Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Kira Kira (Cynthia Kadohata)

Cuốn sách có thể dễ dàng được đọc bởi một người 41 tuổi hay một đứa bé 14 tuổi. Nó thật xuất sắc và lay động lòng người. Đó là những lời mà báo chí Mỹ dành cho Kira - Kira, tiểu thuyết đoạt giải thưởng đóng góp xuất sắc cho Văn học thiếu nhi Mỹ 2005 của nhà văn Cynthia Kadohata.

Kira - Kira mở đầu với cuộc sống tuổi thơ yên ả của hai chị em người Nhật sống cùng cha mẹ tại tiểu bang Iowa (Mỹ), nơi có những ruộng bắp trải dài ngút ngàn, nơi hằng đêm, khi hai chị em nằm chơi ngắm nhìn bầu trời đầy sao ở con đường vắng trước nhà. Và chị Lynn của Katie Takeshima đã dạy cô bé từ đầu tiên mà theo chị Lynn là tuyệt diệu nhất thế gian Kira - Kira. Trong tiếng Nhật, Kira - Kira nghĩa là sáng lấp lánh:...Tôi dùng từ Kira - Kira để miêu tả tất cả những thứ mà tôi thích: bầu trời xanh trong trẻo, lũ chó con, mèo con, lũ bướm, những tấm khăn giấy nhiều màu sắc. Và chị Lynn cũng nói với em gái mình: Màu xanh của bầu trời cũng là màu xanh đặc biệt nhất trên thế gian, bởi vì nó vừa xanh thẳm lại vừa trong vắt... biển cũng vậy và mắt con người cũng vậy.

Trên cái nền chủ đạo là thứ ánh sáng lấp lánh ấy, bằng giọng văn trong sáng, chứa chan tình cảm, Kira - Kira dẫn người đọc vào chuỗi hồi ức thơ mộng, nghịch ngợm và buồn bã đến nao lòng của cô bé người Nhật Katie về tuổi thơ nghèo khó của gia đình, về người chị thông minh, xinh đẹp, giỏi giang nhưng vắn số. Do nghèo khó, mất việc làm, cha mẹ cô bé Katie dắt díu gia đình dời nhà từ bang Iowa đến sống tại một thị trấn nhỏ ở Georgia. Nơi đây, họ sống trong một căn hộ xập xệ, cũ kỹ. Khi người lớn bán sức lao động, cật lực làm việc ở các nhà máy hòng trang trải cuộc sống, thì trẻ con, với tâm hồn và cái nhìn ngây thơ, vẫn có cuộc sống thú vị của riêng chúng. Nhưng rồi một ngày, sự bạc bẽo của cuộc đời vén bức màn tuổi thơ lên: bệnh tật, nghèo đói, sự đàn áp về chính trị, tệ kỳ thị sắc tộc... Cô chị Lynn đã làm một phép tính: Chỉ có mỗi 31 người Nhật trong toàn thị trấn này, mà thị trấn này lại có hơn 4.000 người lận, và 4.000 chia cho 31 là... họ đông hơn mình quá trời. Từ phép tính đơn giản đó là tiếng kêu phản kháng thảng thốt của đứa bé: Em có để ý là bạn bè của ba mẹ chỉ toàn là người Nhật thôi không? Đó là vì đám người kia coi mình như không. Họ khinh mình - họ coi bọn mình giống như giẻ rách - hoặc như sâu như kiến gì đó.

Nước Mỹ trong câu chuyện là nước Mỹ những năm 1950, đời sống của những gia đình người Nhật trên đất Mỹ hậu kỳ Đại chiến thế giới lần 2 được miêu tả rất trung thực: những xưởng làm việc với guồng máy công nghiệp xem con người chỉ là những công cụ sản xuất. Sự vùng dậy của những người công nhân như thành lập công đoàn, đấu tranh đòi giảm giờ làm... được khéo léo lồng vào câu chuyện với liều lượng vừa phải, qua cái nhìn của một cô bé đã giúp độc giả nhí dù thuộc quốc gia nào cũng đều có thể cảm và hiểu được sự bất công, phi lý đến lạnh lùng, tàn nhẫn của một xã hội ích kỷ.

Sáng sớm 17/1/2005, nhà văn Cynthia Kadohata nhận được điện thoại từ Ủy ban trao giải thưởng Newbery (lấy theo tên của John Newbery, một người bán sách nổi tiếng ở Anh thế kỷ 18 - giải thưởng được trao tặng từ năm 1922 cho đến nay) thông báo cuốn Kira - Kira của cô được trao tặng giải thưởng Newbery. Trong bối cảnh xã hội nước Mỹ luôn có những xung đột về sắc tộc, sự chia cách giàu nghèo, nạn khủng bố, bạo động, tội ác... thì Kira - Kira chính là bài ca đẹp về niềm hy vọng, tin tưởng vào cuộc sống, tình yêu thương, quý trọng, san sẻ giúp đỡ lẫn nhau giữa những người trong cùng một gia đình và giữa con người với con người trong cùng nhau một xã hội. Và trên tất cả, thông điệp đằng sau Kira - Kira là: cuộc sống này rất phức tạp nhưng kỳ diệu biết bao. Bạn không nên đánh mất khả năng cảm nhận điều kỳ diệu đó dù là ở những điều nhỏ bé nhất trên đời. Tôi muốn những đứa trẻ biết rằng thế giới này tràn ngập niềm hy vọng và cái đẹp, Cynthia Kadohata đã nói như thế. Tìm mua: Kira Kira TiKi Lazada Shopee

Sau khi được dịch và phát hành thành công ở Nhật, Trung Quốc, Đức, Italy, Phần Lan, Đức, Serbia và Montenegro, Hàn Quốc, Tây Ban Nha, Thái Lan, Thổ Nhĩ Kỳ. Tháng 12 này, quyển Kira - Kira, vừa đến Việt Nam với tên gốc là Kira - Kira do dịch giả Lưu Anh chuyển ngữ, NXB Trẻ phát hành.

Nhìn lại dòng văn học thiếu nhi ở Việt Nam và trên thế giới, có một điều thú vị phải thừa nhận: một tác phẩm văn học thiếu nhi thành công và nổi tiếng không giới hạn độ tuổi độc giả. Bạn đọc Việt Nam thuộc mọi lứa tuổi từng say mê và háo hức thưởng thức những tác phẩm văn học dành cho thiếu nhi (hay nói về thiếu nhi) của tác giả nước ngoài, điển hình như: Hoàng tử bé của St.Exuypéry, truyện cổ Andersen, truyện cổ Grim và gần đây là loạt truyện Harry Potter của J.K. Rowling, Nhật ký Mã Yến của cô bé Trung Quốc Mã Yến... Vì thế, sự xuất hiện của Kira - Kira tại Việt Nam hứa hẹn sẽ gây ấn tượng mạnh với độc giả Việt và góp phần làm phong phú những góc nhìn về dòng văn học thiếu nhi trong nước.

Đọc Kira - Kira lại nhớ đến Mắt biếc - tác phẩm đem lại giải Nobel Văn học 1992 cho nhà văn Toni Morisson, Vừa nhắm vừa mở cửa sổ của Nguyễn Ngọc Thuần, Harry Potter của J.K. Rowling. Tất cả các cuốn sách đó đều viết về nội tâm cũng như thế giới của những đứa trẻ, về cuộc chiến đấu giữa cái thiện và cái ác, cái bất công trong cuộc sống.

Điểm độc đáo của Kira - Kira còn là sự kết hợp hài hòa giữa chất phương Đông và phương Tây trong câu truyện. Nét hóm hỉnh, tinh nghịch, hài hước tình huống kiểu Mỹ lẫn cái nhẹ nhàng, thâm trầm, sâu kín của Nhật; sự lãng mạn, mơ mộng đứng bên cạnh hiện thực nghiệt ngã; niềm hạnh phúc dâng tràn bên cạnh sự chia ly, mất mát; cái ngô nghê, trong trẻo trẻ thơ bên cạnh sự trưởng thành, già dặn của những tâm hồn bé con đang dần lớn lên theo từng ngày. Tôi giấu những giọt nước mắt của mình không cho ba mẹ thấy. Nhưng mặt biển bắt đầu làm tôi thấy hạnh phúc trở lại. Ở nơi đây từ mặt biển - đặc biệt là từ mặt biển - tôi có thể nghe thấy giọng nói của chị mình trong tiếng những làn sóng vỗ: Kira - Kira! Kira - Kira. Cái kết thúc đẹp này chẳng khác nào một khúc đồng dao bất tận lấp lánh niềm tin trẻ thơ. ***

CHỊ TÔI, LYNN, đã dạy cho tôi nói cái từ đầu tiên: kira-kira. Tôi đã phát âm nó thành ra ka a-a, nhưng chị chẳng hiểu nổi tôi muốn nói gì. Trong tiếng Nhật, kira-kira có nghĩa là “sáng lấp lánh”. Lynn kể là khi còn nhỏ, chị thường dắt tôi đi trên con đường trống vắng của bọn tôi vào ban đêm, rồi hai đứa tôi nằm ngửa xuống, nhìn lên những ngôi sao trên trời và chị cứ nhắc, “Katie, nói kira-kira, kira-kira xem nào.” Tôi rất thích từ này! Khi tôi lớn thêm, tôi dùng từ kira-kira để miêu tả tất cả những gì mà tôi thích: bầu trời trong trẻo, lũ chó con, mèo con, lũ bướm, những tấm khăn giấy nhiều màu sắc.

Mẹ bảo chúng tôi đã lạm dụng từ đó nhiều quá, người ta không thể gọi một tấm khăn giấy là kira-kira được. Mẹ rất rầu về việc hai đứa tôi không giống người Nhật một chút nào và thề là sẽ đưa chúng tôi về Nhật một ngày nào đó. Tôi không quan tâm mẹ sẽ đưa chúng tôi tới đâu, một khi tôi có chị Lynn bên cạnh.

Tôi sinh ra ở Iowa năm 1951. Tôi biết khá nhiều chuyện về mình hồi nhỏ, bởi vì chị Lynn có ghi nhật kí. Bây giờ tôi vẫn giữ cuốn nhật kí đó trong ngăn kéo cạnh giường.

Tôi rất thích cái việc những kí ức của chị vừa giống y hệt tôi, nhưng cũng lại vừa khác. Ví dụ như một trong những kỉ niệm đầu tiên của tôi là cái ngày chị Lynn cứu tôi. Tôi gần lên năm, và chị gần lên chín. Bọn tôi đang chơi trên con đường vắng gần nhà. Những cánh đồng bắp cao tít trải dài ngút tầm mắt, nhìn đâu cũng thấy bắp. Một con chó lông xám, dơ dáy từ cánh đồng gần bọn tôi chạy ra, rồi lại chạy vào. Lynn vốn yêu thích những con vật. Và mái tóc dài đen mượt của chị cứ mất hút sau đám lá xanh sau khi chị đuổi theo con chó. Bầu trời mùa hè xanh biếc và trong vắt. Tôi thoáng thấy sợ khi Lynn biến mất vào trong mấy bụi bắp. Lynn luôn ở bên cạnh tôi mỗi khi chị không đi học. Cả ba mẹ tôi đều đi làm. Trên lý thuyết thì tôi được gởi suốt ngày ở nhà một người phụ nữ ở cuối đường, nhưng trên thực tế thì Lynn mới là người trông nom tôi.

Sau khi Lynn chạy vào trong cánh đồng, tôi chẳng còn thấy gì khác ngoài bắp.

Tôi kêu to “Lynnie!.” Bọn tôi chơi không xa nhà lắm, nhưng tôi cảm thấy sợ. Tôi khóc òa lên.

Rồi thì Lynn bỗng ló ra sau lưng tôi và “Hù!” một cái, và tôi lại khóc to dữ hơn nữa. Chị bật cười, rồi ôm lấy tôi và nói “Em là đứa em dễ thương nhất thế giới!.” Tôi rất thích nghe chị nói như vậy, và tôi nín khóc.

Con chó chạy đi mất. Bọn tôi ngả lưng xuống nằm ngay giữa mặt đường, nhìn lên bầu trời xanh ngắt. Có những ngày mà chẳng có ai chạy xe qua con đường nhỏ của chúng tôi. Bọn tôi có thể nằm ngửa suốt cả ngày mà chẳng hề bị xe cán.

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Kira Kira PDF của tác giả Cynthia Kadohata nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Leo Lên và Tụt Xuống - Azit Nexin
Azit Nexin là nhà văn trào phúng nổi tiếng của đất nước Thổ Nhĩ Kỳ. Những chi tiết nhỏ nhặt trong cuộc sống như chuyện uống trà, cưới hỏi, vệ sinh ăn uống... qua con mắt của Nexin đều mang một ý nghĩa hài hước và thú vị bởi ông luôn có những liên tưởng hết sức độc đáo, sáng tạo. Những châm biếm đả kích của ông lại rất tế nhị mà sâu sắc, khiến người đọc cười đó mà cũng không khỏi suy ngẫm.  Những truyện ngắn trào phúng đặc sắc nhất của Azit Nexin đã được chọn lọc tập hợp trong bộ truyện "Azitnexin", hi vọng bộ sách sẽ đem lại cho các bạn những phút cười sảng khoái. Tập truyện cười Leo Lên và Tụt Xuống gồm có: Con chó và đoàn tàu Hỡi các con, Hãy khôn lớn thành người! Chú lừa nhận huy chương Tiếng đàn tam bura Giải sầu chủ nhật Chúng tôi muốn nuôi người ở Tại sao mèo chạy cụp đuôi Bà chủ Cái kính Quê hương đất nước muôn năm! Bí quyết của lòng ngoan đạo Điệp viên OX-13 Hội cứu vớt gia đình Hét thật to vào! Một đêm khủng khiếp Bức thư gửi người ngồi trong ghế bành Leo lên và tụt xuống Chúng tôi đã chịu đựng gian khổ như thế nào? Đồng hồ của ông mấy giờ rồi ạ? Trả tiền sợ Chế độ bầu cử đại cử tri Tôi đã nói chuyện với Atachúc Nhiệm vụ quan trọng Một trăm lia tiền thưởng Người chồng của bà Aiten Những bức thư từ thế giới bên kia Người lính da đen *** Tôi cho rằng, tấm ảnh này được cắt từ báo, anh cũng nhìn thấy: người lính da đen bị thương, có súng tự động trong tay, chưa kịp bắn, dưới hoả lực mạnh mẽ đang tìm chỗ che chắn, ẩn nấp, cứu tính mạng. Người con trai da đen Châu Phi đã đến đây giao chiến chống lại trên mặt đất và trong không gian, chàng trai cao lớn và khoẻ mạnh, với bộ mặt dễ mến, trông có vẻ bé bỏng đáng thương. Bây giờ bộ mặt đó nhăn nhó, méo mó vì sợ hãi và đau đớn. Khi nhìn vào tấm ảnh, tôi như nghe thấy tiếng gào thét vô vọng. Có thể ngày trước người lính da đen bất hạnh chưa biết tên nước này, không có khái niệm nước đó ở đâu. Người ta đã gửi anh đến đây, để bắn giết những người Việt Nam đang vùng dậy bảo vệ tổ quốc và nền độc lập của mình. Tôi nhìn vào tấm ảnh người lính. Anh tươi tỉnh, đứng thẳng người, tôi muốn hỏi: - Cậu đã để quên gì ở đây? Đến đây làm gì? - Bảo vệ nền tự do, giải phóng... Phải, người ta đã nói như vậy với thanh niên da đen này từ Châu Phi. Tôi đã thấy vài người Việt Nam, cả Nam và Bắc, từ mặt trận, đến hội nghị Hoà Bình thế giới... Dáng vẻ hiền dịu mảnh khảnh. Tiếng cười giòn tan. Những ngón tay họ mềm dịu, mảnh mai. Tôi hình dung, những bàn tay này ném lựu đạn, bóp cò súng ra sao. Đúng, những bàn tay này đã góp phần bảo vệ tổ quốc của mình. Khởi sự xâm lược của ai? Của những người lính da đen Châu Phi như thế đó. Có lẽ, người ta đã nói với người da đen Châu Phi, rằng người Việt Nam gồm phụ nữ, trẻ nhỏ, các cụ già là kẻ thù chính của tự do trên trái đất. Người lính da đen, cậu đến đây bảo vệ sự tự do nào? Phải chăng không là sự tự do ở Châu Phi, do những người hạ đẳng bảo vệ? Người lính da đen bị găm lỗ chỗ những viên đạn chì, quằn quại đau đớn. Máu chảy khắp người. Đất Việt Nam thấm máu này, từ người lính quân đội nước ngoài chảy xuống. Anh nghĩ thoáng qua chăng, vì cái gì anh chết? Vì cái gì nào? - Vì tự do ư! ... Mời các bạn đón đọc Leo Lên và Tụt Xuống của tác giả Azit Nexin.
Ngực Và Trứng - Mieko Kawakami
Câu chuyện liên quan đến chuyến đi thăm ngắn của một phụ nữ và cô con gái từ Osaka đến một căn hộ ở Tokyo của người em gái, mà cò vai trò là người tường thuật trong câu chuyện; người chị gái 39 tuổi là Makiko, đến thăm Tokyo; và cô con gái đến tuổi dậy thì của Makiko là Midoriko. Makiko là một bà mẹ độc thân, là một nữ hầu bàn ở quán bar, và đang nghĩ cách để làm to bộ ngực của mình lên thông qua phẫu thuật; Midoriko là một đứa trẻ buồn rầu, suốt ngày im lặng. Cả 2 bọn họ đến thăm em gái của Makiko, người dẫn chuyện, ở Tokyo, và câu chuyện diễn ra trong thời gian 3 ngày trong chuyến đi thăm của họ. Chuyện kể được đặt rải rác với các trích đoạn nhật ký của Midoriko. Chủ đề của cuốn sách là những người phụ nữ họ cảm thấy về cơ thể của họ như thế nào. Chúng ta chưa bao giờ tìm hiểu được ngọn nguồn vì sao Makiko muốn ngực của mình to lên, vấn đề tranh cãi thực sự được đưa ra là liệu cô ấy làm việc đó cho chính bản thân mình hay cho những người đàn ông. Trong lúc đó, cô bé Midoriko lại lo sợ về điều đó, và bị ám ảnh về chu kỳ rụng trứng, kinh nguyệt của phụ nữ. Cô bé ghét phải sinh sản, ghét suy nghĩ về sinh sản. Và thương hại mẹ cô, và mong muốn giá mà mẹ đã không sinh ra mình. Đây là một vấn đề đang gây tranh cãi, và được đông đảo giới trẻ quan tâm. Cuốn sách đoạt Giải thưởng văn học uy tín nhất của Nhật Bản Akutagawa dành cho các tác giả trẻ năm 2008. *** Mieko Kawakami vốn là một blogger đang được xếp vào vị trí trang trọng trên văn đàn Nhật, thậm chí ngay cạnh Haruki Murakami. Trước khi viết văn, Mieko Kawakami là một ca sĩ và một nhạc sĩ. Sau đó, cô chuyển sang làm thơ và tìm đến blog như là một nơi để thổ lộ, bày tỏ những cảm nhận, suy nghĩ của mình về những điều xảy ra trong cuộc sống của cô, cũng như trong một nước Nhật hiện đại. Tiểu thuyết đầu tay của Mieko là cuốn sách được cô viết trước tiên trên mạng Internet. Đến nay cô đã viết được 4 cuốn và cuốn gần đây nhất Ngực và Trứng, vừa đoạt giải Akutagawa, một trong những giải văn học Nhật lớn nhất dành cho tiểu thuyết gia mới. *** Trứng(1) phần lớn còn được gọi với cái tên là tế bào trứng, nếu vậy thì tại sao nó lại được gắn với chữ “tử”? Hay chữ “tử” cũng chỉ được ghép để thành từ “tinh trùng”?(2) Mình đã nhiều lần đến phòng đọc nhưng thủ tục mượn sách khá phức tạp, hầu như rất ít đầu sách, nào là chật chội này, tối này, và nhất là thật khó chịu khi đang tập trung đọc một cuốn nào đó, có người vào rồi lại bị soi nên gần đây mình lại hay tới thư viện, ở đó có thể xem máy tính tùy thích, với lại lý do chính là vì ở trường học chán ngắt. Có rất nhiều chuyện thật ngớ ngẩn. Nếu ngớ ngẩn thế thì việc viết ra như thế này cũng là “ngớ ngẩn” nhưng chí ít thì ở trường mình có thể làm những gì tùy thích, còn ở nhà không thể tùy ý làm gì cũng được. Việc viết lách có thể thực hiện ở bất kỳ nơi đâu, chỉ cần có bút và giấy là có thể viết bất kỳ thứ gì nên đây là một cách khá hay. Việc này cũng được gọi là “ghi chép”. Từ “đáng ghét” được viết theo hai chữ Hán là chữ “yếm” và chữ “hiềm” nhưng chữ “yếm” tạo cho ta cảm giác thực sự thấy đáng ghét hơn cả nên mình luyện tập cái gọi là “đáng ghét” viết bằng chữ “yếm”. Đáng ghét. Đáng ghét. Cả hai mẹ con chị Makiko cùng từ Osaka lên, tôi cũng rõ cả khoảng thời gian họ sẽ tới nên không có chuyện không thể gặp được, vả lại ở đây chỉ có một sân ga, mà tôi cũng đã lưu sẵn trong máy di động thời gian rõ ràng, rồi tôi cũng đã gọi điện thoại một lần nữa để xác nhận lại nên về khoản thời gian là có thể yên tâm. Tôi bước đi, qua bao nhiêu là bao nhiêu tấm áp phích quảng cáo được dán nhoe nhoét trên những cái cột, nhưng riêng ở tấm in hình một bà diễn viên mặc kimono, tôi không rõ đó là Kagamimochi(3) hay là con thỏ nữa. Sau khi xem kỹ lại bảng thông báo điện tử, tôi đếm rồi bước lên cầu thang, trong khi đang choáng váng bởi tiếng ồn khá lớn của tàu Shinkansen, tôi nhanh chóng tìm thấy hai mẹ con chị Makiko. ... Mời các bạn đón đọc Ngực Và Trứng của tác giả Mieko Kawakami
Kẻ Hai Mặt - Amélie Nothomb
Blanche, 16 tuổi, nhút nhát, chưa từng có bạn bất ngờ được Christa, xinh đẹp, quyến rũ, nổi trội nhất khoa đến kết bạn. Không chỉ Blanche, cả cha mẹ cô cũng bị cuốn vào “cơn lốc” Christa. Từ một người xa lạ, Christa bốc chốc trở thành bạn, người ở nhờ rồi nhân vật trung tâm trong gia đình Blanche. Nhưng rồi Blanche nhanh chóng nhận ra một cái bẫy đang được giăng ra với mình và cha mẹ. Cô đã hành động và tìm ra được sự thật về Christa. Một sự thật đáng buồn và bất ngờ tuyệt đối… Bằng lối dẫn chuyện giản dị, ngôn ngữ hiện đại, Amélie Nothomb đưa độc giả đến gần hơn với những thực tế đôi khi quá trần trụi trong tình bạn, tình yêu và những vấn đề của thanh niên Bỉ hiện nay. Amélie Nothomb là nhà văn Bỉ viết tiếng Pháp nhưng lại chào đời ở Kobe (Nhật Bản) ngày 13 tháng 8 năm 1967. Xuất thân trong một gia đình quý tộc có cha làm đại sứ, tuổi thơ bà được rong ruổi qua nhiều nước từ Nhật Bản, Trung Quốc cho đến Mỹ, Myanmar,… Tác phẩm đầu tay Hồi ức kẻ sát nhân (1992) đã gây tiếng vang lớn và mang lại cho bà giải thưởng Alain-Fournier. Ngoài ra, bà còn giành Giải thưởng lớn của Viện Hàn Lâm Pháp cho tác phẩm Sững sờ và run rẩy (1999). Kẻ hai mặt (2003) là tác phẩm thứ mười một của cô. *** Amélie Nothomb sinh ngày 13/8/1983 là người Bỉ, nhưng Amélie Nothomb lại chào đời và trải qua một phần tuổi thơ tại Nhật Bản. Từ sau cuốn tiểu thuyết đầu tay Hồi ức kẻ sát nhân xuất bản năm 1992 đến nay, mỗi năm cô cho ra mắt bạn đọc thế giới một tác phẩm mới. Trong đó phải kể đến Phá ngầm tình tứ (1993) với các Giải thưởng Vocation và Chardonne; Sững sờ và run rẩy (1999) với Giải thưởng Lớn của Viện Hàn lâm Văn học Pháp; Không Adam cũng chẳng Eva (2007) với Giải thưởng Flore. CÙNG MỘT TÁC GIẢ: - Phá ngầm tình tứ, 1993. - Những chất dễ cháy, 1994. - Những bài châm biếm, 1995. - Xiêm y, 1996. - Mưu sát, 1997. - Thủy ngân, 1998. - Sững sờ và run rẩy, 1999. (Tác phẩm đoạt giải thưởng lớn của Viện Hàn lâm Pháp). - Lý luận trừu tượng về điện thoại, 2000. - Thuốc xức tóc của kẻ thù, 2001 - Từ điển Robert về danh từ riêng, 2002. - Kẻ phản Chúa, 2003. - Tiểu sử của cơn đói, 2004. - Axit sunfuric, 2005. - Không Adam cũng chẳng Eva (2007) *** Ngày đầu tiên, tôi thấy nó mỉm cười. Lập tức tôi muốn làm quen ngay. Tôi biết rõ sẽ chẳng bao giờ quen được nó. Lại gần nó, tôi không thể. Tôi luôn chờ người khác đến bắt chuyện: chẳng bao giờ có ai đến cả. Trường đại học là thế. Ta nghĩ sẽ mở lòng với thế giới quanh ta và rồi chẳng gặp được ai hết. Một tuần sau, đôi mắt nó nhìn tôi. Tôi tưởng đôi mắt ấy sẽ nhanh chóng chuyển hướng. Nhưng không, chúng vẫn ở đó mà dò xét tôi. Tôi chẳng dám nhìn ánh mắt ấy. Mặt đất như sụt lở dưới chân, tôi cảm thấy khó thở. Vì tình trạng ấy cứ tiếp diễn nên sự đau khổ càng trở nên khủng khiếp. Với lòng can đảm chưa từng có, tôi nhìn thẳng vào mắt nó. Nó khẽ đưa tay ra hiệu với tôi rồi cười. Sau đó, tôi thấy nó nói chuyện với đám con trai. Ngày hôm sau, nó lại gần và chào tôi. Tôi chào lại rồi imlặng. Tôi ghét sự ngượng nghịu của bản thân. - Cậu trông trẻ hơn những bạn khác, nó nhận xét. - Là vì tôi trẻ hơn thật. Tôi mới tròn mười sáu tuổi được một tháng. - Tôi cũng vậy. Tôi tròn mười sáu cách đây ba tháng. Hãy thú nhận là cậu không tin tôi trẻ thế đi. - Đúng vậy. Sự tự tin làm nó trông già hơn tôi hai đến ba tuổi. - Cậu tên là gì? nó hỏi tôi. - Blanche. Còn cậu? - Christa. Cái tên ấy thật đặc biệt. Tôi lại im lặng vì kinh ngạc. Nó nhìn thấy sự ngạc nhiên của tôi và nói thêm: ... Mời các bạn đón đọc Kẻ Hai Mặt của tác giả Amélie Nothomb.
Cuộc Phiêu Lưu Kỳ Lạ Của Đoàn Barsac - Jules Verne
Trong một chuyến thám hiểm và lòng Châu Phi, đoàn thám hiểm với người đứng đầu là Barsac đã cóchuyếnduhành vào một thành phố bí ẩn giữa lòng sa mạc Sahara.  Thành phố phát triển này là do một nhà khoa học thông minh nhưng đầy tham vọng đen tối xây nên. Sức tưởng tượng của Jules Verne kết hợp với kiến thức khoa học đã tôn vinh những thành tựu tuyệt diệu của con người, và cũng cho thấy những thành tựu ấy chỉ nở hoa và trường tồn khi phục vụ cho mục đích tốt đẹp. *** Jules Gabriel Verne sinh ngày 8 tháng 2 năm 1828 tại Pháp và được coi là cha đẻ của thể loại Khoa học viễn tưởng. Để theo đuổi việc viết văn, Jules Verne đã bỏ học luật, nghề cha ông định hướng. Cuốn tiểu thuyết đầu tay thành công Năm tuần trên khinh khí cầu (1863) đã mở đầu cho hàng loạt các tác phẩm nổi tiếng về sau của Jules Verne như Cuộc Thám Hiểm Vào Lòng Đất (1864), Hai vạn dặm dưới biển (1870), 80 Ngày Vòng Quanh Thế Giới (1873)… Các  tác phẩm của ông được dịch khắp nơi trên thế giới. Jules Verne mất ngày 24 tháng 3 năm 1905. Sau khi ông qua đời, nhiều tiểu thuyết chưa in của ông vẫn được tiếp tục xuất bản. *** Sau khi đã khóa chặt cửa, những người trốn chạy lo săn sóc các thương binh. Với sự giúp đỡ của Barsac và Amédée Florence – chính anh cũng bị thương nhẹ. – Jane chăm sóc những người mà số phận trớ trêu đã đưa đẩy họ đến chỗ ở của kẻ thù tàn bạo của họ. Khi việc băng bó đã xong, thì cô gái lại phải lo cho những người bất hạnh, bị cái đói hành hạ mấy ngày nay, ăn uống. Sau hồi lùng sục thức ăn ở khắp tất cả các tầng, mọi người cũng đã được ăn uống chút đỉnh. Nhưng tình thế vẫn hết sức nghiêm trọng, giờ cáo chung không thể tránh khỏi dường như chỉ kéo dài thêm mấy tiếng đồng hồ. Mười một giờ trưa. Các vụ nổ vẫn tiếp tục, trên bãi đáp nghe rõ tiếng la hét của các Chàng trai Vui tính, thỉnh thoảng chúng lại phí công công phá cánh cửa, còn từ trên sân hiên thì vọng xuống tiếng chửi bới của William Ferney và đồng bọn của hắn, song những người chạy trốn ý thức được rằng pháo đài của họ gần như là bất khả xâm phạm. Vừa mới được rảnh tay là Jane Buxton hỏi ngay Amédée Florence lý do họ rời khỏi nhà máy và đánh nhau trong điều kiện không cân sức như thế ngoài bãi đáp. Chàng phóng viên kể lại những gì đã xảy ra sau khi nàng đi khỏi. Anh kể rằng cuối cùng Tongané đã phát tín hiệu hằng mong đợi và Marcel Camaret đã chuyển sang khu giữa một vài gói thuốc nổ cùng với nhiều gươm đao, giáo mác. Sau đó những người bị bao vây tập trung đến cửa chính, sẵn sàng lao vào trận đánh khi nó bắt đầu. ... Mời các bạn đón đọc Cuộc Phiêu Lưu Kỳ Lạ Của Đoàn Barsac của tác giả Jules Verne.