Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tiểu Thuyết Anna Karenina (Tiếng Việt)

Anna Karenina là một tiểu thuyết của nhà văn Nga, Lev Nikolayevich Tolstoy, được đăng tải nhiều kỳ trên tờ báo Người đưa tin từ năm 1873 đến năm 1877 trước khi xuất bản thành ấn phẩm hoàn chỉnh.   Lev Tolxtoi (1828 - 1910) là một trong những nhà văn cổ điển lớn nhất nước Nga, đã viết nhiều tác phẩm nổi tiếng:   - Truyện kể về Xevaxtopol,   - Luyxerno, Bốn năm sau khi viết xong Chiến tranh và Hòa bình, ngày 19-3- 1873, L. Tolstoi lại hạ bút viết dòng đầu tiên của cuốn tiểu thuyết dài Anna Carenina. Cũng như nhiều nhà văn hồi đó, Tolstoi chịu ảnh hưởng của Puskin. Ông nói: "Tôi học tập được nhiều ở Puskin, ông là người cha của tôi, ta nên học tập ông". Đây không phải là ảnh hưởng bề ngoài về cách viết, giọng văn; cũng không phải là vay mượn, bắt chước cốt truyện này nọ. Những tác phẩm Puskin đã khơi dậy tất cả sức lực sáng tác sẵn có của Tolstoi, thôi thúc ông làm việc và gợi nhiều ý sáng tác tốt, mới. *** Anna Karenina - Nàng thơ với vẻ đẹp u buồn của Lev Tolstoy Nếu bài thơ Tôi Yêu Em của thi hào Nga Pushkin được khởi nguồn từ mối tình không thành với con gái viện sĩ viện Hàn lâm Nga thì cuốn Anna Karenina của Lev Tolstoy được lấy ý tưởng từ con gái của Pushkin. Đó là cô Maria Pushkina. Trong lần đầu gặp gỡ Pushkina tại bữa ăn tối, Lev Tolstoy đã bắt đầu lưu ý tưởng viết cuốn sách ấy. Cũng có thể nói con gái nhà thơ Pushkin chính là nguyên mẫu của hình tượng nàng thơ Anna Karenina trong cuốn tiểu thuyết của tên. Kể từ ngày đầu phát hành vào năm 1877, cuốn sách Anna Karenina đã gây được tiếng vang trong giới phê bình văn học Nga. Cuộc sống khắc họa một bóng dáng nàng thơ u buồn Anna Karenina. Cô sống trong vòng dây xiềng xích, trói buộc tự do trong xã hội Nga những năm bất ổn chính trị với tư tưởng phong kiến già cỗi. Anna Karenina vốn rất yêu tiểu thuyết, cô đọc nhiều cuốn sách và cảm thấy như đó là cách để cô sống những cuộc đời khác. Những cuộc đời tự do, tự chủ và hạnh phúc hơn. Những thứ mà cô chưa từng biết đến, chưa từng nếm trải. Mọi chuyện bắt đầu từ lòng ham mê quyền thế và tiền bạc của bà cô của Anna. Bà đã đem Anna gả cho Karenin, một người có danh vọng và quyền lực, một người mà Anna không có tình yêu. Cuộc hôn nhân ấy đem đến cho gia đình Anna những lợi ích lớn. Anh trai của cô trở thành Chánh án dù có thành tích học tập không tốt. Tất cả là nhờ quyền lực của Karenin. Và cuộc hôn nhân ấy cũng chấm dứt tất cả cuộc đời tự do, hạnh phúc của Anna Karenina. Cuốn sách một nghìn trang: một xã hội Nga đương thời thu nhỏ Ngài Karenin, chồng của Anna là một người có danh vọng và địa vị trong chính trường. Vì thế ông luôn quan tâm cách xã hội thượng lưu nghĩ gì về mình hơn là tự yêu thương và nhìn nhận bản thân. Người ta vẫn hay nói một câu rất hay: "Sống ở đời đau khổ nhất là nhìn người khác mà sống và sống để người khác nhìn.". Có lẽ Karenin chính là loại người như vậy. Ngài luôn làm theo những gì giới thượng lưu trông đợi, khiến mọi người phải ngưỡng mộ. Đó là thứ sĩ diện hão vốn phổ biến và bao trùm lên nước Nga trong những năm đầy biến động. Mọi thứ trong cuộc đời ngài Karenin đều vận hành như kế hoạch bản thân vẽ ra. Kể cả việc lấy vợ, kết hôn cùng Anna Karenina cũng là vì muốn giới thượng lưu nhìn thấy, mọi người ngưỡng mộ. Karenin lấy Anna vì cho rằng mình phải làm như vậy. Vì Anna là một người phụ nữ học thức, có khả năng quán xuyến gia đình, xã giao với giới thượng lưu, chứ không phải vì yêu và hoàn toàn không có tình yêu. Hôn nhân chỉ là một thứ làm đầy đủ, trang hoàng cho những thứ mà ngài Karenin có. Là thứ làm đẹp dòng họ Karenin trong xã hội Nga đương thời. Nhiều người vẫn nghĩ rằng Anna Karenina khi lấy ngài Karenin, đặt chân vào giới thượng lưu sẽ có cuộc sống hạnh phúc. Nhưng cuộc đời của người thiếu phụ trẻ ấy trong tám năm hôn nhân lại là những cuộc móc nối quan hệ thượng lưu theo ý của chồng. Ngài Karenin luôn muốn Anna phải làm quen với những phu nhân, tiểu thư của tầng lớp quý tộc giúp ngài. Khi ấy ngài sẽ dễ dàng trong con đường sự nghiệp hơn. Anna Karenina không thích tiệc tùng, cô chưa từng muốn đặt chân đến những nơi ấy. Cô yêu tiểu thuyết, yêu nghệ thuật, yêu những thứ gọi là cái đẹp, gọi là tự do. Nhưng cô lại sống suốt tám năm trong cái cuộc sống, trong cái xiềng xích khóa chặt tự do mà chính người cô ruột của mình đã đặt lên cổ mình. Chỉ vì tiền, người cô ruột đã đem Anna gả cho ngài Karenin. Và chỉ vì tiền mà bà cô ấy đã đốt tự do, hạnh phúc đời đứa cháu ruột Anna của mình cháy thành tro tàn. Chuyến xe lửa tình cờ Anna sẽ sống trong sự sắp đặt đến hết cuộc đời mình mãi cho đến khi cô đi chuyến xe lửa tình cờ ấy, gặp con người định mệnh đó. Đó là chàng sĩ quan Vronsky. Đại úy Vronsky là con người tự do, quyết đoán và can đảm. Anh từng nói: "Tôi sinh ra là người Digan và sẽ chết như người Digan.". Digan vốn là một tộc người yêu tự do, thích lang thang và phóng khoáng. Sĩ quan Vronsky cũng vậy, anh thích sống và yêu một đời tự do. Nhưng anh lại yêu Anna, một người không được phép sống cuộc đời đó. Đại úy Vronsky phải lòng Anna Karenina trên đoàn tàu xa lạ không hẹn ước. Chỉ một thoáng lãng mạn chàng sĩ quan đã không thể quên cô. Nhưng sau vài lần gặp gỡ, Vronsky nhận ra, có lẽ anh với Anna là yêu nhưng không thể yêu. Anh bước xuống, cố gắng không nhìn cô quá lâu như kiểu người ta tránh nhìn mặt trời. Nhưng cũng như mặt trời, anh vẫn trông thấy cô dù chưa một lần chạm mắt Người thiếu phụ ấy dẫu bị ép lấy ngài Karenin nhưng họ vẫn là vợ chồng. Dẫu họ không hạnh phúc, Anna không hạnh phúc nhưng giới thượng lưu lại công nhận họ hạnh phúc. Còn Vronsky chẳng là gì cả, anh chỉ là một người trót yêu Anna. Một người xa lạ bên chuyến tàu định mệnh đem đến cho Anna sự hy vọng đầu tiên trong đời. Nhưng có lẽ đó chính là sự hy vọng muộn màng và bi thương. Người ta vẫn hay nói một câu rất hay: "Một trong những đau đớn của đời người là lúc chưa có năng lực lại gặp người mình muốn chăm sóc cả đời.". Có lẽ câu nói này giống với số phận của sĩ quan Vronsky. Lúc trong tay anh không có gì cả, lại gặp được người anh muốn che chở một đời. Gặp đúng người, nhưng lại sai thời điểm. Vronsky đã gặp Anna muộn mất tám năm trong khi cô đang đau khổ. Nhưng anh không thể bước tiếp mà chỉ có thể lùi lại phía sau. Vì Vronsky đã chậm mất tám năm, lỡ mất một đời. Vronsky không thể bước tiếp, còn Anna Karenina, cô lùi bước. Cô trở về Matxcova, kết thúc chuyến thăm quê sớm hơn dự kiến. Và chấm dứt hy vọng cuối cùng của mình với Vronsky. Màu sắc lãng mạn làm nền cho yếu tố hiện thực và tư tưởng tự do Qua cuốn sách Anna Karenina, Lev Tolstoy muốn chứng minh một điều rằng lãng mạn không phải là thứ vẻ đẹp để tô hồng cho cuộc sống hàng ngày. Lãng mạn không phải thứ xa xỉ mà người ta vẫn nói với nhau. Không phải là thứ sách viết về mở đầu thì phải yêu nhau đắm đuối. Không phải là thứ sách gợi cho người đọc quan tâm đến kết thúc là đau khổ hay vui vẻ, cặp đôi yêu nhau có đến nhau được hay không. Sau tất cả đó chỉ là tình yêu chứ không là gì cả, không có ý nghĩa nhân văn nào cả. Anna Karenina là cuốn sách muốn nói với người đọc và xã hội đương thời rằng tự do còn quan trọng hơn cả tình yêu, con người cần yêu trong tự do và đó là quyền của họ. Trong hiến pháp của Mỹ năm 1877, Tổng thống Washington đã tuyên bố rằng: Chúng tôi khẳng định những chân lý này là hiển nhiên, mọi người sinh ra đều bình đẳng, họ được Tạo hoá ban cho một số quyền tất yếu bất khả xâm phạm, trong đó có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Nhưng cuộc đời của Anna Karenina lại không có những quyền đó. Cô đã không hạnh phúc, không có quyền hạnh phúc. Đã không có tự do, bị ép sống không có tự do. Cô đã bị gượng ép kết hôn và không có quyền ly hôn. Cuốn sách đặt ra một câu hỏi tình huống nhức nhối muốn người đọc trả lời. Đó là nếu sống cuộc đời hôn nhân bị ép buộc thì phải làm sao. Chịu đựng hay ly hôn và đi tìm hạnh phúc của mình? Anna đã chịu đựng tám năm, cô không muốn phải sống như vậy nữa. Nhưng lại không thể ly hôn. Vì định kiến xã hội đương thời không cho phép một phụ nữ thượng lưu ly hôn. - Làm tất cả, nhưng đừng ly dị! - Darya Alexandrovna đáp. - Chị hiểu tất cả là thế nào? - Chao, thật ghê sợ! Cô ấy sẽ không phải là vợ của ai nữa, đời cô ấy thế là bỏ đi! Cuộc đời thế là bỏ đi - đó là cách mà xã hội nhìn nhận những người phụ nữ có ý định ly hôn. Giá trị của người phụ nữ đến thế là cùng. Anna Karenina đã không còn đường lui nữa. Phía trước cô là định kiến xã hội, còn phía sau cô lại là cuộc hôn nhân mất tự do. Không thể bước tiếp nữa, nhưng cũng không thể lùi bước được nữa. Sức chịu đựng của một người đến thế là cùng, ròng rã suốt tám năm, cô không thể chịu đựng được nữa. Cô sống trong cuộc hôn nhân đau khổ với ngài Karenin, nhưng khi gặp sĩ quan Vronsky thì lại càng đau khổ hơn. Có lẽ đại úy Vronsky cũng giống như thứ ánh sáng đẹp đẽ, cao quý làm đau mắt một người đã ngần ấy năm không nhìn thấy ánh sáng như Anna. Cô chỉ còn cách chọn con đường thứ ba, con đường buông bỏ. Buông bỏ cả đau khổ và và niềm vui muộn màng với sĩ quan Vronsky, buông bỏ cả tự do và định kiến. Sẽ không có cách nào để thoát khỏi định kiến nếu không buông bỏ tự do của bản thân. Đó là điều mà xã hội già cỗi đương thời của Nga đem đến cho thần dân nước mình khi họ muốn sống một đời tự do. Giải thoát bản thân mình bằng cái chết, Anna Karenina không chỉ muốn thoát thoát khỏi đớn đau mà còn muốn giáng một đòn mạnh mẽ vào ý thức hệ già cỗi, lạc hậu của nước Nga lúc bấy giờ. Và luồng sáng đã soi cho nàng thấy rõ cuốn sách cuộc đời mình với biết bao lo âu, phản phúc và đau khổ, lúc này càng bừng lên chói lọi hơn, rọi chiếu vào mọi vật bấy lâu nay chìm trong bóng tối; rồi nó rung rinh, mờ đi và tắt ngấm vĩnh viễn. Mãi về sau, đến năm 1941, khi tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao ra đời, người ta vẫn nhắc mãi về Anna Karenina của Lev Tolstoy: cái chết của Chí Phèo và Anna Karenina sao mà giống nhau quá. Chí Phèo muốn sống lương thiện nhưng không thể lương thiện, Anna Karenina muốn tự do nhưng không thể tự do. Họ chỉ đành tìm đến cái chết để giải thoát bản thân mình. Và cũng để những người sống đau khổ như họ không phải sống cuộc đời như vậy nữa. Cái chết ấy bất lực, là tiếng thét oan khuất giữa xã hội đầy biến động, đầy bất công. Nhưng cái chết ấy lại dũng cảm, là lời tố cáo đanh thép về một xã hội thiếu tự do được viết bằng máu và nước mắt của Anna Karenina. Anna Karenina- tác phẩm lớn nhất mọi thời đại do tạp chí Times bình chọn Cuốn sách Anna Karenina của Lev Tolstoy được phát hành lần đầu năm 1877, sau 147 năm, cuốn sách vẫn vẹn nguyên giá trị. Cuốn sách ấy vinh dự được Times bình chọn là tác phẩm lớn nhất mọi thời đại và gây ảnh hưởng không nhỏ đến nền tư tưởng thế giới. Văn hào Lev Tolstoy, tác giả của cuốn sách Anna Karenina được tôn xưng là "Sư tử văn học Nga". Ông là nhà tư tưởng, cải cách giáo dục lớn với chủ nghĩa hoà bình và tư tưởng bất bạo động. Qua Anna Karenina ông đã làm thay đổi nhận thức của xã hội về tư tưởng tự do đương thời: Trên hết, tôi sẽ không muốn mọi người nghĩ rằng tôi muốn chứng minh bất cứ điều gì. Tôi không muốn chứng minh bất cứ điều gì, tôi chỉ muốn sống; không gây ác cho ai ngoài bản thân mình. Tôi có quyền, phải không? Tư tưởng của Lev Tolstoy đã gây ảnh hưởng đến những con người có khả năng gây ảnh hưởng lớn cho xã hội. Trong đó có nhà lãnh đạo đảng Quốc Đại Ấn Độ, người đấu tranh cho tự do, Mahatma Gandhi. Martin Luther King, Jr, chủ nhân của giải Nobel Hòa bình năm 1964 cũng là người chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi tư tưởng tự do bất bạo động của Lev Tolstoy. Có thể thấy, giá trị lớn nhất của một cuốn sách không phải là chân hay mỹ mà chính là thiện, là giá trị xã hội lan tỏa và làm xã hội tốt đẹp hơn. Đó còn là lòng yêu thương và bao dung, là con người cần được yêu thương và có quyền sống hạnh phúc. Trong tất cả nỗi buồn của con người, không có gì mang lại sự an ủi ngoài tình yêu và đức tin, và trong tầm nhìn của lòng từ bi của Chúa Kitô đối với chúng ta, không có nỗi buồn nào là tầm thường. Cuốn sách Anna Karenina không kết thúc bằng sự ra đi của Anna, mà là cuộc hành quân tình nguyện của sĩ quan Vronsky. Sau ngày Anna rời bỏ thế gian, trong lòng Vronsky có những chuyển biến quan trọng. Chàng sĩ quan rời quê hương và tham gia đội quân tình nguyện trong chiến tranh giúp Serbia chống lại Thổ Nhĩ Kỳ. Vẫn là lòng tin đó, lòng tin tự do không xa sẽ đến. Cùng với Chiến Tranh Và Hòa Bình, cuốn sách Anna Karenina đã đem tư tưởng tự do của Lev Tolstoy đi khắp thế giới. Sống tự do và hạnh phúc luôn là điều viên mãn nhất trên đời. Và khi nào, nơi nào đó trên thế gian này còn thiếu hai điều ấy, thì con người sẽ tiếp tục đấu tranh. Vì lẽ phải luôn đúng và luôn chiến thắng tất cả. Bài viết bởi Trần Hạnh - Bookademy Mời các bạn mượn đọc sách Tiểu Thuyết Anna Karenina (Tiếng Việt)của tác giả Lev Tolstoy.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tố Tâm
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Tố Tâm của tác giả Hoàng Ngọc Phách. Quyển tiều thuyết TỐ TÂM ra đời cũng là một việc ngẫu nhiên nghĩa là chưa đinh thời kỳ xuất bản mà xuất bản. Nguyên lúc ông Song An còn ở trường Cao Đẳng Sư phạm, ông thường cùng tôi đàm luận về luân lý giáo dục theo tân học ngày nay. Ông hay đưa tôi xem những điều ông đã sao tập được lúc ông viết quyển tiểu thuyết TỐ TÂM này đưa tôi đọc, tôi cũng phục cái tài trước thuật của ông và biểu đồng tình một vài vấn đề ông phân giải. Tôi khuyên ông đưa đăng vào tập ký yếu của hội Cao đẳng Ái hữu để các bạn cùng bình phẩm, vì trước khi đem in đã nhiều người xem và cũng đồng ý như tôi vậy. Nhưng tác giả vẫn có ý ngần ngại, một là ông không muốn xuất bản tiểu thuyết như ta thường thấy hằng ngày, hai là ông cho rằng quyển TỐ TÂM ra đời khi sớm quá, lại viết theo một lối mới, ta chưa từng xem quen, tất có người hiểu nhầm thì cái hay chưa thấy đâu đã thấy cái dở. Ông xưa nay viết văn thường hay cẩn thận về những điều đó. Về sau bởi những lời quả quyết của các bạn mà ông thuận đem đăng, nhưng tập ký yếu mấy lâu nay vì có một lẽ riêng mà không xuất bản, thành tiểu thuyết đăng dở dang nên phải in thành sách, sợ độc giả đợi chờ, và những tiểu thuyết về tâm lý như quyển TỐ TÂM này không nên để dở chừng câu chuyện. Ấy thế là TỐ TÂM ra đời. TỐ TÂM ra đời chắc có độc giả tự hỏi rằng người ta viết một quyển tiểu thuyết tất phải có một chút mục đích gì về luân lý vậy thì tâm lý tiểu thuyết có liên lạc gì vời đạo xử thế, cách làm người và câu chuyện là chuyện thuộc về ái tình, biết đã bổ ích gì cho giáo dục, đang lúc này bạn thiếu niên ta cần đem hết tâm hồn thờ một chủ nghĩa thiêng liêng về tương lai chủng tộc ?... Ấy đó là điều cần phải giải tỏ cùng độc giả trước khi xem đến quyển TỐ TÂM này : Học thuyết ngày nay không phải là học thuyết tín ngưỡng cho những lý thuyết lập sẵn từ mấy muôn đời để lại cho kẻ hậu sinh, không ai dám xét đến, mà cũng không ai cần xét đến. Học thuyết ấy ông Descartes đã đánh đổ đi từ hơn ba trăm năm nay rồi. Học thuyết bây giờ bất cứ về môn nào cũng phải tìm đến nguyên ủy ; phải dùng câu TẠI LÀM SAO, VĨ NHẼ GÌ để khảo sát lại những điều mà tự xưa ta vẫn công nhận là "bất dịch". Vậy thì luân lý học phải cần đến tâm lý học để xét những điều hành động, những trạng thái trong tâm trí loài người liên tiếp với nhau có mạch lạc, có luật pháp để cho nhà luân lý xét theo đó mà định phương châm, mà đặt những luật chung cho nhân đạo cũng như nhà giải phẫu tách bạch, những cơ quan của thân thể người để cho các y gia biết những bộ máy lưu hành mà chữa bệnh. Cho nên xét luân lý mà không biết tâm lý thì cũng như chữa bệnh mà không biết phủ tạng ở đâu. Vậy thì viết tâm lý tiểu thuyết tức là giải phẫu một câu chuyện đời khuất khúc éo le theo nguồn các luật của tâm lý để độc giả xem đến tự ngẫm nghĩ vào mình. Đại khái như nguyên nhân kia thì phải có kết quả nọ; tính tình ấy thì phải có hành động này v.v... Cho nên xem tâm lý tiểu thuyết phải nhận kỹ những điều phát động đó, phải trông rõ cái dở lẫn với cái hay, tức là những tính tình tương phản xô xát với nhau trong tâm trí con người ta một cách éo le phiền phức. Nếu xem chỉ xem cho biết chuyện thì không bổ ích gì mà có khi thủ hại, vì không phải là lối tiều thuyết chỉ rõ cái hay cái dở ra một cách nhất thiết, nghiễm nhiên là một ông thầy truyền phải làm điều này, phải tránh điều kia, mà nhiều khi không nói rõ tại sao mà làm, tại sao mà tránh. Tâm lý tiểu thuyết không phải là lối chuyện chỉ kết cấu ở cái hy vọng báo ứng, ở điều thưởng phạt huyền vi, để dạy người đời bằng cái họa phúc về việc lành, hay việc ác. Cho nên các độc giả không có lòng tín ngưỡng ấy không lấy làm thỏa óc, mà nhiều khi thủ ích gì. Những tiểu thuyết kết cấu như vậy không phải là không hay, xưa nay biết bao nhiêu quyển đã cảm hóa được lòng người nhờ những tấm gương sáng láng trong chuyện, nhưng ta cứ theo mãi một lối, tưởng cũng thành sáo cũ lắm rồi, mà lối dạy điều dở điều hay bằng cách "truyền lệnh" chỉ mới là một phương diện luân lý giáo dục mà thôi. ° ° ° Độc giả xem quyển TỐ TÂM xin nhớ là một quyển tâm lý tiểu thuyết, không phải là một tấm gương đúc sẵn cho người ta theo. Quyển TỐ TÂM chỉ tách bạch ra những điều éo le phiền phức của một thứ ái tình, ái tình viển vông khuất khúc, làm cho đôi lứa thiếu niên kia phải nhầm lỗi, nhầm lỗi mà không tự biết, để đến lụy mình mà phiền cho gia đình xã hội. Nhầm lỗi những gì cái nguyên nhân, năng lực kết qua ra làm sao ? Tác giả bày tỏ ra rất rõ. Tác giả đã chịu khó thăm dò ở đáy con sông tình kia mà cắm biển, nhắn cùng những bạn thiếu niên đương lảng vảng trên bờ sông, trong khi cần phải để tâm vào những chủ nghĩa cao xa khác, mấy chữ rằng: ĐÂY À GHỀNH CAO, VỰC THẨM ! Ấy đó là công tác giả chép lại chuyện, mà chính đó là nơi độc giả phải lưu tâm. Còn về phần văn chương tư tưởng trong quyển TỐ TÂM này thì cái văn nghiệp của mấy lâu nay tác giả là ông Song An đã đủ giới thiệu cho ông rồi, tôi không phải bình phẩm. Sầm sơn Juillet 1922  LÊ HỮU PHÚC     MẤY LỜI CỦA NGƯỜI CHÉP CHUYỆN Nhiều khi anh em ngồi đàm luận ve tân học ngày nay, ký giả thường nghe nói đến một bậc thanh niên tân tiến có tính tình, văn chương, tư tưởng, thường hay lạm dụng những tài liệu đó đem ra làm việc cho ái tình, ghẹo lòng người nhi nữ, vội thi hành những ý tưởng trong sách hay, những cảnh mình tưởng tượng ra. Có lúc cố ý mà làm, cũng nhiều khi làm mà không tự biết, miễn là tìm được nơi thí nghiệm ý tưởng của mình và lấy được lòng yêu của người mà thôi, nên xảy ra lắm tấn bi kịch, thiệt cho mình mà khổ cho người, quấy rầy đến gia đình, xã hội. Nguyên do những bực có văn chương tư tưởng như vậy, bên cái hy vọng to lớn về việc công ích, thường vẫn hay mơ màng những cảnh tuyệt vời của ái tình, cố tìm cho được một người cùng mình mà đi tới những cảnh mơ màng ấy, không nghĩ cho rằng phàm những cảnh viển vông phảng phất tự ta mơ tưởng mà vẽ ra trên đường đời cũng như giọt sương buổi sáng lóng lánh trên ngọn cây, như ánh sáng buổi chiều thướt tha trên đỉnh núi, xa trông thì đẹp lạ thường, nhưng tìm đến tận nơi thì tan đi hết, không còn thấy gì là đẹp nữa. Cho nên lúc hai người nam nữ rủ nhau mơ màng đi tìm những cảnh ấy chợt gặp một quãng gai góc đầy đường, rẽ nhau lạc lối; hoặc vì lứa đôi trắc trở với người biết trước, hoặc vì duyên nài phận ép với người đến sau, mà diễn nên bi kịch, bởi một nỗi tính tình không hợp với người đến sau đó, hay lòng đã đem gởi đi cho người biết trước kia rồi, không lấy lại được nữa, nên thất vọng, ngã lòng, điều đau đớn đưa ngay đến. Thường cứ bảo tại tạo hóa không cho hưởng hết những cuộc đặt ra để giữ người nhưng lấy lẽ phải mà xét thì phàm việc gì không thường tất không vững. Nếu người cùng mình đi thi hành điều mơ tưởng đó là một bậc thiếu nữ tầm thường, tính tình thấp hẹp, ý tưởng nhỏ nhen, để vào đâu cũng được gặp cảnh nào cũng xong, thì cái hại không là mấy, nhưng gặp một hạng thiếu nữ cũng thích văn chương, cũng có tư tưởng, đã xem được vài chục bộ tiểu thuyết tây đã viết được ít nhiều văn quốc ngữ, tính tình lại rất là đằm thắm, mà thường hay mơ màng những chuyện đâu đâu, ít khi nghĩ đến thực tình thế sự thì thật là bi một "mũi tên tình ái sát nhân" vì bao nhiêu tinh thần đã bị thu hết, bị thứ văn chương hay, tả những tính tình lai láng, bị những ý tưởng lạ bày ra lắm cảnh tuyệt vời, khéo lựa chiều mà dần dần gieo trong lòng người thiếu nữ một thứ tình mài rũa riêng vào một khuôn khổ. Ta nên biết, khi hai người nam nữ yêu nhau, đem đánh vào tinh thần vẫn đau lâu hơn đánh vào thể chất, vì lấy thể chất mà khiến thì cực nồng nàn, nhưng lại chóng tan, mà có thể lấy thể chất nọ thay thể chất kia được, vì thể chất thường giống nhau; tinh thần thì không thể ảnh hưởng tinh thần hành động chậm, nhưng ở lâu, dần dần mà thấm vào gan óc khó gỡ ra được, dù có được cũng để vết về sau, suốt đời cứ vơ vẩn bên mình mãi. Mới đây, ký giả nghe được câu chuyện riêng của bạn vừa kể lại mà bạn là vai chính trong chuyện này, chuyện rất hợp với điều quan sát kể trên kia, nên ký giả chép ra đây, có ý muốn bày ra trước mặt bạn thiếu nên một việc hiển nhiên của tâm tình, liên lạc với nhau, có nguyên nhân, có kết quả. Chuyện tức là một cuộc hành động của các nguồn tâm lý của ái tình, phát hiện ra ngoài rất hợp với nội dung người trong chuyện, vì lúc xét một việc e vế tâm lý phát hiện phải xét đến cả điều liên lạc chung quanh, đại khái như giáo dục ấy, tính chất ấy, tinh thần ấy v.v... Hành động đã hợp với nguyên nhân thỉ tất là phải theo vào một luật, mà việc bày ra không thể là việc lạ thường chỉ là một mối riêng trong một mối khác của tâm lý mà thôi, nên ký giả chép ra đây để các bạn thiếu niên xét đoán, có lẽ cũng bổ ích cho những lúc bạn thiếu niên tự xét đoán đến tính tình mình, tư tưởng mình. Sau nữa, ký giả chép lại chuyện gọi tỏ lòng thương đôi lứa thiếu mến xô nhau vào bể ái, lôi kéo nhau đến nỗi kẻ bị trọng thương, người không cần sống, để đời thiệt mất một người thiếu nữ chung tình. Phàm một người thiếu nữ đã có tính tình đằm thắm biết chịu thiệt mình để khỏi lụy đến người yêu, lại biết thương một bạn gái khác chính là người "kình địch vô tội" của mình là một hạng người ít có, thật đáng quý mà cũng đáng thương. Tính tình ấy dùng vào đâu cũng là bậc trên cả, đem dùng với nhà thì thành con hiếu, đem dùng với nước thì thành tôi ngay, đem dùng vào cảnh vợ chồng đẹp đôi thì thành vợ thuận, vợ thuận tức là mẹ hiền. Nhưng tiếc thay ! Chỉ vì quá mơ màng những ngoài vòng đời, lỡ lầm vào một cuộc tình ái, nên việc đời chếch lệch mà thành như mây tan, như khói tỏa, rút lại không được ích gì, cảnh huống ấy bọn thiếu niên nên lưu ý. Ký giả không có gì thoa vẽ, mà cũng không quen đem đạo đức bình luận ái tình, ký giả xét là xét cái tình trạng của lòng người, chép là chép cái hành động của tâm lý, còn lý luận luân lý phẩm bình xin để phần dư luận. Ký giả chưa đến tuổi biết sáng tạo ra người trong truyện thì chỉ chép lại chuyện là hơn; nếu có bạn nào quá nghiêm mà trách ký giả sao tuổi còn non, người còn trẻ đã vội đem tách bạch những nỗi éo le bí mật của ái tình mà bày cả ra đây thì ký giả xin thưa rằng: nếu những điều quan sát và lý luận kể trên kia là đúng thì lời trách ấy quá nghiêm, nếu mà sai, thì xin biết cho rằng ký giả vì những điều quan sát đó mà chép. Aout 1922  HOÀNG NGỌC PHÁCH *** Tóm tắt Tố Tâm là một tiểu thuyết tâm lý đầu tiên của Việt Nam, được viết bởi Hoàng Ngọc Phách và xuất bản năm 1922. Tác phẩm kể về câu chuyện tình yêu của hai nhân vật chính là Đạm Thủy và Tố Tâm. Đạm Thủy là một thanh niên trí thức, có tư tưởng tiến bộ, còn Tố Tâm là một cô gái nhà quê, xinh đẹp, ngây thơ. Hai người gặp nhau và yêu nhau say đắm, nhưng vì những rào cản về gia đình và xã hội, họ đã không thể đến được với nhau. Review Tố Tâm là một tác phẩm có giá trị về mặt văn học và xã hội. Tác phẩm đã phản ánh một cách chân thực những vấn đề của xã hội Việt Nam đầu thế kỷ 20, đặc biệt là vấn đề tình yêu và hôn nhân của giới trẻ. Tác phẩm được viết theo lối văn xuôi trữ tình, trau chuốt, giàu cảm xúc. Ngôn ngữ của tác phẩm giản dị, gần gũi, dễ hiểu, nhưng cũng không kém phần tinh tế, gợi cảm. Nhân vật chính của tác phẩm là Tố Tâm. Tố Tâm là một cô gái nhà quê, xinh đẹp, ngây thơ, nhưng cũng rất yếu đuối. Cô yêu Đạm Thủy say đắm, nhưng vì những rào cản của xã hội, cô đã không thể đến được với người mình yêu. Tác phẩm đã thể hiện được những nỗi đau, những bi kịch của Tố Tâm. Tố Tâm là một nạn nhân của xã hội phong kiến, của những hủ tục lạc hậu. Cô là một tấm gương tiêu biểu cho số phận bất hạnh của những người phụ nữ trong xã hội cũ. Tố Tâm là một tác phẩm có giá trị nhân đạo sâu sắc. Tác phẩm đã lên án những hủ tục lạc hậu, những định kiến xã hội đã gây ra những đau khổ cho người phụ nữ. Một số điểm nổi bật của tác phẩm Tố Tâm là một tác phẩm tâm lý đầu tiên của Việt Nam, có giá trị về mặt văn học và xã hội. Tác phẩm đã phản ánh một cách chân thực những vấn đề của xã hội Việt Nam đầu thế kỷ 20, đặc biệt là vấn đề tình yêu và hôn nhân của giới trẻ. Tác phẩm được viết theo lối văn xuôi trữ tình, trau chuốt, giàu cảm xúc. Ngôn ngữ của tác phẩm giản dị, gần gũi, dễ hiểu, nhưng cũng không kém phần tinh tế, gợi cảm. Nhân vật Tố Tâm là một nhân vật được xây dựng thành công, mang đậm tính nhân đạo. Một số nhận xét của độc giả về tác phẩm "Tố Tâm là một tác phẩm có giá trị nhân văn sâu sắc. Tác phẩm đã lên án những hủ tục lạc hậu, những định kiến xã hội đã gây ra những đau khổ cho người phụ nữ."  "Tố Tâm là một tác phẩm tâm lý xuất sắc. Tác phẩm đã thể hiện được những nỗi đau, những bi kịch của Tố Tâm, một nạn nhân của xã hội phong kiến."  "Tố Tâm là một tác phẩm văn học đáng đọc. Tác phẩm đã mang đến cho tôi những cảm xúc sâu sắc."  Mời các bạn mượn đọc sách Tố Tâm của tác giả Hoàng Ngọc Phách.
Ba Ngày Luân Lạc
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Ba Ngày Luân Lạc của tác giả Lê Văn Trương. Lê Văn Trương khi viết báo lấy bút danh là Cô Lý. Năm 1934, viết tập truyện ngắn Trước cảnh hoang tàn Đế Thiên Đế Thích. Từ 1939, chuyên viết tiểu thuyết, viết rất nhiều, rất nhanh và cũng rất ẩu. Người ta bảo Lê Văn Trương còn giao cho bọn « đàn em » viết và chỉ đọc lại, chữa qua loa rồi ký tên đưa Nhà xuất bản. Lê Văn Trương luôn luôn hô hào « thuyết sức mạnh » và xây dựng nhân vật theo kiểu một « người hùng » tưởng tượng, khí khái rởm và anh hùng rơm. Có theo kháng chiến một thời gian, đến năm 1953 vào Hà-nội rồi đi Nam, làm việc ở Nha chiến tranh tâm lý Mỹ-Diệm, Đài phát thanh Sài-gòn. Lê Văn Trương mất ngày 25 tháng 2 năm 1964 tại 67 hẽm 100, đường Trần Hưng Đạo (Sài-gòn). (Theo Lược truyện các tác gia Việt nam. Tập II. Nxb KHXH Hà-nội - 1972) Tác phẩm: Trước cảnh hoang-tàn Đế Thiên Đế Thích (H. : Trung-Bắc Tân Văn, 1935 - 183 p. ; 0$40) Cô tư Thung, truyện dài (H. : Tân-Dân, 1er Janvier 1937 - 156 p. ; 0$25) (Phổ-Thông Bán-Nguyệt-San 2) Một người, xã-hội tiểu-thuyết (H. : Tân-Dân, 1937 - I. 1er Mai, 220 p., 0$25 - II. 1er Juin, p. 211-386, 0$25) (P.T.B.N.S 6-7) Một người cha (H. : Tân-Dân, 1er Nobembre 1937 ; 0$25) (P.T.B.N.S 12) Một trái tim, tâm-lý xã-hội tiểu-thuyết (H. : Tân-Dân, 1er Février 1938 - 217 p. ; 0$25) (P.T.B.N.S 15) Con đường hạnh-phúc, tâm-lý tiểu-thuyết (H. : Tân-Dân, 1er Juin 1938 ; 0$25) (P.T.B.N.S 19, Bìa trắng) Một lương tâm trong gió lốc, tiểu-thuyết (H. : Tân-Dân, 1938 - I. 1er Août, 103 p., 0$15 - II. 1er Septembre, 0$25) (P.T.B.N.S 21-22) Hận nghìn đời (H. : Tân-Dân, 1938 - 192 p.) (Những Tác-Phẩm Hay 2) Trong ao tù trưởng-giả (H. : Tân-Dân, 1939 - I. 1er Février, 166 p., 0$25 - II. 16 Février, p. 151-313, 0$25) (P.T.B.N.S 28-29) Ngựa đã thuần rồi, mời ngài lên, tiểu-thuyết (H. : Tân-Dân, 16 Mars 1939 ; 0$15) (P.T.B.N.S 31) Đứa cháu đồng bạc, tiểu-thuyết xã-hội (H. : Tân-Dân, 16 Mai 1939 - 213 p. ; 0$40) (N.T.P.H 6) Một cô gái mới (H. : Tân-Dân, 1er Juillet 1939 - 154 p. ; 0$25) (P.T.B.N.S 38) Tôi là mẹ, tâm-lý tiểu-thuyết (H. : Tân-Dân, 1939 - I. 16 Septembre, 164 p., 0$25 - II. 1er Octobre, p. 147-304, 0$25) (P.T.B.N.S 43-44) Dưới bóng thần Vệ-nữ (H. : Nam Ký, 1939 - 94 p.) Những mảnh tình (H. : Mai Lĩnh, 1940 - 144 p.) Cánh sen trong bùn (H. : Tân-Dân, 1940 - I. 16 Janvier, 145 p., 0$25 - II. 1er Février, p. 139-282, 0$25) (P.T.B.N.S 51-52) Một linh hồn đàn bà (H. : Tân-Dân, 16 Mars 1940 - 189 p. ; 0$50) (N.T.P.H 11) Bốn bức tường máu (H. : Tân-Dân, 1940 - I. 1er Juillet, 145 p. - II. 16 Juillet, p. 131-260) (P.T.B.N.S 62-63) Tôi thầu khoán hay là : Ba tháng ở Trung-Hoa, phiêu-lưu ký-sự (H. : Tân-Dân, 1940 - 240 p. ; 0$90) (Tủ Sách Tao Đàn 2) Trường đời, tiểu-thuyết (H. : Tân-Dân, 1940 - I. 16 Décembre, 140 p. - II. 1er Janvier, p. 137-278, 0$30 - III. 16 Janvier, p. 263-400, 0$30) (P.T.B.N.S 73-75) Một cuộc săn vàng, phiêu-lưu ký-sự (H. : Tân-Dân, 1941 - 146 p. ; 0$60) (T.S.T.Đ 6) Lịch-sử một tội ác, tiểu-thuyết (H. : Tân-Dân, 1941 - 168 p. ; 0$60) (N.T.P.H 16) Nó giết người, tiểu-thuyết (H. : Tân-Dân, 1er Juin 1941 - 130 p. ; 0$30) (P.T.B.N.S 84) Người anh cả, tiểu-thuyết (H. : Tân-Dân, 1941 - I. 1er Juillet, 132 p., 0$30 - II. 16 Juillet, p. 123-242, 0$30 - III. 1er Août, p. 235-354, 0$30) (P.T.B.N.S 86-88) Những con đường rẽ, tiểu-thuyết (H. : Tân-Dân, 1941 - 143 p. ; 0$60) (N.T.P.H 19) Điệu đàn muôn thủa (H. : Đời Mới, 1941 - 144 p.) Ái-tình muôn mặt (H. : Lê Cường, 1941 - I. 125 p. - II. 98 p.) Triết-lý sức mạnh (H. : Hương-Sơn, 1941 - 62 p. ; 0$30) Đời nghệ sĩ (H. : Hương Sơn, 1941 - 100 p.) Hai anh em, tiểu-thuyết (H. : Tân-Dân, 1er Janvier 1942 - 316 p. ; 0$70) (P.T.B.N.S 98, Số mùa xuân) Tiếng gọi của lòng, tiểu-thuyết (H. : Tân-Dân, 1942 - I. 1er Mai, 120 p., 0$35 - II. 16 Mai, p. 105-224, 0$35) (P.T.B.N.S 106-107) Bóng hạnh-phúc (H. : Cộng Lực, 1942, 2 v. - 240 p. ; 1$20) Cô Thơm, xã hội tiểu thuyết (H. : Duy Tân, 1942 - 138 p.) Hai tâm hồn (H. : Đời Mới, 1942 - 260 p.) Đầu bạc đầu xanh (H. : Đời Mới, 1942 - 202 p. ; 1$00) Anh và tôi, giáo-dục tiểu-thuyết (H. : Đời Mới, 1942 - 212 p.) Chồng chúng ta, xã-hội tiểu-thuyết (H. : Đời Mới, 1942 - I. 143 p. - II. p. 141-222, 0p80) Hai người bạn, tiểu-thuyết (H. : Đời Mới, 1942 - 210 p.) Những kẻ có lòng, tiểu thuyết (H. : Đời Mới, 1942 - 209 p.) Kẻ đến sau (H. Đời Mới, 1942 - I. 232 p. - II. p. 236-439 ; 3$00) Những thiên tình hận (H. : Hương Sơn, 1942 - 129 p.) Kẻ si tình, tiểu thuyết (H. : Hương Sơn, 1942 - 154 p.) Sợ sống (H. : Lê Văn Trương, 1942 - 153 p.) Lòng mẹ, tiểu-thuyết (H. : Tân-Dân, 1942 - I. 16 Août, 112 p., 0$40 - II. 1er Septembre, p. 101-220, 0$50) (P.T.B.N.S 113-114) Anh vẹo, tiểu-thuyết (H. : Tân-Dân, 1er Decémbre 1942 - 120 p. ; 0$50) (P.T.B.N.S 120) Sau phút sinh ly, tiểu-thuyết (H. : Tân-Dân, 1942 - 139 p. ; 0$70) (N.T.P.H 25) Thằng còm, tiểu thuyết (H. : Tân-Dân, 1943 - I. 16 Avril, 110 p., 0$50 - II. 1er Mai, p. 91-200, 0$50) (P.T.B.N.S 129-130) Một lương tâm trong sương mù, tiểu-thuyết (H. : Tân-Dân, 16 Août 1943 - 104 p. ; 1$00) (P.T.B.N.S 135) Mũi tên thuốc độc (H. : Tân-Dân, 16 Novembre 1943) Anh em thằng Việt, truyện dài giáo-dục (H. : Tân-Dân, 1943, 2 v. - 154 p. ; 0$40) (Phổ Thông Tuổi Trẻ 1) Chung quanh người đàn bà (H. : Hương Sơn, 1943 - 128 p.) Cùng một kiếp (H. : Hương Sơn, 1943 - 256 p.) Kiếp hoa rơi, tiểu-thuyết xã-hội (H. : Hương Sơn, 1943 - 128 p.) Lịch-sử một tan vỡ (H. : Hương Sơn, 1943 - 264 p.) Người mẹ tội-lỗi, tâm-lý tiểu-thuyết (H. Đời Mới, 1943, 2 v. - 510 p. ; 3$20) Giọt nước mắt đầu tiên (H. : Đời Mới, 1943 - 146 p. ; 1$00) Người đàn-bà (H. : Đời Mới, 1943 ; 0$90) Lỡ một kiếp người (H. : Đời Mới, 1943 - 181 p. ; 1$50) Thằng con trai (H. : Đời Mới, 1943 - 218 p. ; 2$00) Ba ngày luân lạc, giáo-dục tiểu-thuyết (H. : Đời Mới, 1943 - 304 p. ; 3$00) Phút giao-cảm (H. : Đời Mới, 1943 ; 2$00) Những mái nhà ấm, truyện dài xã-hội (H. : Đời Mới, 1943 - 271 p. ; 2$80) Con đường dốc, truyện dài (H. : Đời Mới, 1943 - 160 p. ; 1$80) Dây oan, tiểu thuyết (H. : Đời Mới, 1943 - 168 p. ; 2$00) Những người đã sống (H. : Đời Mới, 1943 - 223 p. ; 2$50) Những kẻ không nghèo (H. : Đời Mới, 1943 - 189 p. ; 2$50) Cô giáo tỉnh lỵ, tiểu thuyết (H. : Đời Mới, 1943 - 225 p. ; 2$80) Chặt xích, tiểu-thuyết (H. : Đời Mới, 1944 - 176 p. ; 2$50) Mấy đường tơ khô, tiểu thuyết (H. : Đời Mới, 1944 - 224 p. ; 3$00) Lá lành lá rách, tiểu-thuyết (H. : Đời Mới, 1944 - 149 p. ; 2$00) Người con nuôi, xã-hội tiểu-thuyết của Lê-văn-Trương (1944 - 268 p. ; 3$50) Chết trong cõi sống, tiểu-thuyết (H. : Đời Mới, 1944 - 240 p. ; 3$50) Mối thù họ Ngô (H. : Đời Mới, 1944 - 156 p.) Cải thiện (H. : Hương Sơn, 1944 - 210 p.) Hai đứa bé mồ côi, tiểu-thuyết xã-hội (H. : Hương Sơn, 1944 - 310 p.) Trên giốc vật chất (H. : Hương Sơn, 1944 - 364 p.) Con dâu Cai Vàng, tuồng cải lương viết theo dã-sử (H. : Thăng Long, 1944 - 96 p.) Lời trong máu (H. : Lê-Văn-Trương, 1945 - 105 p.) Cánh đồng lương tâm (H. : Lê-Văn-Trương, 1946 - 93 p.) Ông hoàng một đêm (H. : Hương Sơn, 1953 - 142 p.) Cô nàng Mường Koòng (H. : Chấn-Nam tức Xuân-Quang) Những người có sứ mạng (330 p.) Những chớp mắt lịch sử (4 v.) Tôi là quân nhân Trận đời, truyện dài (S. : Tấn-Phát, 1956, 2 v.) Đứa con hạnh phúc, tiểu-thuyết xây-dựng gia-đình (S. : Truyện Hay, 1960 - 168 p.) Mối tình ngang trái (S. : Truyện Hay, 1960) Lòng dạ đàn bà (S. : Truyện Hay, 1960 - 143 p. ; 30$) Lỡ-làng, tiểu-thuyết tâm-lý ái-tình (S. : Hạnh-Phúc, 1961 - 96 p.) Một người chồng hoàn toàn (S. : Tân-Thành, 1961, In lần thứ hai - 126 p.) Người vợ hoàn toàn, tiểu thuyết xây dựng gia đình (S. : Hạnh-Phúc, 1962 - 152 p.) Người anh hùng chín núi, tiểu thuyết phiêu lưu phóng sự (S. : Đồng Nai, 1972) Truyện nhi đồng: Con thiên-lý mã, giáo-dục tiểu-thuyết (H. : Tân-Dân, 25 Août 1941 - 35 p.) (Truyền Bá 1) Những người ngày xưa (H. : Tân-Dân, 27 Novembre 1941 ; 0$10) (T.B 8) Giặc cờ đen, truyện (H. : Tân-Dân, 15 Janvier 1942 ; 0$10) (T.B 15) Một truyện ma (H. : Tân-Dân, 19 Mars 1942 ; 0$10) (T.B 23) Con chó dai đầu (H. : Tân-Dân, 7 Mai 1942) (T.B 30) Mưu gia cát (H. : Tân-Dân, 27 Août 1942 - 30 p.) (T.B 46) Giặc Tàu bắt cóc (H. : Tân-Dân, 1942 - I. 26 Novembre, 30 p. - II. 3 Decémbre, 30 p.) (T.B 59-60) Bị sa lầy (H. : Đời Mới, 1942 - 24 p.) (Truyện Học-Sinh Đời Mới) Chờ chết (H. : Đời Mới, 1942 - 27 p.) (T.H.S.Đ.M) Lấy chồng cọp (H. : Đời Mới, 1942 - I. 22 p. - II. 26 p.) (T.H.S.Đ.M) Săn đuổi (H. : Đời Mới, 1942 - 32 p.) (T.H.S.Đ.M 4) Tiếng còi báo động (H. : Đời Mới, 1942 - 30 p.) (T.H.S.Đ.M) Con chim đầu đàn (H. : Đời Mới, 1942 - 32 p.) (T.H.S.Đ.M) Mời các bạn mượn đọc sách Ba Ngày Luân Lạc của tác giả Lê Văn Trương.
Hy Vọng
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Hy Vọng của tác giả Katarzyna Michalak & Lê Bá Thự (dịch). Lila Borawa, cô gái Ba Lan, mồ côi mẹ, bố nhà nông; Aleksei Dragonow, người Nga, mồ côi cả cha lẫn mẹ sau vụ nổ tại nhà máy điện nguyên tử Trécnôbưn năm 1986, ở với dì. Họ gặp nhau do một sự tình cờ thú vị và trở thành bạn thân của nhau khi Lila mới sáu tuổi, Aleksei tám tuổi. Chẳng bao lâu số phận đã khiến họ phải xa nhau. Những tưởng con đường của họ sẽ chẳng bao giờ gặp nhau. Tuy nhiên, hai thứ tình cảm mạnh hơn định mệnh đã luôn luôn gắn bó họ: tình yêu và lòng căm thù. Nhiều năm sau đó, dẫu ở cách xa, Aleksei thường xuyên trở về làng thăm bạn, cho dù mỗi lần như vậy cô gái Lila chỉ làm tổn thương, thậm chí xúc phạm bạn mình mà thôi. Lila tựa hồ ngọn lửa, còn Aleksei như con thiêu thân. Tình yêu trở thành nỗi ám ảnh, còn định mệnh trở thành nỗi bất hạnh, và cả Lila lẫn Aleksei không thể hoặc không muốn cưỡng lại. Cái còn lại vẫn chỉ là Hy Vọng. Tiểu thuyết viết về nỗi cô đơn mà không ít người trong chúng ta từng nếm trải, về tình yêu có thể chiến thắng tất cả và về lòng căm thù có thể huỷ diệt tất cả. Hy vọng là tiêu đề của tiểu thuyết, cũng là tên gọi của ngôi nhà thơ mộng, toạ lạc trên trảng cỏ, giữa rừng già nguyên sinh, quanh năm róc rách tiếng suối chảy và vi vu tiếng thông reo, đẹp như miền cổ tích. Nét độc đáo của cuốn sách này, cuốn tiểu thuyết hiện đại – nhuốm màu cổ tích là ở chỗ, nó thực đến đau lòng và rất đời. Sử dụng thủ pháp đồng hiện với mật độ dày đặc từ đầu đến cuối, nữ nhà văn Katarzyna Michalak đã kể cho chúng ta nghe câu chuyện xúc động đầy tính nhân văn, về tình bạn và tình yêu, về giận và thương, về lòng quả cảm và sự hy sinh mà mỗi người chúng ta đều có thể tìm thấy bóng dáng cuộc đời mình trong đó. *** Tình yêu và lòng căm thù trong tiểu thuyết 'Hy vọng'  Nhà văn Ba Lan Katarzyna Michalak kể câu chuyện đầy tính nhân văn, xúc động đến trào nước mắt về tình bạn và tình yêu, về giận và thương, về lòng quả cảm. Lila Borowa, cô gái Ba Lan, mồ côi mẹ, bố nhà nông, nghiện rượu; Aleksei Dragonow, người Nga, mồ côi cả cha lẫn mẹ sau vụ nổ tại nhà máy điện nguyên tử Chernobyl năm 1986, ở với dì. Họ gặp nhau do một sự tình cờ ở trong rừng và trở thành bạn thân khi Lila mới sáu tuổi, Aleksei tám tuổi. Ông Borowy, bố cô bé, không chấp nhận tình bạn này và thường giở thói bạo hành, lắm phen cho cả hai no đòn, đến nỗi Aleksei thề là sẽ cứu bạn thoát khỏi người bố vũ phu. Chẳng bao lâu số phận khiến họ phải xa nhau. Những tưởng con đường của họ sẽ chẳng bao giờ gặp nhau, tuy nhiên hai thứ tình cảm mạnh hơn định mệnh đã luôn luôn gắn bó họ: tình yêu và lòng căm thù. Nhiều năm sau đó, dẫu ở cách xa, Aleksei, chàng trai nặng tình nghĩa và giàu lòng bao dung thường xuyên về làng thăm bạn, dù mỗi lần như vậy cô gái Lila chỉ làm tổn thương, thậm chí xúc phạm bạn mình: "Mỗi bận anh về là một lần em làm tổn thương anh, phản bội anh, lừa đảo anh, anh ra đi, chữa trị vết thương, vết thương trên cơ thể và vết thương lòng, anh tha thứ - lần nào anh cũng tha thứ cho em, rồi anh quay trở lại. Sau một năm, sau hai, ba năm, nhưng luôn luôn quay trở lại. Không hề thay đổi, như mặt trời mọc và lặn, như thủy triều lên và xuống. Và em đã lợi dụng sự yếu đuối này của anh, vẫn tiếp tục càng ngày càng làm tổn thương anh". Thế nhưng, bản thân cô gái cũng phải kìm nén nỗi đau thể xác và tinh thần: "Em đã nhớ anh như điên dại… Em rất lấy làm tiếc về sự đê tiện và sự nhát gan của mình… Em khinh bỉ chính mình… Em lại giam mình trong nhà tắm, mặc dầu cả nhà đi vắng, em cầm lưỡi dao cạo và… tự rạch da làm cho mình đau, đồng thời kết tội bản thân vì những gì em đã làm hại anh, cũng như để làm át đi nỗi đau mất anh. Sau đó em đã tự nhổ vào mặt mình, để càng thêm khinh bỉ cái sự hèn yếu này của em". Lila tựa hồ ngọn lửa, còn Aleksei như con thiêu thân. Mối tình lắm gian nan và nhiều trắc trở của Lila và Aleksei cũng là định mệnh và lời nguyền của đôi bạn trẻ. Nhưng cả Lila lẫn Aleksei không thể hoặc không muốn cưỡng lại. Cái còn lại vẫn là hy vọng. Lila nói về nỗi cô đơn của mình: "Em đã phải mua tình bạn của họ - cô gái nói nhỏ. Con gái thì em trả bằng quà, tặng phẩm, con trai thì em trả bằng làm tình, để cho em hết bị cô đơn. Để một người nào đó quan tâm đến em, một người nào đó trò chuyện với em trong giờ giải lao hoặc sau giờ tan học. Anh Aleksei, anh có biết, thế nào là nỗi cô đơn không anh?". "Hy vọng" là tên của cuốn tiểu thuyết, cũng là tên gọi của ngôi nhà thơ mộng, tọa lạc trên trảng cỏ, giữa rừng già nguyên sinh, quanh năm róc rách tiếng suối chảy, vi vu tiếng thông reo, líu lo tiếng chim hót, đẹp như miền cổ tích. Những áng văn đẹp, mượt mà, về cánh rừng, về con suối, về "ngôi nhà cổ tích" và những bí ẩn của ngôi nhà này cùng những con người từng sống và đang sống trong đó khẳng định điều này. Nét độc đáo của cuốn tiểu thuyết hiện đại nhuốm màu cổ tích, là ở chỗ, nó thực đến đau lòng và rất đời. Bằng những dòng hồi tưởng giầu nội tâm, nữ nhà văn Katarzyna Michalak kể cho ta nghe câu chuyện đầy tính nhân văn, xúc động đến trào nước mắt, về tình bạn và tình yêu, về giận và thương, về lòng quả cảm và sự hy sinh mà mỗi người chúng ta đều có thể tìm thấy bóng dáng cuộc đời mình trong đó.                                                        Thanh Trà *** Tóm tắt Tiểu thuyết Hy Vọng của nhà văn Ba Lan Katarzyna Michalak kể về câu chuyện tình yêu đầy bi kịch giữa Lila Borawa, một cô gái Ba Lan, và Aleksei Dragonow, một chàng trai người Nga. Lila và Aleksei gặp nhau khi còn nhỏ, và nhanh chóng trở thành bạn thân. Tuy nhiên, số phận đã chia cắt họ khi Aleksei được đưa đi sống với dì ở Nga. Nhiều năm sau, Aleksei trở về làng thăm Lila, nhưng mỗi lần như vậy, Lila chỉ làm tổn thương anh. Cô luôn ôm ấp trong lòng nỗi căm thù đối với người Nga, và Aleksei là biểu tượng của nỗi căm thù đó. Tình yêu và lòng căm thù cứ quấn lấy nhau, khiến Lila và Aleksei không thể thoát ra. Họ yêu nhau nhưng cũng ghét nhau, họ muốn bên nhau nhưng cũng muốn xa nhau. Cuối cùng, định mệnh đã đưa họ đến với cái chết, nhưng tình yêu của họ vẫn còn mãi. Đánh giá Tiểu thuyết Hy Vọng là một câu chuyện tình yêu đẹp nhưng cũng rất đỗi bi thương. Tác phẩm đã khắc họa thành công những cung bậc cảm xúc phức tạp của Lila và Aleksei, từ tình bạn, tình yêu, đến lòng căm thù và sự hy sinh. Nét độc đáo của cuốn sách là ở chỗ, nó kết hợp giữa yếu tố hiện đại và cổ tích. Ngôi nhà “Hy Vọng” nơi Lila và Aleksei gặp nhau lần đầu tiên là một nơi đẹp như trong truyện cổ tích, nhưng cũng là nơi chứa đựng nhiều bí mật và đau thương. Tiểu thuyết Hy Vọng là một tác phẩm văn học đáng đọc, mang đến cho người đọc nhiều suy ngẫm về tình yêu, lòng căm thù và định mệnh. Một số nhận xét của độc giả về tiểu thuyết “Một câu chuyện tình yêu đẹp nhưng cũng rất đỗi bi thương. Tôi đã khóc khi đọc những trang cuối cùng của cuốn sách.” “Tác phẩm đã khắc họa thành công những cung bậc cảm xúc phức tạp của Lila và Aleksei. Tôi có thể cảm nhận được tình yêu, lòng căm thù và sự hy sinh của họ.” “Nét độc đáo của cuốn sách là ở chỗ, nó kết hợp giữa yếu tố hiện đại và cổ tích. Tôi đã rất ấn tượng với ngôi nhà “Hy Vọng” nơi Lila và Aleksei gặp nhau lần đầu tiên.” Mời các bạn mượn đọc sách Hy Vọng của tác giả Katarzyna Michalak & Lê Bá Thự (dịch).
Thầy Lazaro Phiền
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Thầy Lazaro Phiền của tác giả Nguyễn Trọng Quản. Truyện thầy Lazaro Phiền, tác phẩm của Nguyễn Trọng Quản, được cho là cuốn tiểu thuyết viết bằng chữ Quốc ngữ đầu tiên của Việt Nam. Cuốn Truyện thầy Lazaro Phiền do nhà J. Linage, Libraire-Éditeur đường Catinat Sài Gòn xuất bản năm 1887. Tác giả là người Công giáo trong thời gian giáo dân còn rất ít, và truyện có rất nhiều chi tiết và nhân vật Công giáo. Truyện tuy ngắn (bản in chỉ trên 50 trang) nhưng có cấu trúc của một cuốn tiểu thuyết Tây phương, và có chủ đề tâm lý nội tâm, là bước đột phá ra khỏi khuôn cấu trúc của truyện xưa. Hồ Biểu Chánh gọi Truyện thầy Lazaro Phiền là một trong ba cuốn tiểu thuyết khiến ông hướng về nghiệp viết văn. (Hai cuốn kia là Hoàng Tố Anh hàm oan của Trần Chánh Chiếu và Phan Yên ngoại sử của Trương Duy Toản.) Trong đất thánh làng Phước Lễ, tỉnh Bà Rịa có một nghĩa địa điêu tàn. Bên cạnh những ngôi mộ các thánh tử vì đạo, có một ngôi với chiếc thánh giá đơn sơ mang tên "Thầy Lazaro Phiền". Thầy Lazaro Phiền quê tại Đất Đỏ. Năm Phiền ba tuổi thì mồ côi mẹ. Khi đó, giáo dân bị cấm đạo, bị bắt bớ tù đày rất nhiều. Khi Pháp đánh tới Bà Rịa thì 300 giáo dân trong nhà lao bị thảm sát, nhà ngục bị thiêu hủy, chỉ còn mười người sống sót, trong đó có Phiền. Phiền được một quan ba người Pháp đem về Gia Định cho một linh mục nuôi ăn học. Học trường d'Adran, Phiền kết bạn với Vêrô Liễu, con một ông trùm họ ở Cầu Kho. Qua Vêrô Liễu, Phiền quen cô em họ của Liễu và đem lòng yêu cô này. Lớn lên, hai người kết vợ chồng, chung sống trong nhà Liễu. Sáu tháng sau, Phiền đi làm thông ngôn tại Bà Rịa. Tại đây, Phiền gặp một cô vợ người Việt của một quan ba Tây. Nàng đem lòng thương yêu Phiền nhưng Phiền cự tuyệt. Nàng ấy bèn viết thư nặc danh tố cáo vợ Phiền tư tình với Vêrô Liễu. Phiền về điều tra, khám phá thư của Liễu hẹn hò với vợ mình. Nhân dịp được lịnh dẫn lính đi phục kích một vụ cướp ghe, và cùng lúc Liễu đi ghe về Sài Gòn, Phiền sắp đặt cho lính "bắn lầm" giết Liễu. Xong, Phiền về nhà, đánh thuốc độc cho vợ chết. Vợ bị thuốc độc hành hạ hơn mười một tháng mới chết. Trước khi tắt thở, vợ thầy bình tĩnh nói: "Tôi biết làm sao mà tôi phải chết, song tôi cũng xin Chúa tha thứ cho thầy!" Giết được "đôi gian phu dâm phụ" nhưng lòng Phiền vẫn không an, chán đời đen bạc, Phiền bỏ việc đi tu tại nhà thờ họ Tân Định. Phải mười một năm sau, thầy Phiền ghé qua Bà Rịa thăm chốn cũ nơi xưa, Phiền mới nhận được thư một phụ nữ. Đó là thư của vợ quan ba Tây năm xưa. Bà thú tội đã vu cáo vợ thầy, giả nét chữ của Liễu và gài thư giả mạo trong áo vợ thầy Phiền. Nhưng vẫn không toại nguyện vì thầy không đến với bà mà lại bỏ đi tu. Đọc xong bức thư thú tội này, thầy Phiền chết đi trong nỗi ân hận không nguôi với tội ác tày trời của mình. Mời các bạn mượn đọc sách Thầy Lazaro Phiền của tác giả Nguyễn Trọng Quản.