Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Con Đường Hồi Giáo (Nguyễn Phương Mai)

Thưa cùng bạn đọc

Bạn đọc thân mến!

Trung Đông và Hồi giáo là những vùng đất và khái niệm không xa lạ gì với người Việt Nam. Tuy nhiên, để thẩm thấu được những diễn biến lịch sử-văn hóa-chính trị phức tạp của nó thì cả thế giới, bao gồm cả giới học thuật, không ai dám đánh cược 100% vào sự hiểu biết của chính mình. Sự mâu thuẫn nội hàm xuất hiện từ trước khi Hồi giáo hình thành, bùng cháy, hoặc âm ỉ qua nhiều thăng trầm lịch sử, và đột ngột trở nên dữ dội từ sau sự kiện Tháp Đôi bị khủng bố Al-Qaeda tấn công năm 2001. Cũng như nhiều đồng nghiệp khác tại châu Âu, tôi bị cuốn vào một trào lưu học thuật sôi động với mục đích tìm kiếm các chân rễ sâu xa của một trong những cuộc xung đột văn minh và tôn giáo được coi là lớn nhất thế kỷ 21: Islam đối chọi với Islamism.

Vậy Islam là gì và Islamism là gì?

Trong quá trình biên tập lại cuốn sách này từ một loạt bài đã đăng trên tạp chí Đẹp và Tia Sáng, vô số lần tôi phải băn khoăn dừng tay gõ máy. Bệnh nghề nghiệp khiến tôi luôn có xu hướng đào sâu lăn xả vào những ngõ ngách tiểu tiết, giải thích cho ra ngọn ra ngành, tỉ dụ như hai thuật ngữ tôi vừa nêu. Tuy nhiên, nhiều lần đã gõ hàng trăm chữ rồi tôi lại hậm hực nhấn nút xóa, đơn giản vì cuốn sách được viết với tư cách một kẻ lăn lê trên đường chứ không phải một cô ả đeo kính nhăm nhăm chỉ chực cắm mũi nhảy vào đống tư liệu. Nhưng rồi những câu chữ xuê xoa lại khiến tôi bực bõ vì vấn đề không được nhìn thấu đáo. Tìm mua: Con Đường Hồi Giáo TiKi Lazada Shopee

Và thế là tôi cứ bị ném qua ném lại như một quả lắc đồng hồ bất đắc dĩ.

Bị ném qua ném lại trầy trụa một hồi thì sách cũng viết xong. Tôi chọn cách làm dâu trăm họ, tức là viết xả dàn, và tranh thủ chèn nén một vài thông tin tham khảo sâu để làm hài lòng những bà mẹ chồng khó tính ☺. Tôi hy vọng thế hệ bạn đọc khá ngoại ngữ liên tục để mở công cụ tìm kiếm google khi đọc sách, bởi sau mỗi thuật ngữ, mỗi lời bình có vẻ bâng quơ, mỗi chi tiết dễ trôi tuột đi là cả một thế giới phức tạp nhưng sống động và biến chuyển hàng giờ, bởi Trung Đông là một thực thể khổng lồ luôn cựa mình quẫy đạp, bởi lịch sử nhiều năm độc tài khiến thông tin không đồng bộ và bị bưng bít, bởi những xung đột và bất đồng chính kiến đã trở thành một phần của các nền văn hóa nơi đây. Bản thân tôi tự biết cuốn sách có thể nhiều sai sót. Hy vọng sẽ chỉnh sửa kịp thời trong những lần tái bản.

Để thuận tiện, tôi cũng xin liệt kê trong phần này một vài quy tắc dùng từ, tên riêng, và thuật ngữ. Nếu bạn là cô em chồng dễ tính, chỉ đơn giản là muốn đọc một cái gì đấy cho khuây khỏa trong lúc chờ làm móng chân, thì xin cứ việc “Bỏ qua!”.

Abaya: Áo choàng rộng, dài tới gót chân trùm ra bên ngoài, hầu hết bằng lụa đen, để lộ khuôn mặt, thường được một số phụ nữ Hồi giáo khoác bên ngoài khi đi ra đường.

Allah: Tiếng Ả Rập chỉ Thượng Đế - Đấng Tối Cao duy nhất trong hệ thống các đạo độc thần (Do Thái giáo, Thiên Chúa giáo, Hồi giáo…). Với một số đạo đa thần, Allah cũng chỉ là một vị thần trong vô số các vị thần được thờ phụng. Ví dụ như ở Việt Nam, Allah có thể hiểu là ông Trời.

Bedouin: Nhóm dân Ả Rập sống cuộc đời du mục trên sa mạc.

Burqa: Bộ đồ trùm kín hoàn toàn cơ thể từ gót chân lên đỉnh đầu của một số phụ nữ Hồi giáo, riêng mắt có tấm che bằng vải thưa, thường được mặc ở Afghanistan.

Caliph: Người kế vị thiên sứ Muhammad.

Fatwa: Ý kiến chính thức từ một lãnh đạo tôn giáo có danh tiếng (mufti), thường có sức nặng tương đương luật pháp. Đây được coi như quyền lực tôn giáo thứ tư, sau Kinh Quran, hadith của Muhammad, và sự đồng thuận đã có từ trước. Vì fatwa dựa trên sự hiểu biết của cá nhân nên cùng một vấn đề mỗi mufti lại có những fatwa khác nhau, từ những vấn đề phức tạp và nghiêm trọng như lời kêu gọi giết tác giả “Những vần thơ của quỷ satan” từ giáo chủ Iran Khomeini, hay những chuyện tưởng chừng rất đơn giản như fatwa khẳng định Coca Cola và Pepsi không có chất kích thích và tín đồ Ai Cập hoàn toàn có thể uống mà không sợ phạm luật Hồi giáo.

Hadith: Những câu chuyện, lời nói, lối cư xử của Muhammad, được truyền tai từ người này sang người khác và chỉ được ghi lại sau khi Muhammad đã chết được chừng hai thế kỷ. Tuy nhiên, đây lại được coi là kim chỉ nam cho Hồi giáo, quyền lực vô cùng mạnh mẽ chỉ đứng sau Kinh Quran. Các học giả Hồi giáo đều cho rằng có quá nhiều hadith giả mạo, được hình thành để củng cố địa vị của giai cấp thống trị, hoặc để phục vụ cho các mục đích cá nhân giả danh tôn giáo. Ví dụ hadith “Muhammad cho rằng ăn bánh quy bột sẽ làm đàn ông khỏe hơn” được phát tán từ một ông chủ làm bánh quy bột. Tác giả của tuyển tập hadith nổi tiếng nhất Al-Bukhari chọn ra được xấp xỉ 7000 hadith từ hơn 300.000 hadith được lưu truyền, tức là xác suất sai cũng khá lớn và không ai có thể dám chắc những hadith mà Al-Bukhari chọn là những hadith thực sự. Mỗi tuyển tập hadith lại có một số lượng khác nhau. Mỗi hadith lại được đánh giá với ba chỉ số tin cậy cao thấp: “nguyên bản” (sahih); “tốt” (hasan); hay “kém” (daif). Mỗi trường phái Hồi giáo lại có những cách đánh giá hadith ở mức độ tin cậy khác nhau, với những quan điểm khác nhau, chấp nhận những hadith khác nhau với nội dung thậm chí trái ngược nhau. Chính vì vậy, nhiều học giả Hồi giáo ủng hộ quan điểm chỉ dựa vào Kinh Quran và loại bỏ hoàn toàn hoặc một phần quyền lực của hadith (Quranism).

Hijab: Khăn choàng chỉ che mái tóc, thường có nhiều màu sắc sặc sỡ, được dùng bởi đa số các phụ nữ Hồi giáo.

Imam: Người hướng dẫn cầu nguyện, cũng thường đóng vai trò là người hướng đạo, hoặc là người lãnh đạo tôn giáo, nhất là dòng Hồi Shia.

Islam: Nghĩa là “Người vâng mệnh”, là tôn giáo độc thần dòng Abrahamic, cùng nguồn gốc với Do Thái giáo và Thiên Chúa giáo. Người Trung Quốc khi nhìn thấy những người Hồi Hột theo tôn giáo “lạ” nên dùng tên của dân Hồi Hột để chỉ Islam. Người Việt tiếp nhận phiên âm tiếng Trung nên gọi là Hồi giáo.

Islamism: Chủ nghĩa Hồi giáo, chủ trương dùng Islam làm kim chỉ nam cho toàn bộ đời sống văn hóa và chính trị của xã hội. Thuật ngữ này hiện nay thường được dùng theo nghĩa khá tiêu cực, chỉ các tổ chức và phong trào chính trị Hồi giáo cực đoan để đối lập với các phong trào trung dung (moderate). Tuy nhiên, phần lớn tín đồ Hồi giáo không phân biệt được sự khác nhau giữa Islam và Islamism. Từ kinh nghiệm cá nhân, xin hết sức lưu ý khi dùng thuật ngữ này để tranh luận với các tín đồ Hồi vì sự nhạy cảm tôn giáo và bản năng tự vệ tôn giáo.

Islamist: Người theo chủ nghĩa Hồi giáo.

Jihad: “Chiến đấu” vì Thượng Đế. Từ này có hai nghĩa, cuộc chiến trong tâm khảm và cuộc chiến vũ lực, hiện nay thường được dùng với nghĩa cuộc chiến vũ lực. Các “chiến binh của Thượng Đế” gọi là jihadist.

Kaaba: Nghĩa là “khối vuông”, trước khi Hồi giáo ra đời, bán đảo Ả Rập có rất nhiều kaaba là nơi thờ cúng các thánh thần. Sau khi Hồi giáo thành hình, các tượng thánh thần bị dẹp bỏ, đa thần giáo biến thành độc thần giáo, thờ một Thượng Đế. Chỉ một kaaba duy nhất được giữ lại tại Mecca, và tín đồ Hồi coi đây là trung tâm của thế giới.

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Con Đường Hồi Giáo PDF của tác giả Nguyễn Phương Mai nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

DÒNG TÊN SỬ LƯỢC [pdf]
Lịch sử luôn luôn là một bài học sống động và quý giá. Tìm hiểu về Dòng Tên, chúng tôi thấy lịch sử Dòng cũng mang những bài học sống động và quý giá. Chúng tôi đã cố ghi chép lại đây đó một số điều, đôi khi thêm một vài suy nghĩ. Tập này thành hình như một vài góp nhặt chưa hệ thống, chưa hoàn chỉnh và chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Ước mong một bản khác đây đủ hơn và mạch lạc hơn sớm được những nhà chuyên môn cho chào đời, nhờ đó Dòng được nhiều người biết, yêu và theo, để tôn vinh Thiên Chúa hơn. Lịch sử luôn luôn là một bài học sống động và quý giá. Tìm hiểu về Dòng Tên, chúng tôi thấy lịch sử Dòng cũng mang những bài học sống động và quý giá. Chúng tôi đã cố ghi chép lại đây đó một số điều, đôi khi thêm một vài suy nghĩ. Tập này thành hình như một vài góp nhặt chưa hệ thống, chưa hoàn chỉnh và chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Ước mong một bản khác đây đủ hơn và mạch lạc hơn sớm được những nhà chuyên môn cho chào đời, nhờ đó Dòng được nhiều người biết, yêu và theo, để tôn vinh Thiên Chúa hơn.
Thiền sư Khương Tăng Hội - Sơ tổ của Thiền tông Việt Nam và Trung Hoa
Thiền sư Khương Tăng Hội, người đầu tiên mang đạo Phật vào Trung Quốc và Việt Nam!. Đạo Phật truyền vào Việt Nam bằng con đường hàng hải. Đây chính là thể thức giao tiếp, của các nước lân cận thời ấy. Người dân qua lại, giao hảo bằng những đoàn thương thuyền, để trao đổi hàng hóa cần dùng như, tơ lụa, quế, tiêu, các vật dụng hàng ngày. Trên những đoàn thương thuyền ấy, đã mang theo các nhà Sư Ấn Độ, để họ tụng kinh cầu nguyện sự bình an. Đây là quan niệm và cũng là niềm tin tôn giáo, được khẳng định một cách tích cực, trong những sinh hoạt hàng ngày, của dân hàng hải thương nghiệp này. Từ đây, chúng ta hiểu được rằng, đạo Phật có mặt trên quê hương Việt Nam, từ thế kỷ thứ nhất trước Tây Lịch. Con đường hoằng pháp của chư Tăng đơn giản, không nhu cầu, phương tiện to tát, mà chỉ được xem như là người thương lái trong đoàn hàng hải, nhưng họ có một niềm tin kiên cố. Chư Tăng có thể tụng kinh, niệm Phật thắp hương, đốt trầm trên những con thuyền đó. Nếp sống tâm linh ấy, đã in sâu vào tâm thức người dân Ấn Độ. Đời sống tâm linh này, đã được sinh hoạt thường nhật, dù nơi quê hương Ấn Độ hay Việt Nam thời bấy giờ. Chính vì sự sinh hoạt tâm linh này, mà người Việt Nam mới biết đến đạo Phật. Ngoài tinh thần văn hóa Phật giáo, người Việt Nam cũng đã học thêm được nhiều điều khác, của nền văn hóa dân gian, cách trồng cấy, lương thực, thảo dược, y học, vân vân, nhờ vậy mà đời sống xã hội, đã có một bước tiến xa hơn. Trong những đoàn người thương lái ấy, có Thân phụ Tổ Sư Khương Tăng Hội, đã đến Giao Chỉ, lưu lại và lập nghiệp nơi đây, có lẽ vì tìm ra vùng đất mới thích hợp, cho nếp sống gia đình đầm ấm, hạnh phúc, thân sinh Ngài đã lập gia đình với một người phụ nữ Việt. Năm Ngài 10 tuổi, cả hai bậc sinh thành đều khuất núi, kể từ đó Ngài chịu cảnh mồ côi. Mặc dù tuổi còn nhỏ, nhưng hẳn là có túc duyên, nên Ngài quyết chí xuất gia, tu học đạo giác ngộ, mà chính Thân phụ Ngài thuở sinh tiền cũng đã tu tập, trong vai trò người cư sĩ Phật tử. Sự hiện diện của Ngài trong bối cảnh lịch sử thời ấy, đã minh thị một cách hùng hồn rằng. Cây Phật Giáo Việt Nam đã ăn sâu mọc rễ vững chắc, trên mảnh đất Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3, sau Tây Lịch. Qua giá trị lịch sử ấy, đã cho ta cái nhìn tường tận và hiểu biết chính xác, để biết rằng Phật Giáo đã có mặt trên quê hương Việt Nam, sớm hơn Phật Giáo có mặt trên đất nước Trung Quốc!. Phật Giáo Việt Nam, tiếp nhận trực tiếp từ Phật giáo Ấn Độ, Ngài Khương Tăng Hội đã đi tu từ năm mười tuổi, và khi trưởng thành, Ngài đã mang tinh thần Thiền học Việt Nam, sang truyền giáo nơi vùng Giang Tả, thời Ngô Tôn Quyền xưng Đế. Ngài mở cuộc Đông Du, vào năm Xích Ô thứ mười, mới đến Kiến Nghiệp. Ngài dừng chân tại đây, lập ngôi nhà tranh trú ngụ, dựng tượng Phật để thờ, và bắt đầu cho công trình hoằng pháp.
Thiền Đốn Ngộ - Thích Thanh Từ
Đốn ngộ không phải là chóng ngộ, nhanh ngộ mà là nhắm vào cái gốc của mọi vấn đề là chỗ khởi sinh các niệm, tức nhân tâm, mà công phu, một lần hết sach vô minh, nên gọi là đốn. Nó đối lập với các pháp thiền tiệm, tức kiểm soát từng niệm một, không cho niềm tà khởi sinh, như ngồi lặt lá. Đốn ngộ không phải là chóng ngộ, nhanh ngộ mà là nhắm vào cái gốc của mọi vấn đề là chỗ khởi sinh các niệm, tức nhân tâm, mà công phu, một lần hết sach vô minh, nên gọi là đốn. Nó đối lập với các pháp thiền tiệm, tức kiểm soát từng niệm một, không cho niềm tà khởi sinh, như ngồi lặt lá.
Nguồn gốc của văn hóa và tôn giáo - Vật tổ và cấm kỵ
Văn hoá và tôn giáo là những vấn đề vô cùng phức tạp và rông lớn, tác động sâu xa tới toàn bộ đời sống xã hội, tới ý thức, lối sống và nhân cách cá nhân của mọi thành viên. Do vậy, chúng là đối tượng nghiên cứu có tính chất bao trùm lên toàn bộ các khoa học xã hội và nhân văn. Học thuyết Marx với phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử đã có cống hiến to lớn trong giải quyết các vấn đề liên quan đến các khái niệm đó. Tính đúng đắn của học thuyết Marx, đặc biệt là các công trình của F. Engels, là chỉ ra một cách khoa học và thuyết phục những cơ sở lao động-kinh tế của việc hình thành ý thức xã hội, lâu đài văn hoá, tín ngưỡng, các phong tục tập quán và mối tương quan giữa ý thức xã hội với nhân cách cá nhân. Chủ nghĩa Marx nhìn nhận các hiện tương xã hội đó như là kết quả của hành động có ý thức của con người. Tuy nhiên, hành động của con người, đặc biệt là hành vi của các cá nhân, không phải chỉ được điều khiển bởi ý thức, mà có khi nó còn bị thúc đẩy bởi các động lực vô thức nằm sâu trong tận đáy tâm thức của con người, cái đôi khi được đồng nhất với bản năng. Văn hoá và tôn giáo là những vấn đề vô cùng phức tạp và rông lớn, tác động sâu xa tới toàn bộ đời sống xã hội, tới ý thức, lối sống và nhân cách cá nhân của mọi thành viên. Do vậy, chúng là đối tượng nghiên cứu có tính chất bao trùm lên toàn bộ các khoa học xã hội và nhân văn. Học thuyết Marx với phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử đã có cống hiến to lớn trong giải quyết các vấn đề liên quan đến các khái niệm đó. Tính đúng đắn của học thuyết Marx, đặc biệt là các công trình của F. Engels, là chỉ ra một cách khoa học và thuyết phục những cơ sở lao động-kinh tế của việc hình thành ý thức xã hội, lâu đài văn hoá, tín ngưỡng, các phong tục tập quán và mối tương quan giữa ý thức xã hội với nhân cách cá nhân. Chủ nghĩa Marx nhìn nhận các hiện tương xã hội đó như là kết quả của hành động có ý thức của con người. Tuy nhiên, hành động của con người, đặc biệt là hành vi của các cá nhân, không phải chỉ được điều khiển bởi ý thức, mà có khi nó còn bị thúc đẩy bởi các động lực vô thức nằm sâu trong tận đáy tâm thức của con người, cái đôi khi được đồng nhất với bản năng. Với tư cách một học thuyết duy vật biện chứng và lịch sử được xây dựng trên cơ sở các thành tựu mới nhất của các khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn đương thời, nó thừa nhận tiến hoá luận của Darwin, tiếp thu và kế thừa lí thuyết văn hoá - nhân học của nhà nhân học Mĩ H. Morgan, chủ nghĩa Marx không phủ nhận cơ sở vật chất sinh học của con người, như Marx đã từng chỉ dẫn: "Giải phẫu học về con người là cái chìa khoá cho giải phẫu học về con khỉ", cho nên nó cũng không coi thường bản năng và vô thức. Chỉ có điều, do một số nhà lí luận sau này bởi nhiều lí do khác nhau, đã tuyệt đối hoá mặt ý thức mà xem nhẹ việc nghiên cứu vô thức và tâm lí cá nhân. Mảnh đất quan trọng và thiết thân ấy, do vậy, trong một thời kì dài hàng thế kỉ đã là nơi tung hoành của các trường phái tâm lí học ở các nước tư bản chủ nghĩa Tây Âu và Bắc Mỹ, mà trung tâm của họ là phân tâm học (Psychanalyse) với đại biểu điển hình là Sigmund Freud được nhiều người xem là cha đẻ của phân tâm học, một người mà tác phẩm của mình từng được coi là "cấm kị", không được phổ biến ở một số nước trong thời kì chiến tranh lạnh. Trong lịch sử hình thành và phát triển của phân tâm học, người ta thấy nó quan tâm trước hết đến bệnh lí tâm thần và đời sống vô thức của cá nhân, rồi sau đó mới có bước chuyển di sang lĩnh vực đời sống xã hội. Thuật ngữ phân tâm học (Psychoanalyse) xuất hiện bằng tiếng pháp lần đầu tiên năm 1896 trong một báo cáo của Freud. Thời kì đó người ta hiểu nó như một liệu pháp y học gọi là "liên tưởng tự do" (freie assoziation). Rồi sau đó đã bành trướng thành một phương pháp thời thượng sang nhiều lĩnh vực khác của các khoa học tinh thần. Các hiện tượng xã hội được phân tích truy nguyên theo các yếu tố bản năng vô thức là những cái được di truyền từ loài thú đến loài người nguyên thuỷ và tồn tại mãi cho đến con người hiện đại. Tuy nhiên, trong quá trình tìm tòi nguyên uỷ của bệnh tâm thần cá nhân và những nỗi đau đớn của họ, phương pháp phân tâm học cũng quan tâm đến sự tác động của các bối cảnh xã hội thông qua các câu chuyện do người bệnh kể lại. Những nhân tố xã hội ấy do vậy cũng làm thành cơ sở của phân tâm học. Vấn đề cội nguồn của văn hoá và của tôn giáo hiển nhiên chỉ được đề cập đến trong các giai đoạn phát triển tương đối muộn của phân tâm học, một mặt phía chủ quan, khi mà nó tin rằng có thể vận dụng qui luật sinh lí - tâm thần cá nhân để giải thích được các hiện tượng xã hội quan trọng như vấn đề truyền thống, phong tục tập quán, tôn giáo và văn hoá của các dân tộc. Mặt khác, sự ra đời của các tác phẩm phân tâm học về xã hội cũng là sản phẩm bởi tác động của các bối cảnh lịch sử của xã hội đương thời. Các nguồn tư liệu gần đây cho thấy Freud, Adler cũng như nhiều nhà phân tâm học hàng đầu khác cuối thế kỉ 19 - đầu thế kỉ 20 đã có những quan hệ chặt chẽ với phong trào công nhân châu Âu dưới sự lãnh đạo của những người xã hội dân chủ theo tư tưởng Mác-xít. Thậm chí bản thân một số nhà phân tâm học đồng thời là lãnh tụ của các đảng phái xã hội dân chủ, như A. Adler, H. Heller, C. Furtmueller, D.-E. Openheim. Bản thân Freud cũng như nhiều nhà phân tâm học khác tỏ ra tán thành quan điểm tâm lí hoc duy vật Mác-xít. Vật tổ và cấm kị (Totem und Tabu) là tác phẩm quan trọng nhất của Freud nói riêng và của phân tâm học nói chung về nguồn gốc của văn hoá và tín ngưỡng. Ngay tác phẩm cuối cùng Moise và tôn giáo nhất thần (1939) cũng như Tâm lý học đại chúng và phân tích cái tôi (1921) đều xây dựng trên cơ sở Vật tổ và cấm kị. Phải chăng đó là sự ngoan cố của Freud, cái đã cho phép ông bám chắc các luận đề của mình, hay phải chăng những lý thuyết ông phát minh trong đó chính là những viên đá tảng quan yếu cho văn hoá luận phân tâm học? Tác phẩm này được chính Freud xem là "thử nghiệm đầu tiên (...) trong vận dụng các quan niệm và kết quả nghiên cứu của phân tâm học vào các vấn đề chưa sáng tỏ của tâm lí hoc dân tộc", và đối với độc giả thì nó "đáp ứng mối quan tâm của một phạm vi rộng lớn hơn của những người có văn hóa, nhưng thực ra chúng chỉ có thể được hiểu và phân định bởi một số ít ỏi nhất mà với họ phân tâm học không còn xa lạ nữa. Nó ra đời trên cơ sở những kết quả nghiên cứu lâm sàng và điều trị bệnh nhân tâm thần của chính Freud, các công trình khảo cứu nhân chủng học và văn hóa học của nhiều học giả, đặc biệt là Frazer, và ít nhiều chịu kích thích trực tiếp từ tác phẩm Những biến hoá và biểu tượng của dục tính của nhà phân tâm học trẻ C-G. Jung, môn đệ của ông. Nhưng tác phẩm của Freud có sức khái quát hoá hơn hẳn và mang tính duy vật cao. Với tư cách một học thuyết duy vật biện chứng và lịch sử được xây dựng trên cơ sở các thành tựu mới nhất của các khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn đương thời, nó thừa nhận tiến hoá luận của Darwin, tiếp thu và kế thừa lí thuyết văn hoá - nhân học của nhà nhân học Mĩ H. Morgan, chủ nghĩa Marx không phủ nhận cơ sở vật chất sinh học của con người, như Marx đã từng chỉ dẫn: "Giải phẫu học về con người là cái chìa khoá cho giải phẫu học về con khỉ", cho nên nó cũng không coi thường bản năng và vô thức. Chỉ có điều, do một số nhà lí luận sau này bởi nhiều lí do khác nhau, đã tuyệt đối hoá mặt ý thức mà xem nhẹ việc nghiên cứu vô thức và tâm lí cá nhân. Mảnh đất quan trọng và thiết thân ấy, do vậy, trong một thời kì dài hàng thế kỉ đã là nơi tung hoành của các trường phái tâm lí học ở các nước tư bản chủ nghĩa Tây Âu và Bắc Mỹ, mà trung tâm của họ là phân tâm học (Psychanalyse) với đại biểu điển hình là Sigmund Freud được nhiều người xem là cha đẻ của phân tâm học, một người mà tác phẩm của mình từng được coi là "cấm kị", không được phổ biến ở một số nước trong thời kì chiến tranh lạnh.Trong lịch sử hình thành và phát triển của phân tâm học, người ta thấy nó quan tâm trước hết đến bệnh lí tâm thần và đời sống vô thức của cá nhân, rồi sau đó mới có bước chuyển di sang lĩnh vực đời sống xã hội. Thuật ngữ phân tâm học (Psychoanalyse) xuất hiện bằng tiếng pháp lần đầu tiên năm 1896 trong một báo cáo của Freud. Thời kì đó người ta hiểu nó như một liệu pháp y học gọi là "liên tưởng tự do" (freie assoziation). Rồi sau đó đã bành trướng thành một phương pháp thời thượng sang nhiều lĩnh vực khác của các khoa học tinh thần. Các hiện tượng xã hội được phân tích truy nguyên theo các yếu tố bản năng vô thức là những cái được di truyền từ loài thú đến loài người nguyên thuỷ và tồn tại mãi cho đến con người hiện đại. Tuy nhiên, trong quá trình tìm tòi nguyên uỷ của bệnh tâm thần cá nhân và những nỗi đau đớn của họ, phương pháp phân tâm học cũng quan tâm đến sự tác động của các bối cảnh xã hội thông qua các câu chuyện do người bệnh kể lại. Những nhân tố xã hội ấy do vậy cũng làm thành cơ sở của phân tâm học.Vấn đề cội nguồn của văn hoá và của tôn giáo hiển nhiên chỉ được đề cập đến trong các giai đoạn phát triển tương đối muộn của phân tâm học, một mặt phía chủ quan, khi mà nó tin rằng có thể vận dụng qui luật sinh lí - tâm thần cá nhân để giải thích được các hiện tượng xã hội quan trọng như vấn đề truyền thống, phong tục tập quán, tôn giáo và văn hoá của các dân tộc. Mặt khác, sự ra đời của các tác phẩm phân tâm học về xã hội cũng là sản phẩm bởi tác động của các bối cảnh lịch sử của xã hội đương thời. Các nguồn tư liệu gần đây cho thấy Freud, Adler cũng như nhiều nhà phân tâm học hàng đầu khác cuối thế kỉ 19 - đầu thế kỉ 20 đã có những quan hệ chặt chẽ với phong trào công nhân châu Âu dưới sự lãnh đạo của những người xã hội dân chủ theo tư tưởng Mác-xít. Thậm chí bản thân một số nhà phân tâm học đồng thời là lãnh tụ của các đảng phái xã hội dân chủ, như A. Adler, H. Heller, C. Furtmueller, D.-E. Openheim. Bản thân Freud cũng như nhiều nhà phân tâm học khác tỏ ra tán thành quan điểm tâm lí hoc duy vật Mác-xít.Vật tổ và cấm kị (Totem und Tabu) là tác phẩm quan trọng nhất của Freud nói riêng và của phân tâm học nói chung về nguồn gốc của văn hoá và tín ngưỡng. Ngay tác phẩm cuối cùng Moise và tôn giáo nhất thần (1939) cũng như Tâm lý học đại chúng và phân tích cái tôi (1921) đều xây dựng trên cơ sở Vật tổ và cấm kị. Phải chăng đó là sự ngoan cố của Freud, cái đã cho phép ông bám chắc các luận đề của mình, hay phải chăng những lý thuyết ông phát minh trong đó chính là những viên đá tảng quan yếu cho văn hoá luận phân tâm học? Tác phẩm này được chính Freud xem là "thử nghiệm đầu tiên (...) trong vận dụng các quan niệm và kết quả nghiên cứu của phân tâm học vào các vấn đề chưa sáng tỏ của tâm lí hoc dân tộc", và đối với độc giả thì nó "đáp ứng mối quan tâm của một phạm vi rộng lớn hơn của những người có văn hóa, nhưng thực ra chúng chỉ có thể được hiểu và phân định bởi một số ít ỏi nhất mà với họ phân tâm học không còn xa lạ nữa. Nó ra đời trên cơ sở những kết quả nghiên cứu lâm sàng và điều trị bệnh nhân tâm thần của chính Freud, các công trình khảo cứu nhân chủng học và văn hóa học của nhiều học giả, đặc biệt là Frazer, và ít nhiều chịu kích thích trực tiếp từ tác phẩm Những biến hoá và biểu tượng của dục tính của nhà phân tâm học trẻ C-G. Jung, môn đệ của ông. Nhưng tác phẩm của Freud có sức khái quát hoá hơn hẳn và mang tính duy vật cao.