Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tổ Ấm Gia Đình

Những kỷ niệm thời thơ ấu không như những kỷ niệm thời đã đứng tuổi, chúng không được sắp xếp trong khung cảnh thời gian. Đó chỉ là những hình ảnh rời rạc, bị sao lãng mọi bề và những nhân vật đại diện cho chúng ta lại rất khác biệt với bản thân chúng ta đến nỗi có rất nhiều hình ảnh như xa lạ hẳn với chúng ta. Nhưng những hình ảnh khác để lại trong tính tình chúng ta những dấu vết khó mà phai nhòa đến mức ngày nay, do những hậu quả mạnh mẽ của chúng, ta nhận ra đó là những thực tế đã qua. Tựa như khi nghiên cứu lịch sử một xứ sở, chúng ta không thể cảm thông thế nào là kiếp sống nô lệ của người nông dân đứng giữa tầng lớp Giáo hội và quý tộc, mà chỉ hình dung ra kiếp ấy qua quan sát ở trong làng xóm chúng ta những nỗi hận thù không sao giải thích nổi còn rơi rớt lại. Vậy nên trong tình cảm chúng ta hiện nay những nỗi chán chường điên cuồng cùng những sở thích đáng lên án mà chúng ta nhận ra những dư ba yếu ớt của sự rung chuyền từ ba mươi năm trước đã từng xáo động những nhóm tế bào mà nay chúng ta là những người nối dõi. Ký niệm xa xưa nhất của Đơnidơ Herpanh là kỷ niệm về một ngày trên bờ biển. Lâu nay, hè nào bà Herpanh cũng thuê một biệt thự ở Bơdơvan bên bờ biển Noocmăngởđi. “Tôi thuê trước hết là cho lũ trẻ”, bà nói. Ngôi nhà mang tên “biệt thự Côlibri”. Hai mươi năm rồi mà Đơnidơ vẫn hình dung lại được cái mái ngói có đường diễu bằng gỗ cắt theo hình những trái tìm cùng các đường xoắn trang trí, những thanh dầm gỗ xiên xiên hay thắng đứng giữa những hàng gạch, hàng hiên có cửa kính, cánh cửa ra vườn mỗi khi mở làm rung cái chuông nhỏ và các bồn sắt to trên cửa số với những cây phong lữ thảo sống lay lắt, ở đó bốc lên mùi đất và mùi lá ủng. Đơnidơ mặc tắm áo may ô đỏ đang đứng chống xẻng bên lũy một cái pháo đài em vừa đào đắp. Em nhìn ra biển. Những mảng bóng đen to lớn, gió cuốn chạy lô xô trên mặt nước xanh khi đỗ đến gần bờ lại trở thành màu cát. Nước triều đã rạc. Phía trước pháo đài trải dài một dải những hòn cuội nhỏ và mảnh sò vỏ ốc vụn, đi đất có thể bị đứt chân. Xa hơn nữa là những cồn cát mịn màng và chắc với những dòng sông uốn khúc quanh co trông đẹp mắt. Dưới đáy những ngòi ấy, cát đóng chắc thành hình sóng lượn. Đơnidơ bỗng thèm được cảm thấy độ bền của lớp cát ấy đưới chân mình, em buông xẻng, chạy về phía các vũng nước. Có tiếng quát: “Đơnidơ...”. Em dừng phắt ngay lại và chậm chạp quay về. Nơtx Kêrinhtơn, cô có những bực dọc trong lòng. Có trời biết tại sao cô lại làm cho cái gia đình Herpanh này, vốn chỉ là dân tiểu tư sản tỉnh lẻ, thậm chí xe riêng cũng chẳng có. Trước đó, cô đã từng dạy dỗ con cái của bá tước Thiănggiơ có cả một tòa lâu đài và con cái gia đình Oetbergiê mỗi năm đến ở Biaritz hàng bốn tháng trời. Nơtx Kêrinhtơn là con gái một người buôn bán tạp hóa ở Phânkớtxtơn. Cô có tham vọng trở về nước Anh khi tuổi chừng năm mươi để mở một ngôi nhà trọ, khách vừa ăn vừa ở. Ở Pháp, cô mong muốn được sống lẫn với các gia đình giầu có hay quyền quý. Trên cái bãi biển còn quê kệch vào những năm 1900 này, cô không thấy có những nữ gia sư người Anh nào khác. Buộc lòng phải ngồi với các chị vú sữa, cô đồ trách nhiệm cho cả vũ trụ về sự sa sút này. Phòng riêng của bọn trẻ bé quá. Nhà chỉ có một buồng tắm. Tính nết Đơnidơ quá tệ không chịu cho hai em là Lôlôtơ' và Bêbê mượn đồ chơi. Yow are a very naughty lile girl...I']I telÏ your mother about you...” Nơtx nói: Đơniđơ hờn dỗi ngồi tách ra một chỗ. Cái xẻng của em tên là Olali, nó cũng là người hẳn hoi thì cho Lôlôttơ mượn làm sao được cơ chứ! Mỗi đồ chơi đều có một cái tên bí mật cắm được nói ra. Cái gối tên là Sêbatchiêng, cái xô đựng nước là ông Ghibôren, như ông cụ làm vườn ở Pông đờ Lorơ vẫn thường đem đến hàng trăm chậu nhỏ đề trồng thu hải đường và hương nhật quỳ. Ngồi bên miệng hố em đã đào làm nơi ấn nấp, em vục đầy tay cát mịn và ấm cho chảy lọt qua kẽ các ngón tay, một viên sỏi hay mảnh vỏ ốc lẫn trong cát mắc lại ở kẽ các ngón tay sít nhau. Nước triều lên. Đơnidơ ngắm nhìn những làn sóng nhỏ từ xa dồn đến tung bọt trắng xóa trải dài trên cát, sóng rút, sau khi được tắm thứ nước ấy, cát trơ ra, bóng loáng như hải cầu. Ở bên trái, về phía Đivơ và Cabua những chiếc thuyền nhỏ đang đánh cá trên mặt biển sáng long lanh. Đơnidơ nghĩ giá được đi trên những con thuyền ấy hẳn là thích lắm và “người lớn thực là bất công và độc ác”. *** André Maurois (1885 - 1967) là nhà văn lớn Pháp, tên thật là Emile Herzog. Viện sĩ trong Viện Hàn lâm Pháp. Ông xuất thân trong một gia đình công nghiệp ở Alsaca. Khi còn ở ghế nhà trường ông là một cao đệ của giáo sư kiêm triết gia Alaine (1868 - 1951), tốt nghiệp Đại học, ông làm giáo sư triết học. Một thời gian sau ông từ chức về quản lí nhà máy dệt của gia đình và bắt đầu viết từ đó. Trong thế chiến thứ nhất (1914 - 1918) , ông làm thông dịch viên trong quân đội Hoàng gia Anh, chiến tranh thế giới lần thứ hai (1939 - 1945), ông sống ở Anh quốc và Hoa Kỳ. André Maurois chuyên về tiểu thuyết, luận văn, sử, phê bình, khảo luận, tùy bút... Với hơn 100 tác phẩm thuộc nhiều thể loại mà có người cho "toàn thể tác phẩm của ông quả là trác tuyệt" đã được các thế hệ trẻ ngưỡng mộ, tin cậy và xem ông như bậc thầy. Hồi André Maurois mất, cuối năm 1967, thọ 82 tuổi, một bạn đồng viện của ông khen ông đại ý như sau : "André Maurois phân biệt ba hạng tác phẩm : trác tuyệt, lớn và hữu ích. Không một tác phẩm nào của ông vào hàng trác tuyệt nhưng toàn thể tác phẩm của ông quả là trác tuyệt". Ông nổi tiếng là nhà luân lí có khuynh hướng tình cảm, lãnh nhiệm vụ hướng dẫn thanh niên trong thời đại nhiều biến chuyển nhất của Pháp (từ Thế chiến thứ nhất tới nay), và ông đã được ba thế hệ trẻ tin cậy, coi như bậc thầy. Sự nghiệp trác tuyệt của ông ở đó. "Người đàn bà không quen biết" mà ông tưởng tượng là một thiếu phụ khoảng ba mươi, đẹp, thông minh, có óc phán đoán, suy xét, thực ra tượng trưng tất cả những phụ nữ thắc mắc về đời sống. Liên tiếp trong sáu chục tuần, ông viết cho họ mỗi tuần một bức thư từ hai tới bốn trang. Trong sáu chục bức thư đó, ông giải đáp tất cả những câu họ có thể hỏi ông về những nỗi vui, buồn và ưu tư của họ, về ái tình, hôn nhân, hạnh phúc, nghề nghiệp, về tâm lí đàn ông, tâm lí đàn bà, về y phục, nhan sắc, cách lấy lòng người, cách xử trí khi chồng có ngoại tình, về quyền lợi và bổn phận của đàn bà, như dạy con, chiều chuộng v.v... Ông lại chỉ cho họ cách bồi dưỡng tinh thần và trí tuệ : đọc sách ra sao, tiêu khiển ra sao. Đôi khi ông cao hứng, nhân một lúc vui hay một lúc bực mình, giới thiệu một tác phẩm, một khúc nhạc, một cảnh đẹp hoặc mạt sát bọn giết thì giờ của ông, mỉa mai bọn làm áp phe, suốt đời chỉ lo kiếm tiền... Tóm lại, ông gặp chuyện gì nói chuyện đó, không sắp đặt trước, lan man y như trong một cuộc đàm thoại. Triết lý của ông là một triết lý lạc quan, khoan hoà, thực tế mà chân chính. Giọng của ông nghiêm trang, thanh nhã mà thân mật, dí dỏm không ra vẻ dạy đời. Ông già tâm lí, giàu kinh nghiệm ; đọc ông ta thấy thích hơn là đọc tác phẩm khô khan của các triết gia, thích hơn cả là những trang tuy sâu sắc, nhưng cô đọng gần như châm ngôn của Alain, sư phụ của ông nữa. Vì ông gần chúng ta hơn.   Mời các bạn đón đọc Tổ Ấm Gia Đình của tác giả André Maurois & Vương Hữu Khôi (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Đọc Sách

Chết Đi Cho Rồi, Leonard Peacock - Matthew Quick
Trong cuốn tiểu thuyết Chết đi cho rồi, Leonard Peacock, tác giả của Về phía mặt trời kể về một cậu bé tài giỏi, nhưng gặp nhiều vấn đề ở trường và phải sống với một bà mẹ vô tâm chỉ quan tâm tới thời trang. Cậu đi đến quyết định tự sát, và trước khi tự sát, cậu đã tặng những người cậu yêu quý một món quà. Sử dụng biện pháp flashback (kể về những người bạn thân của cậu bé, về người bạn người Iran chơi violon thần sầu, về cô giáo dạy Anh văn và thầy giáo dạy lịch sử) xen lẫn những bức thư gửi từ tương lai (của bản thân cậu bé, của người vợ và con gái tưởng tượng), câu chuyện dần hé lộ về cuộc sống và các mối quan hệ cá nhân của Leonard, qua đó đặt ra những câu hỏi thực tế, mang tính thời sự cao về cả một thế hệ trẻ, về hệ thống giáo dục và về cách người lớn nhìn nhận trẻ con, cũng như những ước mơ vô cùng bình dị. Một cuốn sách khiến người ta nhớ đến Catcher in the Rye, The Perks of Being a Wall Flower và Mysterious Skin. *** Khẩu súng lục P-38 của phát xít Đức từ thời Chiến tranh thế giới thứ hai trông thật kỳ cục gần cái tô ngũ cốc trên bàn. Một sự giao thoa đồ dùng công nghệ nhìn hết sức trật chìa. Nhưng nếu nhìn kỹ vào báng súng thì có thể thấy một cái dấu thập ngoặc nhỏ xíu và con đại bàng đậu trên đỉnh, trông thật vãi. Tôi lấy iPhone chụp một phát cho cái “cặp đôi hoàn hảo” đó, để lưu lại vật chứng kiêm tác phẩm nghệ thuật hiện đại. Đến khi ngó vào màn hình điện thoại, tôi bò lăn ra mà cười, bởi cái “cục” tác phẩm nghệ thuật ấy nhìn gớm không thể tả. Chứ gì nữa, cái tô ngũ cốc và một khẩu P-38 cứ như cái thìa nằm chình ình bên cạnh – một vụ “dàn cảnh” như thế lên khuôn hình trông có vẻ như nghệ thuật sắp đặt hiện đại đấy chứ? Nhảm vãi. Mà cũng nhí nhố ra phết. Hồi đi tham quan mấy bảo tàng nghệ thuật, tôi thấy lắm thứ còn kinh hơn, chẳng hạn như trên tấm toan trắng toát chỉ có mỗi một vạch đỏ bé tí quẹt qua. Có lần tôi đã đốp thẳng vào mặt Herr Silverman về cái bức tranh đó rằng vẽ vời kiểu thế thì tôi cũng làm được. Thế rồi bằng giọng điệu siêu tự tin, thầy vặc lại tôi thế này: “Nhưng mà em có làm đâu.” Phải thừa nhận là cái câu phản pháo đó hơi bị đúng. Biết vậy tôi ngậm quách miệng lại cho rồi. Đây, giờ thì tôi đang sáng tạo nghệ thuật hiện đại trước khi ngủm đây. Biết đâu sau này họ lại chả đặt cái iPhone này vào trong Viện bảo tàng nghệ thuật Philadelphia với bức hình khẩu súng phát xít và tô ngũ cốc vẫn còn trên đó ấy chứ. Họ có thể đặt cho nó một cái tên thật kêu như Bữa điểm tâm của sát thủ choai choai hay mấy cái tên vớ vẩn và gây sốc kiểu kiểu như vậy. Tôi cá là giới nghệ thuật và thông tấn sẽ khoái lắm đây. Họ sẽ khiến cho tác phẩm nghệ thuật hiện đại của tôi đùng một cái mà nổi như cồn. Nhất là sau khi tôi trừ khử xong thằng ôn con Asher Beal và tự khai tử tôi luôn. Giá trị các tác phẩm nghệ thuật lúc nào mà chả tăng vọt khi người ta phát hiện ra người nghệ sĩ đã làm vài việc dở hơi nào đó, chẳng hạn như ông họa sĩ Van Gogh cắt cụt cả tai mình, tác gia Poe thì cưới ngay cô em họ vị thành niên, ca sĩ Manson thì sai thuộc hạ đi ám sát người nổi tiếng, không thì cũng kiểu như ông nhà báo Dr. Thompson đòi người ta phải bỏ tro cốt của mình sau khi tự sát vào trong nòng pháo mà bắn, hoặc đòi mẹ mặc áo váy con gái như nhà văn Hemingway, hay diện nguyên cả bộ đồ làm bằng thịt sống như cô ca sĩ quái chiêu Lady Gaga, nói chung là lắm thứ khó nói xảy ra với một nghệ sĩ tới nỗi mà người này phải giết cả bạn cùng lớp rồi tương luôn một phát súng vào đầu mình như kiểu hôm nay tôi sẽ làm đây. Vụ việc ám sát lẫn tự sát của tôi sẽ khiến cho tác phẩm Bữa điểm tâm của sát thủ choai choai trở thành một kiệt tác vô giá bởi vì ai mà chả thích mấy kiểu nghệ sĩ điên điên lập dị. Anh mà cứ chán chán, xinh xinh, bình bình – giống tôi từng thế - thì anh rớt lớp nghệ thuật là cái chắc và suốt đời chỉ là một nghệ sĩ xoàng xĩnh mà thôi. ... Mời các bạn đón đọc Chết Đi Cho Rồi, Leonard Peacock của tác giả Matthew Quick.
Thanh Gươm Công Lý - Archibald Joseph Cronin
Beyond this place (THANH GƯƠM CÔNG LÝ) kể về hành trình đi tìm công lý của chàng thanh niên Paul Mathry nhằm rửa sạch nỗi oan khuất cho cha mình – Rees Mathry - một người vô tội đã bị kết án chung thân khổ sai tại nhà tù Stoneheath (Ái Nhĩ Lan) vì tội giết người mà ông không hề phạm phải. Trong THANH GƯƠM CÔNG LÝ cái khiến người ta phải ray rứt đó là liệu có nên đẩy một người vô tội - nhưng chẳng có cống hiến gì đặc biệt - vào tù để thế chỗ cho một con người đang tận tâm hiến mình cho việc săn sóc những người nghèo khổ, bệnh tật, dù chính con người tốt đẹp đó mới là kẻ phạm tội? Ray rứt hơn khi chứng kiến những kẻ là đại diện cho luật pháp lại tìm cách kiếm lợi trên những tội lỗi mà họ được giao trách nhiệm xét xử, và sẵn sàng hất bỏ những ai dám nói ngược, lật ngược lại những phán quyết và hành động được coi là đại diện cho công lý của họ. Cái đẹp nhất trong toàn bộ câu chuyện này chính là niềm tin vào công lý thực sự, lòng can đảm của tuổi trẻ và tình yêu của đứa con với người cha, đã khiến chàng trai trẻ Paul Mathry dấn thân vào công việc tưởng chừng như bất khả thi: tìm lại những nhân chứng, vật chứng của một vụ án đã được xếp lại từ 15 năm trước để cứu cha ra khỏi nhà tù. Thời nào cũng vậy, niềm tin và lòng can đảm luôn có sức mạnh lan tỏa kết nối mọi người để công lý thực sự được hiện diện. Câu chuyện khởi đầu từ thành phố Belfast (Ái Nhĩ Lan) nửa đầu thế kỷ 20 này cũng có một sức mạnh như thế. Tiểu thuyết Thanh gươm công lý xuất bản lần đầu tiên năm 1953 là một bản cáo trạng hùng hồn lên án guồng máy tư pháp của nước Anh vào thế kỷ XX. Đó là một bộ máy già nua lỗi thời, được dựng lên từ thời Trung cổ và tồn tại suốt bảy thế kỷ nay. Vì thế, tất nhiên nó mắc phải những sai lầm nghiêm trọng và không còn khả năng làm tròn chức năng đảm bảo công bằng tối thiểu về pháp lý theo kiểu tư sản cho mọi người dân.   Một nhược điểm cơ bản của nó là chế độ bồi thẩm đoàn, theo đó quyền biểu quyết có tội hay không có tội là thuộc về các bồi thẩm. (Đây cũng chính là cái dân chủ, công bằng giả hiệu của luật pháp tư sản). Vấn đề đặt ra là liệu các bồi thẩm có đủ khả năng và sáng suốt để làm nhiệm vụ của mình một cách vô tư và công bằng không? Thực tế cho thấy đa số các bồi thẩm thường thiếu kiến thức sâu sắc về tâm lý, thiếu trình độ hiểu biết về luật pháp, thậm chí thiếu cả khả năng suy luận vô tư. Do đó, phía có quyền buộc tội (công tố viện) dễ dàng gây ảnh hưởng với bồi thẩm đoàn bằng những lý luận thiên lệch hết sức tinh vi nhằm đạt mục đích ích kỷ cá nhân là thăng tiến trên đường công danh, bằng những ngôn từ hoa mỹ chủ tâm khích động nơi các bồi thẩm sự tức giận và lòng căm thù vô cùng bất lợi cho các bị cáo. Vốn coi nhẹ sinh mạng con người hơn quyền lợi riêng tư của mình, phía buộc tội vận dụng đủ mọi phương tiện và mánh khóe để áp đặt ý đồ của mình. Trong những điều kiện như thế, bồi thẩm đoán khó lòng biểu quyết trái ý phía buộc tội là một bản án tử hình cho bị cáo.   Vì thế, người ta không chút ngạc nhiên khi thấy tình trạng công lý bị vo tròn, bóp méo trong tay một số giới chức có thẩm quyền điều tra và buộc tội. Và cũng từ đó phát sinh biết bao bi kịch… *** Archibald Joseph Cronin (19/07/1896 – 06/01/1981) là một tiểu thuyết gia, nhà soạn kịch, tác giả truyện người thật việc thật, nhà văn người Scotland. Ông là một trong những người viết truyện nổi tiếng của thế kỷ XX. Các tác phẩm nổi tiếng của ông là: The Stars Look Down, The Citadel (Thành trì), The Keys of the Kingdom và The Green Years (Những năm ảo mộng). Tất cả các tác phẩm này đều đã được dựng thành phim. Ông cũng dựng nên nhân vật Dr. Finlay, người hùng của một bộ truyện dùng cho phim nhiều tập của đài phát thanh và truyền hình BBC dưới tên Dr. Finlay's Casebook. Trong một phần ba thế kỷ tiếp theo, ông đã sáng tác ngót 20 quyển sách văn học, mà riêng thể loại tiểu thuyết có những tác phẩm sau đây là giá trị hơn cả:  Hatter's Castle -1931 (Lâu Đài Người Bán Nón)  Three Loves - 1932 (Ba Mối Tình)  Grand Canary -1933 (Đảo Hoàng Yến)  The Stars Look Down - 1935 (Dưới ánh các vì sao)  The Citadel - 1937 (Thành trì )  The Keys of the Kingdom - 1942 (Chìa khóa Vương Quốc)  The Green Years - 1944 (Những ngày xanh).  Shannon's Ways -1948 (Số Phận Của Bác Sĩ Shannon)  Grand Canary (Đảo Hoàng Yến)  Beyond this Place -1953 (Thanh Gươm Công Lý)  The Northen Light - 1958 (Ánh sáng Phương Bắc)  Lady with Carnation - 1976 (Cô gái và hòa cẩm chướng) *** Mỗi chiều thứ tư, khi mãn giờ làm việc, mẹ của Paul đều rời Tòa thị sảnh dùng xe lửa điện đến nhà thờ Merrion để dự buổi lễ hàng tuần; đúng năm giờ, Paul đến rước bà sau buổi học triết. Nhưng hôm nay, Paul bận nói chuyện với giáo sư Slade, và khi thấy đã trễ giờ, anh bèn đi thẳng về nhà.   Trời tháng sáu. Chiều xuống rất đẹp trên thành phố Belfast, tô một vẻ hấp dẫn kỳ lạ lên những ngôi nhà u buồn, tường vách nám khói. Dưới khung trời màu hổ phách, đường nét thô kệch của những mái nhà và ống khói trong thành phố lớn Ái Nhĩ Lan biến mất, nhường chỗ cho một vẻ đẹp huyền bí, chỉ tìm thấy trong những giấc mộng huy hoàng.   Paul đi ngược lên đường Larne, một con đường nhỏ yên tĩnh, hai bên có những ngôi nhà gạch xây liền nhau từng đôi một. Nơi đây mẹ con Paul sống trong căn nhà số 29 gồm ba phòng. Paul cảm thấy tim mình rộn lên một niềm vui. Vẻ đẹp của hoàng hôn, niềm tin nơi cuộc sống đầy hứa hẹn làm tâm hồn Paul lâng lâng. Dừng lại trước thềm nhà, chàng tuổi trẻ với đầu trần và bộ y phục bằng nỉ cũ đã sờn, khoan khoái hít một hơi dài, rồi hăng hái mở cửa, nhanh nhẹn bước vào. Từ trong nhà bếp, con chim yến cất tiếng hót mừng. Paul huýt sáo đáp lại, cởi chiếc áo vét-tông ra mắc lên giá, bắc ấm nước lên bếp và chuẩn bị bữa ăn tối. Vài phút sau chiếc đồng hồ treo tường gõ bảy giờ và Paul nghe tiếng chân mẹ bước qua cổng ngoài. Chàng vui vẻ mừng mẹ khi bà vào nhà, dáng người gầy gò trong bộ y phục màu đen u buồn, hơi nghiêng về một bên dưới sức nặng của cái xắc “nhét đủ thứ” mà lúc nào bà cũng mang theo…   - Xin mẹ tha lỗi. Con không đến đón mẹ được. - Paul nở một nụ cười mơn trớn nói với bà. - Giáo sư Slade hứa cho con một chỗ làm. Con có thể tin tưởng nơi ông ta.   Bà Burgess nhướng đôi mắt cận thị nhìn con trai mình rất lâu. Dưới chiếc nón nhỏ đánh sáp bóng, mái tóc bạc lòa xòa làm hiện rõ nét mệt mỏi và nhẫn nại chịu đựng trên gương mặt đã hằn sâu nhiều vết nhăn. Nhưng, trước ánh mắt vui tươi của con, bao vẻ u sầu của bà bỗng tan biến hết. “Đó là một gương mặt trung hậu, có lẽ không được đẹp trai lắm, nhưng cởi mở và thẳng thắn”, bà thầm nghĩ, và cảm tạ Thượng Đế đã tránh cho con mình những tai họa thường đi chung với cái bên ngoài. Paul hơi gầy, hai xương gò má nhô lên quá cao, đôi mắt màu xám tinh anh dưới vầng trán rộng, tóc hớt ngắn. Thân hình liền lạc, vững chắc và có thể nói là khá cân đối nếu một tai nạn trong sân cỏ không làm cho đầu bàn chân phải của anh hơi nghiêng về phía trong một chút. ... Mời các bạn đón đọc Thanh Gươm Công Lý của tác giả Archibald Joseph Cronin.
Tiểu Thuyết Nguyễn Công Hoan - Nguyễn Công Hoan
Nguyễn Công Hoan sinh ngày 6 tháng 3 năm 1903, tại thôn Xuân Cầu, xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Bắc Ninh, nay là tỉnh Hải Hưng, trong một gia đình Nho học. Chính nơi sinh cũng là quê hương ông. Ông bắt đầu viết văn rất sớm, ngay từ khi còn đương học ở trường Bưởi. Tập truyện ngắn đầu tiên của ông là Kiếp hồng nhan xuất hiện năm 1923, khi ông tròn hai mươi tuổi. Từ đó ông viết nhiều truyện ngắn và truyện dài đăng trên các báo đương thời. Năm 1932 ông bắt đầu được bạn đọc chú ý khi cuốn truyện dài Những cảnh khốn nạn ra đời và nổi tiếng sau khi ra tập Kép Tư Bền (1935). Ông viết văn vừa dạy học cho đến Cách mạng tháng Tám. Do tham gia hoạt động trong phong trào Quốc dân đảng của Nguyễn Thái Học rồi Đảng xã hội Pháp, và bắt liên lạc được với những người cộng sản Đông Dương, ông luôn luôn bị Sở mật thám theo dõi. Hai lần ông bị bắt giữ rồi lại được thả vì không đủ chứng cớ kết tội. Lần cuối cùng, ông bị Nhật bắt giam cho đến ngày khởi nghĩa tháng Tám. *** Tiểu Thuyết Nguyễn Công Hoan gồm có:  Bước Đường Cùng Cô Giáo Minh Lá Ngọc Cành Vàng *** Bước đường cùng đánh dấu đỉnh cao về tư tưởng của nhà văn Nguyễn Công Hoan và là một trong những tác phẩm tiêu biểu của văn học hiện thực phê phán Việt Nam trước Cách mạng. Bản thân Nguyễn Công Hoan từng cho biết: Thời gian ấy (1938), vì có mối quan hệ gần gũi với những anh em chính trị phạm cũ, trong đó có những người cộng sản (ông là công chức duy nhất của chính quyền thực dân dám có mặt trong đám cưới của Phan Đình Khải, tức đồng chí Lê Đức Thọ sau này), nên Nguyễn Công Hoan bị mật thám Pháp theo dõi gắt gao. Rốt cục, dù không hề mắc mớ gì trong quá trình dạy học, ông vẫn bị thuyên chuyển từ một trường ở Nam Định lên một trường ở Trà Cổ (Móng Cái, Quảng Ninh), việc bấy giờ bị coi như một sự "đày ải". Nguyễn Công Hoan rất bức xúc. Ông phản ứng: "Mày đã khỏe đổ cho ông là cộng sản, thì ông cộng sản cho mày xem". Vậy là ông viết tiểu thuyết "Bước đường cùng".   Viết "Bước đường cùng", tác giả đã lường trước hậu quả là sách sẽ bị cấm. Thậm chí, người viết còn bị truy tố. Nhưng ông không sợ. Ông nghĩ, nếu bị nặng lắm thì ông cũng chỉ lãnh án từ một tới năm năm tù. Khi trở về, ông sẽ lại viết văn.   Nguyễn Công Hoan đã viết cuốn sách trong tâm trạng "viết ngày viết đêm, viết cho chóng xong để còn đi chơi nhiều nơi, trước khi ra "an trí" tại Trà Cổ". Ông kể: "Vừa nghĩ, vừa viết, vừa sửa, tôi đã hoàn thành cuốn truyện trong 16 hôm (1/16 tháng 7 năm 1938). Vì đã ngồi trước cái bàn cao quá tầm tay liền trong nửa tháng để viết, nên phải dùng nhiều gân sức, tôi đã bị sái bả vai bên phải đến ba năm. Mấy năm nay, vì tuổi cao, sức yếu, đến mùa rét, hoặc gặp thời tiết ẩm thấp, bệnh ấy lại trở thành tật".   Mời các bạn đón đọc Tiểu Thuyết Nguyễn Công Hoan của tác giả Nguyễn Công Hoan.
Không Thể Chuộc Lỗi - Allen Hassan
Chiến tranh cũng giống như bệnh hủi; nó tiêm nhiễm tất cả và lấy đi lòng nhân ái, lấy đi bản chất con người của chúng ta. (- trích Không Thể Chuộc Lỗi) Thật khó để phân loại Không Thể Chuộc Lỗi theo thể loại sách. Hồi ký? - Đúng. Lịch sử? - Không sai. Ký sự? - Có thể chấp nhận được. Nghiên cứu? - Căn cứ trên số liệu mà cuốn sách cung cấp thì được... Và nếu như tựa cuốn sách đã đặt ra vấn đề thì nội dung chính là phần giải quyết vấn đề ấy, lý giải cho những hành động mà cho dù có làm thế nào cũng không thể chuộc lại lỗi lầm hay xóa đi quá khứ bi thảm trong chiến tranh Việt Nam. Tác giả cuốn sách, bác sĩ, luật sư Allen Hassan đã viết về khoảng thời gian ông làm việc ở Việt Nam trong chiến tranh, những gì ông được chứng kiến, được nghe, được trải nghiệm. Và chiến tranh, với tất cả sự khắc nghiệt của nó, biến khoảng thời gian ấy của vị bác sĩ tình nguyện trở thành địa ngục với những hình ảnh tang thương đầy máu. Đó là chiếc máy bay chở đầy xác các em nhỏ. Đó là những vụ thảm sát dân thường vô tội. Đó là những người đồng đội bị bỏ rơi trong cái chết và không bao giờ có thể trở về. Từng dòng chữ tràn đầy cảm xúc và nghẹn đắng về một "phía bên kia của chiến tranh" mà phải đến bây giờ, khi chiến tranh đã qua đi rất lâu, người ta mới muốn biết và lắng nghe. © Không Thể Chuộc Lỗi là câu chuyện trước đây chưa từng được tiết lộ của một bác sĩ tình nguyện người Mĩ trong chiến tranh Việt Nam "Việc chứng kiến cái chết  của những người già và trẻ em đã khắc ghi vào tâm khảm tôi. Bị bắn vào đầu! Tại sao? Có lẽ tôi không bao giờ có thể quên được những điều ấy". Những trăn trở của bác sĩ Hassan về cuộc chiến tranh Việt Nam cứ mãi ám ảnh ông. Mặc dù tiếp tục thành công ở phòng mạch và văn phòng luật sư ở Sacramento, California nhưng ông vẫn khổ sở với những cơn ác mộng triền miên về Việt Nam. Nhiều tháng, nhiều năm sau khi trở về nước, giấc ngủ của ông vẫn bị gián đoạn vì những hình ảnh hãi hùng. Ông từng thực hiện nhiều chuyến đi trở lại Việt Nam, trở lại vùng đất Quảng Trị với mong muốn làm sáng tỏ về cái chết của hàng chục sinh linh nhỏ bé mà ông từng tận mắt chứng kiến. Sau chiến tranh, khi những cựu binh chiến tranh trở về và kể chuyện của mình, họ bị phớt lờ, cô lập, bị từ chối những phúc lợi đúng ra họ được hưởng , thậm chí bị đưa vào nhà thương điên. Cũng như trường hợp của bác sĩ Hassan, người ta đã nói với nhiều cựu binh rằng những việc mà họ đã thấy và đã làm trong chiến tranh Việt Nam là không thể xảy ra, và rằng dân chúng không muốn nghe những điều kinh hoàng như thế. Và vì thế, ông Hassan tiếp tục mong muốn làm sáng tỏ vụ việc. Những điều chưa hề được tiết lộ về cuộc chiến còn nói về tình cảnh thương tâm của những thương binh hạng nặng của Mỹ được tập trung ở các lán trại tại Đông Hà không được đưa về Mỹ chữa trị hoặc được chết trong vòng tay thân ái của gia đình, vì sợ những hình ảnh sự thật này sẽ gây ra làn sóng phản đối chiến tranh "... Giá như lúc đó, người dân Mỹ biết về những gì đang xảy ra với con cái của họ... giá mà họ biết đến phạm vi rộng lớn của các hành động tội ác, điên rồ diễn ra khắp mọi nơi..." *** Tại hội trường 8 Hội chợ sách Quốc tế Frankfurt ở Đức năm 2006, giữa các khu vực trưng bày sách rộng lớn và không khí giao dịch bản quyền náo nhiệt của các tập đoàn xuất bản hàng đầu thế giới là một gian hàng nhỏ với một điểm đặc biệt có một không hai: Gian hàng chỉ trưng bày và giao dịch bản quyền duy nhất một cuốn sách có tựa đề Failure To Atone - Không Thể Chuộc Lỗi - với một poster lớn: "Nước Mỹ Không Thể Chuộc Lỗi về những gì đã gây ra trong cuộc chiến tranh Việt Nam! Sự thật chưa từng được tiết lộ của một bác sĩ tình nguyện người Mỹ tại Việt Nam”. Tác giả cuốn sách là một bác sĩ phẫu thuật người Mỹ, tiến sĩ Allen Hassan, nguyên là quân nhân thuộc binh chủng Thủy quân lục chiến của quân đội Mỹ, từng qua Việt Nam để chữa trị cho những nạn nhân chiến tranh. Đại diện công ty First News tham dự hội chợ đã làm việc với đại diện bản quyền của bác sĩ Allen Hassan. Phía bạn rất vui và xúc động khi Việt Nam là ngôn ngữ đầu tiên mua bản quyền cuốn sách. Ông liên lạc ngay với tác giả ở Mỹ để thông báo và cho biết bác sĩ Allen Hassan sẽ sẵn sàng bay qua TP. HCM dự lễ ra mắt ấn bản tiếng Việt cuốn sách của mình ở Việt Nam vào dịp 30/04/2007. Khi chúng tôi hỏi vì sao lại lấy tên là Không Thể Chuộc Lỗi đặt cho cuốn sách, đại diện bản quyền của bác sĩ Allen Hassan trả lời: "Mục đích của bác sĩ Allen Hassan khi viết cuốn sách này là muốn những người lính đã từng tham chiến tại Việt Nam và chính quyền Mỹ thật sự hiểu rõ những gì mà nước Mỹ đã gây ra cho người dân Việt Nam là lớn hơn rất nhiều những gì mà người Mỹ từng nghĩ. Nước Mỹ nhớ rất kỹ những gì người khác gây cho họ nhưng lại quên rất nhanh những gì họ đã gây ra cho những người khác. Người chết không thể sống dậy, người tàn tật mãi mãi tàn tật, và nỗi đau mãi mãi là nỗi đau... Khi đọc xong cuốn sách này, mọi người sẽ hiểu bây giờ dù làm bất cứ việc gì, nước Mỹ cũng không thể chuộc lại lỗi của mình đối với người dân Việt Nam!”. NHỮNG ÁM ẢNH KHÓ QUÊN Là một trong những bác sĩ người Mỹ hiếm hoi chữa trị cho những người bị thương ở cả hai phía, nhất là ở vùng bom đạn ác liệt trong cuộc chiến của Mỹ tại Việt Nam như Quảng Trị, bác sĩ Allen Hassan đã rất phẫn nộ khi chứng kiến tận mắt những thảm cảnh đau thương do cuộc chiến gây ra, đặc biệt là vụ thảm sát trẻ em ở Quảng Trị - một sự kiện chưa hề được công bố. Đến nỗi đang hưởng tuần trăng mật mà ông cũng không thể gác được nỗi ám ảnh về cơn ác mộng đó. Trong tuần trăng mật ở Rome và Majorca năm 1974, vợ ông đưa cho ông cuốn sách có tựa “Home From The War” (Trở về từ cuộc chiến) của tác giả Robert J. Lipton. Cuốc sách đã khơi dậy những ký ức về Việt Nam, khiến ông viết ngay vào bên lề trang sách đang đọc: "Việc chứng kiến cái chết của những người già và trẻ em đã khắc ghi vào tâm khảm tôi. Bị bắn vào đầu! Tại sao? Có lẽ tôi không bao giờ có thể quên được những điều ấy”. Những điều chưa hề được tiết lộ về cuộc chiến còn là tình cảnh thương tâm của những thương binh hạng nặng của Mỹ được tập trung trong các lán trại ở Đông Hà. Họ không được đưa về Mỹ để chữa trị hay để có được niềm an ủi cuối cùng là chết trong vòng tay thân ái của gia đình, bởi cỗ máy chiến tranh của Mỹ lo sợ rằng những hình ảnh của sự thật tàn khốc này sẽ gây ra làn sóng phản đối chiến tranh. Tác giả viết: "Giá như lúc đó, người dân Mỹ biết về những gì đang xảy ra với con cái của họ... Giá mà họ biết đến phạm vi rộng lớn của các hành động tàn ác điên rồ diễn ra khắp mọi nơi...”. Và rồi ông đã chứng kiến phong trào phản chiến ngay tại chiến trường Việt Nam: "Trong những ngày cuối cùng ở Sài Gòn, tôi rất kinh ngạc phát hiện ra rằng, Việt Cộng không phải là những người duy nhất sống dưới đường hầm ở Việt Nam. Erhart yêu cầu tôi - với tư cách là một bác sĩ - đi cùng anh ta đến một khu vực có nhiều binh lính Hoa Kỳ đào ngũ hoặc vắng mặt bất hợp pháp. Những người này rõ ràng là đang sống dưới các đường hầm. Cùng với một toán quay phim của hệ thống truyền hình - tôi không chắc là đài nào, nhưng có lẽ là đài truyền hình NBC - chúng tôi tìm thấy những binh lính Mỹ đào ngũ đang sống trong đường hầm ngay dưới lòng đất Sài Gòn”. Tận mắt chứng kiến những điều đau lòng như thế, nhưng bác sĩ Hassan đã phải im lặng suốt một thời gian dài vì những phản ứng của ông lúc đó - về vụ thảm sát trẻ em - đã bị Cục Tình Báo Trung Ương Mỹ (CIA) tại Nam Việt Nam theo dõi và suýt nữa thể ông đã phải trả giá bằng mạng sống của chính mình trong một đêm nọ tại Quảng Trị. Và sau này, ông còn biết thêm rằng, trong chiến tranh, có khoảng 40.000 người Việt Nam bị chính quyền Nam Việt Nam và Mỹ bí mật theo dõi và sát hại trong các chiến dịch Phượng hoàng do CIA chỉ đạo. NỖI ĐAU CÒN ĐÓ Chiến tranh đã qua đi hơn 30 năm nhưng những di chứng của nó vẫn còn tồn tại không những trên đất nước Việt Nam, mà còn mang theo đến tận bên kia Tây bán cầu. Tại Hoa Kỳ, bác sĩ Hassan vẫn tiếp tục chữa trị cho những quân nhân Mỹ từng tham chiếc ở Việt Nam, vẫn tiếp tục cùng những người khác đấu tranh cho đồng đội của mình được hưởng những phúc lợi mà họ đáng được chăm sóc do hậu quả độc hại của các loại hóa chất - đặc biệt là chất độc da cam - mà Hoa Kỳ từng sử dụng tại chiến trường Việt Nam. Trong khi đó, ngay trên mảnh đất đau thương hứng chịu toàn bộ bom đạn, hóa chất trong cuộc chiến, chính quyền cùng nhân dân Việt Nam tiếp tục khắc phục những hậu quả nặng nề của cuộc chiến. Những cố gắng của chính quyền các cấp, những tổ chức từ thiện, những tấm lòng nhân ái rộng mở đối với nạn nhân chất độc da cam đã phần nào làm dịu bớt nỗi đau, nhưng tác hại của nt lớn quá, lâu dài quá và nạn nhân thì đông quá. Trong Không Thể Chuộc Lỗi, bác sĩ Hassan đã đề cập đến chất độc da cam, nhưng đặc biệt, trong ấn bản Việt ngữ, ông đã viết thêm một chương về những hậu quả và di chứng nặng nề của chất độc da cam mà quân đội Mỹ đã sử dụng tại Việt Nam. Chúng tôi cũng trích dẫn một số tài liệu, hình ảnh liên quan để bạn đọc tham khảo. Nhân đây,chúng tôi xin cảm ơn Hội Nạn nhân Chất độc Da cam/Dioxin Việt Nam đã cho phép chúng tôi được trích dẫn những số liệu, hình ảnh trong hai tập tư liệu "Vì nỗi đau da cam" và "Chất độc da cam - Lương tâm và trách nhiệm”. MỘT TẤM LÒNG NHÂN ÁI Những trăn trở của bác sĩ Hassan về cuộc chiến tranh Việt Nam cứ mãi ám ảnh ông. Mặc dù tiếp tục thành công ở phòng mạch và văn phòng luật sư ở Sacramento, California nhưng ông vẫn khổ sở với những cơn ác mộng triền miên về Việt Nam. Nhiều tháng, nhiều năm sau khi trở về nước, giấc ngủ của ông vẫn bị gián đoạn vì những hình ảnh hãi hùng. Ông từng thực hiện nhiều chuyến đi trở lại Việt Nam, trở lại vùng đất Quảng Trị với mong muốn làm sáng tỏ về cái chết bí ẩn và man rợ của hàng chục sinh linh nhỏ bé mà ông từng tận mắt chứng kiến. Sau chiến tranh Việt Nam, những cựu binh Mỹ trở về quê nhà, kể những câu chuyện mắt thấy tai nghe, nhưng họ bị phớt lờ, bị cô lập, bị từ chối những phúc lợi đúng ra họ được hưởng, thậm chí bị đưa vào nhà thương điên. Cũng như trường hợp của bác sỹ Hassan, người ta đã nói với nhiều cựu binh rằng những việc mà họ đã thấy và đã làm trong chiến tranh là không thể xảy ra, vì nước Mỹ không cho phép những việc như thế, và rằng dân chúng Mỹ không muốn nghe những điều kinh hoàng như thế. Họ phải là những "anh hùng chiến đấu vì chính nghĩa". Do đó, bác sĩ Hassan tiếp tục mong muốn làm sáng tỏ vụ việc. Bác sĩ Allen Hassan cho biết, trong hơn 30 năm qua, ông thường dành khoảng một tiếng đồng hồ mỗi ngày để theo dõi tin tức thế giới, đã đọc hơn 200 cuốn sách viết về Việt Nam và còn sẽ đọc tiếp những cuốn xuất bản sau này. Giống như nhiều người từng chứng kiến cuộc chiến ở Việt Nam, ông luôn quan tâm đến những thông tin làm rõ sự dính líu của Mỹ vào cuộc chiến tranh này. Ông mong muốn chính quyền Mỹ phải nhận trách nhiệm về những gì đã gây ra. Bác sĩ Hassan đã dẫn lời của Richard Hughes, một người bạn và là người quản lý một tổ chức nhân đạo nhỏ mang tên Shoeshine Boys of Vietnam. Richard Hughes đã tuyên bố vào năm 1976 khi từ Việt Nam trở về Mỹ: "Tôi nghĩ sẽ có việc bình thường hóa mối quan hệ hai bên... Sẽ có đàm phán về trách nhiệm, và nên chăng chúng ta hãy nhận lấy phần trách nhiệm ấy về mình. Chúng ta có sức mạnh, và khi chúng ta sử dụng sức mạnh đó ở bất kỳ đâu thì chúng ta cũng phải có trách nhiệm. Chúng ta đã ở đó, ở đó với tầm ảnh hưởng quá lớn. Và giờ đây có rất nhiều việc chúng ta có thể làm và cần phải làm. Chúng ta có khả năng. Chúng ta có thể làm điều gì đó để giảm bớt những đau thương, giúp họ cải thiện cuộc sống; và ngược lại, họ có thể giúp chúng ta thoát khỏi những nỗi ám ảnh, day dứt triền miên”. Bác sĩ Allen Hassan đã viết cuốn Failure To Atone - Không Thể Chuộc Lỗi trong ba năm và kịp xuất bản để mang sang giới thiệu tại Hội sách Quốc tế 2006. Cuốn sách là một lời kêu gọi chống lại bạo lực, chống lại bất công của con người đối với con người và đối với những sinh vật khác trên trái đất. Ông cũng đã lập riêng một trang web với tên cuốn sách: www.failuretoatone.com để giới thiệu với độc giả thế giới và dành 10% lợi nhuận có được từ cuốn sách để giúp đỡ những nạn nhân chiến tranh. Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu cuốn Failure To Atone - Không Thể Chuộc Lỗi đến bạn đọc Việt Nam. FIRST NEWS Mời các bạn đón đọc Không Thể Chuộc Lỗi của tác giả Allen Hassan.