Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tấn Bi Kịch Y - Ellery Queen

Thám tử nghiệp dư Drury Lane - người nghệ sĩ già đã nghỉ hưu lại được mời tham dự vào một vụ án liên quan đến nhà Hatter Điên Loạn. Đầu tiên, thi thể của người chồng York Hatter được tìm thấy khi đang bị trôi dạt trên đại dương mênh mông. Nhưng ông ta không bị chết do đuối nước mà do trúng độc. Sau đó, hàng loạt những vụ hạ độc khác diễn ra trong ngôi biệt thự cũ của gia đình Hatter ở làng Greenwich của thành phố New York. Vụ hạ độc gần nhất có một nhân chứng, nhưng đó lại là một cô gái mù-câm-điếc, cái duy nhất cô có là cảm giác khi chạm tay vào mặt của hung thủ. Nhờ tài suy luận logic và là bậc thầy của ngụy trang, Drury Lane đã biết được hung thủ là ai, nhưng lần này ông lại không vạch trần hung thủ ngay trước mặt mọi người mà chỉ kể lại như một lời tâm sự với Công tố viên Bruno và Thanh tra Thumm. Có điều gì khiến Drury Lane phải làm điều đó? Ẩn số = Y!! Thi thể trôi dạt trên đại dương mênh mông nhưng không phải do đuối nước mà do bị đầu độc! Nhà hóa học York Hatter đã chết một cách bí ẩn. Sau đó, hàng loạt những vụ hạ độc khác diễn ra trong ngôi biệt thự cũ của gia đình Hatter ở làng Greenwich, thành phố New York. Một vụ hạ độc bất thành hay chỉ là mồi nhử cho vụ án cướp đi sinh mạng của bà Emily Hatter sau đó? Câu chuyện dường như đi vào bế tắc khi nhân chứng duy nhất của vụ án mạng lại là một cô gái mù - câm - điếc, khả năng duy nhất còn sót lại của cô là xúc giác. Nhưng đối với Drury Lane, manh mối duy nhất từ việc chạm vào khuôn mặt của hung thủ lại giúp ông tìm ra câu trả lời chính xác. Câu trả lời sẽ được tìm ra như thế nào trước ẩn số mang tên Y?   *** Chín năm về trước, hai chàng trai trẻ cộng tác dưới cùng một bút danh là Ellery Queen được người đọc cùng hoàn cảnh thuyết phục đã viết nên một loạt truyện trinh thám mới. Kết quả từ công sức đáp ứng theo yêu cầu đó là sự ra đời của nhân vật ngài Drury Lane, một nghệ sĩ diễn kịch Shakespeare tuổi đã về già có năng lực trinh thám tuyệt diệu khác người. Dễ hiểu rằng loạt truyện ca ngợi những kỳ công của ngài Drury Lane không thể công khai mang tên tác giả Ellery Queen; vì nếu truyện mang tên Ellery Queen thì đã tôn vinh những kỳ công của ngài Ellery Queen. Vậy nên hai chàng bèn nghĩ ra bút danh thứ hai; và “Tấn bi kịch của X”, tác phẩm đầu tiên trong loạt truyện bốn cuốn về Drury Lane, đã làm xao động thế giới văn chương bình lặng dưới tên người viết là “Barnaby Ross”. Giờ đây, mối liên hệ giữa (các) tác giả Ellery Queen và (các) tác giả Barnaby Ross trên thực tế đã hoàn toàn biến mất. Truyện của mỗi tác giả được phát hành qua một nhà xuất bản khác nhau; quanh mỗi cái tên đều được kỳ vọng thêu dệt bao điều mập mờ và bí ẩn; ở thời kỳ mang hai bút danh ấy trong đời sống công luận, quả thực đã có một giai đoạn mà hai cái tên này đã bực dọc nhìn nhau trước nhiều bục diễn đàn đầy đố kỵ, bên nào cũng mượn sự che chắn của chiếc mặt nạ giả trang để ẩn mình kỹ lưỡng… một làm bộ điệu Ellery Queen, một ra dáng là Barnaby Ross, và cả hai đều vờ vịt một cách hùng hồn ra điều là cặp đối thủ đáng gờm trong lĩnh vực sáng tác truyện trinh thám. Những gì họ nói về nhau trước sự lắng nghe đầy tò mò của thính giả diễn thuyết, từ Maplewood, New Jersey cho đến Chicago, Illinois, dù vẫn có lời khen tặng song cũng không thiếu lời công kích, vậy là bằng sự gạt gẫm này bảo vệ lấy ảo tưởng của tính cách cá nhân thô kệch. Thế nhưng, vẫn có một manh mối tinh vi luôn tồn tại mà, một khi bị thám tử ghế bành thận trọng phát hiện, sẽ lập tức xác lập rành rành mối quan hệ giữa Ellery Queen và Barnaby Ross, và tòi ra mánh lới lừa phỉnh xấu xa mà hai kẻ này đã bày ra trước công chúng cả tin trong suốt chín năm. Vì nếu bạn đọc ghé qua Lời tựa của “Chuyện bí ẩn về chiếc nón La Mã” (tác phẩm đầu tiên của Ellery Queen viết về Ellery Queen), bạn đọc sẽ tìm thấy từ dòng mười bảy đến dòng hai mươi hai trên trang X tiết lộ đáng chú ý sau đây: “Chẳng hạn, vào thời ông dành ra bao công sức trinh thám tài tình trong vụ án mạng Barnaby Ross giờ đã xưa cũ, người ta nói rằng: ‘Richard Queen bằng kỳ công này đã xác lập vững chắc tiếng tăm của mình bên cạnh những bậc thầy trinh thám hình sự như…’” Chính từ trích đoạn ngụy tác này mà “Barnaby Ross” đến lúc cần thiết đã được chọn để tạo thành bút danh mới - cốt sao cho Barnaby Ross quả thực ra đời vào năm 1928, tại thời điểm mà Lời tựa của cuốn Queen đầu tiên ấy được viết ra, dù mãi đến năm 1931 cậu ta mới được hai ông bố của mình làm lễ rửa tội và dọn vào ngôi nhà riêng của mình. Vậy nên, giờ ta có thể nói thế này: Barnaby Ross đã, đang và mãi mãi chính là… Ellery Queen; và ngược lại. *** Đôi lời về ngài Drury Lane Chúng ta luôn giữ một cảm giác nhẹ nhàng trong lòng về gã dở hơi này. Người này, bảo là nghệ sĩ quê mùa thì chưa hẳn mà gọi là con gà gô cũng không hoàn toàn … gọi là kẻ khoác lác cũng đúng nhưng bảo là thiên tài cũng chẳng sai, và cũng là một thám tử khác thường nhất từng sống trên đời (ngoại trừ là kẻ mà sẽ là không có tên tuổi, có lẽ vậy). Giống người anh em của mình (chẳng phải họ vốn cùng sinh ra bởi hai gã thanh niên xảo quyệt ấy sao?), ngài Drury Lane có gốc gác từ trường phái suy luận - theo nhánh đặc biệt mà chú trọng đến độ quá đáng vào tính chất khách quan để thỏa mãn yêu cầu độc giả; vì thế trong “Tấn bi kịch của X”, cũng như những Tấn bi kịch tiếp theo, bạn đọc sẽ thấy mọi manh mối đều đã sẵn đó để tự mình suy đoán trước khi đi vào phần kết của câu chuyện. Vì vậy trong giây phút hồi sinh trang nghiêm này … Drury Lane muôn năm! Kính chào, Ellery Queen Thứ sáu, ngày 13 tháng 9 năm 1940, New York *** Đôi điều về NGÀI DRURY LANE CÁC TRÍCH ĐOẠN ĐƯỢC BIÊN SOẠN CHO NHÀ XUẤT BẢN DO NGÀI CHARLES GLEN TUYỂN CHỌN TỪ NHỮNG GHI CHÉP SƠ BỘ VỀ TIỂU SỬ CHƯA HOÀN CHỈNH CỦA LANE Trích từ Ai là Ai trong nghệ thuật sân khấu, ấn bản năm 1930: DRURY LANE, diễn viên; sinh tại New Orleans, La, vào ngày 3/11/1871; con trai của Richard Lane, nam diễn viên bi kịch người Mỹ và Kitty Purcell, nữ diễn viên hài kịch nhà hát ca múa nhạc người Anh; không kết hôn. Học vấn: kèm cặp tại gia. Xuất hiện trên sân khấu lần đầu: năm 7 tuổi; vai diễn quan trọng đầu tiên: năm 13 tuổi, vở “Sự mê đắm” của Kiralfy, Nhà hát Boston; lần đầu thủ vai chính: năm 23 tuổi, vở “Hamlet,” Nhà hát Daly’s, N.Y; vào năm 1909, tại Nhà hát Drury Lane, Luân Đôn; đã biểu diễn liên tục vở “Hamlet” trong khoảng thời gian dài nhất tính đến thời điểm ấy - hơn 24 lượt so với kỷ lục trước đó của Edwin Booth. Tác phẩm đã biên soạn: Tuyển tập Shakespeare, Triết lý của Hamlet, Tiếng gọi sau bức màn nhung, v.v. và v.v.. Câu lạc bộ: Players, Lambs, Century, Franklin Inn, Coffee House. Thành viên Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn chương Hoa kỳ. Hội viên danh dự, Bắc đẩu Bội tinh Pháp quốc. Nhà riêng: Lâu đài Hamlet, nhìn ra sông Hudson, N.Y. (ga đường sắt: Lanecliff, hạt Westchester). Giải nghệ sân khấu: năm 1928. Trích từ Thế giới New York, thông cáo về việc giải nghệ sân khấu của ngài Drury Lane (1928): “… Drury Lane sinh ở New Orleans, tại hậu trường một nhà hát tăm tiếng hạng nhì, Nhà hát Comus, phải thời kỳ gia đình nhà Lane lâm cảnh túng bấn, vào lúc mà Richard ‘có quyền đi đâu, làm gì tùy ý’ còn Kitty thì phải quay lại sân khấu để trang trải cuộc sống hai vợ chồng và chuẩn bị cho đứa con sắp chào đời… Cái chết bất hạnh lúc sinh nở của bà là hậu quả của sự gắng sức quá độ trước ánh đèn sàn diễn, đứa bé… bị sinh non trong phòng thay đồ khi bà vừa diễn xong màn thứ nhất … “… thế rồi Drury Lane gần như được nuôi nấng trên sân khấu, được mang đi từ nhà hát này sang nhà hát khác bởi người cha cố gượng nuôi con, sống khốn khó qua ngày trong những ngôi nhà thuê chung rẻ tiền. Tiếng nói đầu đời của cậu bé là ngôn ngữ kịch; thay nhau chăm sóc cậu là những diễn viên; học vấn của cậu là những gì thuộc về kịch…. Chập chững biết đi cậu bé đã sắm những vai diễn nhỏ… Năm 1887, Richard Lane qua đời vì chứng viêm màng phổi, lời cuối trước khi nhắm mắt là tiếng nhắn nhủ khàn khàn dành cho đứa con trai vừa tròn mười sáu tuổi: ‘Con hãy trở thành diễn viên kịch.’ Thế nhưng, dù khát vọng của Richard dành cho con trai có lớn lao thế nào, nó cũng kém xa so với đỉnh cao mà chàng trai trẻ Drury cuối cùng đã đạt được…. “… Cái tên đặc biệt, theo như ông cho biết gần đây, là do cha mẹ chủ ý đặt cho ông, dựa vào truyền thống sân khấu vĩ đại gắn liền với Nhà hát Drury Lane lâu đời…. “… nói rằng ông phải giã biệt sân khấu do bệnh điếc ngày càng nặng ở cả hai tai - và đến nay căn bệnh đã trầm trọng đến mức ông không còn phân biệt được một cách toàn vẹn giữa các chất giọng trầm bổng khác nhau của chính mình…. “… Ngoại lệ duy nhất trong quyết định từ bỏ những vai diễn ruột thịt của ngài Lane là cả một sự việc lạ lùng. Ông nói rằng, hàng năm vào ngày 23 tháng 4, ông sẽ diễn trọn vở ‘Hamlet’ tại nhà hát riêng ở trang viên Hudson của mình. Lý do ông trân trọng chọn đúng ngày này vì, theo sự chấp nhận rộng rãi của công chúng, đó là dịp kỷ niệm ngày sinh lẫn ngày mất của Shakespeare. Một điều rất thú vị là ngài Drury Lane đã diễn vai này trên năm trăm lần, chiếm kỷ lục về buổi diễn trên khắp các quốc gia cùng chung gốc rễ về văn hóa và lịch sử Anh.” Trích từ bài báo đăng trên tạp chí Điền trang thôn quê, mô tả trang viên của ngài Drury Lane, lâu đài Hamlet: “… Trang viên được thiết kế theo truyền thống kiến trúc Elizabeth* thuần nhất, gồm một tòa thành khổng lồ, và bao quanh là cả một ngôi làng thu nhỏ dành cho những người sống và làm việc cho ngài Lane. Trong ngôi làng này, mỗi ngôi nhà là một bản sao nguyên vẹn của túp lều thời Elizabeth với kiểu mái rạ đặc trưng, đầu hồi chóp nhọn, v.v. Tất cả đều được trang bị tiện nghi hiện đại, nhưng được che đậy khéo léo để không gây xáo trộn cảm giác về một thời đại trong quá khứ…. Cảnh quan vườn tược là cả một khung cảnh tuyệt đẹp; tỷ như, những hàng rào cây xanh là do đích thân chuyên gia của ngài Lane đưa về từ các vùng nông thôn Anh quốc.” Trích từ bài phê bình của Raoul Molyneux đăng trên tạp chí La Peinture, Paris, 1927, về Bức chân dung ngài Drury Lane, tranh sơn dầu, họa sỹ Paul Révissons: “… y như lần tiếp kiến ngài trong chuyến thăm vừa qua của tôi…. Vóc dáng cao lớn mảnh dẻ, trầm lặng nhưng mang vẻ sinh động khó tả, mái tóc trắng như cước lòa xòa dài tận cổ, đôi mắt màu lục xám tinh nhanh sắc sảo, nét mặt cân đối hoàn hảo gần như cổ điển, thoạt nhìn cho ta cảm giác bất động vô hồn song lại có khả năng đổi thay đột ngột…. Ông đứng thẳng người, sừng sững như Đại đế Carolus, cánh tay phải trong chiếc áo choàng thụng màu đen quen thuộc, bàn tay phải đặt trên quả nắm cây gậy gỗ mận gai trứ danh của ông, chiếc mũ dạ màu đen tròn vành thì để trên bàn cạnh bên…. Hiệu ứng kỳ quái của bóng tối càng nổi bật vì y phục u buồn của ông … nhưng được giảm nhẹ đi bằng cảm giác thật kỳ lạ rằng, người này chỉ cần nhấc ngón tay và thế là toàn bộ phục trang của thế giới hiện đại sẽ rơi tuột xuống chân, để lại nơi ông một dáng hình rực rỡ từ quá khứ….” Trích thư của ngài Drury Lane gởi ngài Bruno, công tố viên hạt New York, ngày 5 tháng 9 năm 193-: “Xin được thứ lỗi về việc đã mạo muội xen vào phận sự của văn phòng quý ngài khi đính kèm theo đây một bài phân tích khá dài dòng, hoàn toàn tự tay tôi biên soạn, liên quan đến vấn đề nan giải của cảnh sát về việc tìm ra kẻ giết John Cramer. “Các dữ liệu phân tích của tôi hoàn toàn dựa vào những gì tôi thu thập được từ những bài báo mà thông tin đôi lúc còn chưa thỏa đáng về vụ án này. Tuy vậy, thiết nghĩ rằng khi xem qua nội dung phân tích và đáp án, ngài sẽ đồng ý cùng tôi rằng cách sắp xếp giữa các sự việc với nhau như tôi trình bày chắc chắn sẽ dẫn đến một kết luận logic duy nhất. “Mong ngài đừng xem đây chỉ là giả định từ một người luống tuổi đã về hưu. Tôi vốn đặc biệt quan tâm đến tội ác hình sự, và sẵn sàng hỗ trợ khi có yêu cầu của ngài về bất cứ vụ án nào khác mà kết luận xem ra còn vô định hoặc bất khả thi.” Điện tín đã nhận tại lâu đài Hamlet, Ngày 7 tháng 9 năm 193-: LỜI THÚ TỘI ĐÃ XÁC NHẬN ĐÁP ÁN XUẤT SẮC CỦA NGÀI VỀ VỤ ÁN CRAMER - CHẤM - LIỆU THANH TRA THUMM VÀ TÔI ĐÂY CÓ THỂ GHÉ ĐẾN SÁNG MAI LÚC MƯỜI GIỜ BA MƯƠI ĐỂ TỎ LỜI CẢM ƠN ĐỒNG THỜI THAM VẤN Ý KIẾN NGÀI VỀ VỤ ÁN MẠNG LONGSTREET. WALTER BRUNO *** Vào một buổi chiều tháng Hai đáng nhớ, chiếc Lavinia D, một con tàu đánh cá xa bờ ương ngạnh xấu xí, đang cưỡi những con sóng Đại Tây Dương trở về đất liền. Nó đã đi qua Sandy Hook, hiện ở gần cảng Hancock, và đang hướng về vịnh Lower. Những bọt sóng bao quanh mũi tàu và tạo thành một vệt dài phía đằng đuôi. Một tấm lưới cũ mèm giăng trên thành tàu, boong tàu thì như một lò mổ hổ lốn bẩn thỉu, những ngọn gió rét buốt Đại Tây Dương khiến thân tàu rúng động, và thủy thủ đoàn đang thầm nguyền rủa tay thuyền trưởng, biển cả, lũ cá, bầu trời xám xịt, và cả bờ biển cằn cỗi đảo Staten bên mạn trái tàu. Một chai rượu được truyền từ tay người này sang người khác. Đám thủy thủ đang run lên dưới những tấm áo mưa màu vàng bay phần phật. Vẻ chán chường, một thủy thủ tựa người trên thanh vịn ngắm những con sóng cồn vẩn màu xanh lục, rồi anh chợt sững người lại, cặp mắt như lồi hẳn ra khỏi khuôn mặt đỏ gay, sau đó là một tiếng thét vang trời. Thủy thủ đoàn liền nhìn theo hướng chỉ tay của anh ta. Cách họ khoảng trăm mét là thứ gì đó nho nhỏ màu đen, một thứ không thể nhầm lẫn đi đâu được, chính là một xác người chết trôi trên vịnh. Cả toán thủy thủ nhảy dựng lên. “Rẽ trái!” người đang giữ bánh lái nghiêng người và chửi thề. Chiếc Lavinia D bắt đầu lượn thành một vòng cung nguệch ngoạc về bên trái, khiến cả đám mối ghép vang lên tiếng kẽo kẹt. Nó vòng quanh cái thứ chết trôi kia như một con vật đầy cảnh giác, từ từ vòng lại gần trong dáng vẻ của một kẻ săn mồi. Với vẻ hào hứng và khấp khởi, thủy thủ đoàn vung vẩy những cái móc sắt trong không trung mặn mòi, sẵn sàng để tóm lấy con cá lạ lùng nhất trong mẻ đánh bắt hôm nay. Chỉ mười lăm phút sau, yên vị trong vũng nước tanh ngòm trên phần boong tàu ướt nhoẹt là một thứ mềm oặt, tả tơi chẳng ra hình thù gì, nhưng vẫn đủ thấy đó là một con người. Từ hiện trạng đã bị phân hủy của cái xác, thì người này hẳn đã bị ngâm trong nước biển suốt nhiều tuần rồi. Thủy thủ đoàn chỉ còn biết đứng ngây ra đó trong lặng im. Tay chống hông, chân giạng ra, chẳng ai dám chạm vào cái xác cả. Thế rồi, với mùi cá tanh và gió mặn trong hai lỗ mũi, cái xác mang tên York Hatter bắt đầu chuyến hành trình cuối cùng của mình. Quan tài của ông ta chính là con tàu bẩn thỉu này, người đưa tiễn là một đám thủy thủ bặm trợn thô lỗ, quần áo thì bám đầy vảy cá, còn kinh cầu siêu là những tiếng nguyền rủa của thủy thủ và tiếng gió rít qua eo biển. Cái mũi ướt nhoẹt của con tàu lướt qua làn bọt trắng và neo lại tại một bến tàu gần Battery. Tàu cập bến với một kiện hàng chẳng báo trước từ biển cả. Mọi người nhảy vội xuống tàu, thuyền trưởng la hét đến lạc cả giọng, đám nhân viên bến tàu thì gật gù và ngó qua cái sàn trơn trượt, điện thoại reo lên trong những cơ quan hữu trách nho nhỏ khu Battery. Và York Hatter thì nằm lặng yên dưới một tấm bạt. Cũng chẳng lâu lắm. Một chiếc xe cứu thương lao vội tới. Nhân viên y tế đưa cái xác sũng nước đi. Buổi tang lễ giã từ biển cả, và khúc truy điệu là những tiếng còi tàu rền vang. York Hatter được đưa từ mạn dưới Broadway về nhà xác. Số kiếp của ông ta khá kỳ lạ, và đến giờ vẫn còn là bí ẩn. Vào ngày 21 tháng Mười hai, bốn ngày trước lễ Giáng sinh năm ngoái, người vợ già Emily Hatter đã báo rằng chồng bà ta vừa biến mất khỏi căn nhà riêng tọa lạc trên đường Washington Square North của thành phố New York. Ông ta chỉ đơn thuần là bước ra khỏi cái tòa gạch đỏ nằm trong khối tài sản kếch sù của nhà Hatter mà chẳng có ai đi kèm, cũng chẳng để lại lời nào với ai, rồi cứ thế lặn mất tăm. ... Mời các bạn đón đọc Tấn Bi Kịch Y của tác giả Ellery Queen.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Thiết Đinh Án
Thiết Đinh Án là tác phẩm thứ 11 trong bộ tiểu thuyết trinh thám quan án viết về Địch Nhân Kiệt – vị thần thám danh tiếng lẫy lừng triều Đường, dưới thời Võ Tắc Thiên trị vì: Series Địch Công kỳ án. Năm 676, Địch Công nhậm chức Thứ sử Bắc Châu tại vùng  biên giới xa xôi. Sự yên bình của Bắc Châu bị phá vỡ khi hàng loạt các vụ án bí ẩn xảy ra: một cô tiểu thư cành vàng lá ngọc bị mất tích giữa chợ đông người, một vị phu nhân bị sát hại dã man trong căn phòng khóa kín và một vị võ sư bị đầu độc một các hèn hạ. Trong khi các vụ án còn chưa phá giải được thì khắp Bắc Châu đã lan truyền một tin động trời rằng: vì Thứ sử vô cớ quật mộ một thương gia đã qua đời từ nửa năm về trước để nghiệm thi nên mới dẫn đến bao sóng gió ở trong thành. Người dân vô cùng phẫn nộ và yêu cầu Địch Công phải từ quan. Bắc Châu sắp rơi vào cảnh hỗn loạn, một trong bốn trợ thủ đặc lực của Địch Công cũng bị sát hại khiến ông như mất đi một cánh tay. Địch Công sẽ phải làm như thế nào khi kết quả khám nghiệm tử thi không có gì bất thường? Liệu ông có tìm ra chân tướng sự việc, phá giải vụ án hóc búa này, vỗ về lòng dân cũng như người trợ thủ đã hết lòng giúp đỡ cho mình?  *** Robert Van Gulik (1910-1967) là một nhà Đông phương học uyên thâm, từng học Pháp luật và Ngôn ngữ phương Đông tại Hà Lan; năm 1935 nhận học vị tiến sĩ nhờ công trình nghiên cứu về Ấn Độ, Tây Tạng (Trung Quốc) và Viễn Đông. Những năm tiếp theo, liên tục làm công việc của một quan chức ngoại giao tại Trùng Khánh, Nam Kinh (Trung Quốc), Tôkyô (Nhật Bản) và một số nước khác; cuối đời trở thành đại sứ Hà Lan tại Nhật Bản. Ông là tác giả của hàng loạt cuốn sách nổi tiếng về văn hóa phương Đông, như “Trung Quốc cổ đại cầm học”, “Kê Khang cầm phú”, “Trung Quốc hội họa giám thưởng”, “Địch công án”, “Xuân mộng tỏa ngôn”, “Bí hí đồ khảo”, Trung Quốc cổ đại phòng nội khảo”… Celebrated Cases of Judge Dee (Địch Công Án/ Những cuộc điều tra của quan Địch) gồm 16 tập. Một loại tiểu thuyết trinh thám - công án về quan án Địch Công được xây dựng dựa trên nguyên mẫu của tể tướng Địch Nhân Kiệt (630 - 700) một nhân vật có thật sống vào đời nhà Đường thế kỷ thứ VII. Sinh tại Tĩnh Châu, phủ Thái Nguyên (Sơn Tây) Địch Nhân Kiệt đã làm quan tại các địa phương dưới các chức vụ huyện lệnh, Pháp tào Tham quân, Tuần phủ,Thứ sử. Năm 47 tuổi ông về kinh đô Trường An làm Đại lý thừa Tự khanh rồi lần lượt được thăng lên Thị ngự sử, Thị lang bộ Công, thượng Thư tả thừa, hai lần làm Trung thư lệnh (tể tướng) và đô đốc dưới quyền nữ hoàng đế Võ Tắc Thiên. Phẩm chất đạo đức và tài phá án của ông đã được người đời ca tụng sủng ái đến mức như huyền thoại. Không những là người có hiểu biết về pháp luật, về tâm lý con người, Địch Công còn biết cả kiếm thuật, võ thuật lẫn chữa bệnh, một quan toà cổ đại Trung Quốc mang dáng dấp của Sherlock Holmes... Cùng với bốn hộ vệ mưu trí, dũng cảm, xả thân vì chủ như Hồng Lương, Mã Tôn, Triệu Thái và Tào Can - những giang hồ hảo hán được ông giác ngộ và cho đi theo, Địch Công đã phá được rất nhiều vụ án ly kỳ. Robert Van Gulik cũng khéo léo đưa vào bộ tiểu thuyết trinh thám này những nét văn hóa, lịch sử, phong tục của Trung Quốc.  *** Địch Công kỳ án là bộ tiểu thuyết 16 tập thuộc dòng trinh thám quan án. Nội dung tác phẩm xoay quanh nhân vật Địch Nhân Kiệt và các trợ thủ thân tín, cùng những vụ kỳ án muôn màu muôn vẻ ông đã phá giải trên hành trình thăng tiến từ một Huyện lệnh lên đến chức Tể tướng. Có thể nói, tác giả đã hội tụ và đúc kết những gì tinh hoa nhất của hai dòng trinh thám phương Đông và phương Tây vào kiệt tác Địch Công kỳ án. Bộ tiểu thuyết được viết theo phong cách đậm chất duy lý, đồng thời cũng là tác phẩm trinh thám phương Tây đầu tiên đi theo mô tuýp trinh thám quan án và mang lại sức sống mới cho dòng trinh thám đậm chất phương Đông này. Nhờ vậy mà đến tận bây giờ, Địch Công kỳ án vẫn giữ vị trí độc tôn đặc biệt, là tác phẩm thành công nhất trong dòng trinh thám quan án. *** Nơi hoa viên quan nhân báo mộng Tại thư phòng Thứ sử nhận tin Nguyện dốc lòng xử án, Thiên cổ soi gương ai. Sinh tử do ta quyết, Phải cẩn trọng không sai! Đêm hôm trước, ta ngồi một mình dưới mái đình trong hoa viên hóng mát. Đêm đã khuya nên các phu nhân đều lui về phòng riêng từ lâu. Cả buổi tối, ta miệt mài làm việc trong thư phòng nên đã kêu gia nhân luôn tay lấy giúp cuốn sách từ trên kệ xuống và chép lại những đoạn ta cần đọc. Như mọi người đều biết, những lúc an nhàn, ta đều dành thời gian biên soạn một tuyển tập về các vụ kỳ án thời triều Đại Đường, đồng thời soạn thêm một phần phụ lục về tiểu sử của các thần thám trứ danh thời xa xưa. Hiện ta đang viết đến tiểu sử của Địch Nhân Kiệt, một vị quan án nổi tiếng sống cách đây bảy trăm năm. Trong nửa đầu sự nghiệp, khi vẫn còn làm huyện lệnh ở nhiều nơi, ông đã phá được rất nhiều vụ án bí ẩn, nên giờ đây người ta chủ yếu biết đến ông qua cái tên Địch thần thám - một vị quan nổi tiếng của thời quá khứ huy hoàng. Sau khi cho gia nhân đi ngủ, ta viết một lá thư dài gửi cho đại huynh của mình, huynh ấy đang giữ chức Chánh Lục sự tại Bắc Châu. Huynh ấy được bổ nhiệm từ hai năm trước, để lại căn nhà cũ ở con phố bên cạnh cho ta trông nom coi sóc. Ta viết thư cho đại huynh để kể rằng ta vừa phát hiện ra Bắc Châu là địa phương cuối cùng mà Địch Nhân Kiệt làm quan án trước khi được điều về kinh nhận chức vụ cao hơn. Vì vậy, ta đã nhờ đại huynh giúp ta tra lại sổ sách địa phương, biết đâu huynh ấy có thể tìm ra thông tin gì thú vị về những vụ án mà Địch Nhân Kiệt đã phá ở nơi đó. Ta biết đại huynh nhất định sẽ giúp đỡ hết lòng vì huynh đệ chúng ta vốn rất khăng khít. Viết thư xong, ta chợt nhận thấy trong thư phòng vô cùng oi bức. Ta bước ra hoa viên, hóng gió mát đang thổi qua hồ sen. Ta quyết định rằng trước khi đi ngủ sẽ ngồi nghỉ một lát trong mái đình nhỏ vừa xây ở góc hoa viên, bên cạnh hàng chuối. Ta cũng chẳng vội vàng muốn về phòng ngủ ngay, vì không khí trong nhà hiện đang căng thẳng từ sau khi ta cưới Tam phu nhân. Nàng quả là một mỹ nhân tài sắc vẹn toàn. Ta thật không hiểu tại sao hai vị phu nhân kia lại tỏ ra hằn học với nàng ngay từ ngày đầu gặp mặt, và lúc nào cũng trách móc việc ta ở cùng nàng hàng đêm. Thế nên đêm nay ta đành hứa sẽ đến phòng của Đại phu nhân, và phải thú thật là ta chưa muốn đi ngay. Ngồi thoải mái trên chiếc ghế tre, ta phe phẩy chiếc quạt lông ngỗng, ngắm nhìn hoa viên đang tắm mình dưới ánh trăng.???? Bỗng nhiên, ta thấy cổng sau mở ra. Ta vô cùng bất ngờ khi thấy đại huynh của mình bước vào. Cuộc gặp gỡ ở hoa viên Ta đứng bật dậy và chạy ngay đến chào đại huynh. “Huynh về có việc gì thế?” ta hỏi. “Sao huynh không báo trước cho đệ là huynh sắp xuống miền Nam?” “Có việc bất ngờ nên ta phải đi ngay,” huynh ấy đáp. “Vừa tới nơi là ta liền đến gặp đệ. Mong đệ lượng thứ vì ta đến muộn thế này.” Ta trìu mến nắm cánh tay đại huynh và dẫn huynh ấy vào mái đình. Ta nhận thấy tay áo của đại huynh lạnh toát và ẩm ướt khác thường. Sau khi đợi đại huynh an tọa, ta ngồi xuống chiếc ghế đối diện và ân cần nhìn huynh ấy. Đại huynh đã gầy đi rất nhiều, mặt trắng bệch và hốc mắt hõm sâu. “Có lẽ là do ánh trăng,” ta lo lắng nói, “nhưng trông huynh không được khỏe. Chắc là đường đi từ Bắc Châu về đây rất vất vả nhỉ?” “Quả đúng là rất gian nan,” đại huynh khẽ đáp. “Ta cứ hy vọng sẽ đến nơi từ bốn ngày trước, nhưng sương mù dày đặc quá.” Huynh ấy đưa tay phủi vết bùn khô trên vạt áo trắng rồi nói tiếp, “Thời gian gần đây, sức khỏe của ta không được tốt. Ở đây cứ liên tục đau nhói.” Huynh ấy nhẹ nhàng sờ tay lên đỉnh đầu. “Đau buốt đến tận hốc mắt, có lúc toàn thân còn run bần bật nữa.” “Khí hậu ấm áp ở quê nhà chắc sẽ khiến huynh khỏe lên,” ta an ủi đại huynh. “Ngày mai đệ sẽ mời đại phu hay khám cho gia quyến đến xem thế nào. Giờ thì huynh kể cho đệ nghe tình hình ở Bắc Châu đi.” Đại huynh kể lại ngắn gọn về công việc của mình ở đó; có vẻ như huynh ấy và Thứ sử có quan hệ rất tốt. Nhưng khi nhắc đến chuyện riêng thì huynh ấy lại có vẻ phiền muộn. Huynh ấy kể rằng Đại phu nhân gần đây cư xử khá kỳ lạ. Không hiểu sao thái độ của phu nhân với huynh ấy không còn như xưa. Có vẻ là vì việc này mà huynh ấy mới đột ngột về lại đây. Khi thấy đại huynh run lập cập, ta không hỏi gì thêm nữa vì xem ra đây là chuyện khiến huynh ấy rất phiền lòng. Để giúp đại huynh quên đi phiền muộn, ta đề cập đến Địch Nhân Kiệt và kể về lá thư ta vừa viết xong. “À phải,” đại huynh nói. “Người dân Bắc Châu hay kể về ba vụ án bí ẩn mà Địch tiền bối phá giải khi còn làm Thứ sử ở đó. Chuyện được truyền lại qua nhiều thế hệ, được kể đi kể lại ở các trà quán, nên dĩ nhiên là đã bị thổi phồng lên rất nhiều.” “Chỉ vừa mới qua nửa đêm,” ta phấn khích nói, “nếu huynh không quá mệt thì hãy kể cho đệ nghe đi.” Gương mặt hốc hác của đại huynh nhăn lại trong đau đớn. Ta vội vàng lên tiếng xin lỗi vì yêu cầu quá đáng của mình, nhưng huynh ấy đã giơ tay lên ngăn lại. “Có khi kể cho đệ nghe câu chuyện lạ lùng ấy lại có ích,” đại huynh nói với vẻ nghiêm trang. “Nếu lúc trước ta để tâm đến nó hơn thì có thể sự tình đã khác rồi…” Đại huynh không nói gì nữa, tay lại sờ nhẹ lên đỉnh đầu. Một lát sau, huynh ấy nói tiếp: “Chắc hẳn là đệ đã biết, vào thời của Địch Nhân Kiệt, sau khi đánh bại quân Thát Đát, biên giới phía Bắc của nước ta lần đầu tiên được kéo dài ra đến tận vùng đồng bằng phía bên kia Bắc Châu. Hiện tại thì Bắc Châu là một quận giàu có, dân cư đông đúc, là trung tâm giao thương của các tỉnh miền Bắc. Nhưng khi ấy thì vẫn còn là một vùng đất hẻo lánh, dân cư còn ít, mà nhiều gia đình trong số đó lại mang nửa dòng máu Thát Đát, và họ vẫn lén lút làm những trò tà thuật man rợ. Xa hơn nữa về phía Bắc là nơi Tiết độ sứ Văn La dựng trại để bảo vệ Đại Đường, phòng quân Thát Đát xâm lược.” Sau khi nói sơ về hoàn cảnh thời đó, đại huynh của ta bắt đầu kể một câu chuyện lạ lùng khó tin. Khi tiếng kẻng báo hiệu canh tư vang lên thì huynh ấy mới đứng dậy chào từ biệt. Ta ngỏ ý đưa đại huynh về nhà, vì người huynh ấy đang run bần bật và giọng nói thều thào yếu ớt đến mức ta không nghe được gì cả. Nhưng đại huynh kiên quyết từ chối, và chúng ta giã từ tại cổng hoa viên. Vẫn chưa muốn đi ngủ ngay, ta quay vào thư phòng. Ta vội vàng ghi chép lại câu chuyện kỳ lạ mà đại huynh vừa kể. Khi bình minh đến, ta mới bỏ bút xuống và ngả người lên chiếc chõng tre ngoài hiên. Lúc ta thức dậy thì đã gần đến giờ dùng cơm trưa. Ta lệnh cho gia nhân mang cơm ra mái hiên và ngồi ăn ngon lành, lần này thì ta rất mong chờ Đại phu nhân tới. Khi nàng mở lời trách móc ta vì đêm qua không đến phòng nàng, ta sẽ đắc thắng ngắt lời và đưa ra cái cớ hết sức chính đáng là sự xuất hiện bất ngờ của đại huynh. Sau khi đã giải quyết êm xuôi với nữ nhân cáu bẳn đó, ta sẽ đến tư gia của đại huynh ngồi đàm đạo. Có thể huynh ấy sẽ cho ta biết lý do chính xác khiến huynh ấy rời Bắc Châu, và ta sẽ nhờ huynh ấy làm rõ một số vấn đề mà ta còn chưa hiểu tường tận trong câu chuyện huynh ấy đã kể. Nhưng khi ta vừa bỏ đũa xuống, lão quản gia liền xuất hiện để thông báo rằng tín sứ vừa từ Bắc Châu đến. Y chuyển cho ta một lá thư của Thứ sử, báo tin buồn rằng vào bốn ngày trước, lúc nửa đêm, đại huynh của ta đã đột ngột qua đời. Trên mình khoác áo choàng lông dày, Địch Thứ sử ngồi sau chiếc bàn trong thư phòng. Dù đã đội một chiếc mũ lông trùm kín cả hai bên tai, ông vẫn cảm nhận được cơn gió lạnh lùa vào gian phòng rộng. Nhìn về phía hai trợ thủ lớn tuổi đang ngồi trước bàn, ông bảo: “Ngóc ngách nào cơn gió lạnh này cũng len vào được!” “Gió ùa về từ bình nguyên phía Bắc, thưa đại nhân,” người có chòm râu xơ xác đáp. “Lão phu sẽ sai người thêm than vào lò!” Lão đứng dậy và bước ra cửa, còn Địch Thứ sử thì chau mày nhìn người còn lại: “Cái lạnh của phương Bắc có vẻ chẳng là gì với ngươi cả, Đào Cam.” Nghe Địch Thứ sử hỏi, nam nhân gầy gò thọc tay sâu vào ống tay áo da dê đã sờn rách và cười đáp: “Tấm thân già này của thuộc hạ đã lê la khắp mọi miền, thưa đại nhân. Nóng hay lạnh, ẩm ướt hay khô ráo, với thuộc hạ đều như nhau cả. Và tấm áo của người Thát Đát thuộc hạ đang bận ấm áp hơn nhiều so với chiếc áo lông thú quý giá kia.” Nhưng Địch Thứ sử biết thực ra trợ thủ tinh ranh của mình có phần hơi bủn xỉn. Đào Cam xưa kia vốn là một kẻ lừa đảo. Cách đây chín năm, khi làm Huyện lệnh ở Hán Nguyên, ông đã cứu Đào Cam lúc nguy nan. Từ lúc đó, kẻ bịp bợm này đã cải tà quy chính và xin được phụng sự dưới trướng của Địch Thứ sử. Kiến thức sâu rộng về chốn giang hồ và sự thấu hiểu tâm lý con người của y rất có ích trong việc truy lùng những tên tội phạm nham hiểm. Mời các bạn đón đọc Địch Công Kỳ Án Tập 15: Thiết Đinh Án của tác giả Robert van Gulik.
Vết Tay Trên Trần - Phạm Cao Củng
Thám tử Kỳ Phát là bộ truyện đã làm nên danh tiếng của “Vua truyện trinh thám Việt Nam” - Phạm Cao Củng. Giống như Sherlock Holmes, Kỳ Phát luôn đề cao lý trí, lấy suy luận làm phương cách phá án. Series Thám tử Kỳ Phát gồm 5 cuốn: Đám cưới Kỳ Phát; Nhà sư thọt; Chiếc tất nhuộm bùn; Vết tay trên trần; Kỳ Phát giết người. Mặc dù học tập và ảnh hưởng từ truyện trinh thám phương Tây, nhưng Phạm Cao Củng đã sáng tạo nên những câu chuyện thấm đẫm đời sống Việt Nam, tính cách Việt Nam. Phá án theo phương pháp suy luận diễn dịch kiểu Sherlock Holmes, song nhân vật của Phạm Cao Củng mang đậm những phẩm chất được ưa chuộng ở phương Đông: trọng nghĩa khí, coi thường tiền bạc, không hành động vì thù lao, luôn tôn trọng tình cảm, đạo đức. Đám cưới Kỳ Phát: Một buổi sáng, Kỳ Phát tình cờ nhìn thấy Thanh Ngọc trên sân ga và bị hút hồn ngay bởi đôi mắt huyền của giai nhân. Theo chân nàng lên chuyến tàu định mệnh, rồi nhận lấy chiếc va ly duyên nợ, Kỳ Phát bị cuốn vào một vụ án ly kỳ và rắc rối. Liệu cuộc gặp gỡ có phải mối lương duyên tốt đẹp? Kỳ Phát sẽ có một đám cưới hạnh phúc, hay ẩn tàng sau đó là âm mưu thâm độc cùng những cạm bẫy chết người? Nhà sư thọt: Một ông già dở người bị đẩy xuống giếng, tuy giàu có ức vạn nhưng chỉ để lại chiếc két rỗng không. Một nhà sư thọt lẻn đến hiện trường đào bới lúc nửa đêm. Liệu ông ta có liên quan đến cái chết của nạn nhân và số của cải bị giấu? Kỳ Phát phải làm thế nào để tìm ra hung phạm và những uẩn khúc được giấu kín suốt nhiều năm? Chiếc tất nhuộm bùn: Ngay từ nhỏ, Kỳ Phát đã chứng tỏ được óc trinh thám và khả năng suy luận tài ba. Từ một chiếc tất nhuộm bùn, chàng đã khám phá ra việc mẹ kế tư thông với nhân tình, gói ghém nữ trang toan bỏ trốn. Song không ngờ, bà ta lại vu cho chàng tội ăn cắp, khiến chàng phải chịu tủi nhục, bị mọi người khinh ghét. Tuổi thơ xa mẹ, nếm chịu nhiều đắng cay, Kỳ Phát luôn mong muốn được biết tung tích của mẹ. Nhưng đau đớn thay, chàng lại gặp mẹ trong hoàn cảnh vô cùng trớ trêu. Và câu chuyện hai mươi năm về trước dần được hé lộ… Vết tay trên trần: Đọc được mẩu tin trên báo về một vụ giết người, Kỳ Phát lập tức đến hiện trường để tra án. Nạn nhân bị đâm chết trong buồng kín, trên trần nhà có những vết tay nhỏ. Trong khi đó, lời khai của các nhân chứng lại hoàn toàn khác nhau: con trai nạn nhân nói bị một bóng đen bóp cổ, còn lão bộc lại thoáng thấy một bóng trắng đi vào nhà. Vậy, ai là chủ nhân của những vết tay trên trần? Liệu Kỳ Phát có tìm ra hung thủ và động cơ giết người của hắn? Kỳ Phát giết người: Một hôm, nhận được thư của Cúc, Kỳ Phát vội vàng tới gặp tình cũ. Chồng Cúc mới qua đời, đứa con trai tên Hoàn lại bị bắt cóc, khiến cho nàng vô cùng hoang mang, đau đớn. Cùng lúc đó, một cậu bé tên Hoàn khác cũng mất tích. Kỳ lạ là trong cả hai vụ, hai gia đình đều bị trộm đột nhập nhưng chỉ mất mấy đôi đũa. Ai là kẻ chủ mưu đứng sau tất cả mọi chuyện? Kỳ Phát phải làm gì để tìm được con trai Cúc? Bí mật nào ẩn giấu đằng sau hai vụ bắt cóc và những đôi đũa bị đánh cắp? *** Gồm các truyện Vết tay trên trần: Một ông già bị đâm chết trong phòng kín, người con chạy đến cứu thì bị xiết cổ gần chết. Nhưng những bí ẩn không qua mắt được Kỳ Phát. Ba viên ngọc bích: Bạn của Kỳ Phát bị mất một sợi dây chuyền gắn ba viên ngọc, được Kỳ Phát khéo léo tìm lại. Con ma cây vả: (thám tử Trúc Tâm) Ông già buôn xác chết (thám tử Trúc Tâm) Buổi diễn tất niên của Người Hổ Quả báo Cái tết của người đã chết (thám tử Kỳ Phát) Bát cơm Siếu Mẫu ... Mời các bạn đón đọc Vết Tay Trên Trần của tác giả Phạm Cao Củng.
Tuyết Bỏng - Yuri Vassilievitch Bondarep
Yuri Vassilievitch Bondarep – Nhà văn, nhà hoạt động xã hội Xôviết sinh ngày 15-03-1924 tại Orenburg (Nga) trong một gia đình công chức. Tuổi thơ ông sống ở Moskva. Chiến tranh nổ ra làm gián đoạn việc học hành, ông tham gia chiến tranh với cấp bậc thiếu uý, làm chỉ huy pháo binh, đã từng diệt nhiều xe tăng địch Năm 1951, ông tốt nghiệp Trường viết văn M. Gorky (Moskva) và bắt đầu cuộc đời hoạt động nghệ thuật chuyên nghiệp. Ông có nhiều tác phẩm nổi tiếng về chiến tranh. Những chuyện ông viết về cuộc chiến tranh vệ quộc vĩ đại đều dưới nhãn quan của của một người lính trực tiếp tham gia chiến trận. Một số tác phẩm tiêu biểu: - Các tiểu đoàn xin tiếp viện (1957) - Im lặng (1962) - Tuyết bỏng (1969) - Lựa chọn (1980) - ... *** Từ đài quan sát thấy rõ cuộc chiến đấu bằng xe tăng đang diễn ra ở gần đó nên từ trên cao nhìn xuống, trận đánh trong bóng tối dường như hết sức quái dị, náo loạn, dai dẳng vô cùng và sở dĩ như vậy vì chẳng thấy rõ người ở đâu cả. Những phát đạn đại bác bắn thẳng lóe sáng khắp rìa làng, đạn “Ca-chiu-sa” dày đặc ầm ầm nổ tung như những cơn lốc giữa các ngôi nhà; những chiếc xe tăng xông thẳng vào nhau, quyện chặt, bốc cháy trên các ngã tư; dọc bờ sông giữa đám cháy bắt đầu bùng lên, những khối thép ánh hồng, bóng nhẫy như đổ mồ hôi bò lổm ngổm, ngổn ngang, chúng nổ súng bắn thẳng ở cự ly quá ngắn, hầu như nòng súng đâm vào nhau, xích sắt của chúng chà nát nhà cửa, chúng xoáy mình ở trong các sân, bò đi rồi lại xông vào tiến công, luôn luôn ép chặt và vây hãm khu vực bàn đạp ở đầu cầu. Bọn Đức chống cự, bám chặt lấy bờ sông phía Bắc nhưng trận đánh đã lan ra tới bờ sông, đã bắt đầu có chuyển biến, trong giây phút khắc nghiệt đó, tiếng gào rú ầm ĩ của động cơ tan vụn thành những dư âm tràn ngập dòng sông, có chỗ bọn Đức đã bắt đầu rút lui về phía đầu cầu. Bét-xô-nốp bất chợt nhìn về bờ sông phía Nam chứ không phải phía Bắc, vẫn còn sợ nhầm, không vội vã rút ra kết luận. ... Mời các bạn đón đọc Tuyết Bỏng của tác giả Yuri Vassilievitch Bondarep.
Hung Họa (Bức Tranh Sát Nhân) - Chu Hạo Huy
Giữa đêm tuyết phủ trắng núi, Cảnh sát La Phi trong truyền thuyết nhận được một vụ án vô cùng hiểm hóc. Ba họa sĩ của học viện Mỹ Thuật lên núi vẽ tranh sinh vật. Nghỉ đêm tại Khô Mộc Thiện Tự, vì lòng hiếu kỳ đã mở một bức "Hung Họa" đã được niêm phong từ rất lâu, từ đó kịch biến đột phát.  Những người xem tranh hoặc rơi xuống vực, hoặc mắc bệnh hiểm, lời đồn đại về bức họa khủng khiếp "Quỷ không đầu" trong truyền thuyết bắt đầu lan truyền một cách chóng mặt.  Mỗi một manh mối đều không thể dùng lẽ thường để suy đoán, mỗi một cái chết đều mang lại nỗi hoang mang, khủng bố, rốt cuộc La Phi thân mang bệnh lạ sẽ dùng cách nào để vén lên màn sương mù dày đặc này. *** Bộ truyện La Phi hệ liệt gồm: Phần 1: Hung họa Phần 2: Quỷ vọng pha Phần 3: Nhã khố mã nguyền rủa Phần 4: Bản Thông Báo Tử Vong I: Khiêu Chiến Với Trí Tuệ Của Bạn Phần 5: Bản Thông Báo Tử Vong II: Số mệnh Phần 6: Bản Thông Báo Tử Vong III: Khúc ly biệt ... Mời các bạn đón đọc Hung Họa (Bức Tranh Sát Nhân) của tác giả Chu Hạo Huy.