Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đừng Chết Vì Yêu

Tình yêu cũng giống như một viên thuốc đắng tẩm đường, lớp đầu bao giờ cũng ngọt, hết lớp ngọt, chắc chắn sẽ đến một lớp đắng chát. Trong tình yêu, kẻ làm cho ta hạnh phúc nhiều nhất, thì cũng có thể, chính kẻ đó sẽ là người khiến ta đau khổ nhất. Bạn thường nghĩ gì khi bắt đầu yêu một người? Bạn sẽ phản ứng như thế nào, khi bỗng nhiên người yêu của bạn đề nghị chia tay? Bạn sẽ dùng tâm trạng gì để đối diện với một tình yêu tan vỡ ? Bạn sẽ làm gì khi phát hiện ra người yêu của mình ngủ với một người đàn bà khác? Bạn có thái độ như thế nào khi một ngày bạn phát hiện ra người bạn coi như gia đình ruột thịt lại đem lòng yêu mình? Bạn có sẵn sàng chết cho tình yêu của mình hay không? *** [Review sách] Đừng Chết Vì Yêu - Mèo Xù 'Đừng chết vì yêu' là quyển sách đầu tay của Mèo Xù, đưa tên tuổi cô đến gần hơn với độc giả yêu thích văn học trẻ Việt Nam Chọn con tim hay nghe theo lí trí.. "Từ những nhân vật, những số phận trong cuốn sách" Đừng chết vì yêu ", hi vọng rằng mỗi người sẽ tự tìm thấy câu trả lời đúng đắn. Thay vì phải lựa chọn giữa tình yêu và lý trí, hãy để cả hai nhân tố ấy hòa quyện cùng nhau, làm ánh sáng chỉ đường để mỗi chúng ta sẽ không còn lạc lối, sẽ không một ai phải chịu tổn thương day dứt như nhân vật của Mèo Xù."   "Đừng chết vì yêu" là quyển sách đầu tay của Mèo Xù, đưa tên tuổi cô đến gần hơn với độc giả yêu thích văn học trẻ Việt Nam. Nhưng nội dung cuốn sách này cũng chính là nguyên nhân khiến cô bị mang ra chỉ trích vô cùng dữ dội. Chúng ta đang sống ở thời đại mà mọi nguyên tắc cứng nhắc lỗi thời bị đào thải, thay vào đó là dòng chảy mới phóng khoáng, tự do. Thậm chí trong giới trẻ đã xuất hiện không ít những trào lưu xem tình yêu là tất cả hay vì yêu mà bất chấp. Nhưng ở Đừng chết vì yêu, Mèo Xù lại đưa ra một góc nhìn hoàn toàn khác, cô đã thức tỉnh người đọc bằng thông điệp đầy lý trí "Đừng chết vì yêu".  Đây là cuốn truyện dài xoay quanh cuộc sống của nhân vật Thụy – một cô gái có vẻ ngoài phóng khoáng hiện đại nhưng lại mang những suy nghĩ vô cùng truyền thống. Thậm chí cô bị chỉ trích là lạc hậu lỗi thời trong tình yêu, đặc biệt là vấn đề tình dục trước hôn nhân. Thụy là mẫu hình phụ nữ cá tính và bản lĩnh, cô sống rất lý trí đến mức người ta sẽ đánh giá cô là con người thực dụng. Đối với cô, tình yêu có thể quan trọng nhưng không phải là duy nhất. Chúng ta có thể yêu chân thật nhưng không nhất thiết phải trao trọn niềm tin vào nó, càng không nên xuẩn ngốc tin tưởng quá nhiều vào những lời hứa của đàn ông. Hay nói một cách ngắn gọn như lời tác giả, là đừng chết vì yêu. Như những câu trích dẫn ngay phần đầu cuốn sách "Đàn ông trở nên tốt đẹp hơn khi họ bắt đầu yêu một người phụ nữ, còn phụ nữ bắt đầu bất hạnh kể từ giây phút họ chấp nhận lời cầu hôn của một gã đàn ông".  Người ta vẫn truyền tai nhau câu nói "theo tình tình phụ, buông tình tình theo". Nhân vật Thụy trong câu chuyện của Mèo Xù chính là chứng minh cho điều đó. Trong mỗi cuộc tình, ta vẫn thấy những cô gái yếu đuối, dễ tổn thương thường rơi vào bi lụy. Ngược lại, những cô nàng tự tôn cá tính, thậm chí bất cần một chút lại có sức hấp dẫn đàn ông. Đơn giản, vì đàn ông là phái mạnh, bản năng của họ là ghét bị thuần phục nhưng lại hào hứng với những cuộc chinh phục. Và nhân vật Thụy, có thể là hữu ý có khi là vô tình, sức hấp dẫn tự nhiên từ của một cô gái cá tính, không xem tình yêu là tất cả lại khiến rất nhiều gã trai mê mệt. Đó là Quân – một chàng họa sĩ tâm huyết và tài năng, tuy anh không dư giả vật chất nhưng bù lại anh hiền lành tốt bụng, điều đáng quý nhất ở anh có lẽ là trái tim lãng mạn, si mê của một người nghệ sĩ. Là Việt người đàn ông thành đạt, giàu có và tất nhiên để trở thành một doanh nhân có vị thế trong xã hội, anh ta mang trong mình sự tỉnh táo và lý trí, đôi khi trở thành cứng nhắc. Và người thứ ba, cũng là nhân vật khiến độc giả tâm đắc nhất, đồng cảm nhất và trăn trở nhiều nhất chính là Linh – một chàng trai có vẻ bề ngoài như một cậu trai mới lớn nhưng tâm hồn lại sâu sắc, dám sống, dám yêu và sẵn sàng hy sinh vì tình yêu ấy.  Nội dung cuốn sách đã khắc họa rất thành công bức chân dung những người trẻ tuổi, họ đại diện cho cả một thế hệ đang quay cuồng chao đảo trước ngưỡng cửa cuộc đời. Họ loay hoay trong chính cuộc sống của mình với những nghĩ suy, những quan điểm sống và yêu còn quá nhiều mâu thuẫn. Đúng sai lẫn lộn, thật giả không thể phân minh. Như một ngã tư đường quá nhiều lối rẽ và chọn lựa là ở mỗi người. Có những kẻ chọn con đường bằng phẳng dễ đi, họ sống khôn ngoan và thực tế như Thụy, như Quân, như Việt. Họ chọn cách yêu chừng mực, đặt bản thân mình lên trên hết. Họ không bao giờ thất vọng vì vốn dĩ chưa từng kì vọng. Họ ít khi cam chịu đau đớn bởi những trái tim khôn ngoan ấy luôn biết tạo ra khoảng cách an toàn. Nhưng lại có những người quá ngây thơ khờ dại, dù đã nhìn thấy bão giông đang ập đến ngay trước mắt, nhưng họ vẫn dấn thân bước vào con đường đầy sóng gió phủ vây. Như nhân vật Linh trong câu chuyện của Mèo Xù, ngay từ buổi đầu tiên quen biết Thụy trong vai trò ứng cử viên và người phỏng vấn. Anh đã có những linh cảm thật lạ kì. Nhưng cô gái ấy luôn tỏa ra sức hút không thể nào cưỡng lại. Và như một trò đùa của số phận, anh vẫn rơi vào lưới tình với người con gái ấy để cuối cùng nhận lấy kết cục không thể xót xa hơn.  Trọng tâm cuốn sách xoáy sâu vào những tam giác tình yêu, những mối quan hệ chồng chéo, những ngã rẽ trái ngang mà ở đó không có ai là người chiến thắng. Kết thúc câu chuyện là cái chết bi thảm của Linh và nỗi ân hận muộn màng của những người ở lại. Có lẽ nhiều độc giả sẽ có chung cảm nhận như tôi, câu nói cuối cùng của Linh chắc hẳn đã để lại trong chúng ta niềm ám ảnh: "Đã yêu thì không được mặc cả bất cứ điều gì, kể cả cái chết". Chúng ta sẽ tự hỏi liệu trong câu chuyện này, ai là kẻ đáng thương ai là người đáng trách? Vậy rút cuộc quan niệm nào là đúng đắn để giới trẻ noi theo? Và tác giả Mèo Xù đã cho chúng ta câu trả lời xác đáng. Khi yêu đừng quá tàn nhẫn lạnh lùng như Thụy, nhưng tuyệt nhiên cũng không nên dại dột, bi lụy như Linh. Hãy để cả lý trí và trái tim cùng lên tiếng, hãy can đảm vượt qua nỗi sợ hãi và thành kiến để mở lòng mình. Sống thực tế nhưng không có nghĩa là thực dụng, nếu tồn tại giữa một xã hội mà không thể đặt niềm tin vào bất kì ai, chúng ta đối xử với nhau bằng chiếc mặt nạ lạnh lùng vô cảm, cuộc sống này không phải sẽ rất mệt mỏi sao? Và phải chăng chính sự lạnh lùng cố chấp của người đời mới là nguồn cội đẩy Linh vào cái chết xót xa, cùng quẫn?  Mặc dù không phải nhà văn chuyên nghiệp, nhưng kinh nghiệm viết lách của một nhân viên sản xuất chương trình truyền hình đã giúp Mèo Xù rất vững tay khi chuyển sang nghề sáng tác. Cô luôn biết cách xây dựng hình tượng nhân vật đa chiều. Đằng sau một cô gái nguyên tắc và lạnh lùng như Thụy là nỗi lo sợ ám ảnh đầy yếu đuối khi đối diện tình yêu. Chúng ta có thể chỉ trích Linh vì hành vi tiêu cực coi thường mạng sống, nhưng nguyên do của hành vi dại dột ấy lại xuất phát từ một trái tim cao thượng, một tình yêu quá đỗi chân thành. Những nhân vật của Mèo Xù cứ thế hiện lên rất trần tục, rất đời thường, họ vừa đáng thương lại vừa đáng trách, vừa đáng giận lại vừa xứng đáng được bao dung. Mèo Xù khiến độc giả trải qua mọi cung bậc cảm xúc, có khi yêu, khi ghét, có khi phủ định, có lúc đồng tình. Ta có thể gật đầu tâm đắc với Thụy khi cô luôn sống nguyên tắc và biết cách giữ mình, đó là đức tính thực sự rất cần với những cô gái trẻ. Nhưng sự lạnh lùng đến mức khiên cưỡng lại gây ra những hậu quả quá đau lòng, và cụ thể là cái chết của Linh khiến cô phải sống trong ân hận. Ta có thể đồng cảm với sự hi sinh cao thượng của Linh, nhưng tìm đến cái chết vì bất cứ lý do gì cũng chưa bao giờ là đúng đắn.  Trong thời gian "Đừng chết vì yêu" vừa ra mắt, có một số ý kiến cho rằng, nội dung cuốn sách chỉ là những lời sáo rỗng tự an ủi chính mình của một cô gái nhan sắc tầm thường, thậm chí là xấu xí. Tôi cũng từng hoài nghi về điều đó cho đến khi gấp lại cuốn sách này. "Đừng chết vì yêu", nếu chỉ nhìn vào nhan đề ấy, ta dễ cảm thấy sự lên gân trong quan điểm, một chút khiên cưỡng ở ngôn từ khiến người đọc dễ nhận thấy như tác giả đang cố tình dồn ép tư tưởng vào đầu độc giả. Nhưng thực ra, Mèo Xù không dạy đời ai cả, cô chỉ đưa ra quan điểm cá nhân, không cổ xúy, không kì thị. Tác giả đóng vai trò như một người trung chuyển, qua câu chuyện mà cô chắp bút, từ những nhân vật, những số phận trong cuốn sách "Đừng chết vì yêu", hi vọng rằng mỗi người đọc chúng ta sẽ tự tìm thấy câu trả lời đúng đắn. Thay vì phải lựa chọn giữa tình yêu và lý trí, hãy để cả hai nhân tố ấy hòa quyện cùng nhau, làm ánh sáng chỉ đường để mỗi chúng ta sẽ không còn lạc lối, sẽ không một ai phải chịu tổn thương day dứt như nhân vật trong cuốn sách của Mèo Xù. *** “Đàn ông trở nên tốt đẹp hơn khi họ bắt đầu yêu một người phụ nữ, còn phụ nữ bắt đầu bất hạnh kể từ giây phút họ chấp nhận lời cầu hôn của một gã đàn ông”. Đó là chân lý, là tôn chỉ của những cô nàng độc thân thông thái. Các cô nàng bảo nhau: “Đừng tự đào mồ chôn đi nhan sắc và tuổi trẻ của mình bằng một chiếc nhẫn đeo ngón áp út”. Vậy thì đừng kết hôn, chỉ yêu thôi? Nhưng mấy cô nàng thông thái lại bảo: “Tình yêu cũng giống như một viên thuốc đắng tẩm đường, lớp đầu bao giờ cũng ngọt, hết lớp ngọt, chắc chắn sẽ đến một lớp đắng chát. Trong tình yêu, kẻ làm cho ta hạnh phúc nhiều nhất, thì cũng có thể chính kẻ đó sẽ là người khiến ta đau khổ nhất”. Liệu những điều này có là đúng? *** Giới thiệu “Nếu mình chia tay em có buồn không? Đương nhiên là có. Buồn đến mức độ nào? Đương nhiên là không đến mức độ có thể chết. Vậy mình chia tay đi!” “Hóa ra tình yêu chưa hẳn kỳ diệu và tốt đẹp như chúng ta vẫn tưởng tượng. Người thông minh nói: “Không phải cứ tình yêu thì phải vĩnh cửu, phải sống chết ở bên nhau, người ta yêu nhau là để được hạnh phúc bên nhau, chứ không phải để chết bên nhau, nếu chết vì yêu thì không những kẻ đó thật bất hạnh mà còn là kẻ ngu ngốc nhất trên đời”. Kẻ ngu ngốc nào đó lại nói: “Không phải mọi tình yêu đều vĩnh cửu, nhưng không phải không có tình yêu vĩnh cửu, không ai muốn vì tình yêu mà chết, nhưng nếu chết là cách duy nhất để bảo vệ người mình yêu thì sẽ sẵn sàng làm như vậy”.... Không ai có quyền lựa chọn việc mình được sinh ra trông như thế nào, nhưng mỗi người đều có quyền lựa chọn cách mình SỐNG hay mình chỉ đang TỒN TẠI. Trong tình yêu ai cũng có quyền lựa chọn làm kẻ thông minh hay kẻ ngốc. Người thông minh nói “Đừng chết vì yêu” nhé ! Kẻ ngốc lại nói “Đã yêu thì không được mặc cả bất cứ điều gì, kể cả cái chết”. … “Đừng chết vì yêu” là câu chuyện tình yêu của những người trẻ tuổi sống trong xã hội hiện đại,. Họ loay hoay trong hạnh phúc, trong những yêu thương, trong những quan niệm, những giá trị sống. Có cả những ám ảnh sợ hãi, chạy trốn. Thụy - Một cô gái tài giỏi, có cách sống hiện đại, nhưng trong đầu chứa đầy những quan niệm “cổ hủ” lạc hậu, hoàn toàn không bao giờ cho phép trái tim mình tin vào tình yêu. Cô ấy luôn dùng lí trí để sống… Quân - Một người đàn ông tốt, nhưng luôn tự ti vì cảm thấy không thể mang lại cho người mình yêu cuộc sống tốt nhất, vì thế luôn nuông chiều người yêu để bù đắp sự thiếu hụt về vật chất. Việt - Một người đàn ông giàu có, thành đạt. Là một người yêu nhưng không bao giờ thỏa hiệp, chiều chuộng người yêu bằng mọi cách. Và chỉ vì một sai lầm nhất thời Việt đã đánh mất đi người yêu, tình yêu... Ba người họ đều coi mình là người thông minh trong tình yêu, chỉ có Linh tình nguyện làm kẻ ngốc trong tình yêu. Liệu người thông minh hay kẻ ngốc sẽ hạnh phúc trong tình yêu? Còn bạn, bạn cho rằng mình là kẻ thông minh hay ngu ngốc trong tình yêu? “Đừng chết vì yêu?” là câu hỏi tôi muốn dành cho bạn. Bạn có đồng ý sẵn sàng chết cho tình yêu của mình hay không? Mèo Xù Mời các bạn đón đọc Đừng Chết Vì Yêu của tác giả Mèo Xù.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Quo Vadis (Tiếng Việt)
Đề tài tiểu thuyết lịch sử Quo vadis (1895 -1896) là cuộc khủng bố các tín đồ Thiên chúa giáo thời Nerô bạo chúa ở Cổ La Mã. Với những giá trị tư tưởng và giá trị nghệ thuật lớn lao, ngay từ khi ra đời, Quo vadis đã được hoan nghênh nhiệt liệt. Tác phẩm đã gây nên những chấn động mạnh trong giới văn học nghệ thuật thế giới. Quo vadis nhanh chóng được dịch ra nhiều thứ tiếng. Từ lúc sinh thời, tác giả đã nhận được bản dịch Quo vadis bằng các tiếng Anh, Pháp, Đức, Tây Ban Nha, Italia, Nga, Thụy Điển, Đan Mạch, Hà Lan, Tiệp Khắc, Hunggari, Bồ Đào Nha, Hy Lạp, Acmênia, Phần Lan, Lítva, Nhật và Ả Rập. Cho đến nay, Quo vadis đã được dịch ra trên bốn mươi thứ tiếng khác nhau. Tác phẩm cũng rất nhiều lần được đưa lên sân khấu và màn ảnh ngay từ những năm xa xưa nhất, đồng thời nó cũng trở thành đề tài của không ít công trình khảo cứu, không những chỉ ở Ba Lan mà trên phạm vi thế giới. Chuyển đạt lời văn của H.Sienkievich đến bạn đọc là một khó khăn lớn đối với người dịch, đặc biệt là trong trường hợp Quo vadis, bởi lẽ tiểu thuyết đề cập đến một thời đại, một nền văn hóa xa xưa có nhiều khác biệt với bạn đọc Việt Nam ngày nay. Để phần nào hỗ trợ cho bạn đọc trong việc tìm hiểu tác phẩm, chúng tôi có soạn thêm phần chú thích (bố trí ở cuối tập II) đề cập đến một số tên người và địa danh có trong tác phẩm nhưng không phổ biến lắm ở ta. Chúng tôi hy vọng rằng, mặc dù có những khiếm khuyết và hạn chế khó tránh khỏi, bản dịch Quo vadis từ nguyên bản tiếng Ba Lan sẽ là một dịp để bạn đọc tiếp xúc với Henryk Sienkievich, một nhà văn kiệt xuất, người đại diện xứng đáng cho nền văn học cổ điển rất phong phú của dân tộc Ba Lan *** Henryk Adam Aleksander Pius Sienkiewicz là nhà văn Ba Lan đoạt giải Nobel Văn học năm 1905. Ông thường ký dưới các tác phẩm của mình bằng bút hiệu Litwos. Henryk Adam Alexandr Sienkiewicz là con trai một địa chủ quý tộc nghèo sống ở nông thôn. Đến tuổi đi học, do ảnh hưởng của các biến động trong nền kinh tế, gia đình chuyển về Warszawa. Học xong trường gymnazy năm 1870, ông vào học Đại học Warszawa, lúc đầu học luật và y khoa, sau chuyển sang văn và sử. Sienkiewicz là cộng tác viên thường xuyên của các báo Przegląd Tygodniowy, Gazeta Polska, Niwa, Słowo và bắt đầu gây được sự chú ý với tiểu thuyết Namarne (Phí hoài, 1871), các truyện ngắn Stary sluga (Người đầy tớ già, 1875), Hania (1876), đồng thời ông cũng trở thành một nhà báo được thừa nhận tài năng. Năm 1876, tờ Gazeta Polska cấp tiền cho Sienkiewicz đi Mỹ với điều kiện đổi lại là ông phải viết một loạt bài về Hoa Kỳ; ở đây ông tham gia vào những thử nghiệm xây dựng trại xã hội chủ nghĩa không thành ở Anahaim (gần Los Angeles). Từ 1878 ông trở về châu Âu, đi nhiều nước, viết báo, viết văn và diễn thuyết. Năm 1879, Sienkiewicz trở thành chủ bút một tờ nhật báo mới ở Ba Lan; ba lần lấy vợ; vợ đầu có hai con nhưng chết sớm. Sau khi về Ba Lan, Sienkiewicz bắt đầu sáng tác những tác phẩm dài hơi và nổi tiếng với bộ ba tiểu thuyết Potop (Trận hồng thủy), Pan Wolodyjowski (Ngài Wolodyjowski), Ogniem i mieczem (Bằng lửa và gươm) - viết về các sự kiện diễn ra hồi thế kỉ 17 trong thời gian chiến tranh giữa người Ba Lan với người Kazakh, với người Thụy Điển và với người Thổ Nhĩ Kỳ. Sau đó Sienkiewicz viết hai tiểu thuyết về cuộc sống hiện đại là Bez dogmatu (Không có giáo điều) và Rodzina Polaniekich (Gia đình Polaniecki), còn vào những năm 1895-1896 - tiểu thuyết Quo vadis nói về cuộc sống dưới triều đại của hoàng đế Nero thời cổ La Mã đã mang lại danh tiếng thế giới cho ông. Năm 1900, Henryk Sienkiewicz được những người hâm mộ quyên tiền đủ để mua một trang trại nhỏ và tổ chức sinh nhật rầm rộ. Năm 1905 ông được trao giải Nobel vì những đóng góp xuất sắc trong lĩnh vực sử thi, mà cụ thể là tiểu thuyết Quo vadis viết về cuộc đấu tranh của những người Thiên Chúa giáo với Nero. Khi Chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra, Sienkiewicz rời quê sang sống ở nước Thụy Sĩ trung lập, làm việc trong tổ chức Hồng thập tự Ba Lan. Năm 1916 ông mất ở Vevey, tám năm sau thi hài của ông được chuyển về Warszawa và an táng trong nhà thờ. *** Vinixius gửi Ligia:     “Nô lệ Phlagon, kẻ mà tôi nhờ chuyển cho nàng bức thư này là một tín đồ Thiên chúa, nên bác ấy sẽ là một trong những người được đón nhận tự do từ chính tay nàng, hỡi con người thân yêu nhất đời! Đây là một đầy tớ già của gia đình, nên tôi có thể hoàn toàn tin cậy viết thư gửi qua bác ta, không sợ thư bị lọt vào một bàn tay nào khác ngoài tay nàng. Tôi viết thư từ Laurentum, nơi chúng tôi đang dừng chân vì thời tiết nóng nực. Tại đây, chàng Otho từng có một tòa biệt thự tuyệt vời mà hồi trước chàng đã tặng cho Poppea, còn ả ta, mặc dù đã ly dị chàng, vẫn cho rằng việc tiếp tục giữ món quà kia là hợp lẽ… Cứ nghĩ đến những người đàn bà đang ở chung quanh tôi rồi lại nghĩ về nàng, tôi thấy rõ là một khối đá của Đeukalion đã thành hình đủ loại người khác nhau, những loại không một chút giống nhau và nàng thuộc về những người được sản sinh từ chính pha lê. Tôi ngưỡng mộ, tôi yêu nàng với tất cả tâm hồn, đến nỗi tôi chỉ muốn nói cùng nàng về mỗi một mình nàng mà thôi và tôi phải bắt buộc mình lắm mới viết nổi cho nàng về chuyến đi, cùng những gì đang diễn ra với tôi và những chuyện mới mẻ trong chốn cung đình. Vậy hoàng đế đang là khách của Poppea, ả đã bí mật chuẩn bị một cuộc thù tiếp thật duyệt diệu. Thực ra, ả chỉ mời rất cẩn thận, nhưng cả tôi lẫn cậu Petronius đều nhận được lời mời. Sau bữa tiệc, chúng tôi chèo những con thuyền vàng trên mặt biển, biển lặng lẽ như đang say ngủ và biếc xanh như màu mắt nàng vậy, hỡi nữ thần!  ... Mời các bạn đón đọc Quo Vadis của tác giả Henryk Sienkiewicz.
Quần Đảo Ngục Tù - Aleksandr Isayevich Solzhenitsyn
Thiên tiểu thuyết này viết xong đã lâu mà tôi vẫn ngần ngại chưa muốn xuất bản. Thà phụ lòng người chết còn hơn gây hại cho những người còn sống. Nhưng bản thảo bất ngờ lọt vào tay mật vụ thì tôi đành phải cho ra ngay, càng sớm càng tốt.  Xin lưu ý là trong Quần đảo ngục tù không có người bịa chuyện. Nhân danh, địa danh đều ghi rõ tên thực. Nếu có ghi tên tắt chỉ là bắt buộc cũng như nếu có thiếu sót chỉ vì người viết không nhớ nổi, nhớ hết. Vì tất cả trong Quần đảo ngục tù đều có thực, nghĩa là THẤY SAO VIẾT VẬY.  Aleksandr I. Solzhenitsyn   *** Aleksandr Isayevich Solzhenitsyn là nhà văn, nhà viết kịch của Liên Bang Xô Viết và Liên Bang Nga đoạt giải Nobel Văn học năm 1970. Aleksandr Isayevich Solzhenitsyn sinh ở Kislovodsk, vùng bắc Kavkaz. Bố mất khi Solzhenitsyn chưa sinh, mẹ đi làm nghề đánh máy để nuôi con. Năm 1925 hai mẹ con chuyển về thành phố Rostov-trên-sông-Đông (Rostov-na-Donu). Từ năm 1926 đến 1936 học ở trường phổ thông thường bị bạn bè chế diễu vì đeo thập tự và không muốn vào Đội thiếu niên Lenin. Sau đó, nghe theo lời khuyên của các thầy cô giáo, Solzhenitsyn đã tiếp nhận lý tưởng cách mạng, năm 1936 vào Đoàn thanh niên cộng sản Komsomol. Từ nhỏ Solzhenitsyn đã muốn trở thành nhà văn nhưng có năng khiếu toán học nên năm 1936 ông theo học khoa Toán trường Đại học Rostov để sau này dễ kiếm việc làm. Những năm học ở Đại học Rostov, Solzhenitsyn luôn là sinh viên xuất sắc, được nhận học bổng Stalin.   Năm 1970, Alekxandr Solzhenisyn được tặng giải Nobel nhưng ông không đến Thụy Điển nhận lễ trao giải vì sợ sau đó không trở về nước được; hai năm sau ông mới đến nhận giải và đọc Diễn từ. Năm 1974, sau khi công bố bản tuyên ngôn Không sống bằng dối trá (Жить не по лжи) và cho in tác phẩm Quần đảo GULag (Архипелаг ГУЛаг) ở Paris, Solzenitsyn bị bắt, bị nhà nước Liên Xô tước quyền công dân và bị trục xuất sang Cộng hòa Liên bang Đức, sau đó ông định cư ở Hoa Kỳ. Bản tuyên ngôn Không sống bằng dối trá được viết ngay trước khi ông bị trục xuất khỏi nước Liên Xô đã thể hiện tâm tư của ông, có đoạn viết Chúng ta đã bị phi nhân tính một cách tuyệt vọng tới mức chỉ vì một khẩu phần ăn khiêm tốn hàng ngày cũng sẵn lòng đánh đổi mọi nguyên tắc của mình, tâm hồn của mình, những nỗ lực của tiền nhân và cơ hội dành cho hậu thế - cốt sao sự tồn tại mong manh của mình không bị phá vỡ. Chúng ta chẳng còn lấy một chút vững vàng, một chút tự hào và một bầu nhiệt huyết. Chúng ta thậm chí còn chẳng sợ cái chết vì vũ khí hạt nhân, không sợ thế chiến thứ ba (còn có thể trú ẩn trong những kẽ hầm mà!), thế nhưng lại sợ những hành động can đảm của công dân! Bài viết này được các báo chí trên thế giới đăng lại hoặc nhắc đến, gồm The Washington Post,  NewYork Times *** Năm 1949, bọn tôi tình cờ đọc được một mẩu tin ngăn ngắn in chữ nhỏ li ti đăng trên tờ Thiên nhiên cơ quan của Hàn lâm Viện Khoa học. Bản tin tiết lộ là trong công tác khảo cổ khai quật một vùng sông Kolyma người ta đã tìm ra một lớp băng nằm dưới mặt đất nguyên là một con suối, một nhánh sông đông lạnh mà trong đó còn nguyên vẹn một số sinh vật tiền sử, cỡ vài chục ngàn năm. Cá hay thằn lằn cũng còn tươi nguyên, tươi đến nỗi những người có mặt lúc bấy giờ hăm hở phá vỡ lớp băng, đào lên KHOAN KHOÁI đớp ngay tại chỗ.  Độc giả tập san Thiên nhiên có bao nhiêu xong chắc chắn họ phải kinh ngạc không ngờ cá đông lạnh có thể giữ tươi nguyên lâu đến vậy. Tuy nhiên mấy ai đã thấu hiểu ý nghĩa đích thực của mẩu tin sơ hở, vụng về nói trên?  Bọn tôi, trái lại hiểu ngay tức khắc. Bọn tôi còn tưởng tượng ra đầy đủ từng chi tiết nhỏ của công tác khai quật kia. Bọn tôi biết người ta đào lớp băng hăng hái cỡ nào, tranh nhau như thế nào… Khỏi khảo cổ, nghiên cứu cá cua gì hết, thấy cá tiền sử cũng đào lên, xé ngay ra cho lên bếp lửa nướng đớp liền.  Bọn tôi hiểu vì bọn tôi cũng thuộc một lớp người với đám người đào băng đó – cũng là dân ZEK với nhau mà! Những thằng ZEK [1] thì quá đông quá nhiều và có thể nói là thế gian này chỉ có chúng là những thằng người duy nhất dám đớp cả cá tiền sử một cách SUNG SƯỚNG.  ... Mời các bạn đón đọc Quần Đảo Ngục Tù của tác giả Aleksandr Isayevich Solzhenitsyn.
Tình Yêu Sau Cùng - Pearl S. Buck
Vào những ngày cuối đời, Pearl S. Buck sống với chồng thứ hai, Richard Walsh - cùng với 150 đứa trẻ đủ màu da; do chính bà đem về giáo dưỡng trong một trang trại ở Pennsylvania (Mỹ). Đó là thời kỳ đã giã từ chồng trước, bà dắt con trai ở lại nước Mỹ sau khi cuộc chiến ở Hoa Lục kết thúc. Cả hai từng vùng vẫy cố thoát khỏi nghịch cảnh thời thế nhưng vẫn chỉ là hư không. Song mối tình dị chủng phải chia lìa mà vẫn không làm tiêu tan ý chí đoàn tụ rất keo sơn, bất diệt của họ. Càng xa nhau bao nhiêu thì sợi dây vô hình càng thắt chặt bấy nhiêu cho đến khi nhận được hung tin từ vợ kế của chồng báo cho biết viên đạn đồng đã kết liễu đời chàng.  Sự đau đớn tột cùng thôi thúc tác giả viết nên một thiên tình sử não nuột về hôn nhân dị chủng của chính tác giả. Và Pearl S. Buck đã hóa thân qua nhân vật làm vợ mang tên Êly - thuật lại một đoạn sống của một người chồng nửa Á, Âu mang quốc tịch Trung Hoa có vợ là người Mỹ trăm phần trăm.  Tự sự kể về cuộc tình dị chủng ấy từng sống thật say đắm, tha thiết và nồng ấm. Bằng giọng văn lạnh lùng mà quyến rũ, ngọt ngào, thương cảm lạ lùng đã làm xúc động hàng triệu độc giả trên thế giới.  *** Pearl Buck (tên thật là Pearl Comfort Sydenstricker, có tên Trung Quốc là Trại Chân Châu) là con một nhà truyền giáo người Mỹ. Sau khi ra đời chưa đầy 5 tháng, bà đã được cha mẹ đưa sang Trung Quốc sinh sống. Từ nhỏ và suốt cả cuộc đời bà yêu mến và thích tìm hiểu cuộc sống của người dân Trung Quốc, cảm thông với những người dân địa phương bị nhiều tầng áp bức. Năm 1938 Pearl Buck nhận giải thưởng Nobel vì các tác phẩm mô tả đời sống nông thôn Trung Hoa một cách phong phú và xác thực (chủ yếu với tiểu thuyết Đất Lành và hai cuốn tự truyện Người Tha Hương (1936) viết về người mẹ và Thiên Thần Chiến Đấu (1936) viết về cha của bà). Sau khi nhận giải, Pearl Buck tiếp tục sáng tác rất nhiều, ngoài văn xuôi bà còn viết kịch, kịch bản phim, tiểu luận và sách cho thiếu nhi. Bà cũng là người đã dịch Thủy Hử (All men are brothers) và một số tác phẩm văn học Trung Quốc sang tiếng Anh. Cuối đời, bà quan tâm đến đề tài các nhà bác học nguyên tử buộc phải chế tạo vũ khí giết người hàng loạt. Đồng thời, bà tích cực tham gia các hoạt động từ thiện, xã hội như: sáng lập ra tổ chức không vụ lợi Hiệp hội Đông Tây (The East and West Association, 1941) nhằm truyền bá những hiểu biết giữa các dân tộc trên thế giới; cùng chồng lập nên tổ chức Căn nhà tình nghĩa (Welcome Home, 1949) giúp trẻ mồ côi; lập ra Quỹ Pearl S. Buck (The Pearl S. Buck Foundation, 1963) và tặng cho quỹ này 7 triệu đôla. • Tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt: Gió Đông, gió Tây; Ảo vọng; Sống vì đất; Tiếng gọi đồng quê; Lá thư Bắc Kinh; Tình yêu sau cùng; Người mẹ; Nhớ cảnh nhớ người; Yêu muộn; Nạn nhân buổi giao thời; Mấy người con trai Vương Long; Đứa con người yêu; Một phút một đời; Một lòng với em; Một cuộc hôn nhân; Lưu đày; Lưu đày biệt xứ; Cánh hoa e ấp; Đông phương huyền bí qua truyện cổ thần tiên; Truyện Đông phương; Người vợ tiên; Những người đàn bà tuyệt vời trong gia đình Kennedy; Những người đàn bà trong gia đình Kennedy; Tà áo xanh; Nỗi buồn nhược tiểu; Người yêu nước; Ngoài chân mây; Hứa hẹn; Bão loạn; Mẫu đơn; Quỷ địa ngục chẳng bao giờ ngủ; Yêu mãi còn yêu; Ba người con gái của Lương phu nhân; Trái tim kiêu hãnh; Một trái tim tự hào; Biên giới tình yêu; Tình cõi chân mây; Nô tì Mẫu Đơn; Đóa hoa ẩn mình; Trang; Người thành phố; Bí mật đời nàng; Người yêu nước; Thiên Hậu; Người cung nữ; Từ Hi Thái hậu; Con rồng linh diệu; Hạt giống của rồng; Vương Nguyên; Đất lành; Chuyện Kinh Thánh; Những người con của tiến sĩ Lương; Tiếng nói trong nhà; Tử thần và rạng đông; Người mẹ già; Những mảnh hồn sầu xứ.” *** Giấc mơ đó không làm tôi sợ hãi chút nào, nhưng tôi cảm thấy nó có nỗi buồn vô tận. Tôi không thể sợ hãi Diên Tôn được, dù với hình thể nào chàng đến với tôi. Câu chuyện ma quỷ vẫn chỉ làm tôi mỉm cười. Sự xét đoán về tiềm thức của tôi luôn luôn làm cho tôi nhớ tới người thân yêu xa cách..tuy cố giữ không thổ lộ là tôi trông thấy Diên Tôn.  Bà Mạch quả quyết rằng trông thấy bà mẹ hiện lên, bà mẹ sống ở Ireland và chết ở đấy.  Bà giảng giải cho tôi nghe, vẻ long trọng:  - Đó là một buổi sáng đẹp trời vào dịp Phục sinh. Bữa trước tôi mới cãi nhau với Mạch và không muốn đi nhà thờ nữa. Tôi mặc quần áo cũ để lau sàn bếp. Mạch gào lên tôi phải cùng đi với hắn và các con đến nhà thờ - lúc này chúng tôi có sáu đứa. Nhưng tôi quyết từ chối và hắn đi một mình. yên tĩnh trở lại, tôi rửa mặt, mặc chiếc áo ngủ sạch và đi nằm để lấy lại sức. Giữa lúc này, mẹ tôi hiện về. Bà mặc toàn đồ trắng, như một bà tiên. Mớ tóc hoa râm kết thành giải theo thói quen của bà. Bà bảo tôi Con khốn nạn của mẹ, con chỉ là một người đàn bà thì đành phải an phận. Tôi trả lời và nhắm mắt ngủ ngay như trẻ thơ. Đúng thế mẹ yêu dấu của con. Khi tôi tỉnh giấc, Mạch đã trở về đang cho các con ăn. Tôi trở dậy người khoẻ mạnh như cũ.  Đó là một câu chuyện dựng đứng, nhưng bà Mạch tin là đã trông thấy.  Chiều nay, tôi đến thư viện thành phố gần nhất đấy và tìm thấy cả nửa tá sách nói về mộng mị và ảo tưởng. Tôi lấy làm hổ thẹn, đọc những sách này vì tôi không tin dị đoan. Nhưng lại tự nhủ nếu một thanh củi, một phần nguyên liệu, có thể biến thành nhiệt năng trước mắt tôi, thành lửa, thành tro và sức nóng, thì tại sao một hình hài sống động, một trí óc sáng suốt, một tâm hồn giàu tình cảm và lòng vị tha lại không thể hiện dưới mắt tôi với một hình thể khác. Cứ như vậy tôi đi sâu vào cuộc phiêu lưu, đi tìm người tôi yêu.  Diên Tôn chàng ơi, anh có còn sống thật không? ... Mời các bạn đón đọc Tình Yêu Sau Cùng của tác giả Pearl S. Buck.
Tình Ơi Là Tình
Khi người ta chỉ là một nữ công nhân, hôn phối phải chăng là lối thoát duy nhất khỏi cuộc sống khốn cùng? Bằng lối viết đầy khiêu khích không hề đứng về phía con người, nữ tác giả không đếm xỉa đến ma quỷ thánh thần đã trả lời câu hỏi đó với “sự mỉa mai hoan lạc” và nỗi bi quan tàn khốc vẫn thường thấy ở bà. Tình ơi là tình (Die Liebhaberinnen), với tác phẩm này Jelinek lần đầu tiên khẳng định chỗ đứng trên văn đàn và trong mắt người hâm mộ. Đó là một cuốn sách mang “đặc trưng Jelinek nhất”. Thành công ấy có thể chỉ kém cuốn tiểu thuyết đầy hơi hướng tự thuật Cô giáo dương cầm (tạm gọi theo chuyển thể phim của Die Klavierspielerin) mà trong đó, lại một lần nữa, phụ nữ đóng vai trò chính. Nhưng sự so sánh đó quá khập khiễng, có giống nhau thì chỉ ở cái khía cạnh Jelinek tài tình hơn các đồng nghiệp của bà khi đào bới các ngõ ngách trong tâm hồn giống cái. Và chính năng khiếu ấy không được đồng bào của bà nồng nhiệt đón chào: Có mấy ai đủ dũng cảm đi vạch áo cho người xem lưng, kể cả phụ nữ là những người được bà cho mượn một ngôn ngữ mãnh liệt. Nói theo cách của Jelinek, là “những thây ma muốn mồ yên mả đẹp, nhưng tôi lại cứ khai quật chúng lên, ngày này qua ngày khác”. Một người cầm bút đã băn khoăn hỏi bà rằng, khi đọc nguyên tác có thể cảm nhận được nhịp điệu âm nhạc rất đặc biệt trong từng câu, vậy bà có ý kiến gì về việc tác phẩm của mình được dịch sang ngôn ngữ khác, liệu những bản giao hưởng tuyệt vời ấy có mang được hết các nốt nhạc của mình sang một dàn nhạc công khác với một nhạc trưởng khác? Và tôi mạn phép được trích đáp từ của chính tác giả để xin thứ lỗi cho khiếm khuyết nào xảy ra trong quá trình chuyển ngữ: “Thật khổ cho các nhà dịch thuật! Họ phải viết lại hoàn toàn công việc của tôi bằng ngôn ngữ nước họ để cho tác phẩm có thể chứa đựng giá trị nguyên gốc. Những trò chơi ngôn ngữ chỉ được yêu thích ở những nơi được phép. Và chỉ những nhà văn mới yêu thích trò chơi này, nhưng họ chẳng hơi đâu mà dịch tôi làm gì!”. Tôi rất mong bà chỉ nói dỗi để làm dáng, hoặc đoán lầm. *** Elfriede Jelinek sinh ngày 20/10/1946 tại Mürzzuschlag thuộc Miền Hạ Áo. Từ 1966 đến nay, địa chỉ chỗ ở của bà tại thủ đô Vienna không thay đổi. Chính vì thế, bà luôn coi mình là dân Vienna "chính hiệu". Cha bà là người Do Thái gốc Czech, mẹ bà lại là một tín đồ rất ngoan đạo của Thiên Chúa giáo. Thuở nhỏ bà học ba-lê. Từ năm 6 tuổi, bà học dương cầm theo yêu cầu của mẹ. Đạo diễn người Áo Michael Haneke đã chuyển thể tiểu thuyết này thành phim cùng tên rất nổi tiếng và đã đoạt 3 giải thưởng trong Liên hoan phim Cannes năm 2001. Năm 2004, Elfriede Jelinek được trao giải Nobel Văn học. *** một ngày đẹp trời brigitte hạ quyết định, cô muốn chỉ còn làm một người đàn bà, hoàn toàn là đàn bà, cho một gã tên là heinz.   cô tin là từ nay trở đi những nhược điểm của cô sẽ trở nên đáng yêu, những ưu điểm sẽ được ưu ái.   nhưng heinz chẳng thấy tí gì đáng yêu ở brigitte, còn những nhược điểm của cô chỉ làm gã kinh tởm.   giờ đây brigitte chăm chút sắc đẹp của mình cho cả heinz nữa, vì đã là đàn bà rồi thì không còn đường thoái lui nữa, đàn bà thì phải chăm sóc sắc đẹp chứ. brigitte mong tương lai sẽ cảm tạ cô bằng vẻ ngoài trẻ hơn tuổi, nhưng biết đâu brigitte chẳng hề có tương lai. tương lai hoàn toàn phụ thuộc vào heinz.   khi trẻ thì người ta bao giờ cũng có diện mạo trẻ trung, già đi rồi thì đằng nào cũng quá muộn. nếu lúc đó nom không trẻ hơn tuổi thì xung quanh sẽ tuyên án không thương tiếc: ai bảo hồi trẻ không lo dùng mỹ phẩm!   vậy thì brigitte đã làm cái việc sẽ rất quan trọng trong tương lai.   khi người ta không có hiện tại thì phải lo trước đến tương lai thôi.   brigitte may nịt vú. nếu may một đường ngắn thì phải may nhiều nhiều, tối thiểu phải là bốn mươi đường may như cách tính lương theo sản phẩm. nếu may một đường dài hơn và phức tạp hơn thì sẽ phải may ít hơn. thật nhân đạo và công bằng.   brigitte có thể kiếm được nhiều chàng công nhân, nhưng cô chỉ muốn duy nhất có heinz, người đang định trở thành doanh nhân.   vật liệu là đăng-ten nylon trên một lớp mút mỏng. nhà máy của cô có nhiều thị phần ở nước ngoài, và nhiều thợ may nữ từ nước ngoài đến. nhiều người thôi việc vì cưới chồng, đẻ con hoặc chết.   brigitte hy vọng đến lúc nào đó sẽ thôi việc để đi cưới chồng và đẻ con. brigitte hy vọng heinz sẽ đưa cô ra khỏi đây.   nếu không được thế thì coi như chết rồi, ngay cả khi cô vẫn còn sống.   tạm thời brigitte chưa có gì khác ngoài cái tên của mình, trong phần tiếp của câu chuyện brigitte sẽ lấy họ của heinz. cái đó quan trọng hơn là tiền bạc và của cải, nó có thể đem lại tiền bạc và của cải.   cuộc sống đích thực, tức là cuộc sống biết lên tiếng khi được hỏi, cuộc sống đích thực ấy là cuộc sống khi được hoàn thành. đối với brigitte thì cuộc sống và công việc như nước và lửa. ở đây chúng ta bàn nhiều hơn đến thì giờ rảnh rỗi.   trong trường hợp cụ thể này, cuộc sống có tên là heinz. cuộc sống đích thực không chỉ mang cái tên heinz, mà chính là heinz. ... Mời các bạn đón đọc Tình Ơi Là Tình của tác giả Elfriede Jelinek.