Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Thiên Sứ Tử Thần - Linda Howard

Thiên Sứ Tử Thần Cô - Drea - là nhân tình của một tên trùm buôn ma túy, rất biết cách dùng thân xác để quyến rũ và lợi dụng đàn ông. Còn gã - Simon - là một sát thủ máu lạnh, giết người vì tiền và chưa bao giờ mắc sai lầm. Cảm xúc của cô với gã như những cơn sóng nghịch chiều: vừa hạnh phúc tràn trề sau bốn tiếng đồng hồ hoan lạc, vừa đau đớn bẽ bàng khi bị gã bỏ rơi, lại vừa kinh hoàng tột độ khi bị gã truy lùng trên con đường trốn chạy. Vậy mà sợi dây liên kết vô hình giữa họ đã đưa đến những biến chuyển kỳ diệu trong đời. Những xúc cảm tưởng như thoáng chốc đã trở thành vĩnh viễn. Hai con người, vốn chẳng tốt đẹp, bỗng trở nên khát khao hướng thiện, khát khao được chia sẻ, yêu thương… “Khi gã chạm vào cô, cô thấy tràn ngập tình yêu thương - Drea Rousseau - người chưa bao giờ được quý mến trong cuộc đời, chưa bao giờ được yêu, được trân trọng. Cảm nhận trọn vẹn rằng mình được gã nâng niu, rằng gã quan tâm tới nhu cầu tình cảm, mong muốn, sở nguyện của mình, điều đó vượt quá xa những gì cô có thể tưởng tượng.” “Vì yêu Drea, gã sẵn sàng từ bỏ nghề đâm thuê chém mướn. Vì yêu Drea, gã đã cố gắng mở lòng với cô, để cô bước qua bức tường ngăn cách gã với cả thế giới. Gã vốn thích cô độc trong cái kén của riêng mình, nhưng vì cô, gã không ngại thoát ra, một cách mãnh liệt, để sống phần đời còn lại, chấp nhận bị phơi bày và tổn thương.” *** Linda Howard tên thật là Linda S. Howington. Cô sinh ngày 3/8/1950 tại tiểu bang Alabama thuộc miền Nam Hoa Kỳ. Cô là một trong những tiểu thuyết gia thuộc trường phái lãng mạn nổi tiếng thế giới. Các tác phẩm của cô thường xuyên lọt vào danh sách những cuốn sách bán chạy nhất do tạp chí New York Times bình chọn. Năm 2005, cô đạt giải Career Achievement Award - giải thưởng dành cho các tác giả viết tiểu thuyết lãng mạn xuất sắc nhất. *** Tác phẩm tiêu biểu: Sắc màu của hoàng hôn Cầu vồng lúc nửa đêm Vịnh tình yêu White Lies - Bản giao hưởng ngọt ngào The way home - Đường về nhà... *** Thành phố New York "Làm khá lắm," Rafael Salinas uể oải nói với gã sát thủ đang đứng phía bên kia căn phòng, gần cửa ra vào. Gã không thích sán lại gần ai, hoặc là gã chẳng tin tưởng gì Salinas và muốn chừa cho mình một đường thoát phòng khi cuộc đàm phán xấu đi - dù gì gã cũng là kẻ thông minh cả. Những kẻ cảnh giác với Salinas thường có nhiều cơ hội sống sót hơn những kẻ tin tưởng hắn. Cô nàng Drea Rousseau đang cuộn mình bên cạnh Salinas, chẳng cần quan tâm lý do của gã sát thủ, miễn nó giữ gã cách cô xa xa một chút.Gã khiến cô ớn lạnh, cái kiểu dường như không bao giờ chớp mắt của gã. Trong lần chạm trán trước đây, gã rõ ràng không ưa sự có mặt của cô. Gã chĩa cái nhìn trừng trừng vào cô lâu đến nỗi cô tự hỏi liệu có phải tên sát thủ này có thói quen khử những ai nhận ra mình. Tất nhiên trừ những người thuê gã ra, và thậm chí tên này cũng xử họ luôn sau khi tiền được chuyển đến tay an toàn, hoặc trong tài khoản, hoặc bất kỳ cách nào mà các sát thủ nhận được thù lao. Drea chẳng biết tên gã, mà cô cũng chẳng muốn biết, bởi trong khi người ta vẫn tin sự thật sẽ đưa bạn đến tự do, thì cô nghĩ trong trường hợp này nó có thể chỉ đưa đến chỗ chết mà thôi. Cô coi gã như một trong số những sát thủ của Rafael, nhưng thực tế gã không phải là một tay sai bình thường mà là kẻ hành nghề tự do, làm cho bất kỳ ai đủ tiền trả gã. Ít nhất đây là lần thứ hai, như cô biết, Rafael chấp nhận giá đó.Để tránh không nhìn vào gã và không cho cái nhìn chòng chọc đáng sợ đó bủa vây lấy mình lần nữa, cô chán nản săm soi lớp sơn màu hồng tím trên móng chân. Cô vừa mới sơn sáng nay, tưởng rằng chúng sẽ nổi bật trên bộ đồ lụa màu kem cô đang mặc, nhưng cái sắc tím này thành ra quá lòe loẹt. Đáng ra cô nên chọn màu hồng nhạt, hoặc một màu gì đó phơn phớt và gần như trong suốt để tôn bộ đồ lên. Cũng chẳng sao, lần sau sẽ rút kinh nghiệm.Khi gã sát thủ không thèm đáp lời, cũng chẳng vội xum xoe rằng mình rất vinh dự được làm việc cho Rafael như những kẻ khác, những ngón tay Rafael bắt đầu gõ gõ một cách mất kiên nhẫn lên đùi. Hắn thường bồn chồn như vậy mỗi khi không thoải mái, một cử chỉ dễ đoán, ít nhất đó là theo Drea để ý. Cô luôn để ý kỹ càng mọi tâm trạng, mọi thói quen của hắn. Không hẳn là hắn sợ, nhưng hắn, cũng như gã kia, đang rình mồi, điều đó có nghĩa là có hai con cáo già đang cùng ở trong căn phòng này. "Ta muốn thưởng thêm cho anh," Rafael ướm lời. "Một trăm ngàn đô. Anh thấy sao?"Dù chẳng ngước lên, nhưng Drea nhanh chóng phân tích lời đề nghị và hàm ý của nó. Cô đã học cách để không bao giờ quan tâm tới các phi vụ làm ăn của Rafael, thỉnh thoảng hắn hỏi cô vài câu vu vơ nhưng thật ra là có chủ đích thì cô luôn giả vờ mình chẳng hiểu hắn đang nói gì. Và thế là, Rafael chẳng hề cảnh giác với cô như đáng ra phải thế. Đối với hắn, cô chẳng thèm để tâm tới bất kể điều gì không ảnh hưởng trực tiếp đến mình. Hẳn cô chẳng quan tâm chút nào đến việc gã sát thủ đã khử ai theo lệnh của hắn, mà chỉ để ý đến việc cô đang mặc gì, tóc tai ra sao, và làm thế nào cho Rafael đẹp mặt bằng cách trông thật sexy và quyến rũ thôi. Cô đương nhiên rất chăm chút đến cái khoản sau; cô làm cho Rafael mát mặt trước mắt những kẻ khác luôn khiến hắn vui vẻ và hào phóng. Drea ngắm nhìn sợi lắc chân đang ôm lấy cổ chân phải, thích thú nhìn những viên kim cương đung đưa lấp lánh dưới ánh sáng mặt trời và màu bạch kim ánh lên trên nước da rám nắng của cô. Chiếc lắc là một trong những món quà của Rafael khi hắn vô cùng đắc ý về việc gì đó. Hy vọng chiến công của gã sát thủ lần này sẽ khiến tâm trạng hắn vui vẻ tương đương thế - cô không ngại có thêm một cái vòng tay đồng bộ đâu. Tất nhiên cô chẳng bao giờ gợi ý bóng gió điều đó. Cô luôn luôn cẩn thận không bao giờ hỏi xin Rafael bất cứ thứ gì, và luôn ồ à trước mọi thứ hắn tặng cho mình cho dù thứ đó có thể trong như cứt, bởi vì cái thứ cứt cứt đó cũng đáng khối tiền.Cô không có chút ảo tưởng nào về chuyện cả đời được cặp kè mãi bên Rafael. Ngay lúc này cô đang đứng trên đỉnh cao cuộc chơi, đủ chín để thật đàn bà và đủ trẻ để không bận tâm đến mấy sợi tóc bạc hay những nếp nhăn. Nhưng một, hai năm nữa thì sao, ai mà biết được?Cuối cùng Rafael cũng sẽ chán cô, và khi đó cô muốn tự gây dựng một gia tài nho nhỏ, hầu hết là đồ trang sức. Drea Rousseau biết thế nào là nghèo đói, và cô không bao giờ muốn chịu cảnh ấy nữa. Cô đã không còn là Andie Butts nghèo khổ ngày xưa, mục tiêu của những trò đùa quái ác chỉ vì cái tên cũng như mọi điều tệ hại khác. Cô đã biến mình thành Andrea (phát âm là anDRAYuh, nghe có vẻ Pháp Pháp) Rousseau (để vần với thanh âm hoa mỹ kia). "Cô ta," gã sát thủ lên tiếng. "Tôi muốn cô ta."Điều đó làm cô chú ý ngay lập tức - ai là cô ta? Drea ngước lên… và chới với. Gã sát thủ đang nhìn chằm chằm vào cô, vẫn với cái nhìn lạnh lẽo không chớp mắt ấy. Cơn choáng váng dội thẳng vào cô như thủy triều; cô là cô ta mà gã đang nói đến. Đâu có người đàn bà nào khác trong phòng này, gã chẳng thể ám chỉ ai ngoài cô. Những ngón tay lạnh cóng của cơn hoảng loạn kinh hoàng như lũ rắn trườn quanh sống lưng cô, nhưng rồi lý trí quay trở lại và cô thả lỏng. Ơn Chúa Rafael là một kẻ ích kỷ; hắn sẽ không bao giờ…"Chọn thứ gì khác đi," Rafael uể oải nói, vòng tay qua vai Drea và kéo cô vào gần hơn. "Đời nào ta lại cho đi bùa may mắn của mình chứ." Hắn đặt một nụ hôn lên trán cô và Drea cười rạng rỡ, người mềm nhũn ra vì nhẹ nhõm, dù gắng không để lộ ra rằng trong khoảnh khắc mình đã sợ đến lịm người."Tôi chẳng thiết giữ cô ta," gã sát thủ khinh khỉnh nói, không hề rời mắt khỏi khuôn mặt của Drea. "Tôi chỉ muốn ngủ với cô ta. Một lần thôi."Được bảo đảm lần nữa bởi lời từ chối ngay lập tức của Rafael, Drea cười. Cô có tiếng cười ngọt ngào, du dương như những tiếng chuông trong trẻo. Rafael đã từng nói rằng cô làm hắn nhớ đến hình ảnh một thiên thần, với mái tóc vàng quăn dài, đôi mắt xanh to tròn, và tiếng cười ngân vang như tiếng chuông. Cô luôn cố tình sử dụng tiếng cười đó như một thứ vũ khí, ngầm nhắc Rafael rằng cô là thiên thần của hắn, bùa may mắn của hắn.Trước tiếng cười ấy, người ngợm gã sát thủ dường như căng ra, ánh mắt gã gắt gao đến nỗi cô gần như có thể cảm nhận được sự động chạm của nó lên da mình. Mãi về sau này, nếu nghĩ kỹ, Drea sẽ hiểu gã vốn đã cảnh giác, nhưng thời điểm ấy lại càng dè chừng hơn, như thể toàn bộ các giác quan được tăng cường, sự tập trung quá dữ dội đến nỗi cô tưởng như nó thiêu đốt da mình và tiếng cười cô nghẹn lại đột ngột như thể bị một bàn tay bóp chặt cổ. "Ta không dùng chung," Rafael nói, vẻ khó chịu ngầm ẩn trong tông giọng nhẩn nha. Một con đầu đàn không bao giờ chia sẻ con cái; làm thế sẽ đánh mất một lưỡi dao sắc rất quan trọng trong uy quyền mà nó có với người của mình. Chắc chắn rằng gã sát thủ biết điều đó. Nhưng chỉ có ba người họ trong căn hộ trên tầng thượng này, sẽ không có ai chứng kiến việc Rafael đã làm hay không, có lẽ vì thế mà gã nghĩ sẽ đạt được thứ mình muốn. Một lần nữa tên sát thủ chẳng nói gì, chỉ đứng nhìn. Và dù gã không hề cử động, nhưng vẫn có cái gì đó ngột ngạt chết chóc trong không khí giữa ba người. Cuộn tròn bên cạnh Rafael, Drea cảm thấy hắn hơi co người lại, như thể nhận thấy sự thay đổi trong không khí giống cô. "Thôi nào," Rafael nói, giọng phỉnh phờ, nhưng Drea còn lạ gì hắn; cô nhận ra sự không thoải mái mà hắn đang cố gắng che giấu hết mức. Bởi đó không phải là điều cô quen thấy; cô suýt phóng cái nhìn hoảng hốt về phía hắn, nhưng đã kịp giữ bản thân lại và thay vào đó làm bộ săm soi cái móng tay như phát hiện ra một vết xước trên lớp sơn. "Chả đáng phải ném cả đống tiền qua cửa sổ cho cái thứ chóng vánh như thế. Tình dục quá rẻ mạt; với một trăm ngàn đô anh có thể mua được hàng tá."Nhưng gã sát thủ vẫn đợi, không nói một lời. Gã đã đưa ra lời yêu cầu, chỉ chờ xem Rafael có chấp nhận nó hay không. Bằng cách im lặng, gã tỏ rõ rằng mình không nhận số tiền thưởng thêm mà sẽ quay lưng bước đi và chắc chắn Rafael đừng hòng có được sự giúp đỡ của hắn khi cần nữa. Tình huống xấu nhất - Drea không muốn nghĩ xem điều tồi tệ nhất có thể xảy ra là gì. Với một gã kiểu này, có gì mà không thể xảy ra.Rafael bất chợt nhìn Drea, ánh nhìn nham hiểm, lạnh lùng và đầy toan tính. Cô hớp lấy không khí, hoảng sợ bởi vẻ lãnh đạm bất ngờ và sự cân đo đong đếm đó. Có phải hắn đang thực sự cân nhắc lời đề nghị, so đo cái giá phải trả nếu gã kia vẫn nói không?"Mặt khác," hắn trầm ngâm, "có lẽ ta phải tự thuyết phục bản thân. Tình dục quả là rẻ mạt, và ta, cũng có thể mua hàng tá với một trăm ngàn đô." Hắn nhấc tay ra khỏi bờ vai của Drea rồi đứng dậy, giũ thẳng quần bằng một động tác thuần thục khiến nếp quần về đúng vị trí. "Một lần thôi, chính anh nói đấy. Ta có việc ở đầu kia thành phố mất chừng năm giờ, thế là quá đủ rồi còn gì." Hắn dừng lại, rồi nhẹ nhàng thêm vào, "Đừng có làm hại cô ấy". Rồi không thèm nhìn cô lấy một lần, hắn bước qua phòng khách và tiến về phía cửa.Cái gì? Drea bật thẳng dậy, không còn nghĩ được gì. Hắn đang nói gì vậy? Hắn đang làm gì vậy? Đây chỉ là đùa thôi, đúng không? Đúng không?Drea ghim chặt ánh nhìn tuyệt vọng, sững sờ vào tấm lưng của Rafael khi hắn bước về phía cánh cửa. Hắn không có ý đó. Hắn không thể có ý đó. Rồi hắn sẽ quay người lại và bật cười, thưởng thức trò đùa của hắn trước cái giá gã sát thủ đưa ra, xem như chưa hề có chuyện vừa suýt làm tim cô ngừng đập. Cô sẽ không để bụng chuyện hắn đã dọa cô sợ gần chết, không nói lại một lời nào về chuyện này, chỉ cần hắn dừng trò này lại, chỉ cần hắn nói, "Mày thực sự nghĩ tao đang nói thật đấy à?"Không thể nào hắn lại đem cô cho gã sát thủ, không đời nào…Rafael đi đến mở cánh cửa… và bỏ đi. Nỗi sợ hãi trào dâng như sóng triều bóp nghẹt hai lá phổi Drea khiến cô không thở nổi. Cô nhìn cánh cửa không chớp mắt. Rafael sẽ mở nó ra ngay bây giờ và cười. Hắn sẽ quay lại ngay thôi.Cô không nhìn gã sát thủ, không cử động, không cả chớp mắt, tê liệt hoàn toàn. Cô nghe thấy mạch đập thình thịch bên tai, và nhịp tim thì thùng thùng như sấm dậy. Toàn thân và phần lớn não bộ của cô tê cứng, chỉ một phần nhỏ trí óc còn hoạt động nhưng vẫn đủ để hiểu rằng Rafael đã ném cô vào miệng cọp rồi bước đi, không hề do dự hay ngoảnh lại một lần.Gã sát thủ di chuyển đến tầm mắt của cô, lặng lẽ tiến về phía cánh cửa và khóa nó lại - tất cả các loại khóa, khóa chống trộm, thậm chí trượt cả xích an toàn vào. Không kẻ nào vào được, kể cả có chìa khóa, mà không đánh động gã.Cơ thể Drea dần sống lại và cô chạy, đôi giày gót nhọn hơn mười phân gõ lộp cộp lên nền đá cẩm thạch. Cơ thể cô tự động phản ứng, theo sự điều khiển nỗi tuyệt vọng, mà không kịp suy nghĩ hay tính toán gì. Cô lao về phía hành lang, rồi nhận thức khiến cô đột ngột dừng lại khi lý trí theo kịp bản năng. Cuối hành lang là phòng ngủ, nơi cuối cùng cô muốn lao vào.Cô tuyệt vọng nhìn quanh. Căn bếp… nơi có những con dao, một cái búa dần thịt - có lẽ cô có thể dùng để tự vệ… Chống lại gã ư? Nỗ lực thế nào cũng chỉ làm trò cười cho gã thôi - hoặc, tệ hơn, khiến gã điên lên, rồi kết liễu cô luôn không chừng. Trong phút chốc, mục đích của cô không còn là trốn chạy mà đơn giản là sống sót. Cô không muốn chết. Bất kể gã có hung bạo với cô thế nào, bất kể gã giở trò gì, cô cũng không muốn chết.Chẳng có nơi nào an toàn cả, không có chốn nào cho cô dung thân. Dù biết rõ điều đó và thừa nhận nó, Drea cũng không thể cứ đứng đó. Và rồi cô phóng thẳng ra ban công nhìn xuống thành phố xa tít ở bên dưới. Cô chạy tới bờ tường và cùng đường, trừ khi cô gắng sức bay lên, bản năng sống quá mạnh thừa sức cho phép cô dám thử việc đó. Chỉ cần được sống, cô sẵn sàng tồn tại bằng cách ấy.Cô mò mẫm vươn ra và nắm lấy chấn song trên gờ tường, những ngón tay cô giữ chặt thanh kim loại khi đôi mắt nhìn chằm chằm vào hư vô. Công viên Central trải dài dưới kia, một ốc đảo xanh tươi, mát mẻ giữa rừng bê tông sắt thép của Manhattan. Những chú chim bay liệng phía dưới, còn trên cao từng đám mây trắng khổng lồ đang lững lờ trôi qua bầu trời xanh trong vắt. Những tia nắng chói chang rọi lên mặt cô, lên bờ vai và cánh tay trần, một cơn gió nhẹ thổi qua khẽ vờn những lọn tóc cô. Drea cảm thấy như bị tách rời khỏi tất cả những thứ ấy, như thể không gì trong số đó là thật cả, ngay cả sức nóng của mặt trời đang bỏng rát trên má cô.Cô cảm thấy gã tới gần và dừng lại ngay phía sau. Chẳng có một âm thanh nhỏ nào ngoài tiếng gió xào xạc và những tiếng ồn xa xăm của thành phố tít dưới kia vẳng lên; dẫu vậy cô vẫn biết kẻ đáng sợ đó đang cận kề. Mọi dây thần kinh dưới da cô thét lên báo động rằng cô sắp rơi vào tay Thần Chết.Bàn tay gã đặt lên bờ vai trần của cô.Cơn hoảng loạn nổ tung trong đầu Drea, lấn át hoàn toàn mọi suy nghĩ và hành động. Cô không phản ứng gì, không thể phản ứng, chỉ đứng đó, run lên cầm cập. Thật chậm rãi, dường như gã đang thưởng thức làn da mịn màng của cô, rồi ve vuốt dần xuống cánh tay. Bàn tay gã rắn đanh và ấm nóng, năm đầu ngón tay và lòng bàn tay ram ráp những vết chai nhưng sự đụng chạm lại đầy kiểm soát, thậm chí là… dịu dàng? Cô đã lường trước sự hung bạo, chuẩn bị đối phó với nó và dồn hết sức để được sống sót đến mức không thể hiểu được thực tế là hắn đang vuốt ve âu yếm mình. Những giác quan của cô quay cuồng.Bàn tay gã trượt xuống, chạm tới những ngón tay đang bấu chặt quanh chấn song của cô, nhẹ nhàng mơn trớn chúng rồi từ từ chuyển hướng lên trên. Lên tới bả vai gã tiếp tục vuốt ve lên cổ, vén những lọn tóc sang một bên và lướt đầu ngón tay qua cổ họng cô, qua đường cong nơi quai hàm. Gã lần theo những cơ bắp mảnh dẻ và đường gân mỏng manh, đem đến những cơn rùng mình chạy khắp thân thể Drea. Rồi gã chuyển sang quai áo lụa của cô, chơi đùa và luồn những ngón tay qua nó, lần theo đường viền vải xuống dưới. Nếu lúc trước gã chưa nhận ra cô không mặc áo ngực, thì bây giờ gã hẳn là đã biết. "Thở," gã nói, từ đầu tiên gã nói với cô. Chất giọng trầm, hơi khàn của gã khiến từ ấy nghe chẳng khác gì mệnh lệnh.Cô làm theo, hổn hển hớp lấy không khí và giải thoát cho hai lá phổi khỏi sự đau đớn. Cô vừa nín thở lâu đến nỗi sắp ngất đi.Thật chậm rãi, vẫn thật chậm rãi, gã lướt bàn tay xuống hai bên hông cô, hơi nóng từ những cái vuốt ve của gã lan qua lớp lụa mỏng. Gã chạm đến gấu áo, rồi những ngón tay luồn xuống dưới lớp vải, khám phá phần cạp co giãn của chiếc quần xếp nếp mềm mại, trượt sâu xuống bên dưới và xung quanh. Bây giờ gã cũng đã biết cô không mặc quần lót rồi. Drea nuốt cục nghẹn trong cổ họng xuống, mắt nhắm nghiền. Nhắm mắt là một hành động bản năng để cô lờ gã đi, ngăn cách cô với những gì đang xảy ra tại đây, ngay lúc này, nhưng thay vì thế, dường như nó càng khiến giác quan của cô nhạy bén hơn. Vì không có gì khiến cô xao nhãng, mọi sự tập trung lập tức dồn hết vào bàn tay đang thong thả lướt trên bụng cô, cảm giác mãnh liệt gần như đau đớn. Cơ bắp cô siết lại, toàn thân căng ra khi tay gã lên cao dần, cao dần, và một lần nữa cô nín thở chờ đợi.Bàn tay gã ôm trọn bầu ngực trái của Drea, và không khí đột ngột rút hết khỏi phổi cô. Gã vừa ôm vừa vuốt ve nó, khum khum lòng bàn tay lại như để ướm, rồi lướt ngón tay cái trên đầu nhũ hoa nhạy cảm cho đến khi nó ửng hồng, se lại và cương cứng. Với bầu vú bên kia gã cũng làm y hệt.Một lần nữa những giác quan của cô quay cuồng. Khoái cảm từ sự mơn trớn ấy làm hỗn loạn mọi suy nghĩ khiến cô hổn hển, hổn hển tìm chỗ bấu víu, hay một thứ gì đó giữ cô không khuỵu xuống. Cô tưởng hắn sẽ giở trò gì chứ không phải là… việc này. Gã sát thủ cúi đầu xuống, hơi nóng từ miệng cùng đôi môi mềm mại chạm vào sợi dây chằng nhạy cảm bên cổ Drea cùng lúc gã rướn người ép toàn bộ cơ thể vào sau người cô. Ôi, Chúa ơi, người gã nóng bừng. Cô cảm thấy lạnh, nhưng hơi nóng ấy làm cô bị thiêu đốt. Cô tưởng sẽ phải đối mặt với sự hung bạo, vậy mà gã đã lách qua bức tường tự vệ của cô chỉ bằng một cái chạm nhẹ tràn trề khoái cảm. "Tôi sẽ không làm cô đau," gã thì thầm, bờ môi mơn man trên da thịt cô trong khi bàn tay trượt xuống dưới lớp áo, âu yếm ngực cô, ve vuốt chúng, kéo nhẹ hai đầu vú. Miệng gã đặt lên cổ cô khiến một lần nữa bụng dạ cô chao đảo, như thể cô đang cưỡi trên một con tàu nâng lên hạ xuống theo từng đợt sóng khoái cảm ngất ngây. Drea không biết họ đã đứng đó bao lâu, chỉ cảm thấy sự lâng lâng choáng ngợp cứ mỗi lúc một trào dâng. Cô chìm đắm giữa đại dương bao la không biết đâu là bờ. Điều này vượt quá xa so với trải nghiệm và dự đoán nên cô chẳng biết phải làm sao. Khoái cảm ư? Quan hệ với Rafael chỉ là làm sao thỏa mãn hắn; cảm giác của cô chả có ý nghĩa gì cả. Cô chấp nhận, chỉ chăm chăm làm mọi thứ để hắn mãn nguyện. Lần cuối cùng một người đàn ông cố gắng thỏa mãn cô là khi nào nhỉ? Những ký ức lờ mờ, phai nhạt theo thời gian, lâu tới nỗi cô đã không còn mong mỏi được hưởng nó cho riêng mình. Giờ đây khi được cảm nhận nó, dưới đôi tay - theo đúng nghĩa đen - của một gã sát thủ máu lạnh, cô thực sự sửng sốt. Gã kéo đầu vú cô, nhẹ nhàng vân vê giữa những ngón tay và cảm xúc mạnh mẽ ấy tạo nên một luồng kích thích xuyên thẳng xuống phần bụng dưới. Cô thấy mình rướn người lên và ngả ra đằng sau, cơ thể tự động uốn cong trong vòng tay gã còn bàn tay lướt quanh gáy gã, cảm nhận sự rắn chắc, vạm vỡ của những cơ bắp. Cô áp sát vào người gã, nghe những âm thanh gọi mời khe khẽ thoát ra từ chính miệng mình. Cơ bụng thắt lại, cô cố quay người về phía gã.Gã vẫn giữ chặt lấy cô, bắt cô quay mặt về phía lan can, cả thành phố trải dài trước mặt và xung quanh họ. Gã tụt mạnh cạp quần cô, không khí mát lạnh đột ngột trùm lên cặp mông trần của cô khi lớp lụa rơi xuống dưới. Sự sợ hãi lại cồn cào, một lần nữa hòa quyện với nỗi hoài nghi xen lẫn khiếp sợ? Ở đây ư? Ngay trên ban công, giữa thanh thiên bạch nhật, nơi kẻ nào cũng có thể nhìn thấy ư? Đường phố ở bên dưới quá xa, nhưng còn người ở những tòa nhà xung quanh thì sao? Ống nhòm nhan nhản trong thành phố này, có cả ngàn, cả ngàn người dò xét nhà hàng xóm của họ, và chắc chắn là có cả FBI, DEA hoặc ai đó đang rình rập Rafael nữa, thế thì họ cũng đang canh chừng cô - và gã đàn ông đang giữ cô trong tư thế gần như trần truồng ngay trên ban công này. ©STE.NTGã lại xích gần hơn nữa, khẽ thì thầm câu gì đó rất êm ái, rồi áp sát lên phần thân thể trần trụi của cô, bàn tay luồn vào giữa. Cô nghe thấy tiếng khóa kéo loạt xoạt, sau đó khớp ngón tay gã đột ngột đẩy vào khe mông cô, làm cô giật mình hét lên, rồi chẳng còn cảm thấy gì ngoài sự lõa lồ nhục nhã và lực ấn dữ dội của vật đó ở cửa mình. "Cúi xuống một chút."Gã đè tay lên gáy cô để đảm bảo cô sẽ vâng lời. Chân gã luồn vào giữa và tách hai chân cô ra xa, chiếc cạp quần quanh đùi dãn hết sức. Gã chùng gối xuống, hạ thấp người ở tư thế thuận hơn, rồi đẩy lên và nhích sâu vào trong cô một cách khó khăn, chậm chạp. Drea đau nhói, bị giữ chặt như một con sâu mắc vào lưỡi câu. Cơ đùi cô căng lên rồi nhũn ra, bủn rủn. Gã túm lấy cô, kéo về phía mình. Tay phải ghì chặt cô vào người, tay trái gã đưa xuống và luồn vào hai cánh môi mềm mại giữa chân cô. Gã mơn trớn những ngón tay quanh đó, vừa giữ chặt nó vừa di chuyển vào trong. Chúa ơi, cô không biết, cô không còn biết gì ngoài chuyện đang tới cao trào nhanh đến không ngờ, rồi cô lên đỉnh dữ dội, cơ bắp bên trong cô quấn chặt lấy gã, những tiếng rên bản năng trong cổ họng vỡ ra.Drea suýt nữa khuỵu về phía trước nếu không có vòng ôm của gã. Gã rút ra và quay người cô lại, ôm lấy cô cho đến khi cô thôi hổn hển, run rẩy và ngừng khóc. Cô khóc vì cái quái gì chứ? Cô chưa bao giờ khóc, ít nhất là khóc thật. Vậy mà giờ đây hai má cô ướt đẫm, hơi thở nặng nhọc và thổn thức. Cố lấy lại bình tĩnh, cô mở mắt ra nhìn lên, và bắt gặp ánh nhìn chăm chú của gã sát thủ. Một lần nữa cô ngạt thở.Cô cứ nghĩ mắt gã màu nâu, nhưng giờ lại thấy chúng màu nâu pha lục nhạt, từ ấy vẫn chưa thật chuẩn để diễn tả màu mắt đó: không chỉ có màu nâu, xanh lá và vàng, mà còn có xanh dương, xám và đen nữa, và cả những đường sọc trắng. Cô nhớ đến loại ngọc opal sẫm, đầy những sắc màu kỳ lạ. Ánh nhìn của gã cũng không hề lạnh lẽo; cô cảm thấy bị thiêu đốt bởi sức nóng trong đó và cả sự khao khát mãnh liệt. Gã vẫn chưa xuống, điều này trái ngược hoàn toàn với những điều cô biết. Một khi đàn ông lên đến đỉnh, họ sẽ chẳng còn hứng thú làm tiếp. Nhưng gã đàn ông này vẫn cứng, vẫn sẵn sàng, và…"Anh chưa lên đỉnh," cô buột miệng, thình lình nhận ra.Gã bắt đầu đưa cô bước về phía cánh cửa kính, nhấc cô lên khi cái quần sắp tuột hẳn xuống. "Chỉ có một lần thôi, nhớ không?" gã nói, ánh mắt lấp lánh với ý định nóng bỏng và dữ dội. ... Mời các bạn đón đọc Thiên Sứ Tử Thần của tác giả Linda Howard.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tarát Bunba
Tarát Bunba là hiện thân của những đặc điểm cao quý nhất của dân tộc Cô-dắc. Hình ảnh Bunba đượm vẻ nghiêm khắc mà lại dịu dàng của mối tình phụ tử. Tarát là người cha của các con mình, đồng thời cũng là người cha của tất cả những người Cô-dắc tín phục ông, đã ký thác cuộc đời, tâm hồn và thể xác cho ông – người chỉ huy kính mến. Khi cầm súng bắn đứa con trai rứt ruột của mình đã phản lại dân tộc, Bunba không những chỉ làm nhiệm vụ của một người lính mà làm nhiệm vụ thiêng liêng của người con của dân tộc Cô-dắc. Tiếng nói của ông già nghiêm khắc còn văng vẳng đâu đây: “Tao đã đẻ ra mày thì bây giờ chính tao lại giết mày…”. *** Gogol (1809-1852) sinh ngày 31.3.1809 là một nhà văn, nhà viết kịch nổi tiếng Nga và Ukraina. Tác phẩm tiêu biểu nhất của ông Những linh hồn chết, được xem là cuốn tiểu thuyết hiện đại đầu tiên của văn học Nga và Ukraina. Gogol sinh ra ở vùng Sorochintsi của Guberniya Poltava (bây giờ là Ukraina) trong một gia đình thuộc mức tầm thường người Ukraina (hay đúng hơn là người Ruthenia). Tên ban đầu của ông theo tiếng Ukraina là Mykola. Bố của Gogol là Vasily Afansevich Gogol, một kịch tác gia tài tử, chết khi ông mới 15 tuổi. Mẹ ông là Mariya Yanopvskaya, luôn có tâm trí buồn sầu u uất và mộ đạo. Sự mộ đạo này cũng đã có ảnh hưởng tới thế giới quan và trạng thái tâm thần u sầu sau này của ông. Khi sinh Gogol, con trai đầu lòng trong số ba người con, bà chỉ mới 15 tuổi. Vào năm lên 12 tuổi, Gogol được gửi vào học trong Lycée Nezhinski. Hai năm cuối ở Lycée Nezhinski là lúc Gogol bắt đầu đi vào nghiệp viết. Các truyện ngắn hay thơ được ông gửi đăng trong tạp chí của trường, đã tỏ rõ trước cho thấy những dấu hiệu của một tài năng. Cũng giống như những chàng trai trẻ Ukraina khác, vào năm 19 tuổi, ông đã chuyển tới thủ đô Sankt-Peterburg để tìm vận may (1828). Vào năm 1831, ông gặp Aleksandr Sergeyevich Pushkin, người đã ủng hộ ông trở thành nhà văn và là bạn của ông sau này. Ông đã dạy lịch sử tại Trường Đại học Quốc gia Sankt-Peterburg từ năm 1834 đến năm 1835. Tác phẩm đầu tay, Hans Kuchelgarten (1829), do ông tự bỏ tiền túi ra in, là một thất bại hoàn toàn, và ông đã ném vào ngọn lửa tất cả những ấn bản ông thấy. Ông tiếp tục viết một số lượng lớn các tập truyện ngắn ở Sankt-Peterburg, bao gồm Nevsky Prospekt, Nhật ký của một người điên, Chiếc áo choàng và Cái mũi (truyện này đã được dựng thành vở opera Cái mũi do Dmitry Shostakovich dàn dựng). Mặc dù tập 1 của truyện Những buổi tối trong một trang trại gần Dikanka là thành công thực sự đầu tiên của ông, tên tuổi ông lại chìm đi sau khi xuất bản truyện Arabesques. Vở kịch vui nhộn Viên Tổng thanh tra, làm năm 1836, lại một lần nữa giúp ông thu hút được sự chú ý của công chúng tới tư cách là một nhà văn. Với giọng văn mỉa mai, châm biếm, cũng giống như trong phần lớn các tác phẩm của ông, đã tạo ra khá nhiều cuộc tranh luận, và sau đó Gogol đã phải chạy sang Roma. Tại đây, ông đã sáng tác Những linh hồn chết (1842), tác phẩm được coi là một trong những cuốn tiểu thuyết tuyệt vời nhất của văn chương thế giới. Trong các tác phẩm của mình, ông không chừa ai cả, từ hoàng đế đến quan lại, từ trí thức đến bình dân, từ giới địa chủ đến giới nông nô, tất cả đều là mục tiêu châm chích cho ngòi bút ông. Người ta đã gọi những tác phẩm đó là "những bức hí họa về nước Nga và người Nga". Tuy nhiên cũng nhờ tính sinh động và sức thuyết phục nẩy sinh từ ngòi bút, ông đã làm mờ nhạt đi bộ mặt thật kinh khủng của nó, để lôi cuốn không ngừng đôi mắt độc giả theo một mặt trái ẩn tàng những hình nét đáng cảm động hơn. Vào những ngày cuối đời, ông bị một căn bệnh kỳ lạ ở mũi và phải dùng đỉa để chữa bệnh cho mình. Ông đã phải chịu đựng sự đau đớn vì kiểu chữa bệnh đó cho đến lúc chết. Ba nhân vật vĩ đại nhất của văn học Nga thế kỷ 19 từng định đoạt sự phát triển tinh thần của nhân dân trong thế kỷ 19 và 20 là Gogol, Fyodor Mikhailovich Dostoevsky, Lev Nikolayevich Tolstoy - không chỉ là những nhà văn cực lớn của nước Nga, của nhân loại, mà còn là những nhà tư tưởng lớn nhất của nước Nga thế kỷ 19. Tác phẩm tiêu biểu 1829 : Vinh quang xứ Italy (thơ) 1829 : Thơ kể chuyện (được xuất bản với bút danh V.Alov) 1830 : Người đàn bà (truyện ngắn) 1831 - 1832 : Những buổi tối ở thôn ấp gần Dikanka (tập truyện ngắn) 1835 : Mirgorod (tập truyện ngắn) Những điền chủ cổ xưa Taras Bulba (dựa trên vở opera cùng tên của Mykola Lysenko) Viy Chuyện Ivan Ivanovich cãi nhau với Ivan Nikiforovich như thế nào 1835: Ả Rập (tập truyện ngắn) Bức chân dung (truyện ngắn) Một chương trong cuốn tiểu thuyết lịch sử xưa cũ (truyện ngắn) Đại lộ Nevsky (truyện ngắn) Người tù binh Kavkaz (truyện ngắn) Nhật ký một người điên (truyện ngắn) 1836 : Cái mũi (truyện ngắn) 1836 : Cái bánh xe (truyện ngắn) 1836 : Quan thanh tra (hài kịch) 1842 : Rời nhà hát (tiểu luận) 1842 : Roma (đoạn truyện) 1842 : Chiếc áo khoác (truyện ngắn) 1842 : Đám cưới (kịch, Modest Mussorgsky đã dựng thành vở opera cùng tên và được Mikhail Ippolitov-Ivanov hoàn thiện) 1842 : Những linh hồn chết (tiểu thuyết) 1843 : Những con bạc (kịch) 1847 : Những đoạn chọn lọc từ các lá thư gửi bạn (tập thư và tiểu luận) Mời các bạn đón đọc Tarát Bunba của tác giả Nikolai Vasilyevich Gogol.
Dám Bị Ghét
Ở vùng ngoại ô của cố đô được ngợi ca là thành phố ngàn năm lịch sử, có một Triết gia phát biểu rằng, thế giới vô cùng đơn giản và con người có thể hạnh phúc ngay lúc này. Không thể chấp nhận quan điểm đó, một người trẻ tuổi đã tới gặp để hỏi rõ ông thực sự nghĩ gì. Trong con mắt buồn bã của Chàng thanh niên, thế giới chỉ như một cõi hỗn mang đầy mâu thuẫn, không hề có hạnh phúc. Chàng thanh niên: Tôi xin hỏi lại thầy. Có phải thầy cho rằng thế giới đơn giản đến từng ngóc ngách? Triết gia: Đúng vậy. Thế giới đơn giản đến khó tin. Đời người cũng vậy. Chàng thanh niên: Thầy khẳng định đó không phải lý tưởng mà là hiện thực? Nghĩa là, mọi vấn đề trong cuộc đời của thầy và tôi đều đơn giản? Triết gia: Tất nhiên là vậy. Chàng thanh niên: Được thôi. Trước khi tranh luận, tôi xin được trình bày mục đích chuyến viếng thăm lần này. Trước hết, lý do đầu tiên tôi đến đây là để tranh luận cho ra nhẽ với thầy. Và nếu được, tôi mong thầy rút lại ý kiến của mình. Triết gia: Ha ha ha. Chàng thanh niên: Bởi vì tôi đã nghe lời đồn đại về thầy. Rằng có một Triết gia khác người sống ở vùng này đang truyền bá một lý tưởng khó ai có thể làm ngơ. Đó chính là con người có thể thay đổi, thế giới cực kỳ đơn giản và ai cũng có thể hạnh phúc. Với tôi, đó đều là những luận điệu không thể chấp nhận được. Vì vậy, tôi muốn đích thân đến trao đổi với thầy và nếu có điểm gì bất hợp lý, tôi xin phép được điều chỉnh lại... Liệu thầy có phiền không? Triết gia: Không hề. Tôi rất hoan nghênh. Bản thân tôi cũng mong muốn được lắng nghe tiếng nói của những thanh niên như cậu để học hỏi thêm nhiều điều. Chàng thanh niên: Cám ơn thầy. Tôi cũng không có ý định chưa rõ trắng đen đã phủ định thầy. Hãy giả định rằng luận điểm của thầy là đúng, từ đây, chúng ta bắt đầu suy nghĩ. Thế giới đơn giản, cuộc đời cũng đơn giản. Nếu như mệnh đề này có phần nào chân lý thì có lẽ chỉ là trong thế giới của trẻ thơ. Thế giới của trẻ thơ không có những nghĩa vụ thực tế như lao động, nộp thuế, trẻ thơ sống những ngày tự do, thoải mái trong vòng tay che chở của cha mẹ và xã hội, chúng cho rằng cuộc sống như vậy sẽ kéo dài mãi mãi và mình có thể làm được bất cứ điều gì. Cặp mắt chúng đã được che đi để khỏi chứng kiến hiện thực phũ phàng. Vậy nên, đúng là thế giới phản chiếu trong đôi mắt trẻ mang một hình hài đơn giản. Nhưng càng lớn, thế giới lại càng hiện rõ bản chất, nó nhắc đi nhắc lại với chúng ta cái thực tế "Mày chẳng qua chỉ có thế mà thôi", nó biến mọi khả năng được mong đợi trong cuộc đời trở thành bất khả thi. Những tháng ngày hạnh phúc, lãng mạn kết thúc, nhường chỗ cho thời kỳ chủ nghĩa hiện thực tàn khốc. Triết gia: Ừm, thú vị lắm. Chàng thanh niên: Không chỉ có vậy. Con người ta khi trưởng thành sẽ bị ràng buộc bởi những mối quan hệ xã hội phức tạp, bị đẩy cho nhiều trách nhiệm. Bất kể là trách nhiệm trong công việc, gia đình hay trách nhiệm xã hội. Tất nhiên, các vấn đề xã hội mà khi còn nhỏ con người chưa thể hiểu được như sự kỳ thị, chiến tranh, giai cấp cũng đặt ra trước mặt chúng ta, và ta không thể phớt lờ. Tôi nói không đúng sao? Triết gia: Đúng chứ. Cậu cứ tiếp tục đi. Chàng thanh niên: Trong thời đại tôn giáo còn thịnh hành thì có lẽ chúng ta còn có sự cứu rỗi. Khi đó, ý chỉ của các thần chính là chân lý, là thế giới, là tất cả. Chỉ cần nghe theo ý chỉ đó thì sẽ chẳng còn mấy vấn đề cần lo lắng. Nhưng giờ tôn giáo đã mất đi sức mạnh và tín ngưỡng cũng chỉ mang tính hình thức. Không có chỗ dựa tinh thần, ai cũng run rẩy vì bất an, bị giam cầm trong nỗi hoài nghi. Mọi người sống mà chỉ nghĩ đến bản thân. Đó chính là xã hội hiện đại. Vậy, thưa thầy, xin hãy trả lời tôi. Trước một hiện thực như vậy, mà thầy vẫn cho rằng thế giới đơn giản sao? Triết gia: Câu trả lời của tôi không hề thay đổi. Thế giới đơn giản, cuộc đời cũng đơn giản. Chàng thanh niên: Tại sao? Chẳng phải ai cũng thấy thế giới là một mớ hỗn độn đầy mâu thuẫn sao? Triết gia: Đó không phải bản thân thế giới phức tạp, mà là cậu đang thấy thế giới phức tạp. Chàng thanh niên: Tôi sao? Triết gia: Con người không sống trong thế giới khách quan mà sống trong thế giới chủ quan do chính mình tạo ra. Thế giới cậu đang thấy khác với thế giới tôi đang thấy, thêm nữa có lẽ là một thế giới khó có thể chia sẻ với bất kỳ ai khác. Chàng thanh niên: Thầy nói vậy nghĩa là sao? Chẳng phải cả thầy và tôi đều đang sống trong cùng một thời đại, cùng một đất nước và cùng thấy những điều giống nhau sao? Triết gia: Xem nào, trông cậu còn trẻ lắm, vậy cậu đã uống nước giếng vừa mới múc lên bao giờ chưa? Chàng thanh niên: Nước giếng à? Thực ra thì đã khá lâu rồi, nhà bà tôi ở quê có một giếng nước. Uống nước giếng mát lạnh ở nhà bà vào những ngày hè nóng bức là một niềm vui lớn. Triết gia: Có lẽ cậu cũng biết là nhiệt độ của nước giếng quanh năm ổn định ở mức 18 độ c. Đây là con số khách quan, ai đo cũng vậy. Nhưng nước giếng uống vào mùa hè, ta cảm thấy mát lạnh, còn uống vào mùa đông lại cảm thấy ấm áp. Nghĩa là dù nhiệt độ trên nhiệt kế luôn giữ ở mức 18 độ c nhưng cảm nhận vào mùa hè và mùa đông lại khác nhau. Chàng thanh niên: Đó là ảo giác gây ra bởi sự thay đổi của môi trường. Triết gia: Không, không phải là ảo giác. Đối với cậu lúc đó, nước giếng mát và ấm đều là sự thật không thể phủ nhận. Sống trong một thế giới chủ quan là như thế. Nhận định chủ quan rằng chúng ta "thấy như thế nào" là tất cả, và chúng ta không thể thoát khỏi nhận thức chủ quan của mình. Bây giờ, thế giới trong mắt cậu là một mớ hỗn độn, phức tạp, kỳ quái. Nhưng, nếu bản thân cậu thay đổi, thế giới sẽ trở lại hình hài đơn giản. Vấn đề không phải thế giới như thế nào mà là cậu như thế nào. Chàng thanh niên: Tôi như thế nào? Triết gia: Đúng vậy. Có khi cậu đang nhìn thế giới qua cặp kính râm. Hiển nhiên thế giới nhìn qua đó phải u ám rồi. Vậy thì đừng rầu rĩ vì thế giới u ám nữa, chỉ cần bỏ kính râm ra là được. Thế giới cậu thấy khi bỏ cặp kính râm ra có khi lại quá chói chang, khiến cậu buộc phải nhắm mắt lại, có khi khiến cậu lại muốn đeo kính vào. Dù vậy, cậu có dám bỏ luôn kính ra không? Cậu có dám nhìn thẳng vào thế giới này không? Cậu có cái can đảm đó không? Chàng thanh niên: Can đảm ư? Triết gia: Đúng vậy, đây là vấn đề can đảm. Chàng thanh niên: ... Thôi được rồi. Tôi có cả núi ý kiến phản bác nhưng có lẽ nên để sau. Tôi xin xác nhận lại là, thầy cho rằng "con người có thể thay đổi"? Và nếu tôi thay đổi, thế giới sẽ trở lại hình hài đơn giản của nó. Triết gia: Tất nhiên, con người có thể thay đổi. Không chỉ thế, con người còn có thể trở nên hạnh phúc. Chàng thanh niên: Bất kỳ ai, không có ngoại lệ? Triết gia: Không có ngoại lệ, vả lại còn có thể vào bất cứ lúc nào. Chàng thanh niên: Ha ha, một tuyên bố mạnh bạo! Thật thú vị, thưa thầy. Giờ tôi xin phép được phản bác! Triết gia: Tôi sẽ không bỏ chạy hay trốn tránh đâu. Chúng ta cứ thong thả trò chuyện. Quan điểm của cậu là "con người không thể thay đổi" đúng không? Chàng thanh niên: Không thể thay đổi. Hiện tại, chính tôi đang khổ sở vì mình không thể thay đổi đây. Triết gia: Nhưng, cậu cũng mong muốn thay đổi? Chàng thanh niên: Tất nhiên rồi. Nếu có thể thay đổi được, nếu có thể làm lại cuộc đời, tôi sẽ vui sướng quỳ gối trước thầy. Nhưng chỉ sợ lại thành ra thầy quỳ gối trước tôi mất thôi. Triết gia: Được thôi. Sẽ thú vị lắm đây. Nhìn cậu, tôi lại nhớ đến mình thời sinh viên. Nhớ đến mình thời còn trẻ tràn đầy nhiệt huyết, đã tới tận nơi gặp Triết gia để mưu cầu chân lý. Chàng thanh niên: Vâng, đúng thế đấy. Tôi đang mưu cầu chân lý. Chân lý của cuộc đời. Triết gia: Trước đây tôi chưa từng nhận đệ tử, cũng không hề thấy cần thiết phải làm điều đó. Nhưng kể từ khi trở thành môn đồ của triết học Hy Lạp và gặp được một quan niệm khác, tôi có cảm giác trong thâm tâm mình đã chờ đợi một Chàng thanh niên như cậu bấy lâu nay. Một quan niệm khác? Đó là gì vậy? Nào, hãy cùng vào thư phòng của tôi. Sẽ là một đêm dài đây. Tôi sẽ pha cà phê nóng. ❄❄❄❄❄❄❄❄❄ Cuốn sách này tóm tắt tư tưỏng của Alfred Adler (tâm lý học Adler), người được mệnh danh là một trong "ba người khổng lồ của tâm lý học" sánh ngang với Freud và Jung, qua hình thức câu chuyện "cuộc đối thoại giữa Chàng thanh niên và Triết gia". Được sự ủng hộ to lớn ở các nước châu Âu và Mỹ, tâm lý học Adler đưa ra câu trả lời rất đơn giản và cụ thể cho câu hỏi mang tính triết học "Làm thế nào để con người sống hạnh phúc?" Hiểu được tư tưỏng có thể coi là một chân lý thế giới này, cuộc đời bạn từ nay sẽ thay đổi ra sao? Hay sẽ không có gì thay đổi...? Nào, hãy cùng Chàng thanh niên bước qua "cánh cửa". *** Các bạn thường than vãn về các mối quan hệ làm các bạn trở nên mệt mỏi. Người ngoài thì thấy các bạn nhạt nhẽo và vô nghĩa. Bản thân các bạn thì thấy bản thân mình kém cỏi so với mọi người. Quá khứ của bạn cũng chẳng mấy tốt đẹp, đầy những điều buồn đau và nhìn về một tương lai không mấy tươi sáng. Bạn lại sống trong một môi trường đòi hỏi những yêu cầu đầy khắc nghiệt và thậm chí những quy chuẩn hết sức phi lý. Bạn trở nên bế tắc bởi các thứ bao quanh và càng tồi tệ khi phải sống theo khuôn mẫu của người khác. Và cách giải thoát cho bạn là bạn dám sống với cá tính, với nhu cầu của mình. Và Dám bị ghét của hai tác giả Nhật Bản Kishimi Ichiro và Koga Fumitake sẽ là cánh cửa giúp bạn giải quyết những vấn đề trên. Bạn bất hạnh không phải do quá khứ và hoàn cảnh, càng không phải do thiếu năng lực. Bạn chỉ thiếu “can đảm” mà thôi. Nói một cách khác, bạn không đủ “can đảm” để dám hạnh phúc.” [...] Bởi can đảm để dám hạnh phúc bao gồm cả “can đảm để dám bị ghét” nữa. [...] Chỉ khi dám bị người khác ghét bỏ, chúng ta mới có được tự do, có được hạnh phúc. Cuốn self- help mang hình bóng của một tác phẩm văn học kinh điển Khi nhìn tên sách và trang bìa của cuốn sách thì đích thực đây là một cuốn self – help. Nhưng điểm bất ngờ là khi mở những trang đầu tiên, đọc những câu mở đầu chúng ta lại nghĩ rằng đây là một tác phẩm văn học kinh điển. Đó là một cuộc đối thoại giữa Chàng thanh niên và người Triết gia. Tất cả đều có cốt truyện, có nhân vật và sự việc, nó không hề giống những cuốn self – help khác mà các bạn đã từng đọc. Cuốn sách được trình bày một cách sinh động, cuốn hút và văn phong cũng vô cùng mới mẻ, hấp dẫn, đem lại sự cuốn hút, không hề nhàm chán đối với người đọc.     Chàng thanh niên: Tôi xin hỏi lại thầy. Có phải thầy cho rằng thế giới đơn giản đến từng ngóc ngách? Triết gia: Đúng vậy. Thế giới đơn giản đến khó tin. Đời người cũng vậy. Một cuốn sách self – help quá đặc biệt, khi những thông điệp, những bài học được truyền tải qua góc nhìn của chàng thanh niên và nhà Triết gia. Điều này tạo nên một dấu ấn đặc biệt của Dám bị ghét so với những cuốn self - help khác! Cậu bất hạnh bởi cậu tự chọn lấy bất hạnh                    Nhiều người luôn than rằng tại sao tôi lại bất hạnh như thế này? Nhưng cuộc sống này là của bạn, là do bạn điều khiển. Chỉ là bạn có biết tận dụng và tận hưởng nó hay không mà thôi. Chả ai đem đến bất hạnh cho bạn cả vì làm gì có ai sống cuộc sống của bạn, làm gì có ai lựa chọn cách sống thay bạn. Bạn bất hạnh là do chính bản thân bạn tự lựa chọn lấy. Ở một giai đoạn nào đó trong cuộc đời, cậu đã chọn “bất hạnh”. Đó không phải là cậu sinh ra trong hoàn cảnh bất hạnh hay rơi vào tình cảnh bất hạnh, mà vì cậu đã cho rằng đối với bản thân mình “bất hạnh” là một dạng “thiện”. Những câu nói của nhà Triết gia giải đáp những câu hỏi của chàng thanh niên khiến chúng ta có những cái nhìn khách quan hơn về cuộc sống, nhìn bao dung hơn về cuộc đời, đơn giản cách nhìn nhận và cảm nhận. Cuộc đời cậu được quyết định “ngay tại đây, vào lúc này” Nhà triết gia đã giảng giải cho chàng thanh niên rất nhiều điều triết lý liên quan đến tâm lý học Adler. Đặc biệt là vấn đề thay đổi lối sống. Nhà triết gia nói rằng cậu không thể thay đổi bản thân vì cậu quyết tâm không thay đổi. Và cách để thay đổi lối sống chính là quyết tâm từ bỏ lối sống hiện nay. Hơn thế nữa, nhà Triết gia còn nói về các cái cớ để không từ bỏ lối sống hiện tại, những triết lý không hề sáo rỗng như đem lại những nhận thức mới mẻ hơn cho chính chàng thanh niên. Dự thi trượt thì cũng phải làm. Như có thể sẽ trưởng thành hơn hoặc có thể sẽ hiểu ra rằng mình cần phải đi theo con đường khác. Dù thế nào cũng có thể tiến lên phía trước. Thay đổi lối sống hiện tại chính là như vậy đó. Nếu cứ mãi không gửi bản thảo dự thi, sẽ chẳng tiến lên được... Cậu không cho rằng cứ đưa đủ các “lý do không thể làm được” để đáp lại một vấn đề đơn giản – một việc cần phải làm là một cách sống khổ sở sao?... Nhà triết gia còn cho rằng, cuộc đời của chàng thanh niên được quyết định ở chính thời điểm này, chứ không phải là những gì diễn ra ở trong quá khứ, không phải những gì đã xảy ra trước kia. Dù quá khứ có tối tăm đến mức nào chả ảnh hưởng gì đến tương lai cả. Mọi phiền muộn đều bắt nguồn từ quan hệ giữa người với người Chàng thanh niên hỏi nhà Triết gia rằng “Để xóa tan phiền muộn thì chỉ có cách sống một mình trong vũ trụ” nghĩa là sao, chẳng phải nếu chỉ sống một mình sẽ lại bị cảm giác cô độc làm cho phiền muộn hay sao? Và nhà triết gia đáp lại rằng cậu cô độc không phải vì cậu có một mình. Và theo nhà triết gia nói về Adler cho rằng mọi phiền muộn đều bắt nguồn từ mối quan hệ giữa người với người. Vì những phiền muộn nội tâm không hề tồn tại mà trong bất cứ muộn phiền nào đều mang bóng dáng của người khác. Những muộn phiền này được Adler cho rằng, nếu như thế giới chỉ có chính mình, không có xuất hiện người khác, thì sự phiền muộn cũng sẽ tan biến. Cô độc không phải vì chỉ có một mình. Cậu cảm thấy mình bị tách biệt, xa lánh khỏi những người xung quanh, khỏi xã hội, cộng đồng, đó mới gọi là cô độc. Chúng ta cần người khác để cảm thấy cô độc. Nghĩa là con người chỉ trở thành “cá nhân” khi đặt vào các mối quan hệ xã hội mà thôi. Đời không phải là cuộc cạnh tranh với người khác Trong mỗi chúng ta, chắc chắn ai cũng có tâm lý, cuộc đời là một sự rượt đuổi, một sự cạnh tranh khốc liệt để chúng ta vươn lên vị trí số một. Nhưng theo Adler, tâm lý không ngừng phấn đấu để bản thân tiến lên thêm một bước, chứ không phải là tâm lý cạnh tranh để vượt lên trên người khác. Nhà triết gia có những câu nói rất ấn tượng và sâu sắc dành cho chàng thanh niên trẻ tuổi Chàng thanh niên  Ý thầy nói rằng đời không phải là cuộc cạnh tranh? Triết gia                Đúng vậy. Không cần cạnh tranh với ai cả. Chỉ cần không  ngừng tiến lên là được. Tất nhiên cũng không cần so sánh mình với người khác. Chúng ta ai cũng khác nhau. Chẳng có người nào giống hệt người nào về mặt giới tính, tuổi tác, kiến thức, kinh nghiệm , ngoại hình cả. Hãy có cái nhìn tích cực về những điểm khác biệt giữa mình và người khác. Chúng ta không giống nhau nhưng lại bình đẳng với nhau. Tự do thực sự là gì ? Chúng ta nói chúng ta muốn một cuộc sống tự do nhưng bản chất của tự do là gì, thực sự tự do là gì thì lại rất ít người biết. Theo như nhà triết gia tự do thực sự là đẩy bản thân lăn ngược lên dốc. Hay cụ thể hơn là tự do là bị người khác ghét. Chắc hẳn chúng chả muốn ai ghét mình cả. Chúng ta đều muốn ai cũng sẽ hòa hợp với mình. Nhưng để  sống mà không một ai ghét là một cách rất mất tự do. Chúng ta phải xoay sở bản thân chúng ta theo người nọ, theo người kia. Nhiều khi chúng ta cảm thấy thật mệt mỏi khi phải xoay sở như vậy. Nếu muốn được tự do tức là ta không phải xoay sở theo ai cả nghĩa là bị người khác ghét. Cái giá này là cái giá khá đắt chúng ta phải trả để tìm được sự tự do. Không sợ bị ghét mà cứ tiến lên phía trước. Không sống như hòn đá lăn xuống dốc mà cố gắng leo lên con dốc trước mặt. Đó chính là tự do đối với con người. Nếu trước mặt tôi có hai lựa chọn “cuộc đời được tất cả mọi người yêu mến” và “cuộc đời có những người ghét mình”, tôi sẽ không hề băn khoăn mà chọn cuộc đời sau. Tôi quan tâm tới việc mình như thế nào hơn là mình được mọi người đánh giá ra sao. Cũng có nghĩa là tôi muốn sống tự do. Sống hết mình “ngay tại đây, vào lúc này”  
Oscar Và Bà Áo Hồng
Oscar và bà áo hồng được viết bởi nhà văn Eric-Emmanuel Schmitt. Ngay khi ra mắt, cuốn sách nhanh chóng gặt hái nhiều thành công, với vô số giải thưởng như giải Chronos, giải Jean Bernard của viện hàn lâm Y học… Bên cạnh đó, tác phẩm còn được chuyển thể thành phim, kịch và luôn được đánh giá cao trong lòng công chúng. Ở Việt Nam, tác phẩm được giáo sư Ngô Bảo Châu và Nguyễn Khiếu Anh đồng dịch, xuất bản năm 2015. Oscar và bà áo hồng là những bức thư gửi đến Chúa của cậu bé Oscar 10 tuổi, biệt danh Sọ Trứng bởi cậu có cái đầu trọc lốc - hệ quả của những đợt điều trị hóa chất. Cậu kể cho Chúa nghe về căn bệnh ung thư của mình, về bà Hoa Hồng - người tình nguyện viên già luôn ở bên Oscar trong bệnh viện. Có thể nói, chính bà Hoa Hồng đã trao cho cậu bé hy vọng sống trong những ngày còn lại của cuộc đời, chi tiết bà kể với cậu bé về truyền thuyết: “Ở quê bà, Oscar ạ, có một truyền thuyết kể rằng trong 12 ngày cuối cùng của một năm, người ta có thể dự đoán được 12 tháng của năm tiếp theo sẽ như thế nào. Chỉ cần quan sát từng ngày một để có được bức tranh thu nhỏ của từng tháng… Đấy là truyền thuyết. Ta muốn bà cháu mình thử chơi trò đó, cháu và ta. Đặc biệt là cháu. Từ ngày hôm nay cháu sẽ quan sát mỗi ngày và tự nhủ là mỗi ngày tương ứng với 10 năm”. Chính truyền thuyết hư cấu này đã mang đến hy vọng sống cho cậu bé. Từ giây phút ấy, mỗi ngày trôi qua đối với cậu bé Oscar đều là một ngày tuyệt diệu. Cậu được sống trọn vẹn với ý muốn và tình cảm của mình, trải qua những năm tháng “dậy thì” đầy rắc rối với vài người bạn trong bệnh viện và biết rung động trước cô bạn gái. Hay những năm tháng “tuổi trẻ” đáng nhớ khi Oscar dũng cảm đứng ra bảo vệ người yêu, kết hôn và ở bên cạnh “vợ” của mình trong cuộc phẫu thuật quan trọng, giải quyết bất hòa với bố mẹ trong đêm Giáng Sinh… Rồi đến độ tuổi “xế chiều”, cậu trầm tư suy nghĩ về tất cả những gì đã trải qua trong đời mà không hề hối hận… Oscar sống hết mình, học cách yêu thương và nghĩ về người xung quanh, về cuộc sống nhiều hơn là cái chết. Từng là một cậu bé luôn trách bố mẹ, gọi họ là “nhát cáy” vì không dám cười nói, gần gũi với cậu như khi khỏe mạnh. Nhưng nhờ bà Hoa Hồng, Oscar đã hiểu ra nỗi đau, việc né tránh của họ khi phải chứng kiến con mình ngày càng yếu và có thể ra đi bất cứ lúc nào. Thấu được nỗi lòng cha mẹ, cậu không còn trách họ, ngược lại Oscar đã can đảm nói “Con yêu bố mẹ, hãy luôn ở bên con”. Và chính câu nói ấy đã khiến bố mẹ Oscar thức tỉnh, can đảm để dẹp nỗi sợ mất con, thay vào đó là sự yêu thương con trọn vẹn từng ngày. Đối với vị bác sĩ tận tụy Dusseldorf, Oscar đã suy nghĩ trưởng thành hơn, cậu nói: “Bác sĩ hãy sống thoải mái lên vì bác sĩ đã cố gắng chữa trị cho cháu hết sức có thể rồi, đừng coi đó là tội lỗi để mà ôm rơm nặng bụng…”. Chính câu nói ấy của Oscar đã khiến Dusseldorf mỉm cười nhẹ nhõm, suy nghĩ lạc quan, tích cực hơn để tiếp tục công việc cứu người cao cả. Chỉ vỏn vẹn hơn 100 trang sách, nhưng Schmitt đã kể cho chúng ta thấy những nỗi buồn, nỗi đau, niềm hy vọng và cả tình yêu giữa con người với con người qua cái nhìn của một cậu bé và cả cảm xúc trước khi lìa xa thế giới của rất nhiều người. Qua hình ảnh Oscar, tác giả muốn nhắn nhủ với chúng ta rằng trong cuộc sống hiện tại, hàng ngàn “Oscar” đang sống những ngày tháng ngắn ngủi xung quanh chúng ta. Bạn hãy trân trọng, yêu cuộc sống này bởi không phải ai cũng có cơ hội để thực hiện điều đó. Nếu ta có tình cảm với ai đó đừng ngại bày tỏ, buồn hãy tìm người chia sẻ, muốn gì nhất định phải thực hiện ngay... Nguyên Phương - Zing.vn *** Chúa thân mến, Cháu tên là Oscar, cháu mười tuổi, cháu từng châm lửa đốt mèo, đốt chó, đốt nhà (hình như cháu đã từng rán cả mấy con cá vàng nữa) và đây là bức thư đầu tiên cháu gửi cho ông bởi vì trước đây cháu bận học nên không có thời gian. Báo trước với ông luôn, cháu ghét viết lắm. Phải bị ép thì cháu mới viết. Bởi vì viết là cái trò buộc nơ, kết hoa, tủm tỉm cười duyên, vân vân… Viết chỉ là nói dối để làm cho đẹp hơn. Đấy là trò của người lớn. Bằng chứng à? Đây nhé, đầu thư cháu viết thế này: “Cháu tên là Oscar, cháu mười tuổi. Cháu từng châm lửa đốt mèo, đốt chó, đốt nhà (hình như cháu đã từng rán cả mấy con cá vàng nữa) và đây là bức thư đầu tiên cháu gửi cho ông bởi vì cháu bận học, không có thời gian” đáng ra cháu cũng có thể viết là: “Mọi người gọi cháu là Sọ Trứng, trông cháu có vẻ mới bảy tuổi, cháu sống ở bệnh viện vì bệnh ung thư, cháu chưa bao giờ nói chuyện với ông vì cháu chẳng tin là ông có thật.” Chỉ tội cháu viết thế thì hỏng bét, ông sẽ khó để ý đến cháu hơn. Mà cháu lại cần ông để ý đến cháu. Thậm chí còn tiện cho cháu nếu ông dành thời gian giúp cháu đôi ba việc. Thế này nhé. Bệnh viện là một nơi cực-kỳ-dễ-thương, với hàng đống người lớn vui vẻ và nói to, với đầy đồ chơi và các bà áo hồng* thích chơi với trẻ con, với bọn bạn lúc nào cũng rảnh rang như Thịt Rán, Einstein hay Bỏng Ngô, tóm lại, bệnh viện thật là đỉnh nếu ông là một bệnh nhân làm người khác vui. Thế mà cháu không làm cho người khác vui nữa. Sau khi ghép tủy, cháu cảm thấy mình không làm cho người ta vui nữa. Sáng nay, ông bác sĩ Düsseldorf khám cho cháu mà chẳng vui vẻ gì, cháu làm ông ấy thất vọng. Ông ấy nhìn cháu mà chẳng nói gì, cứ y như là cháu đã làm gì sai. Mà cháu cũng cố gắng lúc phẫu thuật đấy chứ; cháu ngoan, cháu để người ta gây mê, cháu đau mà không kêu, cháu uống đủ thứ thuốc. Có những hôm cháu muốn thét lên với ông ấy, để nói với ông ấy rằng có thể chính ông ấy, bác sĩ Düsseldorf, với cặp lông mày đen sì, đã đánh hỏng vụ phẫu thuật ấy. Nhưng trông ông ấy đau khổ quá cho nên những lời xỉ vả của cháu bị nghẹn lại ở cổ họng. Bác sĩ Düsseldorf càng im lặng, ánh mắt buồn bã, cháu lại càng có mặc cảm tội lỗi. Cháu hiểu ra mình đã thành một bệnh nhân tồi, một bệnh nhân ngăn người ta tin rằng y học thật là tuyệt diệu. Ý nghĩ của bác sĩ là một thứ truyền nhiễm. Bây giờ cả tầng, tất cả các y tá, các bác sĩ nội trú và các bà lao công đều nhìn cháu như thế. Họ có vẻ buồn rầu khi cháu vui vẻ; họ cố rặn cười khi cháu pha trò. Đúng là bây giờ người ta cười không còn như trước nữa. Chỉ có bà Hoa Hồng là không thay đổi. Theo cháu thì bà ấy đằng nào cũng già quá rồi, không thay đổi được nữa. Với lại bà ấy Hoa Hồng quá. Cháu chẳng cần giới thiệu bà Hoa Hồng với ông đâu, Chúa nhỉ, bà ấy là một bà bạn tốt của ông mà, vì bà ấy chính là người bảo cháu viết thư cho ông. Vấn đề là ở chỗ chỉ có một mình cháu gọi bà ấy là bà Hoa Hồng. Thế nên ông phải cố gắng một tí để biết xem cháu đang nói về ai nhé: trong số các bà mặc áo bờ lu hồng đến chơi với bệnh nhân trẻ con, bà ấy là bà già nhất. – Bà Hoa Hồng ơi, bà bao nhiêu tuổi? – Cháu có nhớ được số có mười ba chữ số không, nhóc Oscar? – Ôi! Bà bốc phét! – Không. Không được để ai ở đây biết tuổi của bà đâu đấy, nếu không bà sẽ bị đuổi và bà cháu mình không được gặp nhau nữa. – Sao lại thế? – Vì bà ở đây trái phép. Có giới hạn tuổi cho các bà áo hồng. Mà bà đã vượt xa cái giới hạn ấy rồi. – Bà bị quá đát à? – Đúng rồi. – Giống như sữa chua? – Im nào! – OK! Cháu sẽ không nói gì đâu. Bà ấy thật là dũng cảm khi tiết lộ bí mật với cháu. Nhưng bà ấy gặp đúng người tốt đấy. Cháu sẽ câm như hến, mặc dù cháu cũng lấy làm lạ là với chừng ấy nếp nhăn trông như các tia nắng xung quanh mắt mà bà ấy lại không bị ai nghi ngờ gì. Một lần khác, cháu biết thêm một bí mật của bà ấy, mà nghe đến nó thì chắc chắn là ông, Chúa thân mến, sẽ nhận ra bà ấy là ai. Bà Hoa Hồng và cháu đi dạo trong hoa viên bệnh viện, và bà ấy giẫm phải một cục phân. – Tổ sư! – Bà Hoa Hồng ơi, bà nói bậy đấy. – Ranh con, để cho ta yên, ta muốn nói gì thì ta nói. – Ơ kìa, bà Hoa Hồng! – Nhấc cái mông lên. Đi dạo chứ có phải là đua ốc sên đâu. Khi đã ngồi xuống một cái ghế băng để mút kẹo, cháu mới hỏi: – Sao bà nói năng dữ tợn thế? – Bệnh nghề nghiệp đó, nhóc Oscar à. Trong nghề của bà, nói năng ỏn ẻn thì bà toi rồi. – Thế bà làm nghề gì? – Bà nói cháu cũng không tin đâu… – Cháu thề là cháu sẽ tin. – Đô vật. – Cháu không tin bà đâu! – Đô vật. Người ta đặt cho bà biệt danh là Bà bóp cổ vùng Languedoc*. Từ đó, mỗi khi cháu buồn chán, và khi bà Hoa Hồng tin chắc không có ai nghe thấy, bà lại kể cho cháu nghe về những giải đấu vật lớn mình từng tham gia: Bà bóp cổ vùng Languedoc đấu với Mụ bán thịt vùng Limousin*, cuộc đấu suốt hai mươi năm với Diabolica Sinclair, một bà người Hà Lan có vú là quả đạn cối, và nhất là trận đấu ở Cúp thế giới với Ulla-Ulla, còn gọi là Con chó ở Büchenwald*, người chưa từng thua cuộc, ngay cả khi phải đối mặt với Cặp đùi thép, hình mẫu của bà Hoa Hồng hồi còn là đô vật. Các trận đấu của bà Hoa Hồng làm cháu mơ mộng mãi, vì cháu cứ tưởng tượng cái cảnh bà bạn của mình như lúc này đang ở trên võ đài, một bà già nhỏ bé mặc áo bờ lu màu hồng, hơi lập cập, đang ra tay xay ra cám mấy con quỷ cái mặc may ô. Cháu có cảm giác như đấy chính là mình. Cháu trở thành kẻ mạnh nhất. Cháu đi trả thù. Đấy, với chừng ấy chỉ dẫn, bà Hoa Hồng hay Bà bóp cổ vùng Languedoc, mà ông không phát hiện ra bà Hoa Hồng là ai thì Chúa ạ, ông phải thôi làm Chúa và nên về hưu là vừa. Cháu nghĩ là mình đã nói rõ rồi đấy nhỉ? Quay về chuyện của cháu nhé. Tóm lại là vụ ghép tủy của cháu làm mọi người ở đây thất vọng. Vụ hóa trị cũng đã gây thất vọng rồi nhưng không nghiêm trọng bằng, vì người ta còn hy vọng vào việc ghép tủy. Bây giờ cháu có cảm giác là mấy ông lang kia chẳng biết đề xuất gì nữa, đến là đáng thương. Bác sĩ Düsseldorf, người mà mẹ cháu cứ bảo là đẹp trai, dù cháu thì thấy lông mày hơi rậm, ông ấy tỏ vẻ chán nản hệt như một ông già Noel hết sạch quà trong túi. Không khí tồi tệ dần. Cháu nói chuyện với thằng bạn Thịt Rán. Thực ra nó không phải tên là Thịt Rán, mà là Yves, nhưng chúng cháu gọi nó là Thịt Rán vì tên ấy hợp với nó hơn, vì nó bị bỏng nặng. – Thịt Rán này, tớ có cảm giác là các bác sĩ không thích tớ nữa, tớ làm họ thấy tuyệt vọng. – Cậu đùa à, Sọ Trứng! Các bác sĩ ấy, họ không biết mệt mỏi đâu. Lúc nào họ cũng có đầy ý tưởng phẫu thuật cho cậu. Tớ đếm rồi, họ đã hứa thế với tớ ít nhất là sáu lần. – Có lẽ là câu tạo cảm hứng cho họ. – Chắc thế. *** Éric-Emmanuel Schmitt thu hút người đọc trước hết bởi giọng văn mượt mà, ấm áp và các cốt truyện mang tính giáo dục, nhân văn cao cả. Ông từng chia sẻ: "Tôi không viết để thuyết giáo. Ngược lại, tôi thích làm người đọc suy nghĩ bằng cách kể một câu chuyện hay". Có lẽ chính vì suy nghĩ này của tác giả mà truyện và kịch của ông đã được đưa vào giảng dạy tại các trường trung học tại Pháp và Đức như những tác giả đương đại kinh điển. Người ta đã viết về các tác phẩm của ông: Đề cập đến những vấn đề phức tạp bằng ngôn từ đơn giản, bằng tiếng nói từ trái tim và làm người ta suy nghĩ đến ý nghĩa thực sự của sự việc đó. Các tác phẩm của Schmitt đặt ra những câu hỏi lớn như : Nếu không có chiến tranh và xung đột các tôn giáo sẽ nói gì với nhau, sẽ tồn tại như thế nào? Nên nhìn sự sống và cái chết như thế nào ? Yêu thương, sự tôn trọng, thù hận, cô đơn, chủng tộc, màu da, đức tin, trẻ em, người già, xã hội, tệ nạn... người ta đã đang và sẽ nhìn nhận những cảm xúc và thực tại đó như thế nào ? 6 tác phẩm của Éric-Emmanuel Schmitt đã được dịch sang tiếng Việt: 1.     Nửa kia của Hitler (giải thưởng văn học dịch của Hội Nhà văn Hà Nội năm 2008). 2.     Con của Noé. 3.     Một mối tình ở điện Élysée. 4.     Một ngày mưa đẹp trời. 5.     Chàng Sumo không thể béo. 6.     Oscar và bà áo hồng. Mời các bạn đón đọc Oscar Và Bà Áo Hồng của tác giả Éric-Emmanuel Schmitt.