ? » Chúng tôi phải thẹn thùng nhìn nhận : « Chẳng những chưa được đọc mà như phần đông người Việt-Nam, chúng tôi chưa từng nghe đến tên ! » Vì bác-sĩ khen ngợi văn học cổ Trung-Hoa, trí tôi vùng nhớ lại câu chuyện hai mươi năm về trước khi còn thơ ngây cặp sách vào trường để ăn mày chữ. Trong những giờ các bạn được nghỉ ngơi hoặc nô đùa chạy giỡn thì chúng tôi bị ông bác ngồi kèm bên cạnh ép buộc đọc một vài trang Đông-Lai bác nghị. Đó là lời phê-bình về hành vi và hạnh kiểm của các nhân vật đời Đông-Chu. Câu văn huyền diệu, lập luận chặt chẽ, tâm lý sâu sắc là ba đặc điểm của tác phẩm bất hủ đó. Nhưng đối với bộ óc non nớt của đứa trẻ lên mười thì làm sao thưởng thức nổi vẻ đẹp của câu văn hay và sự điêu-luyện của bài luận khéo ? Vậy mà, ông bác vẫn bắt buộc chúng tôi « ê » « a » đọc cho xong vì : « nơi trường, thầy dạy cháu làm văn ; nơi đây, bác dạy cháu làm người ». Lời của bác thật là chí lý ! Thời-đại Đông-Chu là khoảng đen tối nhứt của lịch-sử Trung-Hoa, vì lúc ấy, xã hội đương vươn mình thay đổi lốt, nên gây ra bao sự xáo trộn lớn lao. Bực thánh phải chung đụng với sát nhân, hiền triết phải ăn ở cùng gian tà, rồi tranh đấu chống chọi nhau nẩy sanh ra trăm ngàn việc, hay dở đều có. Tất cả hai mặt – tốt và xấu, thanh với tục – của con người đều phô bày. Nếu gặp một nhà phê-bình có cặp mắt tinh đời, có bộ óc sáng suốt, lại thông tâm lý, hiểu chánh trị, khảo sát thời kỳ ấy thì chắc chắn sẽ để lại cho đời một tác phẩm vô cùng hữu ích. Lữ Đông-Lai có đủ điều kiện ấy cho nên quyển Bác-nghị là một chiếc thuyền đã cắm sào ở ngoài dòng thời gian… Khi đọc quyển Đông-Lai, chúng ta có cảm giác đương nghe một tay thợ chuyên môn giải thích về các bộ phận trọng yếu của guồng « máy lòng » rồi chỉ cho chúng ta thấy các nguyên do thường làm cho động cơ ấy chạy. Cũng bởi « động cơ » và nguyên do ấy không thay đổi cho nên lời của Đông-Lai luận về một thời vẫn có thể giúp ích cho người trong muôn thuở. Vì lẽ đó, lúc trẻ, chúng tôi oán trách ông bác bao nhiêu, thì ngày nay, đã tránh được nhiều kinh nghiệm chua cay, chúng tôi lại cám ơn ông bác bấy nhiêu ! Đáp lời yêu cầu, ông Trương-Quan phải nhờ người về tận Thượng-hải mua giùm cho chúng tôi một bổn. Của báu cầm tay, chúng tôi đến nhờ Cụ dẫn giải giùm điều thắc mắc : « Tại sao một tác phẩm giá trị dường kia, mà từ xưa, trong xứ ta chưa từng nói đến ? » Cụ giảng : « Những sách Trung-Hoa được phiên dịch và truyền bá ở Việt-Nam phần nhiều vì ba cớ : Một là bởi có nhiều người bị bắt buộc phải đọc đến, cho nên bàn tới cũng nhiều, dịch ra không ít, đó là những sách có tên trong chương trình thi cử. Hai là các thứ sách quyến rủ người vì cốt chuyện, ấy là lịch sử tiểu thuyết tức là truyện. Còn về loại thứ ba là vận văn, vì đọc lên nghe êm tai, lại dễ nhớ, nên có nhiều người ưa thích. « Đông-Lai bác nghị không đứng vào ba hạng đó. Vì là văn phê bình nên đòi hỏi ở độc giả một trí phán đoán mà người đời ít hay dùng đến. Và là văn nghị luận nên khô khan mà bắt buộc người đọc phải suy xét mới thưởng thức. Không có vần, thiếu cốt chuyện hấp dẫn, lại không được ghi vào chương trình thi cử, như vậy ít người biết đến thì cũng là một chuyện không lạ. Nói thế không phải bảo sách ấy không có độc giả ! Ngoài số thí sinh hiếu kỳ nên tìm Đông-Lai đọc trước khi vào đình thí, phần đông, các người mê thích sách đó toàn là những kẻ đã đỗ đạt, ra làm quan, ưa dùng quyển Bác-nghị để kiểm điểm hành động trong lúc chăn dân hay khi xử thế. Rồi đến lúc chiều tà bóng xế, khi đã mỏi mệt thì trí muốn yên nghỉ hơn là dịch sách ? Vả lại đối với các bực tiền bối ấy, dịch hay viết sách là một sự ngoài tưởng tượng. Đối với họ, học là hành nghĩa là đem ra áp dụng, để làm tròn bổn phận của mình, chớ không dám học để truyền cho ai cả. » * Rồi theo lệ thường, Cụ giải thích, chúng tôi ghi chép. Cả thảy được tám mươi bốn bài. Mỗi bài là một sự ngạc nhiên. Trong văn chương Trung-Hoa, chúng ta thường bực mình vì gặp lời nhiều hơn ý. Với Lữ Đông-Lai, câu văn đẹp đẽ vẫn đi kèm với tư tưởng cao thâm. Lắm bài không đầy gang tấc mà chất chứa ý dài muôn vạn dặm. Càng suy xét, càng thấy sâu rộng. Về mặt tâm lý thực nghiệm và chánh trị thực hành, chưa chắc có quyển sách nào trong văn chương Âu-Mỹ sánh kịp Đông-Lai bác nghị. Ấy là chưa bàn đến lý luận, phần cốt yếu của sách. Mở đầu cho mỗi bài, tác giả nêu ra một tư tưởng căn-bản, nhiều khi không dính-líu với cốt chuyện đem ra phê-bình. Độc-giả còn tưởng nhà văn lạc đề, thì chỉ vài câu, đã móc dính đầu-đề với ý-niệm căn-bản. Rồi dùng câu chuyện đem phê-bình để chú-thích tư-tưởng chánh ghi trên đầu bài. Trước với sau, đầu với đuôi đều ăn khớp, các bộ-phận liên-lạc cùng nhau một cách tế-nhị làm cho độc-giả tưởng là đương nghe nhà toán-học khéo chứng-minh một định-lý của hình-học. * Rồi một hôm, mấy người bạn tình-cờ đến viếng giữa giờ giảng dạy của cụ, đó là ngẫu nhiên thứ ba. Cũng như chúng tôi, các bạn đều bị câu văn trong-sáng và lập-luận huyền-diệu của Đông Lai hấp-dẫn nên mới khuyên chúng tôi cho xuất-bản. Từ-chối là sự dĩ-nhiên, vì bổn-tâm của chúng tôi là chỉ học cho mình… Lý-luận của các bạn thật cũng chặt-chẽ : « Hiện nay, quốc-văn đương nghèo… học-sanh thiếu món ăn tinh-thần, v.v…. Trong lúc các tiểu-thuyết khiêu-dâm chường mặt trên báo và trong hàng sách thì ôm giữ cho mình một tác-phẩm có giá-trị là một việc… ích kỷ, một tội to đối với nền học-vấn ». Không phương chối-cãi, đành phải nghe theo. Từ đây mới gặp bao nỗi khó … * Trước hết, nếu cho in vỏn-vẹn tám mươi bài nghị-luận của Đông-Lai mà chẳng có những đoạn Xuân-Thu, Tả-Truyện thì làm sao độc-giả lãnh-hội được ? Vả lại, lắm khi, vì bắt-bẻ một câu hoặc một chữ của Tả-Truyện mà Đông-Lai viết thành bài « bác-nghị ». Vậy dịch Xuân-Thu và Tả-Truyện song-song theo « bác-nghị » là một sự tối-cần. Cũng là một điều quá khó. Các bạn chắc đều biết Xuân-Thu là một trong năm quyển kinh của Đức Khổng-tử. Đó là bộ sử nước Lỗ do Ngài sửa-định, chép từ đời Lỗ Ẩn-công cho đến Lỗ Ai-công gồm có 240 năm (từ 721 tới 481 trước tây lịch). Với quan-niệm hiện-tại về sử học khi chúng ta trịnh-trọng lật quyển Xuân-Thu thì sẽ vô-cùng ngạc-nhiên hay thất-vọng. Vì đó chỉ là một mớ sử liệu chép rời-rạc, dường như gặp chuyện thì ghi, không màng đến sự liên-lạc hay tương-quan. Lại có nhiều việc quan-trọng mà không chép. Khi chép thì quá vắn-tắt gần như đơn-sơ. Thí-dụ : bà Khương-thị vì thương con không đồng nên gây ra cuộc xung-đột giữa Trịnh Trang-công và em là Cung Thúc-Đoạn thì nào là quỷ-kế của anh, nào là tham-vọng của em, nào là lời bàn của bá-quan rồi đến trận đánh, với cuộc vây thành phá lũy, cho đến khi cùng đường Thúc-Đoạn chạy vào xứ Yển. Trịnh Trang-công giam mẹ, thật là bao nhiêu gây cấn mà trong Xuân-Thu chỉ có một câu : « Mùa hạ, tháng năm, Trịnh-bá thắng Đoạn tại Yển ». Có lúc còn vắn tắt hơn, như « Tề cứu Hình » hoặc « Địch đánh Vệ ». Vậy thì chân giá trị của bộ Xuân-Thu ở đâu mà vẫn được xem là quyển kinh để « định công luận, đoán án cho muôn đời » ? Tại sao chính Đức Phu-Tử cũng yêu cầu người đời « biết cho ta » hay « buộc tội cho ta » thì nên do bộ Xuân-Thu ? Như vậy, bực thánh và dư luận cổ kim đã lầm chăng ? Hoặc giả, vì quan niệm về sử học của xưa với nay quá khác nhau mới có điều chinh lịch đó ? Nếu thật thế thì tại sao một học giả của thời đại nầy, cụ Nguyễn-Văn-Tố, một người mà chưa ai dám ngờ vực về sức học uyên thâm, cũng chưa ai dám nghi đến sự thận trọng của ngòi bút, đã viết : « Muốn thưởng thức cái hay của bộ Xuân-Thu, phải nhận thấy hương nồng của triết lý, thơm ngát của luân lý, mùi vị của chánh trị ở trong kinh đó. » Làm sao những câu văn vắn-tắt sơ sài kia lại chứa được bao nhiêu mùi, hương và vị ? Chỉ vì Đức Phu-Tử khéo dùng một phương pháp kín đáo : quên TÊN và VIỆC. Sự quên hữu ý, sự cố tâm quên có nghĩa là chê bai, là khiển trách. Như trong thí dụ trên, không chép tên Trịnh Trang-công chỉ gọi Trịnh-bá là chê lỗi chẳng biết dạy em. Như Thúc-Tôn Kiểu-Như, đại phu nước Lỗ chuyên chế mạng lịnh qua rước vợ ở nước Tề thì Xuân-Thu chép : « Vợ Kiểu-Như tên Phụ-Hỉ ở Tề về. » Như vua của nước Châu, tên Thiệt, chức là công, thường gọi là Châu-công, vì sợ loạn nên bỏ xứ trốn qua Tào, sau cùng qua triều Lỗ, Xuân-Thu chỉ chép : « Thiệt đến ». Còn vua nước Kỷ, tước là bá, khi qua triều Lỗ lại dùng lễ của man di, Xuân-Thu chỉ biên : « Kỷ đến triều ». Chẳng những thiếu là chê, có khi thừa cũng là khiển trách, như thêm tên tộc của các vị vua có lỗi. Muốn chỉ trích vua Vệ dùng kế tiểu nhơn để chiếm nước Hình thì Xuân-Thu ghi : « Mùa xuân, tháng giêng, ngày bính ngọ, Vệ-hầu tên Hủy diệt Hình. » Khi muốn tỏ sự hư hèn của Tống Chiêu công thì chép : « Mùa đông, tháng mười một, người Tống giết vua tên là Chử-cữu. » Nhưng phần nhiều khi Xuân-Thu thêm tức là khen, nếu ghi cả chức tước. Muốn nêu tấm lòng trung của hai bề tôi nước Tống – công tử Ấn và Đãng Ý-Chư – Xuân-Thu chép : « Người Tống giết quan đại tư mã. Quan đại tư thành trốn qua Lỗ ». Như câu : « Mùa thu, tháng tám, ngày giáp ngọ, tên Vạn của Tống giết vua tên Tiệp và quan đại-phu Cừu Mục » là dụng-ý phạt Nam-Cung Trường-Vạn, một kẻ thí chúa, lại chê vua Tống vì tánh ham đùa-bỡn với bề tôi, phải mua lấy cái chết thảm-khốc, còn khen quan đại-phu tuy yếu-đuối mà dám cầm hốt đánh một tên võ phu, coi thường cái chết. Chỉ thêm bớt vài chữ, Đức Phu-tử đã tỏ sự khen chê, ban điều thưởng phạt. Mà khen với chê, thưởng và phạt, khi đã trưng nhiều lượt, sẽ tỏ bày một luân-lý và một đường chánh-trị. Cả hai là sản-phẩm của quan niệm về cuộc đời, về vũ-trụ tức là triết-lý. Phương-pháp kín đáo ấy chẳng những bày tỏ được mấy nguồn văn hoá mà còn gây một ảnh-hưởng, một hiệu lực phi thường : được một tiếng khen của Xuân-Thu là hưởng giọt mưa Xuân đầm-ấm, bị một câu trách là chịu ngọn nắng Thu gay gắt. Thật là kết quả mỹ-mãn, nhờ bởi tay thợ thánh khéo dùng một khí cụ thô sơ. Và cũng vì thế, sự phiên dịch Xuân-Thu chất chứa bao nhiêu nỗi khó : phải cân nhắc từng chữ, phải theo đúng nghĩa mà còn lo-sợ thừa lời. * Thiếu một chữ là chê bai, không chép một việc là trách phạt, thật là cực kỳ tinh khéo ! Nhưng chỉ khéo đối với những độc-giả thông lịch-sử Trung-Hoa thời Đông-Chu ; còn với những người khác, không thấy chép, tưởng không có chuyện, thì sự thưởng phạt sẽ vô hiệu quả. Vì vậy bộ Xuân-Thu cần có chú-giải. Chính là Tả-Truyện, một quyển sử đi song song với kinh Xuân-Thu do ngọn bút cứng rắn của Tả Khâu-Minh chép. Nơi đây, cần mở một dấu ngoặc để bàn về tên của nhà sử trứ-danh ấy. (Có nhiều học-giả – trong số ấy có thầy của chúng tôi – đọc là : Tả kỳ Minh. Vậy nên theo phần đông đọc Khâu hoặc Khưu hay theo các cụ mà đọc là Kỳ ? Sự chinh lịch nầy do tục cữ tên mà sanh ra. Số là khi có tên Khâu hay Ni (tức Khổng-Khâu, Trọng-Ni, tên của Đức Phu-Tử), hoặc Kha (tức Mạnh-Kha tên của thầy Mạnh) thì sách nho đều ghi ba chữ « nên đọc Mỗ » thành ra Khổng-Mỗ, Trọng-Mỗ và Mạnh-Mỗ. Lâu ngày – theo lời của ông Nhượng-Tống – bản in mòn đi, chữ Mỗ mất hết một nét sổ nên thành chữ Kỳ. Bọn hậu-sanh chúng tôi không phải thiếu lòng thành kính thánh hiền, nhưng thấy cần đọc cho đúng, mà chắc các đấng Phu tử, Mạnh tử, và các cụ cũng đã tha thứ khi chúng tôi đọc đến Ni và Kha. Vì vậy, từ đây nên đọc là Tả Khâu-Minh và đóng lại dấu ngoặc.) Có phải vì đứng gần cụ Khổng, một cây cổ-thọ của văn hóa Trung Hoa nên bị tàn che bóng lấp mà thân thế của Tả Khâu-Minh bị vùi mất trong biển thời gian chăng ? Chỉ còn nhớ là vị quan coi về sử của nước Lỗ noi theo ý chí của Phu tử chép lại những chuyện của kinh Xuân-Thu. Vi Khổng-tử cân nhắc ngòi bút để thưởng phạt như một vì thiên tử, nên được gọi là « Tố vương » – nhà vua không ngôi – và vì đó Tả Khâu-Minh được gọi là « Tố thần ». Nhiệm vụ của tử gia ấy là theo mỗi câu Xuân-Thu để kể chuyện. Và tất nhiên nhắc lại những đoạn không có chép trong kinh, để tỏ sự biếm nhẽ của Phu tử. Theo lối viết sử ngày xưa, mỗi bài đều có luân lý, ở đây là « lời bàn của người quân tử ». Chúng ta chớ lầm tưởng vì là quyển truyện cho nên kể lể dông dài như… bài tựa nầy. Trái lại, vừa đẽo gọt vừa cân nhắc nên câu văn trở nên gọn gàng và cứng rắn. Như tả Lỗ Trang-công đi cùng Tào Uế đánh Tề ở Trường câu : « Ngồi chung xe đến Trường-câu. Trang-công sắp ra lịnh đánh trống thúc quân. Tào Uế ngăn : « Chưa nên ! » Chờ quân Tề xong ba hồi trống. Tào Uế bảo : « Đến lúc ! » Thua to, quân Tề chạy. Trang công sắp ra lịnh đuổi theo, Tào Uế ngăn : « Chưa nên ! » Xuống, xem dấu xe của Tề, trở lên đứng trông lại. Bảo : « Đến lúc ! « mới có lịnh đuổi theo. Toàn thắng. » Như khi Khuất Hà đánh trận Bồ-tao, vì hoài nghi, hỏi Đấu Liêm : « – Sao không bói thử ? - Bói là để quyết điều nghi. Không nghi cần gì bói ! Rồi đem quân đánh thắng Viên, chiếm Bồ tao, minh hội xong, kéo về. » Câu văn có khi trở nên trục trặc, gút mắt vì bị bóp chặt hay thâu quá ngắn « Cho đánh trống. Tiến quân. Toàn thắng. Tiêu diệt hạ Nhược Ngao ». Trong nhiều đoạn, Tả-Truyện chỉ ghi lại vài cử chỉ mà cũng vẽ được một tâm lý phức tạp của nhân vật. Muốn tả lòng căm tức và chí gấp báo thù của vua Sở khi được tin Thân Vô-Uý bị Tống giết, Tả-Truyện chép : « Vua Sở hay, giũ áo đứng lên, đi chơn vào thất. Vào đến cung, giày đem tới. Ra cửa cung, gươm dưng tới. Đến chợ Bồ tiêu, xa giá đẩy tới. Mùa thu, tháng chín, Sở vây kinh thành Tống. » Dùng câu văn tuy vắn mà sâu để thuật lại những mẩu chuyện tuy đơn sơ mà đầy ý nghĩa có thể làm gương đáng theo hay nên tránh cho muôn đời, Tả-Truyện thành một áng văn tuyệt tác, chẳng những được văn nhân sùng bái mà còn được võ tướng kỉnh mộ. Chính những tay cung kiếm lại mắc phải « bịnh Tả-Truyện », là vì đi đến đâu, trong hổ trướng hay khi điều khiển ở trận tiền đều giữ cận bên mình quyển sử của Khâu-Minh. Nhìn nhận giá trị của văn Tả-Truyện là nhìn nhận sự khó dịch của bộ sử đó. Vì diễn tả một tư tưởng của người bằng tiếng của mình, việc đó còn có thể làm được. Còn chuyển dịch một câu văn hay từ tiếng nầy qua tiếng nọ thật là một chuyện quá khó. * Lẽ tất nhiên, muốn dịch hai quyển Xuân-Thu và Tả-Truyện, chúng tôi hoàn toàn nhờ nơi Cụ. Từng chữ, từng lời. Cụ kiên tâm giải thích rồi chịu khó kiểm duyệt. Khi nghe các bạn khuyên tôi xuất bản, thản nhiên, Cụ dạy : « Tùy nơi anh ! Nếu thấy có thể giúp ích được thì cứ tự tiện. Còn tôi chỉ là người của thế hệ trước. Đã qua rồi. Theo thế hệ đó, muốn đọc sách thánh hiền cần phải thông Hán học mới trọn hiểu tinh thần. Anh chớ quên : theo chúng tôi, Hán-văn là sự cần thiết, không thể không ; còn phiên dịch là sự bất đắc dĩ… Anh cũng nên nhớ giùm tánh tôi ưa thanh tịnh, ít ham đời nói đến tên… » Lời nhắc nhở ấy – đối với chúng tôi – là một mạng lịnh. Vì sự yêu cầu đó mới có lời phân trần lè nhè nầy. Chớ đâu phải vì chúng tôi. Nào có muốn phô trương thằng tôi khả ố nầy làm gì cho rườm tai độc giả ! Vì công lớn của cụ trong sự phiên dịch ; Vì sự giúp đỡ của các bạn : trước là ông Trương Quan cho sách, sau là các bạn Đỗ-Thiếu-Lăng giúp tài liệu, bạn Nguyễn-Duy-Cần cho xem vài bài Đông-Lai đã dịch từ lâu. Nhứt là anh Lê-Thọ-Xuân, cặn kẽ lúc chỉ bảo, tận tình khi sửa chữa, tỉ mỉ trong ấn loát. Một người « Anh » với nghĩa tốt đẹp của danh từ ; Vì sự lương thiện của trí óc trong khi trước tác ; Vì sự thành thật đối với mình, với đời, với nền văn học ; Chúng tôi trân trọng xin đọc giả nhận rõ điều nầy : Khi gặp những câu dịch gọn gàng, ăn khớp với nguyên văn, bạn nên nhớ đó là công, đó là tài của Cụ, thầy chúng tôi ; Khi thấy câu văn bất thành cú, khi gặp những lỗi lầm, chỗ dịch sai, bạn nên chắc chắn là vì sự dốt nát của DƯƠNG-TẤN-TƯƠI Mời các bạn đón đọc Đông Lai Bác Nghị của bác sĩ Dương Tấn Tươi.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Sức Mạnh Của Hiện Tại - Eckhart Tolle
"Sức Mạnh Của Hiện Tại" được viết một cách súc tích và thâm thuý nên nhiều khi ta chỉ cần đọc một cây hay một đoạn ngắn thì đã cảm thấy vừa đủ, vì quả thực chúng ta cần có không gian để chiêm nghiệm những điều sâu sắc mà tác giả đã đưa ra. Nhờ sử dụng ngôn ngữ đương đại nên "Sức Mạnh Của Hiện Tại" dễ dàng đi vào lòng độc giả. Cuốn sách này có năng lực rất lớn để giúp bạn chuyển hoá khổ đau và đưa bạn đến giải thoát. "Sức Mạnh Của Hiện Tại" sẽ rất hữu ích và thực dụng nếu bạn đang có những khó khăn trong đời sống cá nhân, hay đời sống vợ chồng, cuốn sách này sẽ giúp bạn vượt qua những khó khăn đó, xây dựng lại mối quan hệ ngày một tốt đẹp hơn. Thậm chí quyển sách này còn có khả năng giúp bạn thực hiện những ước mơ, hoài bão sâu kín ở trong bạn bấy nay. Và xa hơn nữa, "Sức mạnh của hiện tại" có thể giúp bạn thực hiện được mục đích tối hậu của một con người là nhận thức được bản chất chân thực của mình là gì. Sức mạnh của hiện tại - The Power of now - tác phẩm nổi tiếng thế giới, được thời báo New York Times bình chọn là cuốn sách hay và bán chạy nhất, thực sự thiết thực và hữu ích cho cuộc sống tinh thần mọi người trong thời đại mới. Chân lý mà bậc thầy về tâm linh - Eckhart Tolle, truyền tải trong tác phẩm đặc biệt này chính là phân tích được nỗi đau khổ tinh thần của con người xảy ra triền miên khi luôn chìm đắm suy nghĩ vào quá khứ và không nhận thức được giá trị và sức mạnh của Hiện tại. Khi tập trung vào hiện tại, bạn sẽ vượt lên tất cả những suy nghĩ tiêu cực, tìm được bản ngã của mình và tinh thần của bạn sẽ thanh thản hơn rất nhiều. Cuốn sách là người đồng hành giúp bạn tìm về với chính mình. Bạn sẽ bất ngờ khám phá ra những chân giá trị quý báu mà chính bạn đang có sẵn nhưng bạn đã không nhận ra. Cuốn sách là kim chỉ nam cho tất cả chúng ta tìm lại giá trị đích thực của cuộc sống và cảm nhận những giá trị tươi đẹp vốn có. *** Eckhart Tolle là một nhà tâm linh, nổi tiếng nhất với vai trò tác giả cuốn sách The Power of Now và A New Earth. Năm 2011, ông được nhà sách Watkins Books xem là người có ảnh hưởng nhất thế giới về tâm linh. Năm 2008, một bài viết của The New York Times đã gọi Tolle là "tác giả về tâm linh nổi tiếng nhất nước Mỹ". Eckhart Tolle từng nói rằng ông đã bị trầm cảm trong phần lớn cuộc đời của mình cho đến khi trải qua "một sự chuyển hóa tâm linh sâu sắc" năm ông hai mươi chín tuổi, làm thay đổi hoàn toàn những gì ông từng nghĩ về chính mình và hướng đi của đời ông. Ông đã dành vài năm sau đó để tìm hiểu và đào sâu thêm vào sự chuyển hóa này, rồi trở thành một vị thầy tâm linh. Ông đã bắt đầu viết cuốn sách đầu tiên của mình, The Power of Now, được phát hành vào năm 1997 và đã lọt vào danh sách những cuốn sách bán chạy nhất (Best Sellers) của New York Times. Năm 2003, cuốn sách đã dẫn đầu danh sách này. Tính đến năm 2009 riêng tại Bắc Mỹ, số lượng tiêu thụ của The Power of Now và A New Earth được ước tính lần lượt là 3 triệu và 5 triệu bản. Sách của ông đã được dịch ra nhiều ngôn ngữ khác trên khắp thế giới. Từ năm 1995 đến nay, ông cư ngụ tại Vancouver, Canada. Tác phẩm: The Power of Now (Sức mạnh của hiện tại, 1997) Stillness Speaks (Sức mạnh của tĩnh lặng, 2003) A New Earth (Thức tỉnh mục đích sống, 2005) Hợp Nhất Với Vũ Trụ *** Tôi chẳng được tích sự gì cho lắm trong quá khứ và cũng hiếm khi thắc mắc về điều đó; tuy nhiên tôi xin phép kể sơ lược về hoàn cảnh ra đời tập sách này.    Mãi cho đến tuổi ba mươi, tôi luôn sống trong tâm trạng hầu như không ngừng lo âu, thỉnh thoảng gặp phải những thời kỳ u uất đến mức chỉ muốn tự sát cho rảnh nợ. Nay nhắc lại tôi tưởng chừng như mình đang nói về quãng đời quá khứ xa lạ nào đó hay về cuộc đời của một ai khác vậy.    Một hôm vào năm tôi 29 tuổi, tôi thức giấc lúc nửa đêm với cảm giác cực kỳ kinh hãi. Trước kia tôi thường thức giấc với cảm giác như vậy nhiều lần, nhưng lần này cảm giác ấy mãnh liệt chưa từng có. Sự im lặng của đêm khuya, dáng vẻ lờ mờ của đồ đạc trong căn phòng tối, tiếng xe hơi rì rầm từ xa vọng lại – mọi thứ rất xa lạ, rất thù nghịch, và hoàn toàn vô nghĩa đến nỗi tôi cảm thấy ghê tởm mọi thứ. Nhưng cái làm tôi ghê tởm nhất chính là sự tồn tại của bản thân mình. Tiếp tục sống với gánh nặng khốn khổ này để làm gì? Tại sao tôi cứ phải lao vào cuộc đấu tranh không phút ngơi nghỉ này cơ chứ? Tôi cảm thấy tận đáy lòng mình sự chờ mong bị hủy diệt, để không còn phải tồn tại nữa, giờ đây còn mạnh mẽ hơn cả bản năng muốn tiếp tục sống.    Ý tưởng lặp đi lặp lại mãi trong đầu tôi là: “Tôi không thể sống với mình được nữa”. Rồi tôi chợt nảy ra một ý nghĩ thật kỳ quặc: “Tôi là một hay hai người? Nếu tôi không thể sống với chính mình, vậy thì hẳn phải có đến hai cái tôi: Tôi và cái tôi của mình, là cái tôi không thể chung sống được. Nhưng có lẽ chỉ có một cái là thật thôi”.    Sự nhận biết kỳ lạ này làm tôi sững sờ đến nỗi tâm trí đột nhiên ngừng bặt. Tôi vẫn ý thức trọn vẹn, nhưng không còn suy nghĩ nữa. Rồi tôi thấy mình như bị cuốn hút vào một cơn lốc xoáy trùng trùng năng lượng. Thoạt đầu cơn lốc ấy chuyển động rồi gia tốc dần lên. Tôi cảm thấy cực kỳ khiếp hãi, cơ thể tôi bắt đầu run lên cầm cập. Tôi nghe thấy tiếng nói: “Chống cự vô ích”, như thể phát ra từ bên trong lồng ngực mình. Tôi thấy mình bị hút vào một khoảng không trống rỗng, như thể khoảng trống ấy ở bên trong chứ chẳng phải bên ngoài người tôi. Thình lình không còn nỗi sợ hãi nào nữa, rồi tôi để mình rơi tọt vào khoảng không trống rỗng ấy. Sau đó tôi chẳng còn nhớ gì nữa.    Tôi bị đánh thức dậy bởi tiếng chim hót líu lo bên ngoài cửa sổ. Trước đây tôi chưa bao giờ được nghe một âm điệu du dương đến thế. Cùng lúc ấy, mặc dù mắt vẫn còn nhắm mà tôi lại thấy hình ảnh một viên kim cương quý giá. Phải, nếu viên kim cương có thể phát ra tiếng thì âm điệu phải như thế. Tôi mở mắt. Tia nắng ban mai xuyên qua tấm màn. Chẳng có ý nghĩa nào trong đầu, tôi cảm thấy vô vàn ánh sáng tràn ngập hơn hẳn bình thường. Ánh sáng êm dịu xuyên qua tấm màn kia chính là tình yêu. Nước mắt tôi trào ra. Tôi đứng dậy đi tới đi lui quanh căn phòng. Tôi nhận ra căn phòng quen thuộc, nhưng đồng thời tôi biết rằng mình chưa thực sự thấy như vậy trước kia. Mọi thứ đều tươi tắn, tinh khôi, như thể vừa mới bước vào hiện hữu. Tôi nhặt vài thứ lên, một cây bút chì, một chai nước uống, kinh ngạc trước vẻ mỹ miều và sinh động của chúng.    Ngày hôm đó tôi đi quanh thành phố với cảm giác vô cùng kinh ngạc trước sự diệu kỳ của cuộc sống trên trái đất, như thể tôi vừa mới được sinh ra trên cõi đời này vậy.    Trong những tháng kế tiếp, tôi sống trong trạng thái thanh bình và hạnh phúc sâu sắc, không hề gián đoạn. Sau đó nó giảm thiểu cường độ dần dần, hoặc có vẻ như vậy bởi vì trạng thái đó đã trở thành tự nhiên. Tôi vẫn có thể sinh hoạt trong cuộc sống bình thường, dù tôi nhận ra rằng những gì mình đã từng làm chẳng thêm được gì vào cái tôi vốn đã sẵn có.    Dĩ nhiên, tôi biết điều gì đó có ý nghĩa thật sâu đậm đã xảy ra cho mình, nhưng lúc ấy tôi không hiểu được nó. Mãi vài năm sau đó, nhờ đọc nhiều tác phẩm bàn về tâm linh và tiếp xúc với nhiều vị đạo sư tôi mới biết mọi người đang tìm kiếm các biến cố đã xảy ra cho tôi. Tôi hiểu rằng áp lực thống khổ kinh khủng đêm hôm đó đã buộc ý thức của tôi xóa tan ảo tưởng đồng hóa tâm trí vào Cái Tôi khốn khổ và đầy sợ hãi. Sự giải trừ đó toàn triệt đến nỗi Cái Tôi giả tạo khốn khổ này tức thì sụp đổ, giống như nắp van vọt ra khỏi món đồ chơi căng đầy hơi. Cái còn sót lại khi ấy chính là bản tính chân thật của tôi, là bản thể hiện tiền vĩnh hằng của tôi: tức là ý thức trong trạng thái thuần khiết trước khi đồng hóa với hình tướng bên ngoài. Về sau tôi cũng học được cách tiến vào lãnh địa phi thời gian và vĩnh cửu nội tại, mà khởi thủy tôi thấy giống như một khoảng không trống rỗng và vẫn hoàn toàn ý thức mọi việc. Tôi lưu trú trong trạng thái hạnh phúc và kỳ diệu không thể tả được, nó còn sung mãn hơn cả kinh nghiệm ban sơ mà tôi vừa kể trên nữa. Có dạo tôi không còn điều kiện mưu sinh nào cả, lại chẳng có quan hệ thân thuộc gì, không việc làm, không nhà cửa, không giấy tờ tùy thân. Tôi trải qua gần hai năm ngồi trên ghế đá công viên trong trạng thái hân hoan mãnh liệt nhất.    Nhưng kinh nghiệm dù có đẹp đẽ thế mấy đi nữa cũng đến rồi đi. Có lẽ điều quan trọng hơn bất cứ kinh nghiệm nào khác là dòng chảy thanh bình chẳng bao giờ rời khỏi tôi kể từ lúc đó. Có lúc nó rất mãnh liệt, hầu như sờ thấy được, và người khác cũng có thể cảm nhận được. Có lúc nó chìm khuất bên dưới, giống như một giai điệu xa xôi.    Sau này, đôi khi có người đến gặp tôi nói rằng: “Tôi muốn có được thứ đã xảy đến cho ông, liệu ông có thể tặng lại cho tôi, hay chỉ bảo cho tôi cách tìm thấy nó không?”. Và tôi đáp: “Bạn vốn đã sẵn có rồi. Bạn không cảm nhận được chỉ vì tâm trí bạn quá huyên náo đó thôi”. Câu trả lời ấy sau này được triển khai thành tập sách bạn đang cầm trong tay đây.   Mời các bạn đón đọc Sức Mạnh Của Hiện Tại của tác giả Eckhart Tolle.
Cảm Xúc Là Kẻ Thù Số 1 Của Thành Công - Lê Thẩm Dương
Tuyển tập TS Lê Thẩm Dương: Cảm xúc là kẻ thù số 1 của thành công do báo Sinh Viên Việt Nam – Hoa Học Trò và Trung tâm tiếng Anh Langmaster phối hợp xuất bản sẽ được phát hành vào ngày 15/9/2016 trên toàn quốc. Tuyển tập TS Lê Thẩm Dương: Cảm xúc là kẻ thù số 1 của thành công là cuốn sách đầu tiên trong tủ sách hướng nghiệp do báo Sinh Viên Việt Nam – Hoa Học Trò và Trung tâm tiếng Anh Langmaster thành lập. Cuốn sách gồm những bài nói chuyện và bài viết nổi tiếng của TS Lê Thẩm Dương có tác động lớn đến giới trẻ trong thời gian vừa qua liên quan đến việc hướng nghiệp, chọn nghề nghiệp, học tập, nghiên cứu, lao động, chọn vợ/chồng, thái độ sống tích cực... Sách được chia thành 4 phần: Thất nghiệp là tín hiệu tuyệt vời; Cái gì không mua được bằng tiền?; Chọn vợ/chồng theo hàm số hay biến số?; Những bài học cuộc sống TS Lê Thẩm Dương khuyên đọc. Tuyển tập TS Lê Thẩm Dương: Cảm xúc là kẻ thù số 1 của thành công còn có 16 postcard tuyệt đẹp minh hoạ cho những câu nói nổi tiếng của TS Lê Thẩm Dương. Đặc biệt, Tuyển tập TS Lê Thẩm Dương: Cảm xúc là kẻ thù số 1 của thành công có sự tương tác rất cao với bạn đọc: Tên cuốn sách, tên các phần của cuốn sách, bố cục của cuốn sách, bìa sách… được lựa chọn sau khi đã tham khảo ý kiến của đông đảo bạn đọc trên mạng xã hội. TS Lê Thẩm Dương giảng dạy tại Học viện Ngân hàng Hà Nội từ năm 1982, sau đó chuyển vào Đại học Ngân hàng TP.HCM. Hiện ông đang là Trưởng khoa Quản trị Kinh doanh, ĐH Ngân hàng TP.HCM. Ông cũng là giảng viên chính chương trình cấp chứng chỉ hành nghề của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước, giảng viên thỉnh giảng của nhiều tập đoàn, trường Đại học, chương trình đào tạo. Ông là khách mời thường xuyên của nhiều diễn đàn cấp quốc gia và khu vực, nhiều chương trình truyền hình uy tín…TS Lê Thẩm Dương nổi tiếng trên mạng với những bài giảng “gây bão”. Nhà báo Nguyễn Tuấn Anh,Thư ký Toà soạn báo Sinh Viên Việt Nam, Trưởng ban biên soạn cuốn sách cho biết: "Nhiều người hâm mộ TS Lê Thẩm Dương và cũng có không ít người không thích ông. Nhưng có một điều chắc chắn là TS Lê Thẩm Dương được đông đảo học sinh, sinh viên yêu thích đặc biệt trên mạng. Ông có kiến thức rất rộng và biết cách làm đơn giản, gần gũi những vấn đề tưởng như rất phức tạp. Nhiều vấn đề của đời sống thường nhật như chọn người yêu, vợ/chồng, nghề nghiệp... lại được ông giải thích dưới góc độ toán học, kinh tế học hết sức thuyết phục. Qua các cuộc trò truyện trực tiếp cùng ông, chúng tôi còn nhận thấy ông là người rất tâm huyết với giới trẻ, muốn truyền cho họ phương pháp tư duy, học tập và đặc biệt là cảm hứng sống, hướng họ đến với các giá trị chân, thiện mỹ, đặc biệt trong thời điểm Việt Nam đang hội nhập rất nhanh với khu vực và thế giới". *** Sau khi cuốn Cảm xúc là kẻ thù số một của thành công của TS Lê Thẩm Dương trở thành hiện tượng xuất bản trong năm 2016-2017 với lượng phát hành lớn, theo yêu cầu của đông đảo bạn đọc, báo Sinh Viên Việt Nam – Hoa Học Trò và Langmaster tiếp tục phối hợp xuất bản cuốn sách đặc biệt Tiến sĩ Lê Thẩm Dương – Người truyền cảm hứng. Dự kiến cuốn sách sẽ được phát hành vào đúng ngày sinh nhật của TS Lê Thẩm Dương là 1/6/2018. Tiến sĩ Lê Thẩm Dương – Người truyền cảm hứng do nhà báo Nguyễn Tuấn Anh – Thư ký toà soạn báo Sinh Viên Việt Nam, Trưởng ban biên soạn các cuốn sách của TS Lê Thẩm Dương: Cảm xúc là kẻ thù số một của thành công; Hồi ký Tiến sĩ Lê Thẩm Dương thực hiện. Nhà báo Nguyễn Tuấn Anh đã thực hiện phỏng vấn TS Lê Thẩm Dương trong gần 3 năm làm việc trực tiếp với ông. Tiến sĩ Lê Thẩm Dương – Người truyền cảm hứng gồm 3 phần chính: Phần một, nhà báo Nguyễn Tuấn Anh trả lời 10 câu hỏi mà bạn đọc nào cũng tò mò về TS Lê Thẩm Dương, ví dụ TS Lê Thẩm Dương có phải là thầy giáo giàu nhất Việt Nam? Tại sao bài giảng của TS Lê Thẩm Dương hấp dẫn? Đệ tử số một của TS Lê Thẩm Dương là ai? TS Lê Thẩm Dương đào tạo đệ tử như thế nào? Tại sao TS Lê Thẩm Dương lại xuất bản sách? Người hâm mộ TS Lê Thẩm Dương là những ai?... Phần hai là các cuộc trò chuyện truyền cảm hứng giữa nhà báo Nguyễn Tuấn Anh và TS Lê Thẩm Dương về nhiều chủ đề trong cuộc sống, từ hướng nghiệp đến khởi nghiệp, từ học tập đến làm giàu, từ bạn bè đến gia đình, từ tình yêu đến giới tính, tình dục, từ đọc sách đến bóng đá... Phần ba của cuốn sách là những bài viết xuất sắc trong cuộc thi viết TS Lê Thẩm Dương – Người truyền cảm hứng do báo Sinh Viên Việt Nam – Hoa Học Trò và Langmaster thực hiện trong tháng 4-5/2018. Bài dự thi là những câu chuyện có thật mà các tác giả đã lấy cảm hứng từ các bài giảng của TS Lê Thẩm Dương để thay đổi bản thân. Đặc biệt, một phần nội dung của cuốn sách Hồi ký Tiến sĩ Lê Thẩm Dương được trích đăng trong cuốn sách này. Tiến sĩ Lê Thẩm Dương – Người truyền cảm hứng được trình bày ấn tượng gồm bìa cứng, bìa áo và các trang ruột màu. Sách có lời chúc kèm chữ ký tươi của TS Lê Thẩm Dương và được ấn hành giới hạn. Ban biên soạn dự kiến chỉ phát hành 500 cuốn tại các đơn vị phân phối sách uy tín. Lý giải về mối quan hệ giữa các cuốn sách về TS Lê Thẩm Dương do báo Sinh Viên Việt Nam – Hoa Học Trò và Langmaster phát hành, nhà báo Nguyễn Tuấn Anh cho biết: “Tiến sĩ Lê Thẩm Dương – Người truyền cảm hứng cùng với Cảm xúc là kẻ thù số một của thành công và Hồi ký Tiến sĩ Lê Thẩm Dương là một bộ ba cuốn sách không thể tách rời thuộc tủ sách Hướng nghiệp của báo Sinh Viên Việt Nam – Hoa Học Trò. Nếu cuốn thứ nhất là tập hợp và tổ chức lại các bài giảng thú vị nhất của TS Lê Thẩm Dương thì cuốn thứ hai là một cái nhìn đa chiều từ bên ngoài về TS Lê Thẩm Dương. Cuốn sách thứ ba sẽ giải đáp tất cả những câu hỏi mà bạn đọc còn thắc mắc về TS Lê Thẩm Dương sau khi đọc hai cuốn đầu tiên”. Tiến sĩ Lê Thẩm Dương – Người truyền cảm hứng có sự tương tác rất cao với bạn đọc: Tên cuốn sách, tên các phần của cuốn sách, hình thức của cuốn sách được lựa chọn sau khi đã tham khảo ý kiến của bạn đọc trên mạng xã hội. TS Lê Thẩm Dương giảng dạy tại Học viện Ngân hàng Hà Nội từ năm 1982, sau đó chuyển vào Đại học Ngân hàng TP.HCM. Hiện ông đang là Trưởng khoa Tài chính, trường ĐH Ngân hàng TP.HCM. Ông cũng là giảng viên chính chương trình cấp chứng chỉ hành nghề của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước, giảng viên thỉnh giảng của nhiều tập đoàn, trường Đại học, chương trình đào tạo. Ông là khách mời thường xuyên của nhiều diễn đàn cấp quốc gia và khu vực, nhiều chương trình truyền hình uy tín… TS Lê Thẩm Dương nổi tiếng trên mạng với những bài giảng “gây bão”. Mời các bạn đón đọc Cảm Xúc Là Kẻ Thù Số 1 Của Thành Công của tác giả Lê Thẩm Dương.
Bí Quyết Đối Mặt Với Căng Thẳng Của Người Thành Công - Sharon Melnick, Ph.D
T iến sĩ Sharon Melnick là nhà tâm lý học kinh doanh có niềm đam mê giảng dạy về các công cụ đối phó với căng thẳng nhằm giúp các nhà lãnh đạo và chủ doanh nghiệp thoát khỏi tình trạng căng thẳng và có được kết quả như ý trong bối cảnh thay đổi không ngừng. Các công cụ thay đổi hành vi của cô là kết quả của 10 năm nghiên cứu tại Trường Y Harvard, được kiểm chứng bởi hơn 6.000 người tham gia đào tạo, và được áp dụng bởi hàng trăm khách hàng thành công. Với tư cách là giám đốc điều hành của Horizon Point Inc, cô đã huấn luyện thành công những giám đốc điều hành cao cấp và các chuyên gia bán hàng tại các công ty như Deutsche Bank, Tập đoàn Oracle, Freddie Mac, Pitney Bow- es và Deloitte, cũng như các doanh nghiệp độc lập và chủ sở hữu của các công ty nhỏ. Chương trình đào tạo của cô về khả năng phục hồi, khả năng ảnh hưởng, và khả năng lãnh đạo được các nhà lãnh đạo tiềm năng, các nhà lãnh đạo nữ, và các nhà lãnh đạo đa văn hóa tại các công ty ở Hoa Kỳ và ở nước ngoài như GE, Procter & Gamble, Bloomb- erg, Pfizer, Merck và Coldwell Banker tìm kiếm. Những bài thuyết trình của cô được xếp hạng cao nhất và cô được mời trình bày nhiều lần tại các tổ chức như Hiệp hội quản lý Hoa Kì, Hiệp hội quốc gia Nữ giám đốc điều hành, Working Mother Media, Tổ chức của phụ nữ trong ngành truyền hình và viễn thông, Tổ chức về nữ chủ tịch, Diễn đàn Rainmak- ers, và Hiệp hội của nữ doanh nhân trong lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ. Bạn đọc có thể tìm hiểu thêm các chương trình trực tuyến của cô và các ứng dụng điện thoại di động qua website: www.sharonmelnick.com *** Khi bạn đang trong trạng thái tốt nhất, bạn cảm thấy hài lòng vì đã hoàn thành một dự án hoặc chốt được hợp đồng. Bạn đang được người khác tôn trọng. Bạn cũng được trả công xứng đáng cho những giá trị mà bạn tạo ra cho cuộc sống của mọi người. Bạn cảm thấy mình lập được thành tích, giống như bạn vừa tiến được một bước dài vậy. Vào cuối ngày, bạn dành sự nhiệt tình còn sót lại cho những con người và những hoạt động bạn quan tâm nhất, thậm chí chỉ để nghỉ ngơi hay thư giãn. Tuy nhiên, không ít người trong chúng ta đang hàng ngày phải đối mặt với quá nhiều việc phải làm, quá nhiều trở ngại cản trở sự tiến bộ, và phải đối phó với những người cũng chịu sức ép căng thẳng. Chào mừng bạn đến “Trạng thái bình thường mới”, nơi mà tất cả những căng thẳng diễn ra hàng ngày có thể dìm bạn xuống và khiến bạn khó đứng được dậy, chứ đừng nói đến thành công. Bạn có nhiều quyền kiểm soát hơn bạn nghĩ. Trong cuốn sách này, bạn sẽ tìm hiểu hàng trăm chiến lược giúp bạn đạt được thành công nhanh chóng, ngay cả phải khi đối mặt với những áp lực phổ biến nhất, chẳng hạn như mâu thuẫn cá nhân và có quá nhiều công việc nhưng bạn không đủ thời gian để làm. Những kỹ năng đa dạng này sẽ giúp bạn kiên cường hơn và giúp bạn nắm nhiều quyền kiểm soát hơn mỗi ngày. Bạn sẽ có nhiều thời gian hơn để suy nghĩ, trong khi bạn chỉ cần làm việc ít hơn mà lại kiếm được nhiều hơn. Là nhà tâm lý học kinh doanh, người đã đào tạo và huấn luyện hơn 6.000 người, tôi đã nhìn thấy một số người tràn đầy năng lượng vượt qua căng thẳng và tự tin biến áp lực thành thành công, trong khi những người khác chỉ đơn thuần là sống sót. Có một loại kỹ năng rõ ràng phân biệt hai nhóm người này. Bạn đã có trong tay một kho tàng các công cụ để có thể sử dụng bất kì lúc nào bạn muốn, nhưng bạn có thể không biết làm thế nào để tiếp cận và sử dụng những công cụ này. Một khi bạn tìm hiểu những bí mật để thành công khi phải đối mặt với áp lực, bạn sẽ thấy bản thân ngày càng được người khác kính trọng và nể phục hơn. Trên thực tế, 71% giám đốc điều hành cấp cao trên toàn thế giới cho biết rằng khả năng phục hồi để biến trở ngại thành cơ hội là “rất” quan trọng trong việc xác định giữ ai ở lại. Chủ doanh nghiệp nếu có cách tiếp cận chiến lược cho các hoạt động hàng ngày thì công việc kinh doanh sẽ tăng trưởng nhanh chóng. Tôi viết cuốn sách “Bí quyết đối mặt với căng thẳng của người thành công” để giúp bạn trở nên nổi bật trong tổ chức và là người đi đầu trong lĩnh vực của mình, mà không hề mất đi chất lượng cuộc sống. Những thách thức hay kết quả kinh doanh sẽ không còn là nỗi ám ảnh hàng ngày của bạn. Bạn sẽ biết cách đối phó với căng thẳng, nhưng hơn thế nữa, bạn sẽ biết làm thế nào để biến trở ngại thành cơ hội để bạn có thể loại bỏ những tác nhân gây nên căng thẳng. Bạn sẽ có thể chịu được khối lượng công việc và loại bỏ những suy nghĩ phức tạp không cần thiết để tập trung vào những ý tưởng mới sẽ giúp bạn nổi bật so với những người còn lại. Bạn sẽ biết cách để thúc đẩy và thuyết phục người khác làm theo đề xuất của bạn (và thôi không lãng phí năng lượng vào việc nổi nóng). Bạn sẽ có can đảm để lên tiếng trong cuộc họp và theo đuổi các khách hàng có vẻ ở tầm cao hơn bạn. Bất cứ khi nào bạn cảm thấy khó khăn hay trở ngại, bạn sẽ có các công cụ để vượt qua và làm cho nó đi theo ý bạn muốn. “Bí quyết đối mặt với căng thẳng của người thành công” vượt xa kiến thức thông thường như ăn đúng bữa, ngủ đủ giấc, và nếu bạn vẫn vô cùng bận rộn thì “hít một hơi thật sâu và đi bộ vòng quanh khu phố”. Nhiều người nhận thấy những phương pháp đó hữu ích, nhưng không đủ trong bối cảnh mà những yêu cầu của cuộc sống hiện đại đang gây ảnh hưởng xấu đến thành tích và chất lượng cuộc sống của họ. Cuốn sách này sẽ cho bạn biết cách để tiếp cận bất kỳ tình huống khó khăn thông qua: ✓ Thay đổi cách nhìn nhận của bạn. Một cách nhìn mới giúp tìm ra giải pháp mới. ✓ Thay đổi sinh lý. Học cách tập trung khi bạn đang quá tải, lấy lại năng lượng khi bạn đang kiệt sức, và giữ bình tĩnh khi bạn lo lắng hoặc thất vọng. ✓ Thay đổi vấn đề. Giải quyết căng thẳng từ gốc rễ và bạn sẽ không phải đối mặt với nó một lần nữa! Kể từ lần đầu tiên bạn sử dụng bất kỳ một trong những công cụ nào trong cuốn sách này, bạn sẽ thấy giảm căng thẳng và hiệu quả ngay tức thì. Và khi bạn sử dụng các công cụ từ cả ba phương thức tiếp cận này, bạn sẽ có thể xoay chuyển bất kỳ tình huống khó khăn nào. Đặc biệt, do tôi biết bạn đang bận rộn như thế nào, nên hầu như mỗi công cụ trong cuốn sách này đều có thể được học và thực hiện trong ba phút hoặc ít hơn. Nhưng những gì bạn nhận được chắc chắn sẽ không phải là nhỏ. ✓ Kiểm soát tốt hơn trong cuộc sống. Bạn sẽ chuyển từ việc “chạy vòng quanh” sang có thể suy nghĩ rõ ràng và hoàn thành kết quả theo dự kiến. Bạn sẽ kiểm soát tốt hơn lịch trình làm việc của mình. Bạn sẽ làm tiêu tan những căng thẳng do nỗi sợ rằng bạn không làm được một việc quan trọng hay bỏ lỡ cơ hội với khách hàng. Bạn sẽ đạt được điều này bằng cách sử dụng tài năng của mình. Bạn sẽ bỏ đi những thứ khiến bản thân bị hao tổn thời gian và năng lượng, bạn sẽ có thể nói “không” với các nhiệm vụ và công việc không hướng đến “đích” của bạn. ✓ Năng lượng và nhiệt tình ổn định còn lại cuối ngày. Trong cuốn sách này, bạn sẽ tìm thấy những công cụ cho phép bạn được “Bật” và “Tắt” theo ý thích. Có nghĩa là bạn có thể tập trung khi cần, nhưng cũng có thể thư giãn khi muốn, nhờ đó bạn sẽ cảm thấy trẻ ra, yêu đời và ngủ ngon hơn. Bạn sẽ đạt được sự cân bằng giữa công việc tốt và cuộc sống thỏa mãn, giảm đi những áp lực mà tự bạn tạo ra để làm hài lòng tất cả mọi người. Nếu bạn chuẩn bị tự phê phán mình, nếu bạn nghĩ rằng bạn không giỏi được như các đồng nghiệp, hoặc nếu bạn cho rằng mình đang bị xúc phạm, bạn sẽ học cách làm thế nào để lại có cách nhìn và năng lượng tích cực. Nếu bạn sợ phát biểu trong một cuộc họp hoặc không muốn nhấc điện thoại để gọi cho một khách hàng tiềm năng nhưng có thể sẽ không muốn nghe bạn nói, bạn sẽ có sự tự tin để “tiến lên”. Nếu bạn phải đối mặt với một người làm tình trạng của bạn tồi tệ hơn, bạn sẽ biết làm thế nào để bình tĩnh và hướng đến một cách giải quyết thỏa đáng. Bạn sẽ biết làm thế nào để tách biệt cảm xúc và ngăn chặn những phản ứng sẽ làm bạn kiệt quệ. ✓ Tìm kiếm cơ hội từ những khó khăn. Bạn sẽ biết làm thế nào để giải quyết vấn đề và xóa bỏ căng thăng bằng cách tự mình điều chỉnh trong các trường hợp chẳng hạn như khi các thứ tự ưu tiên thay đổi hoặc khi một người nào đó không đáp ứng yêu cầu của bạn. Bạn sẽ học được cách tư duy và các kỹ năng hữu ích trong khoảng thời gian có nhiều thay đổi liên tục. Bạn sẽ biết cách “chịu đựng, thậm chí tận hưởng việc điều chỉnh trong sự nghiệp của mình”. Ngay sau đó, bạn sẽ nhìn thấy các xu hướng khác xuất hiện và bạn sẽ thoát khỏi tình huống này trong khi bạn vẫn đang dẫn đầu. Hoặc, nếu bạn cảm thấy “mắc kẹt” trong tình huống của mình, chỉ nhìn thấy trở ngại – sản xuất chậm trễ, không có cơ hội thăng tiến, không có khả năng đạt được các mục tiêu tài chính – bạn sẽ học cách để xoay chuyển tình huống và tạo ra thành công từ chính những trở ngại đó. Cuốn sách này dành cho những người: • Làm việc trong một môi trường quá tải, nơi bạn phải tạo ra ảnh hưởng đến mọi người để làm việc. • Sở hữu công việc kinh doanh của riêng mình, nơi bạn phải “đóng nhiều vai trò”. • Đang tìm cách giảm bớt căng thẳng tài chính cho bản thân và bạn đang cảm thấy mình phải cố gắng làm quá nhiều việc. • Giải quyết vấn đề về sự thiếu tự tin nhằm giúp bạn “làm theo cách của mình” hoặc giúp bạn xử lý trong các mối quan hệ (đặc biệt là với những người gây khó khăn). Sau đây là kế hoạch nhằm mang đến cho bạn những công cụ để đạt được thành công khi đối mặt với căng thẳng. Mời các bạn đón đọc Bí Quyết Đối Mặt Với Căng Thẳng Của Người Thành Công của tác giả Sharon Melnick, Ph.D.
Khoảng Cách Từ Nói Đến Làm
Tại sao lại có quá nhiều khoảng cách giữa những điều mà các công ty biết là họ nên làm với những việc họ thực sự làm? Tại sao lại có quá nhiều các công ty không thể áp dụng những kinh nghiệm và kiến thức mà họ đã phải rất nỗ lực mới tích lũy được? Khoảng cách từ nói đến làm (The Knowing-Doing Gap) là cuốn sách đầu tiên đối mặt với thách thức biến kiến thức về cách nâng cao hiệu suất hoạt động thành hành động thực sự tạo ra những kết quả có thể định lượng được. Trong cuốn sách này, Jeffrey Pfeffer và Robert Sutton, những tác giả và giảng viên nổi tiếng, đã xác định nguyên nhân của khoảng cách từ-biết-tới-làm và đưa ra cách lấp đầy khoảng cách đó. Thông điệp trong cuốn sách rất rõ ràng - các công ty muốn biến kiến thức thành hành động phải tránh xa "bẫy nói suông"(smart talk trap). Những kế hoạch, phân tích, cuộc họp, buổi trình bày của nhà điều hành để truyền cảm hứng cho công việc không thể thay thế cho hành động. Những công ty mà hành động dựa trên kiến thức sẽ loại bỏ được nỗi sợ hãi, sự cạnh tranh nội bộ, biết được cái gì quan trọng và củng cố vai trò người lãnh đạo, người vốn hiểu rõ công việc của từng nhân viên trong công ty. Các tác giả lấy ví dụ từ hàng tá công ty để chỉ ra tại sao một số có thể vượt qua khoảng cách từ-biết-đến-làm, một số dù cố nhưng không thể và một số khác tránh được ngay từ đầu. Khoảng cách từ nói đến làm chắc chắn là cuốn sách hữu ích đối với những giám đốc điều hành ở mọi nơi trên thế giới hàng ngày đang phải đấu tranh để giúp công ty của họ vừa biết lại vừa làm được những gì họ biết. Đây là một cẩm nang thực tế, hữu ích trong vấn đề nâng cao hiệu quả hoạt động trong doanh nghiệp ngày nay. TÁC GIẢ : Jeffrey Pfeffer là một nhà lý luận kinh doanh người Mỹ. Ông là giáo sư chuyên về Hành vi tổ chức tại Trường Cao học Kinh doanh thuộc Đại học Stanford, và được coi là một trong những nhà tư tưởng có ảnh hưởng sâu rộng nhất hiện nay. Robert I. Sutton là giáo sư Khoa học và Kỹ thuật Quản lý tại Đại học Stanford. Sutton đã viết 5 quyển sách trong đó có "The No A** hole Rule: Building a Civilized Workplace and Surviving One That Isn't" nằm trong danh sách bán chạy nhất của New York Times và đã giành giải Quill Award dành cho sách kinh doanh hay nhất năm 2007. *** Biết phải làm gì thôi chưa đủ Tại sao chúng ta đổ bao công sức vào giáo dục và đào tạo, tư vấn quản lý, nghiên cứu kinh doanh, rồi sách vở, bài viết, nhưng lại có quá ít thay đổi trong hành động thực tế của các nhà quản lý và tổ chức? Năm 1996 có hơn 1.700 cuốn sách kinh doanh được xuất bản ở Hoa Kỳ, và con số này ngày càng tăng. Rất nhiều trong số đó chứa đầy những phân tích và công thức giống nhau, chỉ khác về ngôn ngữ và hình ảnh, và đặc biệt, chẳng có gì khác những cuốn sách được xuất bản trước đó. Trên thực tế, vô số ý tưởng tự xưng là mới ra năm nay đều đã xuất hiện trong những cuốn sách được in từ hàng thập kỷ trước. Dù thế, các cuốn sách mới này vẫn được thị trường đón nhận vì những ý tưởng đó vẫn chưa được thực hiện dù được coi là hữu dụng và được nhiều người biết đến. Vì vậy, các tác giả vẫn tiếp tục cố gắng, một phần bằng cách thay đổi mẫu mã kiểu dáng và cập nhật thông tin, để làm thế nào đó khiến các nhà quản lý không chỉ biết, mà còn áp dụng những gì họ nắm được. Và các nhà quản lý tiếp tục mua những cuốn sách đầy rẫy những điều họ đã biết bởi họ hiểu rằng chỉ biết thôi chưa đủ. Họ hy vọng rằng việc mua và đọc thêm một cuốn sách, biết đâu đấy, sẽ chuyển hóa kiến thức đó thành hành động tổ chức. Mỗi năm, các tổ chức đổ hơn 60 tỷ đô-la vào đào tạo, đặc biệt là đào tạo quản lý. Phần nhiều trong các hoạt động đào tạo đó, với những chủ đề như Quản lý Chất lượng Toàn diện (Total Quality Management − TQM), dịch vụ khách hàng, xây dựng lòng trung thành của khách hàng, khả năng lãnh đạo và thay đổi cơ cấu, đều dựa trên những kiến thức và nguyên tắc về cơ bản là vĩnh cửu: không thay đổi và không được thay đổi. Dù vậy, quá trình đào tạo thường lặp đi lặp lại. Nhưng dù chất lượng nội dung, cách truyền đạt, hay tần suất lặp lại đến đâu đi nữa, đào tạo quản lý vẫn không thể thay đổi các thực tiễn tổ chức. Giáo sư Mark Zbaracki của Đại học Chicago đã nghiên cứu quá trình đào tạo Quản lý Chất lượng Toàn diện tại 5 tổ chức có đội ngũ cán bộ cấp cao tin rằng phương pháp TQM có thể nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ của họ, cũng như là quá trình đào tạo đó đã thay đổi cách con người làm việc. Thế nhưng Zbaracki thấy rằng các phương pháp định lượng TQM không hề được sử dụng trong 4 tổ chức và chỉ được dùng một cách hạn chế ở tổ chức thứ 5. Kết quả này không phải chỉ xảy ra ở TQM, mà chúng tôi đã thấy chuyện tương tự xảy ra liên tục trong quá trình nghiên cứu. Mỗi năm, các tổ chức đang cần lời khuyên tiêu tốn hàng tỷ đô-la vào các dịch vụ tư vấn quản lý – ước tính là 43 tỷ đô-la vào năm 1996. Nhưng lời khuyên hiếm khi được áp dụng. Một nhà cố vấn, khi thuyết trình thuyết phục một ngân hàng lớn của Mỹ giao việc cho mình, đã bật một slide chứa các khuyến nghị từ 4 nghiên cứu được thực hiện 6 năm trước cho ngân hàng này. Cả 4 bộ nghiên cứu đều đi đến cùng một kết luận, điều này không có gì ngạc nhiên vì đều do những con người rất thông minh tuy từ bốn hãng khác nhau nhưng được cung cấp các thông tin về cơ bản là giống nhau thực hiện. Người thuyết trình, người đang bán việc áp dụng và thay đổi hơn là bán dịch vụ phân tích, đã hỏi những nhà điều hành ngồi đó, “Tại sao các vị lại muốn trả tiền để nhận vẫn câu trả lời đó lần thứ năm?” Hãng của ông đã nhận được hợp đồng. Một ví dụ nữa về việc biết-nhưng-không-làm trong thế giới cố vấn quản lý: hai nhà cố vấn của một hãng hàng đầu làm việc cho một công ty điện lớn ở Mỹ Latinh đang đối mặt với quá trình bãi bỏ các quy định. Họ đều rất chán nản khi biết rằng ban quản lý đã có một tài liệu dày 500 trang, từ 4 năm trước, với các kế hoạch và khuyến nghị chi tiết, do một hãng cố vấn khác làm trong hợp đồng trước. Họ báo cáo lại: Tài liệu đã có rất tốt. Nó cung cấp các nghiên cứu đánh giá chi phí tiêu chuẩn từ các công ty dân dụng hiệu quả nhất trên thế giới, các tóm tắt về các hệ thống đào tạo thành công nhất ở các công ty công nghiệp khác, và các lịch trình thực hiện khá chi tiết... Do phân tích của chúng ta cũng dựa trên chính... các thông tin được đưa cho các nhà cố vấn từ bốn năm trước... các khuyến nghị của chúng ta về cơ bản là y hệt. Vấn đề không phải là phân tích, mà là thực hiện. Mặc dù chúng ta có thể xác định được các vùng mới cần cải thiện, nhưng cốt lõi gần như giống hệt tài liệu cũ... Khách hàng đã có từ trước các thông tin chúng ta đang đưa cho họ. Mỗi năm, hàng trăm trường kinh doanh ở Hoa Kỳ đào tạo ra hơn 80.000 thạc sĩ quản trị kinh doanh và thực hiện rất nhiều nghiên cứu về các chủ đề kinh doanh. Nghiên cứu và giáo dục kinh doanh đang tăng lên cả về phạm vi và tầm quan trọng trên khắp thế giới. Dù thế, việc chuyển hóa quá trình nghiên cứu và đào tạo quản lý này thành thực tiễn hoạt động diễn ra rất chậm chạp và thất thường. Có rất ít bằng chứng cho thấy mối liên kết giữa việc nhân sự được đào tạo chuyên sâu về kinh doanh với việc tổ chức hoạt động hiệu quả. Rất nhiều hãng hoạt động tối ưu – như Southwest Airlines, Wal-Mart, The Men’s Wearhouse, ServiceMaster, PSS/World Medical, SAS Institute, AES, Whole Foods Market, và Starbucks – không tuyển người từ những trường kinh doanh hàng đầu và không đặt nặng về vấn đề bằng cấp trong hoạt động nhân sự của họ. Nhiều nhà nghiên cứu đã thấy rằng “những điều được dạy trong trường đại học hay trường kinh doanh không thực sự chuẩn bị cho các nhà quản lý tương lai những kiến thức thực tế về quản lý.” Một báo cáo cho thấy 73% các thạc sĩ vừa tốt nghiệp chương trình MBA khi được hỏi đã nói là “các kỹ năng MBA của họ được dùng rất ít hoặc không dùng gì trong công việc quản lý đầu tiên của họ.” Bạn đã bao giờ tự hỏi tại sao bao nhiêu nỗ lực đổ vào giáo dục và đào tạo, tư vấn quản lý, các nghiên cứu tổ chức và rất nhiều bài viết, sách báo, nhưng lại có quá ít thay đổi trong thực tiễn quản lý như vậy? Bạn đã bao giờ tự hỏi tại sao chút ít thay đổi trong quản lý thực sự xảy ra đó lại gặp quá nhiều khó khăn thế không? Tại sao mà cuối các khóa đào tạo hoặc các cuốn sách, nhiều nhà lãnh đạo nói là đã “sáng ra” và “khôn lên” nhưng vẫn không thay đổi được gì trong tổ chức của họ? Chúng tôi cũng đã tự hỏi điều đó và đã lên đường thực hiện nhiệm vụ thám hiểm một trong những bí ẩn lớn nhất về quản lý tổ chức: Tại sao kiến thức về những việc cần làm thường xuyên không thể dẫn tới hành động hoặc hành vi nhất quán với kiến thức đó? Chúng tôi gọi đây là vấn đề từ-biết-đến-làm (knowing-doing problem): Thách thức đến từ việc biến kiến thức nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức thành hành động nhất quán với kiến thức đó. Cuốn sách này đại diện cho những gì chúng tôi học được về các nhân tố tạo nên khoảng cách từ-biết-đến-làm, lý do và cách thức một số tổ chức có thể áp dụng kiến thức của họ thành công hơn số còn lại. Chúng tôi đã mất 4 năm để học hỏi về những điều tạo ra khoảng cách từ-biết-đến-làm và cách thu hẹp khoảng cách đó, cũng như một số cách giúp các tổ chức né tránh được khoảng cách đó ngay từ đầu. Bắt đầu bằng việc lùng sục các văn bản học thuật cũng như đại chúng để tìm kiếm các câu chuyện, các tình huống cụ thể, các nghiên cứu diện rộng của nhiều hãng có thể cung cấp cách nhìn thấu đáo về vấn đề từ-biết-đến-làm. Đã có các bằng chứng cho thấy mọi ngành công nghiệp đều có các tổ chức gặp phải “căn bệnh” này. Nhưng hiếm có câu trả lời thỏa đáng nào về nguyên nhân hay cách chữa nó. Vì thế chúng tôi thực hiện hàng tá các nghiên cứu định tính và định lượng về các vấn đề từ-biết-đến-làm trong các tổ chức, từ các hãng dịch vụ tài chính, thiết kế sản phẩm, tới các tập đoàn sản xuất truyền thống chuyên “cắt gọt kim loại”, các công ty khai thác mỏ, công ty sản xuất điện, và các chuỗi nhà hàng và bán lẻ. Chúng tôi cũng đã dạy ở Đại học Stanford, trong cả trường kinh doanh và kĩ thuật, nơi các sinh viên quản trị của chúng tôi thực hiện khoảng 100 bài tập tình huống của riêng họ về các vấn đề từ-biết-đến-làm và các vấn đề này có thể đã và sẽ được giải quyết thế nào. Chúng tôi đã kiểm tra diện rộng một loạt các phương cách tổ chức để tìm hiểu về khoảng cách từ-biết-đến-làm. Tuy nhiên, chúng tôi tập trung hơn vào một bộ những phương thức, dù hiếm được thực hiện, nhưng hầu hết các nhà quản lý đều biết đến, được tuyên truyền rộng rãi trong các tổ chức, và đã cho thấy có khả năng tăng cường hiệu suất tổ chức một cách nhất quán: chúng được gọi là phương thức quản lý hiệu suất cao hay cam kết cao độ. Các phương thức này đã được mô tả và ảnh hưởng tích cực của chúng đến hiệu suất hoạt động đã được phân tích trong rất nhiều bài viết và sách vở. Chúng ta sẽ dùng đến bằng chứng này nếu cần để hỗ trợ luận cứ về khoảng cách từ-biết-đến-làm, nhưng sẽ không đưa ra các mô tả chi tiết về từng phương thức hoặc một đánh giá chuyên sâu về bằng chứng cho thấy hiệu quả tích cực của nó đối với hiệu suất hoạt động. Mối quan tâm của chúng ta nằm ở việc nắm rõ được những rào cản của quá trình chuyển hóa kiến thức thành hành động và cách thức một số hãng đã vượt qua các rào cản đó. Các vấn đề từ-biết-đến-làm mà chúng ta đã quan sát được có tính chất phổ thông và hiện hữu trong nhiều chủ đề, từ ứng dụng các kiến thức tiếp thị và các phương thức tốt nhất trong dịch vụ khách hàng tới việc bảo lưu và thực hiện các phương thức sản xuất ưu việt. Chúng tôi đã không tìm thấy được những câu trả lời đơn giản cho thế lưỡng nan từ-biết-đến-làm này. Dựa trên tầm quan trọng của vấn đề từ-biết-đến-làm, nếu những câu trả lời đơn giản có tồn tại, thì hẳn là chúng đã được thực thi rộng rãi. Và những hãng hiếm hoi có thể chuyển hóa kiến thức thành hành động một cách nhất quán cũng không thể tận dụng được lợi thế cạnh tranh đáng kể đó như hiện nay. Chúng tôi sẽ cung cấp cho bạn những nhận thức và chẩn đoán về một số nguồn sinh ra các vấn đề từ-biết-đến-làm, và những ví dụ về các công ty phải chịu hậu quả nặng nề từ vấn đề này, những công ty chưa từng gặp cũng như một số công ty đã có thể khắc phục lỗ hổng từ-biết-đến-làm. Nhưng một trong những nhận thức quan trọng nhất từ nghiên cứu của chúng tôi đó là kiến thức thực sự được vận dụng nhiều khi được rút ra sau khi thực hành thay vì đọc, lắng nghe hay suy ngẫm. Những điều chúng tôi có thể làm được cho bạn trong cuốn sách này rất giới hạn, dù cho chúng tôi đã thu được nhiều nhận thức sâu sắc. Chúng tôi khuyên các bạn nên thực hiện những hành động có suy xét thận trọng thường xuyên hơn. Hãy hạn chế thời gian dự tính và phàn nàn về các vấn đề của tổ chức. Hành động sẽ giúp bạn rút ra nhiều kinh nghiệm hơn. Khi mô tả lỗ hổng từ-biết-đến-làm cho những người khác, chúng tôi thường nhận được chung một lời đáp. Họ sẽ nói rằng lỗ hổng đó bắt nguồn từ những vấn đề cố hữu của cá nhân, do thiếu kiến thức, kỹ năng hoặc có vấn đề về “tính cách”, và sự tồn tại của nó phản ánh sự không hoàn hảo của một cá nhân. Thật sai lầm! Nếu bạn làm việc ở một nơi mà bạn hoặc các đồng nghiệp của mình không biến kiến thức thành hành động, đó có thể không phải hoàn toàn là lỗi của bạn. Rõ ràng, một số người có thể biến kiến thức thành hành động nhanh hơn, số khác có tư duy nhanh nhạy hơn và có khả năng thích nghi tốt hơn người khác, và rằng tâm lý cá nhân đóng một vai trò nào đó trong vấn đề khoảng cách từ-biết-đến-làm mà chúng tôi đang phân tích. Nhưng nghiên cứu của chúng tôi cho thấy rằng chúng không đóng vai trò chính yếu trong câu chuyện. Có những tổ chức có thể chuyển kiến thức thành hành động một cách nhất quán và vẫn làm được vậy dù họ có mở rộng quy mô, tuyển dụng thêm nhân sự hay thâu tóm thêm các công ty khác hay không. Các tổ chức khác, dù sở hữu những nhân viên thông minh, chăm chỉ, nhanh nhạy nhưng lại không thể chuyển hóa kiến thức về hoạt động tổ chức thành hành động thực tiễn. Cứ như là đã tồn tại một “máy hút não” trong những tổ chức đó chuyên hút kiệt trí tuệ và tầm nhìn của các thành viên. Sự khác biệt giữa các tổ chức phần nhiều xuất phát từ hệ thống quản lý và các phương châm hoạt động của họ thay vì sự khác biệt về chất lượng con người. Các công ty lớn thu được hiệu quả đáng kinh ngạc nhờ những người bình thường. Những công ty không-quá-lớn thu hút các nhân tài và đánh mất lợi thế đến từ tài năng, nhận thức và động lực của họ. Đó là lý do chúng tôi tập trung vào các phương thức quản lý có thể tạo ra hoặc giảm thiểu khoảng cách từ-biết-đến-làm. Thực hiện hay lờ đi: Khoảng cách từ-biết-đến-làm có thực sự tồn tại? Làm sao chúng ta biết kiến thức không phải lúc nào cũng được áp dụng vào thực tiễn và đây là vấn đề ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động của tổ chức? Và quan trọng hơn, làm thế nào các tổ chức nắm được mức độ mà tại đó họ đã không làm những điều nên làm? Đây là những vấn đề quan trọng nhưng không quá phức tạp. Bằng chứng về khoảng cách từ-biết-đến-làm Có rất nhiều các nghiên cứu bên trong những ngành công nghiệp riêng lẻ cho thấy các đường hướng ưu việt giúp quản lý con người và tổ chức công việc của họ. Dù những đường hướng được cho là ưu việt đó được biết đến tương đối rộng rãi, nhưng việc lan tỏa chúng diễn ra chậm chạp và không trơn tru, còn chuyện thụt lùi là phổ biến. Một nghiên cứu về ngành dệt may đã cho thấy rằng quy trình sản xuất mô-đun (modular production) tập trung vào sản xuất theo nhóm đạt được hiệu quả sản xuất kinh tế cao hơn xét theo nhiều tiêu chí so với hình thức sản xuất trọn gói (bundle) truyền thống sử dụng nhân công làm từng sản phẩm và đào tạo giới hạn. Các ấn bản thương mại, hiệp hội ngành và các công đoàn có liên quan đã lên tiếng ủng hộ quy trình sản xuất mô-đun từ đầu thập niên 1980. Ấy vậy mà đến năm 1992, khoảng 80% các sản phẩm dệt may vẫn được làm theo hình thức trọn gói, và các nhà máy đã từng áp dụng quy trình sản xuất mô-đun cũng quay về với hệ thống trọn gói. Mời bạn đón đọc Khoảng Cách Từ Nói Đến Làm của tác giả Jeffrey Pfeffer & Robert I. Sutton.