Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bỗng Dưng Muốn Sống

Với bốn cuốn tiểu thuyết đã xuất bản dạng khổ lớn và ba cuốn dạng sách bỏ túi, Laurent Gounelle đã hai lần được ghi tên trong bảng xếp hạng 10 tiểu thuyết gia bán được nhiều sách nhất tại Pháp. Trong bảng top 10 năm 2014, do tuần báo Le Figaro bình chọn, anh đứng ở vị trí thứ 10 với 430.000 cuốn sách đã được bán. Là một chuyên gia về môn Khoa học nhân văn, được đào tạo tại Pháp và Hoa Kỳ, là diễn giả thường xuyên của các trường đại học, Laurent Gounelle đi khắp nơi trên thế giới để gặp gỡ, trò chuyện. Và trong mỗi dịp ấy, anh quan sát, ghi nhận từ mỗi người, theo cách của mình, đem đến những luồng sáng, những lời giải thích cho vấn đề cốt lõi nhất: làm sao để tinh thần thăng hoa và đem lại cho cuộc sống một ý nghĩa tích cực. Tôi đã rất ấn tượng và bị cuốn hút trước sự đam mê của anh đối với nền triết học phương Đông, mà theo tôi, anh đã thẩm thấu khá sâu đậm. Trong tác phẩm của mình, anh luôn nhấn mạnh đến sự sống chậm, đến thiên nhiên, đến những gì mà từ ngàn đời Tạo hóa ban tặng cho chúng ta. Laurent Gounelle phân tích một cách thuyết phục những bất cập của cuộc sống hiện đại luôn hối hả, xô bồ và chỉ ra mặt trái của sự toàn cầu hóa… Những phát triển của ngành công nghệ đã dần dần bào mòn đi khả năng cảm thụ và thấu cảm của con người. Cảm xúc trở nên lạnh lẽo, nhạt nhòa hơn khi ta bấm trên bàn phím một tin nhắn, một lá thư điện tử để hỏi thăm nhau thay bằng đến gặp nhau trò chuyện như trước kia. Nhiều thuần phong mỹ tục cũng bị cơn bão công nghệ cuốn dần đi. Anh cho rằng niềm vui, hạnh phúc, sung sướng hay khổ đau đều đến từ chính ta, ta suy nghĩ hay nhìn cuộc sống của mình như thế nào thì nó sẽ ra thế ấy. Trong cuốn sách Bỗng dưng muốn sống này, nhân vật chính Jonathan, là một người đàn ông trẻ đầy tham vọng và tràn trề nhựa sống, nhưng đang gặp rắc rối trong cuộc sống gia đình và công việc. Anh là đồng sở hữu một văn phòng bảo hiểm. Công việc bề bộn cùng những áp lực về doanh thu, về thu nhập và nhu cầu trong cuộc sống đã khiến anh bị cuốn vào một đời sống đơn điệu, sa vào những mánh khóe chiêu dụ khách hàng để có được các hợp đồng. Và rồi anh cùng gia đình bé nhỏ của mình bị rơi vào một cái bẫy do chính cộng sự giăng ra hòng mua rẻ số cổ phần của anh trong công ty. Đúng lúc bẫy vừa chụp xuống lưng chừng thì anh nhận được lời dự đoán của một cô gái Bô-hem: “Anh sắp chết…!”. Từ chỗ hoang mang lo sợ, chán nản, buông xuôi rồi từ từ thay đổi góc nhìn, cách cảm nhận cuộc sống, xoay chuyển tư duy và mục tiêu kinh doanh, âm thầm làm những điều thiện lành nho nhỏ mang lại niềm vui bất ngờ cho người khác, Jonathan đã “ngộ” ra được giá trị của sự an lạc. Khi hành động mang lại lợi ích, hạnh phúc cho người xung quanh, anh đã tự tạo ra được nguồn cảm hứng cho những ngày mới tràn đầy năng lượng. Anh đã không còn cảm thấy sợ cái chết. Nhưng hơn bao giờ hết, anh bỗng dưng khao khát được sống - một cuộc sống năng động mà an nhiên, từng giây từng phút gieo hạt giống yêu thương, từng khoảnh khắc nở nụ cười thân thiện, để đón trở về trong lòng mình sự thanh tĩnh, bình yên. Trải nghiệm những ngày đếm lùi để đối điện với bản án tử bí hiểm mà cô gái Bô-hem xa lạ báo trước, Jonathan cùng những phát hiện mới mẻ của mình sẽ mang lại cho bạn đọc nhiều điều bất ngờ, ẩn chứa những thông điệp kỳ diệu của cuộc sống và bạn sẽ hiểu vì sao nhân vật của chúng ta bỗng dưng muốn sống. Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc. Paris tháng 11/2017 Hiệu Constant *** Review Yến Yến:   “Để sống thoải mái cuộc sống của mình, – Bác Margie tiếp tục lên tiếng, – điều cần thiết là lắng nghe những gi vọng tới từ sâu trong tâm hồn chúng ta. Lắng nghe những bức thông điệp thì thầm phát ra từ chính tâm hồn chúng ta. Nhưng tâm hồn chúng ta thì giống như một thiên thần, luôn thì thầm bằng một giọng quá dịu êm, quá nhỏ, đến nỗi ta phải dỏng tai lên. Cháu làm sao có thể nghe thấy nó khi cháu đứng giữa đám đông huyên náo không ngừng chứ?…” Jonathan được nhắc đến là một nhân vật chính của cuốn sách này. Có lẽ khi cầm cuốn sách này trên tay, hầu như tất cả những người trẻ đều thấy bản thân mình ở trong đó: Bị cuốn đi bởi những bận rộn của lối sống hiện đại mà không hề có thời gian cho tâm hồn được ngơi nghỉ. Jonathan là một điển hình cho một người như thế – người đàn ông trẻ đầy tham vọng và tràn trề nhựa sống. Anh đồng sở hữu một văn phòng bảo hiểm nhưng công việc bộn bề cùng với những áp lực về doanh thu, về thu nhập và nhu cầu trong cuộc sống đã khiến anh bị cuốn vào một đời sống đơn điệu. Gia đình anh bắt đầu rạn nứt và đổ vỡ. cuộc sống ngày một bế tắc thì anh lại nhận được lời dự đoán của cô gái xem đường chỉ tay Bô-hem: “Anh sắp chết!” Cuộc sống của anh ngày một lao đao hơn khi anh không thể nào thoát ra khỏi ý nghĩ về cái chết của bản thân mình. Cuối cùng anh đã quyết định nghỉ việc, tìm đến nghỉ dưỡng để tịnh tâm. Đây cũng chính là quãng thời gian anh gặp bác gái của mình – Bác Margie – người phụ nữ với những chiêm nghiệm về cuộc đời và nhân sinh đã giúp anh cảm thấy “bỗng dưng muốn sống”. Bác giúp anh hòa hợp với thiên nhiên, giúp anh hiểu được mỗi chúng ta “là những cá thể hoàn chỉnh và thiên nhiên dẫn dắt chúng ta cảm nhận điều đó một cách sâu sắc, trong khi xã hội tạo ra nơi chúng ta sự trống vắng thiếu hụt”. Bác giúp anh biết lắng nghe tiếng nói từ sâu thẳm trong tâm hồn mình, để hiểu rõ, cuối cùng thì điều thực sự mình muốn là gì? Bằng những chiêm nghiệm qua cách dẫn dắt của bác Margie về sự sống chậm, đến thiên nhiên, đến những gì mà từ ngàn đời tạo hóa ban tặng cho chúng ta đã giúp chúng ta hiều bản thân mình hơn một cách nhẹ nhàng. Từ đó, Jonathan đã cân bằng lại được cuộc sống vồn vã trước kia của mình. Anh bắt đầu dành thời gian cho bản thân mình hơn đồng thời âm thầm làm những điều thiện lành nho nhỏ để mang lại niềm vui bất ngờ cho người khác. Gửi một tách cà phê cho một cô gái ngồi âu sầu ở quán, tặng một bó hoa hồng ngẫu nhiên cho người thứ bảy bước xuống từ một chuyến tàu,… Cuối cùng, anh cũng đã ngộ ra được giá trị của sự an lạc và phá bỏ lời nguyền về cái chết của cô gái Bo-hem. Và đơn giản, ai chẳng không muốn “muốn sống” một cuộc sống tuyệt với như thế. Hiểu tận cùng nỗi đau Từ cửa sổ phòng tắm trên tầng lầu ngôi nhà nhỏ màu đỏ mà anh thuê từ gần ba tháng nay trong một con hẻm xinh xắn của thành phố San Francisco, Jonathan vừa cạo râu, vừa quan sát lũ cỏ ba lá tròn mọc nhanh một cách vô cảm trên bãi gazon*. Bãi cỏ thảm hại, vàng ủng dưới ánh nắng chói chang nghiệt ngã của mặt trời tháng Bảy, dường như đã sẵn sàng xin chào thua rồi. Dùng chất clopyralid* thì chẳng ăn nhằm gì. Từ đầu tháng phun cả một bình đầy mà không mang lại tác dụng nào. Phải nhổ thôi, từng cọng một, mình buộc phải làm thế, - Jonathan tự nhủ trong lúc bàn cạo râu điện rà rà mơn man dưới cằm trong một âm thanh rì rì không ngớt. Anh thiết tha chăm sóc khu vườn đến mức tốt nhất: khu vườn nằm sau nhà và quay hướng Nam, là sân chơi cho cô con gái nhỏ của anh, Chloé, trong kỳ nghỉ cuối tuần, khi nó về ở với bố, xen kẽ hai tuần một lần. • Gazon là dạng bãi cỏ mọc do được gieo hạt, không phải là bãi cỏ mọc tự nhiên. • Một loại thuốc diệt cỏ. Vừa tiếp tục cạo râu, Jonathan vừa kiểm tra thư điện tử trên chiếc điện thoại thông minh của mình. Những yêu cầu của khách hàng, một đơn khiếu nại, một bữa ăn trưa bị hoãn, bản báo cáo hàng tháng của ban Kế toán, một món quà tặng thương mại của Công ty Cung ứng điện thoại và vài bản thông tin mới. Quay lại trước gương, anh vớ một cây phớt nhỏ và một lọ thuốc nhuộm tóc màu đen. Rất tinh tế, anh thấm nước nhuộm lên những sợi tóc bạc đầu tiên trên đầu mình. Tuổi ba mươi sáu vẫn còn quá sớm để có thể chấp nhận dấu ấn thời gian. Anh hối hả chuẩn bị để kịp đến đúng giờ hẹn, cuộc gặp gỡ hàng ngày ở quán cà phê trên quảng trường diễn ra mỗi sáng kể từ khi thành lập công ty bảo hiểm từ 5 năm trước, ba cộng sự đều gặp nhau tại đó để dùng cà phê sáng, nhanh thôi, ngay trên mảnh sân hiên ngoài trời. Một trong ba người chính là bạn gái cũ của anh, Angela, và sự chia tay mới đây giữa anh và cô ấy đã không làm thay đổi thói quen hình như đã trở thành bất biến này. Văn phòng bảo hiểm của họ là cơ quan duy nhất trong thành phố chuyên về lượng khách hàng gồm các tiểu thương nhỏ của cả khu vực. Sau thời kỳ khởi đầu khá khó khăn, văn phòng hiện thời đã vận hành tốt và cho phép các cộng sự cùng trợ lý của họ được nhận lương tháng, dẫu khoản tiền lương ấy vẫn còn khiêm tốn. Văn phòng đã bén rễ và hứa hẹn những viễn cảnh tăng trưởng. Chắc chắn là còn phải chiến đấu và đôi khi Jonathan cảm thấy chút nản chí chợt thoáng qua tâm tưởng, nhưng anh tiếp tục tin rằng mọi chuyện đều có thể xảy ra, và những giới hạn duy nhất chính là giới hạn mà ta tự đặt cho mình. Anh bước xuống bậc tam cấp và đi ra cổng. Không khí thơm nồng phảng phất mùi sương mù mùa hè. Tình trạng khu vườn nhỏ nằm giữa ngôi nhà và đường phố cũng chẳng khá khẩm hơn khu vườn đằng sau kia. Khu vườn này quay hướng Bắc, lại bị rêu mọc ở khắp nơi. Có thư tín nằm đợi Jonathan trong thùng thư. Anh bóc một phong thư do nhà băng gửi tới. Tiền thanh toán phí sửa xe đã khiến tài khoản bị báo động đỏ. Phải nhanh chóng cứu trợ thôi. Lá thư thứ hai đến từ nhà cung ứng điện thoại. Có lẽ lại là một hóa đơn nữa… - Xin chào! Cũng ra lấy thư tín như anh, người hàng xóm chào anh với dáng vẻ hoàn toàn thư thái, điệu bộ của kẻ mà hình như cuộc sống luôn mỉm cười với hắn. Jonathan cũng chào đáp lại. Một con mèo cọ vào chân anh và miệng kêu meo meo. Jonathan cúi xuống âu yếm nó. Đó là con mèo của một bà lão ở trong khu chung cư nhỏ bên cạnh. Jonathan thường xuyên thấy nó trong vườn nhà mình, Chloé vui thích vô cùng khi gặp nó. Trên phố, con mèo liền tiến lên đi trước Jonathan rồi kêu meo meo khi đến khu chung cư, mắt ngước nhìn anh. Jonathan đẩy cánh cửa và nó lao nhanh vào bên trong, trong lúc mắt vẫn không rời khỏi anh. - Mày muốn tao đi cùng với mày ư, đúng không? Tao đang vội lắm, mày biết đó, - Jonathan nói trong lúc mở cửa thang máy. Đi nào, nhanh lên đi! Nhưng con mèo cứ đứng lì ở chân cầu thang bộ, miệng kêu meo meo nhẹ nhàng. - Mày thích đi cầu thang bộ hơn, tao biết… nhưng tao không có thời gian. Nào, đến đây đi… Con mèo chớp chớp mắt nài nỉ. Jonathan thở hắt ra. - Mày quá đáng lắm rồi đấy… Anh ôm con mèo trên tay và bước nhanh qua các bậc cầu thang lên tận tầng ba. Anh bấm chuông rồi lại đi xuống ngay mà không đợi. - A! Mày đây rồi, đồ háo chiến! - Tiếng bà cụ già vang lên. Jonathan bước nhanh trong con hẻm giữa những ngôi nhà còn ngái ngủ, rồi rẽ phải vào phố buôn bán để đến khu quảng trường nhỏ, nơi anh có hẹn. Anh chợt nghĩ đến sự kiện diễn ra hôm trước mà anh đã tham dự: chống nạn phá rừng trong vùng Amazôn. Cuộc biểu tình đã quy tụ vài trăm người tham gia và thu hút được sự chú ý của báo chí địa phương. Thoạt đầu, được thế đã là tốt rồi. Đi qua trước cửa hiệu bán đồ thể thao, anh liếc nhìn đôi giày đã trêu ngươi anh từ ít lâu nay. Tuyệt hảo nhưng đắt quá chừng. Xa hơn chút nữa, mùi bánh ga-tô nóng thơm lừng quyến rũ thoảng tới quấy nhiễu mũi anh. Mùi thơm này bay ra từ những ô cửa sổ được trổ rất khéo trên mặt tiền một cửa hiệu bánh ngọt Áo. Anh đã suýt xiêu lòng, nhưng rồi cố gắng đi nhanh hơn. Quá nhiều chất cholesterol. Trong tất cả các cuộc chiến thường nhật, thì cuộc chiến đấu chống lại những ham muốn mà người ta luôn luôn cố tình làm nảy sinh trong chúng ta, liệu đã phải là tệ hại nhất không nhỉ? Vài người vô gia cư đang nằm ngủ rải rác đây đó, dưới những tấm chăn. Ông chủ hiệu bán đồ khô người Mê-hi-cô đã mở cửa, cũng như các sạp báo và xa hơn chút nữa là ông chủ hiệu làm đầu gốc Puerto Rico. Anh chạm mặt một số khuôn mặt thân quen đang trên đường đi làm, vẻ mặt họ lơ đễnh. Chỉ một giờ đồng hồ nữa thôi, khu phố này sẽ rất náo động. Mission District là khu cổ nhất thành phố San Francisco. Tất cả nơi đây đều tạp nham: những ngôi biệt thự thời Victoria đã hơi cũ nằm cạnh những tòa nhà cao tầng vô hồn, những tòa nhà hiện đại này lại nằm cạnh những khu chung cư cổ lỗ xập xệ. Những ngôi nhà cổ màu phấn phơn phớt cạnh những tòa nhà phủ đầy những hình vẽ tự phát với những gam màu lòe loẹt. Chính dân chúng nơi đây cũng sống rải rác giữa nhiều cộng đồng khác nhau. Họ chạm mặt nhau nhưng không thực sự giao du với nhau. Ta nghe thấy đủ các thứ tiếng như Trung Quốc, Tây Ban Nha, Hy Lạp, Ả Rập hoặc Nga. Ai nấy sống trong thế giới của mình mà không bận tâm đến những người xung quanh. Một người ăn mày tiến đến và chìa tay ra. Jonathan lưỡng lự giây lát rồi bước qua trong lúc cố tránh nhìn vào mắt ông ấy. Ta làm sao có thể cho tất cả mọi người được. Michael - cộng sự của anh - đã chọn bàn trên sân quán cà phê. Đó là một người đàn ông trạc tứ tuần, lịch lãm với nụ cười quyến rũ, nói rất nhanh và luôn tràn trề năng lượng đến nỗi ta phải tự hỏi liệu có phải anh ấy được gắn với các hộp pin cao áp hay đơn giản là đã được tiêm amphêtamin. Com-plê màu cát, áo sơ mi trắng và cà-vạt lụa màu vàng dệt nổi, anh ta ngồi trước một cốc cà phê to và phần bánh carrot cake, mà nó hình như được chọn để hợp với màu chiếc cà-vạt. Phần sân hiên quán cà phê chiếm dụng một khoảng lớn vỉa hè, đủ sâu để khiến ta quên đi luồng xe hơi đang chạy ngoài kia, đằng sau dãy cây thấp, được trồng trong những bồn gỗ lớn sánh ngang các vườn ươm trong các tòa lâu đài. Bàn ghế được làm từ song mây tạo thêm cảm giác rằng ta đang ở nơi khác, chứ không phải ở trung tâm thành phố. - Cậu ổn chứ? - Michael lên tiếng với một chất giọng đầy hưng phấn. Cảnh tượng gần giống với các màn diễn của Jim Carrey trong phim Mặt nạ*. • Phim The Mask với sự tham gia của nam diễn viên điện ảnh Mỹ Jim Carrey. - Còn anh thì sao? - Jonathan đáp lại hệt như thường lệ. Anh lấy trong túi ra một lọ nước tẩy trùng, nhỏ vài giọt lên những ngón tay và xoa thật mạnh. Michael nhìn anh với một nụ cười thích thú trên môi. - Tuyệt đỉnh! Cậu dùng gì hả? Hôm nay có bánh ga-tô ngon lắm. - Giờ anh lại ăn sáng bằng bánh ga-tô à? - Đấy là chế độ ăn mới của tôi đấy: một chút đường vào buổi sáng để khởi động, sau đó thì suốt cả ngày sẽ chẳng có gì hết. - Thế thì gọi bánh ga-tô đi. Michael ra hiệu cho người bồi bàn và gọi đồ ăn. Trong ba cộng sự thì Michael là người xử lý tốt nhất những mánh lới nghề nghiệp, Jonathan thường xuyên cảm thấy và dành cho anh ta một sự ngưỡng mộ nhất định. Anh thèm muốn sự lưu loát thuần thục mà Michael có được để dẫn dụ khách hàng vào một tình thế thích hợp để rồi bị thuyết phục. Khi đi cùng anh ta tiến hành thăm dò tư tưởng của những tiểu thương, Jonathan chứng kiến nhiều cảnh đáng kinh ngạc mà Michael đã có thể lật ngược tình thế để thuyết phục được một khách hàng tiềm năng nhưng hết sức khó tính. Sau một thời gian dài được đào tạo và huấn luyện các phương pháp bán hàng, Jonathan đã xoay xở khá thành công, nhưng anh vẫn cần phải có nhiều nỗ lực đáng kể ở những điểm mà Michael đã thực hiện với một sự thuần thục cao độ, thông thạo mọi chi tiết kỹ thuật để thuyết phục được khách hàng đồng ý ký hợp đồng mới, những chọn lựa mới, luôn luôn gia tăng các điều khoản bảo hiểm để bảo vệ mình hơn nữa, cho đến tận lúc cứ đồng ý mua các khoản mà không hề nhận ra rằng trên thực tế chúng bảo hiểm cho cùng một rủi ro… Trong lĩnh vực này - anh ta đã thổ lộ bí quyết với các cộng sự của mình - sợ hãi là cảm xúc chúa tể, đồng minh cốt lõi của người bán hàng. Cảm xúc đó mà nảy sinh trong ánh mắt của nhà buôn thì ngay lập tức gợi lên hình ảnh của một thảm họa, một vụ trộm, một vụ kiện tụng. Thoạt đầu rất nhỏ, nhưng rất âm ỉ, nó nhanh chóng thấm vào tận các hang cùng ngõ hẻm của trí óc cho đến lúc nó trở nên chiếm ưu thế trong tính năng quyết định. Khi ấy khoản lệ phí hàng năm sẽ được đưa ra, khoản này sẽ được so sánh với phí tổn của một trận hỏa hoạn, một tai nạn hoặc một vụ kiện tụng bởi một khách hàng tiêu dùng giận dữ? Các viễn cảnh tai nạn càng ảm đạm bao nhiêu thì các khoản đóng bảo hiểm hình như càng chẳng đắt đỏ gì… Jonathan là một người trung thực, nên anh thường cảm thấy hơi có lỗi. Nhưng tất cả các đối thủ cạnh tranh của anh đều vận dụng những kỹ thuật này, mà nếu một mình từ bỏ chúng thì e sẽ bị trừng phạt. Trong thế giới nhẫn tâm này, các quy tắc là đúng như chúng vốn thế, - anh tự nhủ. Tốt hơn là chấp nhận chúng và cố gắng lấy lại vốn liếng của mình nếu như ta không muốn đến nhập bọn cùng với những kẻ bị xã hội ruồng bỏ… - Cậu biết đấy, - Michael nói, - tôi đã suy nghĩ rất nhiều về tình trạng của cậu trong những ngày gần đây. - Tình trạng của tôi ư? Michael gật đầu nhẹ. Ánh mắt anh ta ngập tràn sự cảm thông. - Càng quan sát kỹ các bạn, thì tôi lại càng tự nhủ rằng quả là địa ngục đối với cậu khi cứ tiếp tục làm việc hàng ngày với người vợ cũ như hiện nay. Hơi bị bất ngờ, Jonathan ngước nhìn người cộng sự mà không đáp lại. - Các người cứ làm khổ lẫn nhau. Thật chẳng ra làm sao cả. Jonathan vẫn nín thinh. - Và chuyện ấy không thể kéo dài mãi được. Jonathan cụp mắt xuống. Michael nhìn anh gần như rất trìu mến. - Thế nên tốt hơn là thúc tiến trước đi… Anh ta cắn một miếng bánh carrot cake. - Tôi đã động não ghê lắm, lật ngược lật xuôi vấn đề, và cuối cùng tôi đã tìm ra đề xuất này cho cậu. - Một đề xuất à? - Ừ. Jonathan lại quay về với trạng thái yên lặng. - Cậu không cần trả lời ngay lập tức đâu, hãy cứ bình tĩnh suy xét cho kỹ. Jonathan nhìn anh ta một cách chăm chú. - Tôi sẵn sàng, - Michael lên tiếng, - gắng sức để mua lại các phần của cậu, nếu như cậu muốn rút đi. - Các phần của tôi… thuộc văn phòng công ty ư? - Đúng thế, chứ không phải phần bánh ga-tô của cậu đâu. Jonathan không sao thốt được thành lời. Anh chưa bao giờ có ý định rời khỏi công ty mà họ đã cùng nhau sáng lập nên. Anh đã đầu tư vào đó biết bao nhiêu, cả thể xác lẫn tâm hồn, đến nỗi mà nơi đó đã trở thành… như chính một bộ phận của cơ thể anh vậy. Anh cảm thấy lòng quặn thắt. Rời khỏi công ty đồng nghĩa với việc tự cắt đi phần cốt lõi nhất của cuộc đời anh. Bắt đầu lại từ con số 0. Phải gầy dựng lại toàn bộ… Một màn hình ti vi gắn trên tường trong quán cà phê đang phát những hình ảnh về Austin Fisher, quán quân quần vợt đã giật được cơ man là giải thưởng. Sau khi đã tiếp tục chiến thắng giải Wimbledon vài tuần trước, cầu thủ này lại có mặt tại Flushing Meadow với rất nhiều triển vọng cho giải US mở rộng. Jonathan nhìn những hình ảnh, vẻ mơ màng. Bán lại các cổ phần cho Michael chắc cũng sẽ đồng nghĩa với việc từ bỏ ước mơ thầm kín của anh: vượt anh ta, để đến lượt anh sẽ trở thành người thu được thành quả kinh doanh tốt nhất. - Tôi sẽ phải đi vay thêm, - Michael tiếp tục lên tiếng - cũng nặng đô đấy, nhưng có lẽ đó là điều mà tất cả chúng ta nên làm. - Hello mọi người! Angela ngồi vào bàn cùng họ và ồn ĩ thở hắt ra để biểu lộ sự bực bội của mình, tuy nhiên vẫn có nụ cười thoáng trên môi. Jonathan biết rõ tâm tính cô ấy. - Cô khỏe chứ? - Michael hỏi. - Con gái anh đã không muốn đánh răng, - cô gái lên tiếng trong lúc hất cằm về phía Jonathan. - Đương nhiên là mẹ nó đã không nhân nhượng. Em đã phải chiến đấu trong suốt mười phút liền… Kết quả là khi đến nơi thì cổng trường đã đóng. Nó đã phải tự bấm chuông phòng người quản trường và đã bị mắng cho một trận. Đáng đời nó lắm! - Cà phê Mỹ, như thường lệ chứ hả? - Michael hỏi mà không đánh mất đi nụ cười của mình. - Không, một cà phê đúp đi, - Angela đáp và lại tiếp tục thở hắt ra. Michael gọi cà phê. Angela đưa mắt nhìn Jonathan kèm theo một nụ cười a-xít. - Anh có vẻ bình thản nhỉ. Thư giãn… Anh không phản ứng. Cô luồn bàn tay vào mái tóc hạt dẻ sáng màu và dài chớm vai của mình. - Anh đã trách em, - cô nói, - dành thời gian chăm sóc đám cây cối hơn là chăm con gái nhưng mà… - Anh chưa bao giờ trách em điều ấy, - Jonathan phản kháng bằng một chất giọng đã kịp mang màu cờ trắng rồi. - Nhưng đám cây cối của em, như anh thấy đấy, chúng chẳng bao giờ lăn lộn ra đất và kêu toáng lên cả. Jonathan cố kìm một nụ cười, rồi uống tách cà phê của mình mà không nói gì. Họ chia tay nhau đã ba tháng nay, nhưng cô tiếp tục trách cứ anh hệt như trước đây. Và kỳ lạ, đột nhiên anh cảm thấy thích điều ấy. Bởi nó gây cho anh cảm giác quan hệ giữa anh và cô, dẫu đã chia cắt, nhưng vẫn tiếp tục. Anh chợt ngộ ra điều mà anh đã chưa bao giờ thú nhận: tận sâu trong tâm khảm mình, tia hy vọng sẽ nối lại tình xưa vẫn đang ngủ gà ngủ gật đâu đó. Bán các cổ phần của anh trong công ty cho Michael là dập tắt cả tia hy vọng đó trong anh, khi hủy bỏ mối quan hệ hàng ngày cuối cùng giữa anh và Angela. Anh quáng quàng đi đến buổi hẹn làm việc đầu tiên trong ngày, bỏ mặc các cộng sự trên sân hiên quán cà phê. Bản danh sách những khách hàng tiềm năng cần gặp gỡ thì dài. Sẽ là một ngày vất vả đang chờ đợi đấy, nhưng hôm nay là ngày làm việc cuối cùng trước kỳ nghỉ cuối tuần. Anh sẽ còn thời gian để nghỉ ngơi. Anh còn lâu mới hình dung rằng chỉ hai ngày sau, cuộc đời của anh sẽ thay đổi hoàn toàn. Mời các bạn đón đọc Bỗng Dưng Muốn Sống của tác giả Laurent Gounelle.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bà Bovary - Gustave Flaubert
Tác phẩm hay là tác phẩm mà khi đọc xong có nhiều những ý kiến trái chiều, Bà Bôvary của tác giả Gustave Flaubert - một tác giả nổi tiếng của nền văn học Pháp là tác phẩm như vậy. Bà Bovary (Madame Bovary, 1856) là cuốn tiểu thuyết cỡ lớn, mô tả các nhân vật tầm thường mà không thể quên được. Tác phẩm kể về nàng Emma Bovary, con một nông dân khá giả chịu ảnh hưởng của tiểu thuyết lãng mạn nên ước mơ một cuộc sống phóng khoáng, phong lưu nhưng cuối cùng nàng lấy phải một anh chồng đần độn và nàng bị giam hãm vào cuộc sống tư sản chật hẹp, buồn tẻ tầm thường nơi tỉnh nhỏ. Để đạt được ước mơ Emma không tránh khỏi con đường ngoại tình rồi cuối cùng bị lừa gạt, mang công mắc nợ và nàng phải tự tử. Sau khi cuốn tiểu thuyết này được phổ biến, nhà văn Flaubert đã bị đưa ra tòa vì xúc phạm vào nền luân lý công cộng do vấn đề liên quan tới phong tục và các chi tiết thẳng thắn, nhưng rồi về sau, ông đã được tha bổng. Qua tác phẩm này, người đọc có thể nhận ra nơi các nhân vật các đặc tính tầm thường, đôi khi ngu xuẩn (stupidity) và tác giả hầu như muốn nói rằng Thượng Đế không ở trên thế gian. Tác giả đã dùng thể văn gián tiếp tự do (free indirect style) qua đó các tư tưởng của nhân vật được thuật lại bằng người kể chuyện rành mạch và khách quan. Đọc Bà Bôvary người đọc sẽ thấy được xã hội tư sản Pháp lúc bấy giờ và tư tưởng của Flaubert. Tác phẩm này với cái tên Bovary thậm chí đã đi vào ngôn ngữ Pháp đẻ ra danh từ chung “Chủ nghĩa Bovary”… Đây là một tác phẩm văn học độc đáo, đặc sắc rất có ích cho những người yêu văn học. *** Emma Bovary là nhân vật hai mặt, một mặt đáng thương và một mặt đáng chê trách, và thái độ của Flaubert đối với nàng cũng theo đó mà có hai mặt khác nhau. Trước hết, Emma Bovary là con người đáng thương, ở chỗ mà khi chung quanh nàng, trong cái xã hội tư sản tỉnh nhỏ mốc meo và nhờ nhờ một màu xám, hầu hết mọi người đều tự dối mình và dối người khác, cam tâm sống một cuộc đời thấp hèn, nghèo nàn, ngột ngạt thì chỉ duy có nàng dám cưỡng lại nó, chống lại nó, phản kháng nó, - tất nhiên theo cái cách của nàng! - Để vươn tới một cuộc sống rộng rãi, phong phú, đẹp đẽ hơn. Song sống giữa cái xã hội tư sản giả dối sớm chịu sự giáo dục của nhà tu và chuyên môn đọc những tiểu thuyết lãng mạn, thử hỏi Emma Bovary có thể ước mơ được cái gì và ước mơ đó có thể thực hiện được hay không? Có lẽ cuộc đời chỉ cười với Emma Bovary có một lần, đó là cái lần nàng đi theo chồng được mời đến lâu đài của một hầu tước, ở đó nàng đã say sưa trong một cuộc khiêu vũ điên cuồng để rồi sau đó, trở về với cuộc sống thực tại, nàng còn giữ mãi dư âm như qua một cơn choáng váng sẽ không bao giờ còn trở lại nữa. Giấc mơ quá ngắn ngủi, mà mộng đẹp cũng quá tầm thường! Nhưng, chỉ thế cũng đã làm cho Emma Bovary ngây ngất, hơn nữa, chỉ thế mà Emma Bovary cũng sẽ không bao giờ đạt tới. Thành ra cả cuộc đời nàng chỉ là một cuộc đuổi theo, như một chiếc bóng, giấc mơ khoảnh khắc, hão huyền. Song, nàng càng muốn trốn khỏi cái tầm thường của cuộc đời, nàng càng muốn vươn lên trên bùn nhơ của cuộc sống thì cái tầm thường càng siết chặt lấy nàng, nàng càng bị ngập sâu xuống bùn nhơ. Đó là tất cả tấn bi kịch của cuộc đời Emma Bovary! *** Gustave Flaubert là nhà văn danh tiếng người Pháp, được nhiều người biết tới vì các cuốn tiểu thuyết của ông viết theo trường phái hiện thực (realism), mang đặc tính là sự chú ý từng chi tiết, cách quan sát chính xác, sự quan tâm rất nhiều vào ngôn ngữ và hình thức của cách hành văn và tác giả này đã khổ công theo đuổi cách toàn hảo trong văn chương. Cuốn tiểu thuyết nổi danh nhất của Gustave Flaubert là cuốn "Bà Bovary" (1857) được coi là một trong các tác phẩm quan trọng nhất của nền văn chương Pháp. Từ thời thơ ấu, Gustave đã sớm cảm thấy nhàm chán nơi quê nhà và trường học. Ông tìm được an ủi trong văn học, đặc biệt là nhà văn Chateaubriand và những nhà văn theo chủ nghĩa lãng mạn. Đường đến thành công Các tác phẩm đầu tiên của Flaubert là tự truyện và một số tác phẩm trữ tình lãng mạn: Ký ức một người điên (Les Mémoires d’un fou, 1838), Tháng Mười một (Novembre, 1842) và phiên bản đầu tiên của Giáo dục tình cảm (L’Éducation sentimentale, 1845) là bước đệm chuẩn bị cho tác phẩm Sự cám dỗ của thánh Antoine (La Tentation de saint Antoine) với phiên bản đầu tiên được hoàn thành vào năm 1849. Năm 1846 cha ông qua đời, còn em gái chết vì sốt hậu sản. Ông nhận trách nhiệm nuôi dưỡng con của em gái, Désirée Caroline. Tuy nhiên, cũng năm đó, ông gặp Louise Colet, người phụ nữ cùng ông gây dựng nên mối quan hệ văn thơ, một nhân chứng không thể thay thế trong cuộc đời cầm bút của ông. Mối quan hệ của họ kéo dài đến năm 1854. Tiếng vang lớn trong văn học Năm 1857, Flaubert cho ra mắt tác phẩm Madame Bovary (Bà Bovary). Cuốn tiểu thuyết khiến ông bị kết tội nghịch đạo và vô đạo đức. Tuy nhiên nhiều nhà văn đã lên tiếng bảo vệ ông, như George Sand, Baudelaire và Sainte-Beuve, cuối cùng Flaubert được tuyên trắng án, và scandal đó đã mang lại thành công vang dội cho ông. Năm 1857 Flaubert bắt đầu một dự án đầy tham vọng hơn: hồi sinh lại thành phố Carthage cổ xưa thông qua một cuốn tiểu thuyết. Để thu thập tài liệu, ông đã một mình đi đến Algeria và Tunisia trong năm 1858. Năm năm sau, vào năm 1862, Flaubert công bố tác phẩm Salammbô. Những năm cuối bạc bẽo Năm 1869, sau rất nhiều bản thảo, Flaubert cuối cùng đã xuất bản Giáo dục tình cảm (L’Éducation sentimentale). Đây cũng là một tác phẩm mang tính triết lý của Flaubert về cuộc sống: sự thất bại của một tình yêu lãng mạn, nơi anh chàng nhân vật chính Frédéric Moreau là hình ảnh thất bại của một tuổi trẻ lầm lỡ. Cuốn tiểu thuyết không mang lại thành công mong đợi. Một loạt sự kiện diễn ra sau đó, như cuộc chiến năm 1870 và cuộc xâm lược của quân Phổ, cũng như sự ra đi của những người thân thiết (Louis Bouilhet, Sainte-Beuve, và Alfred Le Poittevin năm 1869, Jules de Goncourt năm 1870, Maurice Schlésinger năm 1871, mẹ tác giả năm 1872) đã tác động mạnh đến Flaubert, chưa kể việc ông phải đối mặt với những mối lo lắng nghiêm trọng về tài chính do cô cháu gái và chồng bị phá sản. Sau bốn năm làm việc, phiên bản thứ ba của Sự cám dỗ của thánh Antoine (la Tentation de saint Antoine) xuất bản năm 1874 đã không mang lại thành công. Flaubert sau đó đã khuyến khích tài năng của Guy de Maupassant, con trai một người bạn thời thơ ấu, và trở thành người “giám hộ trí tuệ” cho anh ta. Vở kịch Le Candidat dựng năm 1874 tại Nhà hát Vaudeville không khôi phục được tài chính cho ông: đó là một sự thất bại. Ông phải bán một phần tài sản của mình. Những cơn động kinh diễn ra thường xuyên hơn và khiến ông mệt mỏi. Để tồn tại, Flaubert phải lao vào sáng tác nhanh chóng. Năm 1877, ông cho ra đời tác phẩm Ba truyện kể (Trois Contes). Cùng lúc đó, ông vẫn tiếp tục thực hiện tác phẩm lớn của mình là Bouvard et Pécuchet. Việc viết tiểu thuyết “triết học” này chiếm hầu như mười năm cuối cùng của cuộc đời ông. Tác phẩm dù chưa hoàn thành nhưng vẫn được xuất bản vào năm 1881, sau khi Flaubert qua đời ngày 8 tháng Năm năm 1880. Mời các bạn đón đọc Bà Bovary của tác giả Gustave Flaubert.
Thiếu Nữ Đeo Hoa Tai Ngọc Trai - Tracy Chevalier
Một kiệt tác hội hoạ mang tên Thiếu nữ đeo hoa tai ngọc trai, danh họa lỗi lạc Johannes Vermmer, trí tò mò về lịch sử của bức tranh, đó là những chi tiết đầu tiên khởi hứng cho Tracy Chevalier viết tác phẩm để đời này. Sau cái chết của người cha, để lo cho gia đình, cô gái trẻ 16 tuổi Griet đến làm hầu gái trong gia đình họa sỹ Johannes Vermmer. Tại đây, giữa bao công việc thường nhật, Griet tìm được một khoảng lặng khi dọn đồ đạc trong xưởng vẽ. Những cảm nhận tinh tế bất ngờ về màu sắc, ánh sáng, độ chính xác của khoảng cách, linh hồn tác phẩm… của cô gái đã làm rung động trái tim người nghệ sỹ. Với Griet, điều đó cũng đến như một lẽ tự nhiên. Dưới ánh mắt dò xét của bao người, dưới sự quản thúc của bà chủ khó tính, góc tình yêu của họ không nằm trong lời nói hay dục vọng. Chỉ có những cái nhìn như thể siết hai tâm hồn lại bên nhau. Griet đã phải giải tỏa tất cả sự bức bối ấy vào một người con trai khác…  *** https://c1.staticflickr.com/5/4251/35281844555_bf8394bd20_o.jpg    “Nó có riêng một dòng chảy kỳ diệu, chậm rãi dựng bạn dậy và lén mang bạn theo mãi… Một câu chuyện đẹp đẽ, được kể lại một cách duyên dáng bởi một văn tài thực sự.” – Daily Mail “Viết ra một cách lộng lẫy, bí ẩn và thương tâm tưởng chừng như không chịu nổi - một trải nghiệm kỳ diệu” - Deborah Moggach “… một tiểu thuyết tuyệt diệu, huyền bí, thấm gợi đúng không khí… phát lộ sâu xa về quá trình sáng tác… thực sự kỳ diệu”  - The Guardian “Chevalier là bậc thầy của chi tiết hùng hồn, hình ảnh gợi cảm… Qua những chi tiết đó, Chevalier mang người đọc vào thế giới của bức họa, vào tâm thế của kiệt mà bà tìm hiểu: xao lòng, bí hiểm, nhiều khi thấm thía đến không chịu nổi. Đôi lúc nó mạnh đến mức người đọc gần như cảm được, thấy được hơi thở của nó vây bọc quanh mình. Đây là một tác phẩm xứng đáng giáng được, và tôi tin nó sẽ giành được, và tôi tin nó sẽ giành được, một giải thưởng.” – The Times “Tracy Chevalier đã dựng lại một cách tuyệt vời thành Deft giữa thế kỷ 17 ở Hà Lan… Cuốn sách cũng ám ảnh tinh tế như bộ phim hay nhất của Eric Rohmer vậy.” – Time Out “Một nhà văn với cảm nhận thực sự về không khí và bối cảnh” – Elizabeth Buchan “Lôi cuốn tuyệt đối… hồi hộp ở những khoảnh khắc nhất định, nó siêu việt cả thời gian lẫn địa điểm.” – New Yorker "Một cuốn tiểu thuyết như ngọc." – Time *** Nhà văn Tracy Chevalier sinh ngày 19.10.1962 là một tiểu thuyết gia ăn khách về đề tài lịch sử. Tracy Chevalier từng tốt nghiệp khoá học Thạc sĩ viết văn tại trường Đại học East Anglia. Tác phẩm đầu tay của bà là The Virgin Blue đã giành được giải thưởng Tài năng trẻ WH Smith năm 2007. Tiểu thuyết Girl with a Pearl Earring (Thiếu nữ đeo hoa tai ngọc trai) trở thành best-seller năm 1999, được đề cử giải Orange 2000 và là tác phẩm nổi tiếng nhất của Chevalier. Bộ phim cùng tên mà Chevalier là đồng tác giả kịch bản đã được đề cử 3 giải Oscar năm 2004. Hiện Chevalier sống ở London và tiếp tục sáng tác. Tác phẩm tiêu biểu The Virgin Blue, 1997  Girl with a Pearl Earring, 1999 (đã xuất bản ở Việt Nam với tên Thiếu nữ đeo hoa tai ngọc trai, NXB Văn Học, 2007) Falling Angels, 2001  The Lady and the Unicorn, 2003  Burning Bright, 2007  Remarkable Creatures, 2009  The Last Runaway, 2013 *** Mẹ chẳng hề nói với tôi là họ sẽ đến. Về sau bà bảo bà không muốn tôi có vẻ lo lắng. Tôi ngạc nhiên vì tưởng bà hiểu rõ tôi. Những người lạ hay nghĩ rằng tôi là người bình tĩnh. Tôi không hề khóc lóc như trẻ con. Chỉ có mẹ mới nhận thấy hàm tôi hơi nghiến lại, đôi mắt vốn dĩ đã to còn mở to hơn. Tôi đang thái rau trong bếp thì nghe thấy những tiếng nói ngoài cửa trước - một giọng đàn bà sáng lóa như đồng thau và một giọng đàn ông trầm, tối như loại gỗ cái bàn tôi đang thái rau. Tôi vẫn tiếp tục công việc. Đó là những kiểu giọng nói hiếm khi gặp ở nhà chúng tôi. Tôi có thể nghe thấy những tấm thảm đắt tiền trong giọng nói của họ, những cuốn sách, ngọc trai và lông thú. Tôi thấy mừng là trước đó đã ra sức kỳ cọ bậc thềm nhà. Giọng mẹtôi - một cái chảo, một cái lọ - vọng đến từ phòng trước nhà. Họ đang đi xuống bếp. Tôi gạt chỗ tỏi tây đang thái vào một chỗ, sau đó đặt con dao lên mặt bàn, chùi tay vào tạp dề và mím môi cho làn môi mềm lại. Mẹ tôi xuất hiệnở cửa với đôi mắt nhắc nhở. Phía saubà, người đàn bà phải cúi đầu xuống vì cô ta rất cao, cao hơn cả người đàn ông đi đằng sau. Mọi người trong gia đình tôi, thậm chí cả bố và em trai tôi, đều là những người có vóc dáng nhỏ bé. Người đàn bà trông như thể bị gió quật tơi tả, mặc dù đó là một ngày yên ả. Chiếc mũcủa cô ta lệch đi khiến những lọn tóc vàng nhỏ xấu rơi ra, buônglòa xòa trước trán như những con ong mấy lần liền cô ta bực bội xua đi. Cổ áo cô ta không phẳng lắm và không được hồ cứng đủ độ. Cô ta đẩy cái áo choàng không tay màu xám qua sau vài và khi đó tôi nhận thấy, bên dưới cái váy xanh đậm một đứa trẻ đang lớn dần. Chắc cô ta sẽ sinh vào cuối năm, hoặc trước đó. Khuôn mặt người đàn bà giống như một chiếc đĩa hình bầu dục, thỉnh thoảng sáng bừng lên, lúc khác lại u ám. Đôi mắt cô ta như hai chiếc cúc áo màu nâu nhạt, một màu hiếm khi tôi thấy đi đôi với tóc vàng. Cô ta gắng tỏ vẻ chăm chú quan sát tôi nhưngrồi không thể tập trung được, đôi mắt cứ đảo quanh căn phòng. - Vậy đây là con bé đó?- cô ta đột ngột hỏi. - Đây là Griet, con gái tôi,- mẹ tôitrả lời. Tôi kính cẩn cúi chào người đàn ông và người đàn bà. - Xem nào. Con bé không được lớn lắm. Liệu nó có đủ sức khỏe không đấy? Người đàn bà quay lại nhìn người đàn ông khiến nếp gấp chiếc áo choàng vướng vào đuôi con dao tôi dùng lúc trước, làm nó rơi xuống khỏi bàn, quay trên sàn nhà. Người đàn bà hét lên. - Catharina, - người đàn ông điềm tĩnh nói. Ông ta lúng túng gọi tên cô ta cứ như thể đang ngậm hột thị trong miệng. Người đàn bà im tiếng, gắng trấn tĩnh lại. Tôi bước tới, nhặt con dao lên, chùi qua vào tạp dề trước khi đặt lại nó lên mặt bàn. Con dao chạm vào chỗ rau. Tôi đặt lại một miếng cà rốt vào vị trí của nó. Người đàn ông quan sát tôi, mắt ông xám như biển cả. Ông có khuôn mặt dài, xương xẩu. Nét mặt thể hiện sự điềm tĩnh, ngược lại với nét mặt bà vợ, bập bùng cứ như ngọn nến. Ông không để râu và tôi thấy mừng, vì như vậy nó mang lại cho ông một vẻ ngoài sáng sủa. Ông khoác một cái áo choàng,áo sơ mi trắng, cổ còn phẳng phiu. Chiếc mũ của ông ép vào mái tóc màu đỏ của gạch thấm đẫm nướcmưa. - Cô đang làm gì ở đây vậy, Griet? - ông ta hỏi. Câu hỏi khiến tôi ngạc nhiên nhưng tôi đã đủ biết để giấu sự ngạc nhiên của mình. - Thưa ngài, thái rau ạ. Thái rau để nấu súp. Tôi luôn đặt nhữngmiếng rau thành vòng tròn, mỗi loại một chỗ giốngnhư những phần của chiếc bánh nướng. Có năm phần: bắp cải tím, hành, tỏi tây, cà rốt và su hào. Tôi dùng lưỡi dao để khuôn từng phần lại rồi đặt một khoanh tròn cà rốt ở chính giữa. Người đàn ông gõ ngón tay lên mặt bàn: - Có phải chúng được sắp xếp theo đúng thứ tự để cho vào súp? - ông vừa nhìn chăm chú vòng tròn rau vừa hỏi. - Thưa ngài, không ạ,- tôi ngập ngừng. Tôi không thể nói vì sao tôi lại xếp rau theo cách đó. Tôi chỉ đơn giản đặt chúng theo cách tôi cảm thấy hiển nhiên phải như vậy, nhưngtôi quá sợ hãi, chẳng nói được như thế với người đàn ông. - Tôi thấy cô để tách riêng những thứ màu trắng ra, - ông ta vừa nói vừa chỉ tay vào chỗ su hào và hành. - Rồisauđó là màu vàng cam và tía, các màu không để lẫn với nhau. Tại sao lại thế? - Ông ta nhặt lên một miếng bắp cải và một mẩu cà rốt rồi lắc chúng trong tay như những viên súc sắc. Tôi nhìn mẹ đang khẽ gật đầu. - Các màu chọi nhau khi chúng xếp cạnh nhau, thưa ngài. Ông ta nhướng mày, như thể khônghề chờ đợi một câu trả lời như vậy. - Vậy cô có mất nhiều thời gian sắp xếp rau trước khi nấu? - Không, không hề, thưa ngài, - tôi trả lời, cảm thấy lúng túng. Tôi không muốn ông ta nghĩ tôi lười nhác. Tôi thoáng liếc thấy một bóng người, cô em gái Agnes đang ngó quanh cột cửa và lắc đầu trước câu trảlời của tôi. Không mấy khi tôi nói dối. Tôi nhìn xuống. Người đàn ông hơi quay đầu lại và Agnes biến mất. Ông ta buông những mẩu cà rốt và bắp cải xuống chỗ của chúng. Miếng bắp cải rơi hơi chạm vào đám hành. Tôi muốn vươn người ra và đặt lại chúng vào chỗ cũ. Tôi không làm như vậy nhưng ông ta biết rằng tôi muốn. Ông ta đang thử tôi. - Vớ vẩn thế đủ rồi, - người đàn bà thốt lên. Mặc dầu cô ta bực bội vì người đàn ông chú ý đến tôi nhưng cô ta lại cau mặt với tôi. - Vậy ngày mai nhé? - cô ta nhìn người đàn ông trước khi lướt ra khỏi phòng. Mẹ tôi bước theo sau. Người đàn ông nhìn một lần nữa vào những thứ sẽ là món súp, sau đó gật đầu với tôi và đi theo người đàn bà. Khi mẹ quay lại, tôi đang ngồi bên cạnhvòng tròn rau. Tôi chờ mẹ nói. Bà so vai như thể để chống lại cái lạnh buốt giá mùa đông dù rằng đang là mùa hè và căn phòng bếp tỏa hơi nóng. - Từ ngày mai con sẽ là người hầu gái của họ. Nếu làm tốt, con sẽ được trả tám stuiver 1 một ngày. Con sẽ sống ở chỗ họ. Tôi mím môi lại. - Con đừng nhìn mẹ như thế, Griet,- mẹ tôi noid.- Chúng ta buộc phải làm như vây, khi mà giờ đây cha các con đã mất việc. - Họ sống ở đâu ạ? - Ở Oude Langendijck, chỗ cắt với Molenpoort. - ỞKhu người Gia tô? Họ theo đạo Thiên chúa? - Ngày Chủ nhật thì con có thể về nhà. Họ đã đồng ý vậy. Mẹ tôi khum lòng bàn tay xung quanh những miếng xu hào, bốc chúng lên cùng vài miếng bắp cải và hành rồi thả vào nồi nước đang chờ trên bếp. Những phần bánh tôi đã kỳ công cắt tỉa đến thế bị hỏng hết. o O o Tôi trèo lên cầu thang để gặp cha.Ông đang ngồi ngay trước căn phòng áp mái, bên cạnh cửa sổ, nơi ánh sáng chạm vào khuôn mặt. Giờ đây, chỗ này là nơi ông gần với cảm giác nhìn thấy hơn cả. Cha trước kia là thợ vẽ gạch, nhữngngón tay ông vẫn còn dính vệt xanh do vẽ những thần ái tình, cô hầu, anh lính, con tàu, trẻ con, cá, hoa hay các con vật lên những viên gạch trắng, rồi tráng men, nung và bán. Một hôm, lò nung nổ, lấy đi của ông đôi mắt và cả việc làm. Ông là người may mắn, hai người đàn ông khác đã chết. Tôi ngồi xuống bên ông và cầm đôi bàn tay ông. - Cha nghe thấy rồi. Cha đã nghe thấy hết mọi chuyện rồi, - ông nói trước khi tôi kịp bắt đầu. Đôi tai ông đã thu nhận sức mạnh từ đôi mắt bị mất. Tôi không thể nghĩ ra điều gì để nói mà nghe không có vẻ trách móc. - Cha xin lỗi, Griet. Giá như cha có thể lo cho con tốt hơn. Nhưng ông ta là một quý ông tốt và công bằng. Ông ta sẽ đối xử tử tế với con. Nơi trước kia là đôi mắt, chỗ bác sĩ đã khâu kín da lại, toát lên vẻ đau buồn. Ông không nói gì về người đàn bà. - Cha ơi, làm sao mà cha có thể tin chắc như vậy được? Cha có biết ông ta không? - Con không biết ông ta là ai à? - Không ạ. - Con có nhớ bức tranh chúng ta nhìn thấy ở Tòa thị chính vài năm trước, bức mà ngài Ruijven treo sau khi mua nhà ấy? Đó là cảnh thành phố Delft nhìn từ cổng thành Rotterdam và Schiedam. Với bầu trời chiếm một khoảng rất lớn trong bức tranh và ánh nắng chiếu trên mấy ngôi nhà. - Và trong nước sơn có cát để những chỗ xây bằng gạch và những mái nhà trông xù xì, còn có những cái bóng dài đổ trên mặt nước và những người bé tí trên bãi biển gần chúng ta,- tôi nói thêm. - Chính bức đó đấy. Hốc mắt của cha rộng ra, như thể đôi mắt vẫn còn đó và ông đang ngắm bức tranh một lần nữa. Tôi nhớ bức tranh đó rất rõ, nhớ cả chuyện tôi nghĩ tôi đã đứng chính ở chỗ đó rất nhiều lần mà chưa bao giờ thấy Delft theo cách người họa sĩ đã nhìn thấy. - Thế người đàn ông đó là ngài Ruijven à? - Người bảo trợ á? - Cha tôi cười lặng lẽ, - Không, không, con gái bé bỏng, không phải ông ta đâu. Đó là ông họa sĩ. Vermeer. Đó là Johannes Vermeer và vợ ông ta. Con sẽ dọn dẹp xưởng vẽ của ông ta. Kèm theo vài thứ ít ỏi tôi mang theo người, mẹ tôi để thêm vào một cái mũ vải, một chiếc cổ áo và một chiếc tạp dề để hàng ngày tôi có thể giặt cái này rồi dùng cái kia và sẽ trông luôn sạch sẽ. Bà còn đưa tôi chiếc lược chải đầu hình vỏsò bằng đồi mồi, đó là món trang sức bà tôi để lại và quá đẹp đối với một cô hầu gái, một cuốn sách kinh để tôi có thể đọc khi cần phải trốn tránh khỏi đạo Thiên chúa xung quanh mình. Trong lúc chúng tôi thu xếp đồ đạc, bà giải thích tạo sao tôi lại đi làm cho nhà ông bà Vermeer. - Con có biết ông chủ mới của con là người đứng đầu giáo phường St Luke và có mặt khi cha con gặp tai nạn hồi năm ngoái không? Tôi gật đầu, vẫn còn cảm thấy sốc khi biết mình sẽ làm việc cho một họa sĩ như vậy. - Giáo phường tự chăm lo cho họ, trong chừng mực tốt nhấtmà họ có thể. Con có nhớ chiếc hộp mà cha con luôn bỏtiền vào hàng tuần suốt trong nhiều năm trời không? Chiếc hộp đó dành cho những thợ cả gặp hoạn nạn, như chúng ta bây giờ. Nhưng nó chỉ đủ cho một số việc, conthấy đấy, đặc biệt là bây giờ, khi Frans còn đang học việc và chưa kiếm được đồng nào. Chúng ta không có lựa chọn nào cả. Chúng ta sẽ không nhận tiền cứu tế, không nhận chừng nào còn có thể gắng đượcmà không cần đến nó. Rồi sau đó cha con nghe tin rằng ông chủ mới của con đang cần người giúp việc, ai đó có thể lau chùi dọn dẹp xưởng vẽmà không di chuyển bất cứ thứ gì, và ông ấy đưa tên con, nghĩ rằng với tư cách là người đứng đầu và biết rõ hoàn cảnh của chúng ta, chắc ông Vermeer sẽ cố gắng giúp đỡ. ... Mời các bạn đón đọc Thiếu Nữ Đeo Hoa Tai Ngọc Trai của tác giả Tracy Chevalier.
Người Đàn Bà và Người Đàn Ông Có Chiếc Lồng Chim - Lê Thanh Minh
Tập truyện ngắn Người Đàn Bà và Người Đàn Ông Có Chiếc Lồng Chim gồm có: Hoang tưởng Người không bình thường Tại cái lưỡi câu Chân dung một người bạn Mùi vị của văn chương Người đàn bà và người đàn ông có chiếc lồng chim. Say Tả ý Hoàng hôn - đời người Ngộ thật Núi thơm Cô gái bước ra từ facebook Cha con *** NGƯỜI ĐÀN BÀ VÀ NGƯỜI ĐÀN ÔNG CÓ CHIẾC LỒNG CHIM.   Nhâm nhi tách cà phê lúc nâng lên, lúc hạ xuống, khi thì nhấp nhấp, khi lại đưa qua đưa lại mũi hít hà, anh thả hồn tận đẩu tận đâu ra chừng biết thưởng thức lắm. Người ra vào quán nườm nượp anh cũng chả thèm để ý. Ngồi tít trong góc, khuôn mặt nhoà vào bóng tối, chỉ thò ra vạt váy sẫm màu, hoa tím, và chiếc dép hờ hững nơi cổ chân là còn nhìn thấy đủ để nhận ra đấy là một người đàn bà. Anh thong thả rít từng hơi thuốc, những lọn khói hình chữ o nối đuôi nhau từ mồm anh tuôn ra bao trùm cả khoảng không trước mặt. Người đàn bà ngắm nhìn anh từ rất lâu, nhưng chị đâu có ngờ anh cũng nhận ra sự có mặt của chị và quan sát chị khá kỹ. Chỉ có điều anh không biết dụng ý của chị.   * * * Gần hai mươi năm sau ngày cưới, chị mới được hưởng sự ân ái của người đàn ông, mới được sống đời vợ chồng. Gần hai mươi năm chị sống trong khắc khoải, chờ mong nhiều lúc tưởng chừng không vượt qua nổi sự cô đơn, lạnh lẽo. Gần hai mươi mùa xuân rủ nhau rời khỏi khuôn mặt của chị, bỏ lại những nếp chân chim nơi đuôi mắt...   Kết quả của sự ái ân muộn mằn là đứa con bị bệnh đao bẩm sinh. Những tưởng "hết cơn bĩ cực đến ngày cam lai", ngờ đâu ở tuổi về chiều chị lại vất vả nuôi con một mình. Anh đã ra đi cũng vội vã như khi đến gặp và cưới chị. Ngày ấy cả nước có chiến tranh, anh đến với chị không phải vì tình yêu đôi lứa, chỉ đơn giản gia đình anh muốn anh để lại cho chị giọt máu của mình, phòng khi... Chiến tranh chả biết thế nào. Mười người đi dễ có đến quá nửa không trở về. Tối hôm cưới, anh chị ngồi bên nhau nói chuyện cho tới sáng. Chị vẽ ra trong đầu viễn cảnh gia đình hạnh phúc ngày anh trở về, ngày chiến tranh kết thúc.   Ngay lúc bình minh ló rạng, anh khoác ba lô lên, đi một mạch gần hai mươi năm. Lúc anh trở về là thương binh loại đặc biệt cần có người chăm sóc. Nước mắt chị đã chảy, vì hạnh phúc và cũng vì cả đau buồn. Người đàn ông, chồng chị đang ngồi trên xe lăn trước mặt chị đã gửi lại chiến trường đôi chân và một cánh tay của mình. Anh không đẹp trai, chị biết. Người con trai có nước da nâu sậm nắng gió của vùng chiêm trũng, đôi mắt sáng tinh anh được thay bằng người đàn ông có đôi mắt mờ đục, thị lực chỉ còn 2/10 và khuôn mặt bị biến dạng vì những vết thương đã liền sẹo. Sao ông giời lại bất công với chị như vậy, ngoài khóc thầm chị biết làm gì hơn.   Đứa con chị giờ đã đến lúc cần có một cái nghề để tự nuôi sống bản thân khi chị không còn nữa. Chị nghĩ về điều này từ rất lâu. Nhiều người khuyên chị gửi con vào trại trẻ, chị không đành lòng. Cũng phải, mang nặng đẻ đau dễ gì bảo dứt là dứt đi được. Chưa một giây phút nào chị nghĩ và sống cho riêng mình. Bằng tất cả tình yêu và sức lực, chị dành cả cho con...     * * *   Gần nhà chị có một họa sĩ, hàng ngày thấy anh xách lồng chim ra quán cà phê ngồi một mình, lúc đầu chị cũng không để ý, nhưng rồi đột nhiên trong đầu chị vụt loé lên một ý nghĩ. Tại sao không, có thể lắm chứ, chị sẽ nhờ anh dạy vẽ cho con chị.   Đây là lần thứ bao nhiêu chị âm thầm ngồi trong góc quan sát người mà chị định đem con gửi gắm, chị cũng không nhớ. Chị vẫn chờ cơ hội được nói chuyện với anh về ý định của mình. Chị không dám đường đột.   Trời đứng bóng, cái vạt váy của chị như chìm lẩn vào bóng tối. Con chim đang líu lo gọi bạn trong chiếc lồng anh ngoắc tạm lên cành bằng lăng trước quán. Nó cần tự do, còn chị, chị lại ước ao giá mình là con chim nhỏ trong chiếc lồng của anh thì hay biết mấy. Cuộc đời chả ai giống ai, người ta luôn ước ao cái mình không có mà quên đi cái mình có mà người khác đang ao ước. Cũng giống như chị lúc này vậy. Viển vông, vốn là suy nghĩ của những người đàn bà chịu nhiều cơ cực.   Đang mải theo đuổi những thứ vẽ ra trong đầu, chị giật mình khi giọng anh sát ngay bên cạnh:   - Chị cần gặp tôi có chuyện gì à?   Không hiểu sao anh biết chị cần gặp anh. Bao nhiêu điều, bao nhiêu giả định được chị chuẩn bị để làm quen với anh, chị quên tiệt. Chị ấp úng như người ăn vụng bị bắt quả tang.   - Dạ, anh...   Mà sao chị lại "dạ" nhỉ, chị cũng không biết. Bỗng anh xen vào bằng cái giọng tự tin của người từng trải:   - Có khó gì đâu mà không đoán được người khác chú ý đến mình. Này nhé, không phải một lần chị tình cờ có mặt ở quán khi tôi xuất hiện. Không sớm hơn, cũng không muộn hơn. Chị không có nhu cầu gì ngoài cốc trà Lipton dâu. Ngồi lâu, không đợi bạn, không nói chuyện với ai. Người mà chị quan sát là tôi. Chị biết không, tôi là họa sĩ, nghề của tôi là không bỏ sót bất kỳ một sự thay đổi nhỏ sắc thái nào của người và vật trong phạm vi hai chục mét. Cho dù chị kín đáo ngồi trong góc khuất, lẫn vào bóng tối...cũng vậy. Chắc chị ngạc nhiên khi tôi quan sát chị còn kỹ hơn chị quan sát tôi nhỉ?!   Không đợi chị trả lời, anh kéo ghế ngồi đối diện với chị:   - Nào, bây giờ chị có thể cho tôi biết lý do của chị!   Lý do gì nhỉ?! Ngoài lý do cần thiết là nói thế nào để anh đồng ý truyền nghề cho con chị thì còn lý do nào khác không?! Mặc dù mơ hồ, nhưng chị tin vào giác quan của mình, anh là người đáng tin cậy. Và còn hơn thế anh chính là người mà chị cần tìm cho cuộc đời thiếu hụt của chị.   Chị không nhớ mình đã nói gì với anh, không nhớ một tẹo nào. Anh ngồi trầm ngâm mắt nhìn chị, không, vượt qua chị, nhìn vào bóng tối vô định. Sao người đời có thể ảo tưởng, nông cạn khi nghĩ rằng nghề vẽ là dành cho những người không có khả năng theo đuổi một nghề gì khác, là cái nghề mà vì bần cùng họ mới nghĩ đến. Hồi xưa, cũng có người dắt con đến gặp anh bảo: "Anh có thể dạy cho con tôi thành họa sĩ không, nó chả có khả năng làm được nghề khác vì học hành lỗm bỗm, bữa đực, bữa cái, chả có chữ nào trong đầu".   Đành rằng có những tài năng không cần qua học hành, nhưng đấy không phải là lý do. Cái chính là người ta quan niệm vẽ không cần chữ, chỉ cần luyện cho đôi tay khéo là được. Anh đã rất giận và từ chối thẳng thừng. "Sao anh biết tôi có thể dạy con anh thành họa sĩ khi trong đầu nó chả có chữ nào?!". Người đó ngớ ra vài giây rồi bảo: "À thì vẽ chỉ cần nhìn thôi chứ có phải nghĩ đâu, nó sẽ học được, mắt nó sáng lắm". "Xin lỗi anh, nghề này nghĩ nhiều hơn nhìn nên có lẽ anh chọn nhầm nghề cho con anh rồi!".   - Anh có khó khăn gì à?   Câu hỏi của chị lôi tuột anh về thực tại.   - Trường hợp con chị rất đặc biệt, chị cho tôi thời gian để suy nghĩ đã nhé!   Chị lúng búng chào anh rồi lặng lẽ rời quán. Nhìn theo bóng chị lẫn vào dòng người anh buông tiếng thở dài. Cái nghề của anh có thật là sang trọng không hay chỉ mình anh nghĩ như thế. Bao niềm vui của sự sáng tạo cùng bao nỗi chán chường, thất vọng của những thất bại hành hạ anh từng đêm. Chúng cũng chính là nguyên nhân vợ anh bỏ anh để chạy theo người đàn ông khác. Phải chăng anh yêu nghệ thuật hơn vợ.   Lúc còn lại một mình bên mâm cơm vô tình theo thói quen anh vẫn sắp ra hai cái bát và hai đôi đũa, mâm cơm nhìn như lệch, cái ghế con bé xíu phía vợ anh vẫn ngồi trống hơ, trống hoác. Lúc này anh bỗng thấy nhớ người đã từng là vợ anh. Bây giờ cô ấy sao rồi nhỉ? Liệu cô có được hạnh phúc không khi ở bên người đàn ông ấy?! Anh không biết.   Vợ chồng anh lấy nhau hơn chục năm mà chưa có mụn con nào. Gia đình anh đều nghĩ vợ anh bị điếc. Họ cũng từng khuyên anh bỏ vợ lấy người khác. Anh bỏ ngoài tai mọi chuyện. Người ta thường bảo đàn bà cùng lúc có thể quan tâm đến nhiều thứ chứ không như đàn ông. Ấy là người ta bảo thế. Anh không có khái niệm một cách rõ ràng về thời gian. Sớm hay tối, mưa hay nắng, nóng hay lạnh, anh chẳng quan tâm. Phải chăng anh chẳng yêu ai ngoài anh và cái sở thích gần như quái đản của anh. Anh có thể nhớ từng chi tiết cái tranh mà anh đã xem qua, nhưng lại không thể biết liệu mình đã ăn cơm chiều rồi hay chưa. Anh có thể ngồi hàng giờ nhìn vào hư vô mà suy tưởng nhưng lại không thể có nổi mươi phút âu yếm người đàn bà là vợ anh. Anh có thể trầm trồ những đường cong tuyệt mỹ của người đẹp thoáng gặp trên đường nhưng lại thờ ơ với người đi bên cạnh. Với anh, những cái tên ngoại quốc như Gaugin, Van Gogh, Picasso thân thương và dễ nhớ hơn tên vợ. Anh chưa bao giờ gọi tên vợ, cũng không gọi "em" như mọi nhà. Anh gọi vợ bằng mày, xưng tao.   Chị trằn trọc mãi quá nửa đêm. Hình bóng người họa sĩ tay cầm lồng chim cứ lởn vởn trong đầu chị. Liệu anh có một chút gì nhớ tới chị không nhỉ? Chắc không đâu. Thật là vớ vẩn, mặt chị nóng lên vì những suy nghĩ táo tợn. Chị mường tượng nằm trong vòng tay của anh. Ôi, hạnh phúc quá, người chị rung lên nhè nhẹ, hơi thở mỗi lúc một nặng...   Hôm nay cái ghế mọi khi chị vẫn ngồi bỏ trống. Không cần nhìn anh cũng biết chị chưa đến. Khoảng tối chỗ chị vẫn ngồi thiếu hụt sự đậm nhạt trở nên vô duyên. Anh không ngoắc lồng chim lên cành bằng lăng trước quán như mọi khi mà để trên đùi, ngón tay luồn qua nan lồng chỉnh lại cái cóng đựng nước. Chú chim như đoán được tâm trạng khác thường của anh nhảy loạn xạ trong lồng kêu chíp chíp. "Yên nào, hôm nay cô ta không đến, tao với mày bây giờ làm gì nhỉ?!" Như hiểu ý, con chim tung mình quặp cái chân nhỏ xíu đậu lên ngón tay anh, lơ láo hết quay phải lại quay trái. Dẫu sao nó vẫn là con chim. Nó không biết nói, dù được nuôi dạy, chăm bẵm tử tế.   Điều chị cần nói với anh, chị đã nói. Còn ước muốn thầm kín trong lòng dù chưa nói nhưng có gặp lại anh cũng chẳng giải quyết ngay được. Chị dắt con đi dạo. Đứa bé đưa cặp mắt đờ đẫn nhìn chị như hiểu, như không. Hai mẹ con đi sát vào nhau. Bàn tay chị nắm tay nó lúc lỏng lúc chặt. Nó là niềm hạnh phúc duy nhất mà chị có cho đến lúc này mặc dù chưa trọn vẹn. Những giọt nước mắt rời khỏi hàng mi lăn dài trên má chị. Chị thương xót cho số phận của con hay cho sự hẩm hiu của chị. Thật lòng, chị cũng không biết nữa.   Tháng Giêng năm Đinh Dậu 2017 Mời các bạn đón đọc Người Đàn Bà và Người Đàn Ông Có Chiếc Lồng Chim của tác giả Lê Thanh Minh.
Lẵng Quả Thông - K. G. Paustovsky
Paustovsky ra đời ngày 31 tháng 5 năm 1892 trong một ngõ hẻm thành Mátxcơva. Dòng họ ông gốc kazak1 miền Zaporozhe, sau mới chuyển tới cư ngụ ở vùng ven sông Roshi gần tỉnh lỵ Belaya Serkov. Cha ông làm nhân viên thống kê ngành đường sắt. Ông nội là một cựu chiến binh kadak dưới thời Nga hoàng Nikolaev.   Cụ thân sinh ra Paustovsky là người mơ mộng và là người ở không yên chỗ. Sau thời gian tòng sự tại Mátxcơva, ông đổi đi Vino, rồi Pskov, sau cùng mới đậu lại Kiev. Mẹ Paustovsky lớn lên trong một gia đình tư chức ở một nhà máy đường. Tính khắc khổ, bà nắm mọi quyền hành trong nhà. Gia đình Paustovsky đông người, đủ tính đủ nết, nhưng hết thẩy đều yêu nghệ thuật. Cậu bé Paustovsky lớn lên trong tiếng đàn dương cầm, những giọng ca, những cuộc cãi vã nghệ thuật và những rạp hát.   Cậu bé bắt đầu cuộc đời học trò ở trường trung học số 1 thành phố Kiev. Khi cậu học tới lớp 6 thì gia đình khánh kiệt, cậu phải tự nuôi thân bằng một nghề bất đắc dĩ không xứng với tuổi học trò là nghề “gia sư”.   Đó là tóm tắt mấy dòng về con người về sau này trở thành nhà văn. Tôi chép lại tiểu sử ông ở đây theo thói thường phải viết tiểu sử nhà văn mà mình giới thiệu, chứ tôi biết tiểu sử chẳng giải thích được bao nhiêu vì sao Paustovsky chọn nghề văn chứ không phải nghề nào khác.   Truyện ngắn đầu tiên của Paustovsky được in khi Paustovsky còn là học sinh năm chót của trường trung học. Nó xuất hiện trong tạp chí “Những Ngọn Lửa”, là tạp chí văn học duy nhất của Kiev hồi bấy giờ, vào khoảng năm 1911. Sau khi tốt nghiệp trung học, Paustovsky thi vào đại học Tổng hợp Kiev. Hai năm sau, Paustovsky chuyển qua một trường đại học khác ở Mátxcơva và ở hẳn thành phố này từ đấy.   Chiến tranh Thế giới lần thứ Nhất bùng nổ. Paustovsky làm nghề bán vé xe điện, rồi lái xe điện, rồi y tá trong các đoàn tàu quân y con thoi chạy đi chạy lại giữa hậu phương và tiền tuyến. Mùa thu năm 1915 ông bỏ công việc dân sự để đi theo một đơn vị quân y dã chiến và làm một chuyến đi dài suốt từ thành phố Lublin (Ba Lan) đến tỉnh lỵ Nesvizh ở Belorussya. Trên đường, tình cờ nhặt được một mẩu báo, ông mới biết hai anh ông đã tử trận trong cùng một ngày trên hai mặt trận khác nhau. Paustovsky vội vã trở về với mẹ. Bà cụ lúc đó đang ở Mátxcơva.   Nhưng Paustovsky không thể ngồi lâu một chỗ. Bệnh xê dịch giày vò ông và ông lại lên đường, tiếp tục cuộc sống nay đây mai đó. Ông đi Ekaterinoslav để làm việc trong nhà máy luyện kim của công ty Briansky. Rồi bỏ đấy mà đi Yuzovka, từ đó đến Taranrog, làm trong các nhà máy. Ở Taranrog, Paustovsky khởi viết cuốn tiểu thuyết đầu tay của mình – “Những Kẻ Lãng Mạn”. Mùa thu năm 1916, Paustovsky lại một lần nữa bỏ Taranrog để đến nhận công tác tại Công ty liên hiệp hải sản Azovskoye.   Cách mạng Tháng Hai bùng nổ khi Paustovsky đang ở Mátxcơva. Lúc đó ông đã bước vào nghề báo. Ông viết: “Sự hình thành con người và nhà văn trong tôi bắt đầu từ những năm ấy, nó xảy ra dưới chính quyền Xô-viết và quyết định toàn bộ cuộc đời tôi từ đấy về sau”.   Sau thời gian ở Mátxcơva, ông lại quay về với mẹ, bà cụ lúc ấy đã sống ở Ukraina. Từ Kiev, nơi ông chỉ cư ngụ một thời gian ngắn, Paustovsky đi Ôđessa. Ở thành phố cửa biển này ông được sống trong môi trường các nhà văn trẻ và tài năng: Ilf, Bagritzky, Babel, Shenghel, Lev Slavin… Nhưng rồi ông lại giã từ những người bạn tuyệt vời của mình để trở về để tiếp tục cuộc hành trình vô định. Ông đi Sukhum, Batum, Tifflis. Từ Tifflis, Paustovsky đến Armenya, rồi lang bạt sang tận Ba Tư.   Năm 1923, Paustovsky trở về Mátxcơva trong một chuyến dừng chân, xin làm biên tập viên cho một tờ báo. Cũng từ đó tên tuổi của ông bắt đầu trở thành quen thuộc với độc giả qua những tác phẩm nối tiếp nhau ra đời.   Cuốn sách đầu tiên được Paustovsky coi là tác phẩm thực sự của ông là tuyển tập truyện ngắn “Những Con Tàu Đi Ngược Chiều Nhau”.   Mùa hè năm 1932 Paustovsky bắt đầu cuốn “Kara-Bugaz” và một số truyện ngắn khác mà về sau này ông đã kể lại khá tỉ mỉ trong “Bông Hồng Vàng”.   Sau khi “Kara-Bugaz” ra đời, Paustovsky xin ra ngoài biên chế, tức là thôi không làm cho nhà nước và ăn lương nhà nước nữa, để chuyên viết văn, “cái công việc duy nhất, choán hết mọi việc khác, có lúc thực cay cực, nhưng là cái bao giờ tôi cũng yêu mến”. Ở chế độ Xã hội Chủ nghĩa, việc xin ra ngoài biên chế để sống tự do được coi như một việc làm không bình thường, một hành động rồ dại, hoặc một hành động dũng cảm, tuỳ theo cách nhìn của mỗi người.   Trong cuộc sống tự do khỏi công việc nhà nước Paustovsky còn đi nhiều hơn nữa. Dấu chân ông in khắp mọi miền đất nước Xô-viết, từ bán đảo Konsky đến những sa mạc vùng Trung Á, từ các thành phố băng tuyết ở Cực Bắc đến những bờ biển ấm áp vùng Krưm tới những miền rừng rậm rạp của Sibir. Ngoài ra, ông còn đến Tiệp Khắc, đi tàu biển vòng quanh châu Âu, qua các thành phố Istanbul, Athena, Napoli, Roma, Paris, Rotterdam, Stockholm…   Trong Đại chiến Thế giới lần thứ Hai, ông làm phóng viên chiến tranh của Mặt trận phía Nam và ở đó ông cũng đi rất nhiều. Đời ông, từ lúc còn nhỏ cho đến năm 1921, được ghi lại khá đầy đủ trong các cuốn truyện mang tính hồi ký “Những Năm Xa Xôi”, “Tuổi Trẻ Không Yên”, “Sự Bắt Đầu Của Thế Kỷ Ta Chưa Biết”.   Paustovsky nói rằng nhà văn cần phải biết tạo ra tiểu sử cho mình. Tức là, ông muốn nói, nhà văn cần phải chủ động ném mình vào trong những xoáy lốc của cuộc đời, để được sống nhiều, sống thật trong nó, tự mình tạo ra nguồn nguyên liệu dồi dào cho công việc viết văn sau này. Ông nhìn những nhà văn cạo giấy, những viên chức văn chương bằng cái nhìn khinh bỉ.   Ông không chỉ viết nhiều, mà còn viết hay. Hiếm có nhà văn nào ở nước Nga được in toàn tập trong khi còn sống.2   Paustovsky là nhà văn không biết hài lòng về mình. Ông luôn nói rằng những gì ông đã viết chỉ là bước đầu, chứ toàn bộ công việc thực sự thì bao giờ cũng vậy, còn ở phía trước. *** Tập truyện ngắn Lẵng Quả Thông này gồm có: Âm nhạc verdi Chiếc nhẫn bằng thép Người đầu bếp già Chuyến xe đêm Bình minh mưa Bụi quý Hạt cát Tuyết Lẵng quả thông Cầu vồng trắng Cây tường vi *** Có một cái gì đó thật là đẹp đẽ trong sự giao tiếp của những con người dũng cảm trong phút hiểm nguy, trong cơn hoạn nạn. Trên boong tàu bọc thép của chiếc tuần dương hạm, đoàn kịch từ Matxcơva tới trình diễn vở Traviata ở ngoài trời. Những bác lái đò râu bạc tụ lại ở bến thuyền lát gỗ trên những chiếc xuồng cũ kỹ rao lên, giọng khàn khàn thúc giục:   - Ai muốn lên tàu đây? Ai muốn nghe nhạc nào? Chúng tôi sẽ đứng sát mạn tàu cho tới khi diễn xong nhé! Không chòng chành gì hết – xin cam đoan! Thế này mà chòng chành à, bà con! Những chiếc xuồng va vào nhau lủng củng gật gù hối hả chào bờ biển – sóng nhẹ đung đưa chúng. Những con ngựa thồ già yếu thường có cái lối gật đầu lia lịa như vậy.   Trên vũng biển trời lặng gió, sương chiều tỏa mờ. Những ngọn đèn tín hiệu đung đưa nhịp nhàng trên nước cạnh những mỏm đá bên bờ. Đêm mùa thu đến rất chậm. Mỗi bước đi nó lại dừng lại và mãi không sao dồn hết được những tia nắng cuối cùng của buổi chiều tà ra khỏi vũng biển sâu. Nhưng khi ánh sáng trên tuần dương hạm vừa lóe lên, bóng tối ồn ào đã ập xuống ngay. Nó chứa đầy âm thanh của mặt nước xáo động: tiếng sóng vỗ, tiếng nước róc rách, réo sôi. Người ta bắt đầu nghe thấy cái tất bật của hải cảng: tiếng mái chèo vội vã, tiếng máy nổ, tiếng gọi xa xa của những người lái tàu, tiếng còi rú giận dữ, tiếng sóng vỗ lớp lớp chạy trên mặt biển về khắp các ngả. Những âm thanh ấy từ bờ bến đổ về phía tuần dương hạm, nơi tiếng sáo phagốt bất ngờ vang lên trong dàn nhạc. Những chiếc canô cũng phóng ngay tới đó, bóng cờ hiệu đằng đuôi phấp phới trong nước. Tachiana Xônxeva được phân công đóng vai Viôleta. Cô đang hóa trang trong phòng của hạm trưởng, nơi các chiến sĩ thợ điện hải quân đỏ đã mắc những bóng đèn một trăm nến. Cô cài lên ngực bông hoa sơn trà và thoa phấn lên khuôn mặt gầy sút đi. Biểu diễn lúc này thật khó khăn – cô để lại ở Matxcơva một chú em bé bỏng bị ốm nặng. Chú đang nằm viện chờ một ca mổ. Xônxeva đang lo lắng nên không thấy gì cả: mặc thành phố xôn xao tiếng lá khô và gió thổi, mặc vô vàn đốm lửa như đàn ong vàng, vo ve lượn đi lượn lại trên vũng tàu, mặc cái không khí kỳ lạ tỏa khắp đường phố, mùi đá ẩm ướt và mùi cỏ đắng.   Cuộc phẫu thuật ấn định tiến hành sáng hôm nay, nhưng đến giờ phút này vẫn chưa có điện báo từ Matxcơva tới.   Xônxeva bước ra boong tàu hai bên chăng vải bạt. Những chiếc cần viôlôngxen gác trên tháp pháo màu gio. Âm nhạc Verđi rung lên trong sự yên tĩnh của con tàu bọc thép. Hàng trăm thủy thủ trẻ nín thở lắng nghe tiếng hát buồn thảm của Viôleta. Tiếng nhạc vang xa đến các bờ biển lân cận.   Những chiếc xuồng nhấp nhô bên mạn tàu. Người xem ngẩng đầu nhìn lên boong. Những bác lái thuyền cố gắng không làm mái chèo phát ra tiếng động và khi thuyền va vào nhau, họ chỉ lặng lẽ giơ nắm đấm lên, thay cho những trận đấu khẩu thường ngày.   Người trợ lý đạo diễn đứng đằng sau tháp súng như ở sau cánh gà có vẻ lo lắng. Trong túi anh ta có bức điện gửi cho Xônxeva. Anh cũng không biết nên bóc ra xem hay cứ để vậy đưa cho Xônxeva sau buổi diễn. Anh thì thầm trao đổi với người quản lý nhà hát.   Ông này giằng bức điện khỏi tay anh và bóc ra: - Không có gì đặc biệt, - ông ta vừa nhai nhai cái tẩu vừa nói, - cuộc phẫu thuật phải đình lại vì bệnh nhân mệt nặng. Giờ nghỉ anh có thể nói với cô ấy.   Người trợ lý đạo diễn nhăn nét mặt rồi gật đầu. Anh thợ lò Vaxia Tsukhốp mang cái biệt hiệu như mọi anh thợ đốt lò khác là “đồ quỷ sứ” được giao việc kéo chiếc màn làm bằng những cờ hiệu khâu lại. Vaxia nhỏ bé, chắc nịch, mặt đỏ gay vì gắng sức, không rời mắt nhìn người trợ lý đạo diễn. Cái anh chàng nhanh nhẩu nôn nóng này phải giơ tay ra hiệu cho Vaxia khi cần kéo màn.   Vaxia đã nghe hết câu chuyện ở bên tháp pháo. Nụ cười rạng rỡ từ từ tắt trên môi anh. Sang màn hai Xônxeva bước ra sân khấu rất luống cuống. Cô vừa đọc bức điện lúc giải lao. Cô thấy choáng váng chóng mặt. Khi Anfrết quỳ phục dưới chân cô, cô cúi xuống hôn vào thái dương non trẻ của anh. Một đường ven xanh mảnh nổi lên chỗ thái dương giống hệt như ở đứa em cô.   Xônxeva nuốt ực không khí rồi khóc. Nước mắt trào ra, nhưng cô vẫn hát. Giọng cô run run. Cô nhìn thấy những đốm sáng mờ ướt át và không nhận ra đó là ánh đèn sân khấu, ánh sao dưới nước, hay gương mặt xanh xao của các chiến sĩ hải quân. Lúc đó Vaxia Tsukhốp hạ màn, bất chấp tiếng kêu giận dữ ở phía sau tháp pháo. Anh đã không nghe lời. Mặt anh đanh lại. Đáp lại tiếng thì thào phẫn nộ của người trợ lý đạo diễn, anh trả lời hằn học và cộc lốc: - Anh sẽ phải tiếp chuyện vị chỉ huy con tàu đấy, tôi sẽ báo cáo mọi việc với đồng chí ấy. Boong tàu vang lên tiếng vỗ tay. Những khán giả chất phác cho vở kịch dừng lại là hoàn toàn hợp lý, sau cái cảnh căng thẳng đầy đau khổ như lúc Viôleta đầm đìa nước mắt. Không ai biết là vở kịch bị “đồ quỷ sứ” cắt ngang lúc mới bắt đầu.   Tsukhốp lại gần vị chỉ huy con tàu ngồi ở hàng đầu và báo cáo với ông về sự việc xảy ra. Chỉ huy trưởng đứng dậy. Đó là một người tóc bạc, ít nói. Trong đời mình, ông đã nhiều lần nhìn thấy cái chết trong những trận chiến cách mạng, nhiều phong ba và sự hy sinh của bao đồng đội. Ông đã từng biết sự tàn khốc trong chiến đấu, sự nghiêm ngặt của mệnh lệnh. Ông cô đơn. Tất cả những gì ông có trước cách mạng đều đã tan biến trong màn sương ảm đạm - cả xóm thợ mỏ Đô-nhét, cái trường làng bẩn thỉu, cả những con người của thời ấy mà chỉ để lại cái ấn tượng của một đám đông hoang mang mệt mỏi. Cách mạng đã xóa bỏ quá khứ bằng bàn tay cứng rắn, gieo vào ý thức sự giản dị và rõ ràng. Ông trung thành với cách mạng như một người lính, một thợ mỏ và một người có trí tuệ trong sáng và chính xác. Vị chỉ huy đứng dậy đi lên sân khấu. Boong tàu vẫn vang dậy tiếng gót giày và vỗ tay của các thủy thủ. Ở hậu trường, người phụ trách nhà hát, mặt tái đi vì tức giận, đón chỉ huy trưởng.   - Xin đồng chí yên tâm, - ông ta nói vội vã, - chúng tôi sẽ thu xếp ổn thỏa ngay bây giờ. Chuyện vớ vẩn, sự yếu đuối thường tình của phụ nữ đó thôi. Cô ấy sẽ hát.   - Cô ấy sẽ không hát nữa, - chỉ huy trưởng khoan thai nói. – Các đồng chí cho ngừng buổi diễn lại! Người phụ trách nhà hát nhún vai, cười khẩy: - Không thể được. Nhà hát chúng tôi làm việc theo kiểu tiên tiến, không thể vì tâm trạng diễn viên mà đình vở diễn được. Hơn nữa, có gì cần phải nói? Cô ấy đã trấn tĩnh và hoàn toàn có thể diễn tiếp.   Vị chỉ huy quay sang Xônxeva. Cô không nhìn ông, gật đầu.   - Đồng chí thấy là cô ấy đồng ý đấy, - người phụ trách nhà hát nói và vứt mẩu thuốc xuống boong tàu.   Câu chuyện này bắt đầu làm ông khó chịu. Vừa khó xử, vừa xấu hổ. Vị chỉ huy thoáng nhìn mẩu thuốc, và Vaxia Tsukhốp tức khắc gạt khẽ nó xuống biển.   - Các đồng chí đang ở trên hạm đội của hải quân đỏ. - Chỉ huy trưởng nói, bên má có vết sẹo của ông khẽ giật giật. – Xin lỗi đồng chí, nhưng ở đây tôi là người thừa hành quyền lực nên tôi cho phép mình can thiệp vào việc quản lý của đồng chí. Về công việc theo kiểu tiên tiến đồng chí quan niệm hoàn toàn sai lầm. Sự đồng ý của diễn viên không có ý nghĩa. Tôi ra lệnh hoãn buổi diễn này lại. Thế thôi. Không bàn cãi gì nữa.   Vị chỉ huy giơ tay và Vaxia Tsukhốp kéo màn. Khán giả im bặt.   - Các chiến sĩ hải quân đỏ! - Vị chỉ huy điềm đạm nói, - nữ diễn viên Xônxeva có chuyện không may trong gia đình, khó mà diễn tiếp được…   Tiếng xì xào truyền lan trong hàng thủy thủ. Mọi người đứng cả dậy. Vị chỉ huy không kịp nói vở kịch hoãn lại đến một ngày tốt đẹp hơn. Điều đó thì không cần lời giải thích của chỉ huy các chiến sĩ cũng hiểu.   - Cho ca nô lại gần tàu! - Chỉ huy khẽ ra lệnh.   - Rõ, cho ca nô lại gần tàu! Ca nô lại gần tàu! - Mệnh lệnh được truyền dần cho đến khi tắt ở boong dưới. Mấy phút sau vị chỉ huy cùng Xônxeva xuống thang tàu. Anh thượng sĩ cao lớn vạm vỡ trân trọng đặt lên cạnh chỗ Xônxeva ngồi một bó hoa, mặt đỏ lựng và khẽ hô lên:   - Hết tốc lực, tiến!   Ca nô đẩy lùi về phía sau thác nước đầy ánh lửa và bọt trắng, phóng về bến tàu. Vị chỉ huy ngồi trên ca nô nói:   - Tôi đã liên lạc với tư lệnh hạm đội. Cô được dành một chỗ trong chuyến tàu tốc hành đi Matxcơva. Chưa muộn đâu. Còn bốn mươi phút nữa.   Xônxeva cúi đầu. Cô lần lần những bông hoa mà không nói lên lời.   - Thưa đồng chí chỉ huy, - anh thượng sĩ cao lớn nói khẽ nhưng đủ cho Xônxeva nghe thấy, - báo chí viết là ở Matxcơva có một giáo sư mổ tim dễ như mổ gà ấy. Giá mà được ông ta…   - Im đi, Kuzmenkô! - Vị chỉ huy nói. Khoảng một giờ sau tàu tốc hành nhả khói ầm ầm lao ra khỏi đoạn đường hầm cuối cùng. Ánh lửa thành phố và bến tàu lùi lại sau những mỏm đá dựng đứng     * * *   Xônxeva ngồi trong phòng toa xe, không bỏ áo rét và khăn quàng. Cô loáng thoáng nhớ lại ánh đèn nhà ga, tuyết trên các nóc toa chở hàng, Maxcơva chìm trong bóng đêm cực đới, chiếc xe tắcxi cọc cạch, ánh sáng trắng đục trong hành lang bệnh viện.   Cô cũng nhớ loáng thoáng khuôn mặt của cậu em mỉm cười với cô trên giường bệnh.   - Mọi sự đã hoàn tất trót lọt. - Vị giáo sư có bộ râu nhọn dữ tướng nói với Xônxeva. – Trót lọt hiếm có đấy.   Xônxeva khẽ hôn lên thái dương non trẻ ươn ướt của em, nơi có một đường ven xanh mảnh nổi lên lờ mờ.   Và mấy giờ sau lại là đêm, nhà ga, người khuân vác mặt rỗ khó nhọc mới lấy hộ được chiếc vé, tiếng cầu sắt rầm rầm, tuyết, hoàng hôn u ám trên thảo nguyên ngoại thành Kharcôp và cuối cùng là màn sương lam trên vũng biển sâu, mặt trời cao và không khí dịu dàng của mùa thu ven biển.   Xônxeva nhảy lại gần cửa sổ - kia, tuần dương hạm vẫn đậu đó, chưa rời bến! Xônxeva luống cuống dứt dây chằng cửa sổ. Cô muốn thò đầu ra ngoài, vươn tay tới con tàu, vẫy nó rối rít bằng chiếc khăn tay trắng. Nhưng cửa sổ không mở ra và Xônxeva nhớ ra rằng đang là mùa đông và mặt trời chiếu sáng ở đây, trên các vĩ độ miền cực nam tuyệt đẹp này, là kỷ niệm cuối cùng của mùa hè. “Mong sao đoàn chưa đi nơi khác, chỉ mong đến kịp với họ”. – Xônxeva nghĩ thầm. Cô gặp lại các bạn bè trong thành phố bên bờ biển.   Một ngày sau trên chiến hạm lại trình diễn vở kịch bị bỏ dở. Khi “đồ quỷ sứ” kéo màn và Xônxeva bước ra sấn khấu, các chiến sĩ hải quân đứng cả dậy và tiếng vang của những tràng pháo tay chưa từng thấy trên vùng biển dội đến vùng bờ lân cận. Những bông hoa đồng nội giản dị rơi tới tấp xuống chân Xônxeva và hòa lẫn với đám nhung lụa trang phục cổ thành Vơnidơ. Vị chỉ huy đứng ở hàng đầu và thân ái mỉm cười. Xônxeva cúi đầu. Cô cảm thấy mi mắt nặng trĩu những giọt lệ như lần trước, nhưng đây là những giọt lệ ân tình hữu ái. Cô dằn lòng, ngẩng đầu lên mỉm cười. Ngay lúc đó dàn nhạc nổi lên và âm nhạc da diết của Verđi át cả tiếng sóng vỗ. Xônxeva rút bông sơn trà cài trên ngực ném xuống sàn. Thay vào đó cô cài bông hoa màu tím nhạt bám đầy bụi và khô héo. Đó là bông hoa vùng đất ngoại thành mà Vaxia Tsukhốp đã ném lên tặng cô. Cô hát tuyệt vời - giọng hát lanh lảnh ai oán trên vùng biển. Những ông già đánh cá ngồi trên bờ sát mạn nước, lắng nghe và kinh ngạc trước sức mạnh của tuổi trẻ con người. Chỉ huy trưởng lắng nghe và thầm nghĩ là không có gì làm cho tài năng nảy nở bằng tình bạn và sự quan tâm bình dị của đồng đội. Tưởng chừng Viôleta đang hát trên quê hương Vơnidơ. Ánh sao tỏa mờ trên những mỏm đá ven bờ. Ánh đèn xuyên tới tận đáy vịnh - nước trong đến như vậy. Không khí rung rinh vì những luồng khí nóng vô hình. Chân trời trên biển cả tuy đã về đêm, vẫn sáng lên hàng chục hải lý như đang lúc hoàng hôn. Sau buổi diễn các chiến sĩ hải quân vây xung quanh Xônxeva, nhưng họ nhanh chóng kính cẩn giãn ra. Bước lại gần Xônxeva, là một người thủy thủ cao lớn tay áo có những vòng viền vàng rộng - vị tư lệnh hạm đội. - Tôi muốn thay mặt toàn hạm đội cảm ơn đồng chí. – ông nói - Đồng chí đã đem lại niềm vui cao quý cho chúng tôi. Thế còn cậu em, đã khỏi rồi chứ? Xônxeva muốn nói rằng: không phải cô, mà chính những chiến sĩ trẻ sạm nắng này – khi thì đùa cợt, khi thì nghiêm trang, nhưng bao giờ cũng bình tĩnh và đầy thiện ý – đã cho cô được huởng một niềm hạnh phúc thực sự. Cô nghĩ rằng, với những khán giả như thế, thì cả Môda lẫn Betôven cũng phải ghen tỵ, nhưng cô không nói gì, chỉ ráng sức siết chặt tay vị tư lệnh. Gió mát thổi vào từ biển, nơi những ngọn hải đăng xa nhấp nháy trong bóng tối, trong tiếng rì rầm của làn sóng bạc đầu.   1935 MỘNG QUỲNH dịch Mời các bạn đón đọc Lẵng Quả Thông của tác giả K. G. Paustovsky.