Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cô Gái Trong Mạng Nhện

Cuốn sách Cô gái trong mạng nhện của David Lagercrantz là phần nối tiếp tam bộ khúc Cô gái có hình xăm rồng mà Stieg Larsson hoàn thành trước đó. Cô gái trong mạng nhện là phần nối dài tam bộ khúc Millennium (Cô gái có hình xăm rồng, Cô gái đùa với lửa, Cô gái chọc tổ ong bầu) mà Stieg Larsson đã hoàn thành cách đây một thập kỷ. Tác phẩm đã càn quét các bảng xếp hạng uy tín và tiêu thụ được hơn 8 triệu bản trong năm 2015. Qua ngòi bút của David Lagercrantz, Cô gái trong mạng nhện đã hoàn toàn chinh phục giới phê bình khó tính cũng như độc giả toàn cầu nhờ văn phong tuyệt vời kết hợp giữa phong cách hành động quyết liệt của trinh thám Mỹ và lối phân tích sắc sảo đến từng chi tiết của trinh thám Thụy Điển. Đây được xem như một siêu phẩm kịch tính về chuyến phiêu lưu đầy rủi ro để đi tìm sự thật, công lý và tính minh bạch; phơi bày mối quan hệ móc ngoặc bẩn thỉu giữa giới chính khách, các nhà tài phiệt, các cơ quan tình báo và các tổ chức bí mật ngoài vòng luật pháp. Kể từ sau “vụ Salander”, Lisbeth đột ngột biến mất khỏi thế giới của Mikael Blomkvist, trong khi anh vẫn tiếp tục bám trụ tòa soạn Millennium giữa cơn bão khủng hoảng tài chính và chiến dịch bôi nhọ ác ý trên mạng xã hội. Nhưng một lần nữa, số phận lại đưa đẩy họ bước vào chiến tuyến mới khi Linus Brandell – một nhà nghiên cứu trẻ tuổi đã bất ngờ đến tìm gặp Mikael và khẩn khoản nhờ anh điều tra một vụ tấn công tin tặc động trời nhằm vào nhà khoa học đầu ngành trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo, giáo sư Frans Balder.  Mikael vốn dĩ không thành thạo mảng công nghệ thông tin, cũng chẳng biết Balder là ai, và đáng lẽ anh đã bỏ qua vụ việc nếu trong câu chuyện Linus không nhắc đến một “nữ hacker lập dị”. Sự nghi hoặc của Blomkvist càng được củng cố hơn, khi ngay sau đó đích thân giáo sư Balder gọi điện thuyết phục anh đến gặp ông vì nghi ngờ có sự rò rỉ thông tin từ một dự án tuyệt mật quy tụ những bộ óc hàng đầu thế giới mà ông tham gia: Dự án Siêu Máy tính Nhân tạo. Tuy nhiên, khi đến nơi hẹn, những gì Blomkvist chứng kiến lại là một đứa trẻ có ánh nhìn vô định ngồi giữa những vòng tròn số bên cạnh thi thể lạnh cứng của vị giáo sư già...  Những bí ẩn giăng mắc, những nhân vật lẩn khuất trong tam bộ khúc Millennium đã dần bước ra từ bóng tối để tiếp tục đưa người đọc vào một câu chuyện cuốn hút ngay từ phần mở đầu và dị thường cho đến tận những dòng cuối cùng. Từ những tổ chức ngầm ở Stockhlom cho tới giới chính trị thao túng Thung lũng Silicon, một âm mưu thâm hiểm đã vượt ra ngoài biên giới Thụy Điển, bao trùm lên toàn thế giới, đe dọa phá vỡ thế cân bằng của cán cân quyền lực. Và sẽ phá vỡ mãi mãi nếu chìa khóa của sự việc không được tìm ra. Ngay từ ban đầu, David Lagercrantz đã đặt độc giả vào một không gian căng thẳng tột độ, khiến họ phải lặng đi trước khả năng vô hạn của khoa học và rùng mình trước cái bắt tay đầy toan tính máu lạnh giữa giới chóp bu với đám tội phạm quốc tế. Lôi cuốn và kịch tính, sự kết hợp giữa các ẩn số toán học và bí ẩn đằng sau những vụ án mạng đã làm nên sự hấp dẫn trí tuệ rất riêng cho Cô gái trong mạng nhện. Và đó cũng là lí do tác phẩm này được các nhà phê bình đánh giá là sự trở lại tuyệt vời của một trong những sê-ri tiểu thuyết trinh thám hay nhất thế kỉ 21. *** đôi lời gửi độc giả   Tôi rất nhớ những buổi sáng sớm, khi Stockholm chìm trong yên lặng và gia đình tôi vẫn đang say giấc. Tôi sẽ uống cà phê, ngồi vào máy tính và viết như thể nó là cứu cánh duy nhất của cuộc đời mình. Đúng vậy, không phải lúc nào cũng dễ dàng, nhưng đôi khi tôi thấy nhớ cảm giác cuồng nhiệt đến phát sốt và mấp mé bờ vực sợ hãi ấy – nỗi sợ hãi rằng mình không đủ tầm để kế tục sự nghiệp của Stieg Larsson. Mối quan ngại ấy là thứ dẫn dắt tôi, và có thể nói Lisbeth Salander là người khiến tôi sợ hãi nhất. Làm sao tôi có thể mô tả một nhân vật ấn tượng đến thế mà không làm độc giả thất vọng? Tôi còn nhớ lúc đầu mình rất hăm hở vào cuộc. Dường như tôi đã cố gắng quá mức, nên phải mất nhiều thời giờ để cắt gọt và tinh giản mọi thứ. Chủ yếu tôi phải lược bớt cảm xúc. Sự ủy mị và sướt mướt không thích hợp với Lisbeth. Cảm xúc của cô ấy chỉ nên được bóng gió đề cập thông qua câu chữ, và tôi nhận ra cô tốt nhất khi có hành động, khi cô chiến đấu Với vị thế của một kẻ dưới cơ. Chỉ cần tôi tìm được đúng tình huống, cô sẽ xuất hiện sống động. Nhưng vẫn còn một vấn đề khiến tôi phải mất một thời gian dài để tháo gỡ: Lisbeth Salander nhớ về quá khứ thế nào? Các bạn cũng biết đấy, thứ làm cho Lisbeth trở thành một nhân vật đặc biệt không chỉ là cá tính. Cũng giống như Người dơi, Siêu nhân hay bất cứ vị siêu anh hùng nào khác, Lisbeth có sự huyền bí của riêng mình, đó chính là một yếu tố quyết định làm nên sức công phá dữ dội của cô. Tôi nhận ra mình cần phải khai thác và phát triển nó. Do vậy, tôi đã quay về thời thơ ấu của Lisbeth, khi người cha tàn ác ngược đãi mẹ Lisbeth và cô thề sẽ trả thù. Tôi cũng nhận ra mình sẽ làm hỏng một phần sự huyền bí của Lisbeth nếu để cô tự nhớ ra những biến cố đó. Chúng sẽ có vẻ bạo liệt hơn nếu được nhìn từ bên ngoài, với chỉ một chút xíu bóng gió về nỗi uất hận và đau đớn của Lisbeth. Tôi cũng cảm thấy mình cần một chiếc kính lọc. Tôi nhận thấy bản thân Stieg Larsson cũng vất vả với vấn đề này: anh gần như luôn nhờ đến ông luật sư già Holger Palmgren, người giám hộ cũ của Lisbeth, để kể lại thời thơ ấu của cô. Tất nhiên đó là một mánh khóe kinh điển. Những hình tượng nhân vật có sức mê hoặc lớn trong văn chương thường được quan sát tốt nhất từ một khoảng cách nhất định. Bạn cần một bác sĩ Watson để tạo nên huyền thoại và duy trì sự bí ẩn xung quanh nó. Từ góc nhìn của nhân vật chính, đa phần mọi thứ sẽ chỉ mang tính logic và hiển nhiên, nhưng khi cùng một quá trình đó được quan sát bởi một người khác, nó sẽ giúp chúng ta hiểu ra vì sao mọi thứ lại đáng chú ý đến như vậy. Nó giúp chúng ta cảm thấy kinh ngạc. Tôi quyết định sử dụng cùng những thủ pháp như Stieg Larsson đã dùng. Tuy nhiên tôi cũng không nhượng bộ hoàn toàn. Tôi tiếp tục đào sâu vào những suy nghĩ và ký ức của Lisbeth Salander, thử thách các giới hạn. Không quá lời khi nói rằng chính quá trình đó đã giúp tôi nắm bắt được cô ấy, và một buổi tối nọ, một buổi tối tuyệt vời, sáng sủa, tôi đã khám phá bí mật lớn nhất của cô gái ấy. Sau cái ngày hôm đó, mọi thứ giống như thể được cô tự viết ra. Tôi bắt đầu hiểu tại sao Lisbeth phải tấn công một lần nữa, mạnh mẽ và không khoan nhượng. Tôi đã nhận ra câu chuyện phải tiếp tục như thế nào, và tôi đã bắt đầu nhớ tiếc nó. Tôi hi vọng các bạn sẽ thích thú câu chuyện! David Lagercrantz, Stockholm, ngày 15 tháng 5 năm 2015 *** Ra mắt độc giả từ năm 2005, bộ trường thiên tác phẩm Milennium gồm "Cô gái có hình xăm rồng", "Cô gái đùa với lửa", "Cô gái chọc tổ ong bầu" của tác giả Stieg Larsson đã tạo nên một cơn địa chấn với hơn 80 triệu bản trên toàn cầu và vẫn chưa hề có dấu hiệu hạ nhiệt. Mười năm sau, độc giả hâm mộ lại háo hức khám phá cuộc điều tra mới của cặp đôi nhà báo Mikael Blomkvist và hacker Lisbeth Salander, dưới ngòi bút của David Lagercrantz, với tựa đề "Cô gái trong mạng nhện". Tác phẩm nối dài này đã tiêu thụ được hơn 8 triệu bản trong năm 2015. Chấp bút dưới áp lực cái bóng khổng lồ của Stieg Larsson, David Lagercrantz đã hoàn toàn chinh phục giới phê bình khó tính cũng như độc giả toàn cầu bằng văn phong tuyệt vời kết hợp giữa phong cách hành động quyết liệt của trinh thám Mỹ và lối phân tích sắc sảo đến từng chi tiết của trinh thám Thụy Điển. Tại buổi giới thiệu sách, dịch giả Vũ Hoàng Anh, họa sĩ Dũng Choai, nhà văn Di Li cùng đại diện Đại sứ quán Thụy Điển tại Việt Nam đã chia sẻ những nét đặc sắc của bộ tiểu thuyết trinh thám cuốn hút này và những dấu ấn của nó trong phản ánh đời sống văn hóa, xã hội Thụy Điển với tất cả sự lôi cuốn và kịch tính, đặc biệt là sự kết hợp giữa các ẩn số toán học và bí ẩn trong "Cô gái trong mạng nhện" - lý giải vì sao tập sách xứng đáng nối dài bộ series tiểu thuyết trinh thám được đánh giá trong nhóm sách trinh thám hay nhất thế kỉ 21. David Lagercrantz sinh năm 1962 tại Thụy Điển, tốt nghiệp trường báo chí Gothenburg. Ông là cựu phóng viên điều tra của nhật báo Expressen và là người được Nhà xuất bản cũng như Hội đồng bảo vệ tài sản của Stieg Larsson chọn mặt gửi vàng để viết tiếp câu chuyện về Salander. *** Cô gái trong mạng nhện - David Lagercrantz Dịch giả Hoàng Anh người review Trà Phạm #cô_gái_trong_mạng_nhện #trinh_thám_bắc_âu Nối tiếp tam bộ khúc millennium, David Largercrantx tiếp tục mang đến phần 4: cô gái trong mạng nhện với bức tranh toàn diện hơn về cô gái kì quặc Lisbeth và câu truyện đầy hấp dẫn của bộ đôi Lisbeth và Blokvist cùng một mớ rắc rối khác xung quanh hai người. Thực ra đọc xong cũng được 1 tuần rồi, nhưng vì bận chuyện nọ chuyện kia rồi gặp đủ các vấn đề liên quan đến điện thoại và internet nên chẳng thể viết vài dòng ngay được. Nhân ngày mưa, trốn việc viết vội vài dòng vậy. Nội dung truyện khá hấp dẫn, tuy nhiên vẫn có phần hơi gượng gạo khi giới thiệu về các nhân vật, sự ngang tàng, kì quặc của Lisbeth cũng bị giảm bớt phần nào. Các phần đào sâu quá khứ và những bí ẩn xoay quanh Lisbeth cũng gượng gạo không kém. Cảm giác khi đọc là tính cách của các nhân vật không còn được "nguyên vẹn" nữa nên nếu như các phần trước đọc đến đoạn nào, vỗ đùi sung sướng "đúng là Lisbeth có khác" hay "đúng là Blomkvist có khác" thì nay cảm giác như không đúng vậy. Truyện tập trung về mảng IT, hoặc được gọi là tên khác, nhưng cơ bản là về tin học, tin tặc,.v.v. đọc thực sự như đọc tiếng ngoài hành tinh ý, không thuộc phạm trù hiểu biết của mình nên phải đọc đi đọc lại nhiều lần và có đoạn phải bỏ qua (thà toán em còn hiểu được chứ mấy cái này em chịu). Truyện cũng nói đến một loạt các vấn đề trong đời sống hằng ngày mà ta có thể bắt gặp ngoài đời thực và khiến ta nhức nhối, phải suy nghĩ, phải lo lắng cho thực tế không tốt đẹp chút nào. Nói chung truyện ổn, hơi gượng gạo nhưng nội dung vẫn đầy đủ các yếu tố hấp dẫn. *** Nửa đầu dài dòng với những giới thiệu về vô số cục, ngành, cơ quan nhà nước. Cục tình báo, cục điều tra thương nghiệp, cục gì gì gì gì và các tổ chức tội phạm. Đọc mà loạn xà ngầu. Có lẽ vì mình không nhạy trong việc nhớ các chi tiết như thế. Nửa sau nhanh hơn, có chút gay cấn, chút xíu thôi à. Xong rồi mọi chuyện được giải quyết cái rụp xong rồi hết chuyện. Mình đọc nửa đầu trong chừng 2 tháng và nửa sau trong chừng 3 ngày. Vậy là hiểu rồi nha. Mình nghĩ sẽ có vài phần tiếp theo khi tác giả đã xây dựng một nhân vật phản diện mới (và chưa chết). Nhưng truyện xuất bản từ 2015 mà đến giờ vẫn không thấy thông tin về quyển tiếp. Không muốn nhìn nhận nhưng cả Mikael Blomkvist và Lisbeth Salander đều mờ nhạt so với tầm vóc đồ sộ của các cục đoạn đầu. Họ không làm gì nhiều. Mà thật ra không ai làm gì nhiều cả. Trừ nỗ lực của tên sát thủ chính phải hành động những 3 lần. Nguyen Anh *** Boog đã đọc hết cả 3 tập trong series Cô gái có hình xăm rồng và đây là tập 4 trong series đó nhưng lại do người khác chắp bút nên Boog lần lữa mãi mới đọc. Cũng bởi nghe nói phim chuyển thể từ tập 4 này chuẩn bị ra rạp nên Boog quyết định đọc để xem phim cho dễ hiểu. Hơn nữa lại được biết quyển này do dịch giả Hoàng Anh dịch nên Boog có phần nào yên tâm. Bởi biết dịch giả Hoàng Anh qua một số tác phẩm Boog đã đọc như: Kẻ nhắc tuồng, người ru ngủ, bộ ba quyển Người đàn ông mang tên Ove, Bà ngoại tôi gửi lời xin lỗi, Britt marie đã ở đây, đọc mới nhất là Chênh Vênh thì Boog đều có cảm tình với mấy tác phẩm đó cả. Mở đầu tập này có vẻ khá chậm nhưng càng về cuối thì nó càng hấp dẫn. Một nhà khoa học đang nghiên cứu một công trình mà nhiều tổ chức muốn có bị ám sát. Đó là một công trình nghiên cứu siêu máy tính có trí tuệ nhân tạo có thể hiểu được con người. Nhưng nếu công trình này được hoàn thiện thì mọi con người sẽ bị kiểm soát, mọi thứ sẽ bị phơi bày không còn gì là bí mật. Công trình nghiên cứu này còn liên quan tới mạng lưới của nhiều các tổ chức từ Duma của Nga tới NSA của Mỹ tới cả các tổ chức tội phạm, chúng rối tung và chằng chịt như một mạng nhện. Mới đầu có vẻ mọi sự việc chẳng liên quan, dính dáng gì tới cô gái đặc biệt Lisbeth Salander. Nhưng hoá ra không phải vậy, việc nhà khoa học bị ám sát đó lại gợi mở thêm về quá khứ của Salander. Boog thấy tập này khá thú vị là Lisbeth tìm được một đứa trẻ khá giống mình, mắc chứng tự kỷ thiên tài. Không phải đứa trẻ nào tự kỷ cũng là thiên tài nhưng nếu đó là tự kỷ thiên tài thì nên quan tâm và phát huy khả năng đặc biệt đó. Điểm trừ mà Boog dành cho tập này là Lisbeth hoàn hảo quá, Lisbeth giống như kiểu anh hùng quá giỏi không mắc một sai lầm nào. Nếu như mấy tập trước cô ấy giỏi nhưng vẫn mắc sai lầm thì tập này mọi việc Lisbeth làm quá hoàn hảo, khiến cô ấy không thực tế như mấy tập trước. Ở tập này còn xuất hiện một nhân vật nữ rất đặc biệt. Đẹp, ánh mắt hút hồn khiến người khác mê mẩn và dễ dàng bị sai khiến nhưng phụ nữ đẹp là phụ nữ nguy hiểm một lần nữa lại đúng. Chết vì gái là cái chết êm ái nên các đấng mày râu cẩn thận nha, còn nếu các vị tự nguyện chết vì người đẹp thì Boog không còn gì để nói

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ba Nhát Đâm Bí Ẩn
Trong the Clinic (Bệnh viện tư - bản dịch tiếng Việt của Nhà xuất bản Công an nhân dân năm 2007 là Ba nhát đâm bí ẩn), khi điều tra về cái chết của nữ giáo sư tâm lý học Hope Devane, Delaware đã xé toang tấm màn bao phủ số phận của Hope và bác sĩ giải phẫu Cruvic, những nhà khoa hoc đã lạm dụng khoa học để thực hiện những cuộc thí nghiệm, giải phẫu tàn bạo đối với con người. Những đao phủ sạch sẽ này là sản phẩm bệnh hoạn của gia đình họ, được nuôi dưỡng từ tuổi thơ ấu, nhưng cuối cùng chính họ sẽ lại trở thành mục tiêu trả thù cho cơn phẫn nộ từ một nạn nhân an uổng của họ..... ... Trinh thám của Kellerman đậm tính phân tích. Mỗi một câu chuyện trinh thám, suy cho cùng là một quá trình truy nguyên căn gốc hành vi đầy phức tạp, gay cấn.... *** Một trong những tác gia có sách bán chạy nhất ở Mỹ liên tục trong hai chục năm qua, là Jonathan Kellerman. Vậy J. Kellerman là ai? Sinh năm 1949 tại New York, nhưng Los Angeles là nơi ông gắn bó, nơi ông thành đạt trong nghề nghiệp bác sĩ và với tư cách một tác gia tiểu thuyết. Khởi đầu công việc viết văn từ năm 22 tuổi, song phần lớn những năm tuổi trẻ ông dành để nghiên cứu tâm lý trẻ em. Năm 24 tuổi, ông nhận bằng tiến sĩ, chuyên ngành tâm lý trẻ em. Sau đó là những năm làm việc trong các bệnh viện, trung tâm bệnh trẻ em ở Los Angeles, điều trị tâm lý cho các trẻ em bị ngược đãi, lạm dụng... Năm 1980-1981, ông xuất bản những cuốn sách về y học liên quan đến trẻ em: Psychological aspects of childhood cancer và Helping the pearful child. Năm 1985, J. Kellerman xuất bản cuốn sách hư cấu đầu tiên When the bough breaks (Khi cành cây gãy - tên bản dịch tiếng Việt do Nhà xuất bản Công an nhân dân ấn hành năm 2007 là Ba bóng đen). Ngay lập tức cuốn sách trở thành hiện tượng bestseller được bầu chọn trên tờ New York times, và tác giả nhận được giải thưởng Edgar Poe và giải thưởng Anthony Boucher cho tiểu thuyết đầu tay hay nhất. Tiểu thuyết này năm 1986 được dựng thành phim truyền hình phát trên kênh NBC và đã thu hút 28 triệu người xem. Từ đó đến nay, mỗi năm một cuốn sách (có năm 2 cuốn), in ở nhiều nước trên thế giới và bằng nhiều thứ tiếng khác nhau, tên tuổi Jonathan Kellerman liên tục có mặt trên bảng xếp hạng của New York times. The master of psychological suspense - bậc thầy của tiểu thuyết trinh thám tâm lý, báo chí nói về ông như thế khi lần đầu tiên ông xuất hiện trên văn đàn, và sự tôn vinh ấy đã không ngừng được nhắc lại hơn hai chục năm nay, trên các báo, trên các website, và quan trọng nhất, ông vẫn là một nhà văn không hề cũ đối với công chúng. Nhân vật chính trong các tiểu thuyết của ông, Alex Delaware, phần nào đó là hình bóng của chính nhà văn. Nhận bằng tiến sĩ năm 24 tuổi, là bác sĩ tâm lý trẻ em, Alex khám phá ra đằng sau những sự cố của trẻ nhỏ luôn ẩn chứa những vấn đề của người lớn, của xã hội. Trong cuốn sách đầu tiên When the bough breaks, Alex Delaware 30 tuổi, sống độc thân và bắt đầu hẹn hò với Robin. Vì có người bạn thân là thanh tra Milo Sturgis ở trong Sở cảnh sát, anh được mời chữa trị cho các em nhỏ nạn nhân của một vụ xâm hại, rồi làm tư vấn đặc biệt cho cảnh sát. Vụ đầu tiên anh tham gia là vụ một bác sĩ tâm lý bị giết cùng người bạn gái là cô giáo dạy ở trường dành cho các trẻ có khiếm khuyết. Nhân chứng duy nhất của vụ án là một bé gái 7 tuổi bị bác sĩ cho uống quá liều thuốc an thần đã trở nên gần như ngơ ngẩn. Những ám ảnh của bé gái có ý nghĩa gì? Liệu thực sự cô bé đã chứng kiến một tội ác? Lần theo mối dây của các nạn nhân, Alex tìm tới một trung tâm từ thiện nuôi dạy các trẻ mồ côi và khuyết tật lớn ở Los Angeles. Xới tung hàng chục mối quan hệ, lần lại những trang hồ sơ cũ, đào bới quá khứ của những gương mặt đang hiện diện ở tầng thượng lưu của xã hội, Alex Delaware đã tìm ra sự thật về những con quỷ đội lốt người, những kẻ có xu hướng tình dục bệnh hoạn, những kẻ say mê quyền lực, những kẻ bị khống chế bởi quá khứ tội lỗi, đã biến trung tâm từ thiện kia thành hang ổ truy lạc, lạm dụng tình dục của hàng trăm trẻ nhỏ. Trong Blood test (Thử máu - Nhà xuất bản Công an nhân dân 2005), khi cố gắng giúp đỡ cậu bé Woody mắc bệnh ung thư, Delaware phải đối mặt với hàng bao rắc rối và dò trong mớ bòng bong các quan hệ, anh đã đi đến tận cùng sự thật khủng khiếp trong gia đình cậu bé: những tín ngưỡng rùng rợn và quan hệ loạn luân được che đậy trong rất nhiều năm, mà bất hạnh đổ lên số phận những đứa trẻ là chị em và cũng là mẹ con Nona và Woody. Trong Bad love (Tình yêu dối trá - Nhà xuất bản Công an nhân dân 2004), vụ án Delaware khám phá liên quan tới một hội nghị khoa học mà các nghi can đều là những nhà khoa học liên quan đến tâm lý - giáo dục trẻ em. Trong The Clinic (Bệnh viện tư - bản dịch tiếng Việt của Nhà xuất bản Công an nhân dân năm 2007 là Ba nhát đâm bí ẩn), khi điều tra về cái chết của nữ giáo sư tâm lý học Hope Devane, Delaware đã xé toang tấm màn bao phủ số phận của Hope và bác sĩ giải phẫu Cruvic, những nhà khoa học đã lạm dụng khoa học để thực hiện những cuộc thử nghiệm, giải phẫu tàn bạo đối với con người. Những đao phủ sạch sẽ này là sản phẩm bệnh loạn của gia đình họ, được nuôi dưỡng từ tuổi thơ ấu, nhưng cuối cùng chính họ sẽ lại trở thành mục tiêu trả thù cho cơn phẫn nộ từ một nạn nhân oan uổng của họ. Cộng tác với cảnh sát với tư cách là chuyên gia tâm lý, nhưng trong tất cả các vụ án, bác sĩ Delaware đã tham dự như một thám tử chuyên nghiệp, mà bên cạnh anh chàng thám tử to béo Milo Sturgin chỉ còn giữ vai trò bổ khuyết cho vai chính. Không giắt súng trong lưng, không có phương tiện hỗ trợ như một cảnh sát thực thụ, nhưng Delaware có sự mẫn cảm đặc biệt để dò ra những ngóc ngách tâm lý, những mối quan hệ của con người, dù quan hệ đó có được che giấu tinh vi thế nào đi nữa. Không có nhiều những pha bắn giết hay rượt đuổi, cách của J. Kellerman là bóc tách dần các chân dung, các quan hệ. Ông đẩy độ căng thẳng lên dần dần, ông lừa người đọc vào những cao trào khiến người ta lầm tưởng đó đã là cú cuối, song thực sự cú cuối chỉ nằm ở trang cuối, khi bạn đọc sắp sửa gấp sách lại. Kellerman thường bẫy người đọc trong những câu chuyện có vẻ rời rạc ban đầu, tung ra nhiều nhân vật, đưa nhiều lộ trình, tạo ra một mớ rối tung quan hệ, nhưng rồi những hướng rời rạc sẽ gắn kết ở một điểm, ở đó những gương mặt nhân vật, những lộ trình hành vi đột ngột sáng tỏ. Tuy nhiên, không như một tác phẩm trinh thám thông thường đích cuối của câu chuyện là vạch mặt thủ phạm, với J. Kellerman, thủ phạm không phải là sự thật ghê gớm nhất; sự thật shock nhất nằm ở cú vỡ bung cuối cùng soi sáng tận cùng nguyên do của tội ác. Blood test, Over the edge, Private eyes, Bad love, Devil’s Waltz - Vũ điệu quỷ, Nhà xuất bản Công an nhân dân 2007, cho đến cuốn sách mới nhất Gone, mỗi một vụ án là một ca tâm lý, mỗi một nhân vật là một dạng tâm bệnh che đậy, bắt đầu từ thời thơ ấu. Có thể thấy quan điểm của Kellerman, không có tội ác nào trong hiện tại lại không có nguyên do từ một hoàn cảnh bất thường hay một xu hướng bệnh hoạn trong thời thơ ấu. Những câu chuyện của ông chứa đựng một lời cảnh báo: hãy quan tâm đến trẻ nhỏ, bạo hành, stress, lạm dụng... đối với trẻ nhỏ, tức là đang gieo mầm cho bạo hành, lạm dụng, giết người... cho tương lai. Trinh thám của Kellerman đậm tính phân tích. Mỗi một câu chuyện trinh thám, suy cho cùng là một quá trình truy nguyên căn gốc hành vi đầy phức tạp, gay cấn. Bối cảnh tiểu thuyết của ông là Los Angeles thời hiện đại, với đầy rẫy những bạo hành, stress, lạm dụng; một Los Angeles có vô vàn những vấn đề tâm bệnh, nơi mà xã hội thượng lưu khoác mặt nạ che đậy bên dưới hàng bao dối trá, dục vọng. Kellerman không mô tả tội ác ở những tầng lớp dân nghèo, ông nhằm vào phân tích sự mục ruỗng, méo mó nhân cách ở những tầng lớp trên, nơi những người có tiền, có quyền, có tri thức. Bằng vào sự nhạy cảm, khả năng phân tích, suy luận của nhân vật Alex Delaware, ông dò tìm những bí mật của tâm lý - hành vi ẩn dưới đời sống đĩnh đạc của những bác sĩ, giáo sư đại học, của những thẩm phán, luật sư, cha cố... Kinh nghiệm của một bác sĩ tâm lý đã giúp ông trở thành một nhà văn phân tích hành vi xuất sắc. Hành vi con người, đó là mối quan tâm của ông, là điều ông theo đuổi trong suốt cuộc đời và vì nó mà ông đã viết - trong một bài trả lời phỏng vấn, ông đã nói đại ý như thế. Có thể nói, tiểu thuyết của Jonathan Kellerman là tiểu thuyết trinh thám - hành vi, một sự kết hợp tài tình giữa tiểu thuyết trinh thám điển hình và tiểu thuyết tâm lý. Nếu con đường của văn chương là khám phá bí mật về con người, thì J. Kellerman đang đi trên con đường đó, từng ngày, bằng những cuốn sách của mình, ông cuốn hút hàng triệu độc giả ở khắp hành tinh trong hành trình mê mỏi khám phá không ngừng nghỉ bí ẩn của hành vi con người. Trần Thanh Hà *** Chẳng mấy khi những đường phố xảy ra các vụ án mạng lại đẹp. Nhưng có một đường phố ngoại lệ. Đó là một con đường tản bộ cong cong êm ái rợp bóng cây đu cạnh trường Đại học California - Los Angeles, hai bên là những bãi cỏ rộng có các xưởng máy và các khu nhà, mượt như mặt bàn bi-a mới. Dưới một cây đu khổng lồ bên đường là nơi Hope Devane bị đâm chết. Nơi đó cách nhà bà một đoạn đường về phía Tây Nam. Tôi ngó lại một lần nữa, chỉ thấy được lờ mờ dưới ánh trăng lười nhác. Sự yên lặng về đêm ở đây chỉ bị phá vỡ bởi những tiếng dế mèn và thỉnh thoảng là tiếng xe hơi đời mới tiếng nổ nhẹ như một làn khói. Dân địa phương đang trở về sau buổi làm việc. Vài tháng nay, đã có nhiều người tò mò tới đây để ngó qua cái sân khấu này. Milo châm điếu xì gà và phụt khói ra ngoài cửa kính xe. Xoay cái cửa kính xuống, tôi tiếp tục nhìn cây đu ấy. Một cái thân cây xoắn, to như cây cột điện cao thế bên Xa lộ. Tán lá của nó có bán kính rộng tới 18 mét, tối tăm. Những cành cây chắc chắn, tham lam hiện ra dưới ánh trăng băng giá, một số cành quá nặng, thỉnh thoảng lại quét xuống mặt đất. Có lẽ phải đến 5 năm nay thành phố không cử người tới tỉa cành cho cây cối hai bên đường. Chắc là do thất thu thuế. Người ta nhận định rằng tên giết người đã núp dưới vòm cây, mặc dù không ai tìm thấy dấu hiệu hiện diện của hắn ngoài những vết xe đạp cách đó vài mét. Ba tháng sau khi phát hiện ra xác chết, tất cả vẫn chỉ dừng lại ở nhận định, không có tiến triển gì. Chiếc xe Ford cũ của Milo nằm cùng đoạn đường với hai chiếc xe khác, cả hai đều là Mercedes, đều bị phết phiếu đậu xe sai quy định ở trên kính chắn gió. Sau khi xảy ra vụ giết người, thành phố đã hứa sẽ tỉa cành cho cây cối bên đường, nhưng lời hứa ấy đến nay vẫn chưa hề được thực hiện. Có lần Milo cay đắng thông báo cho tôi về điều này, miệng không ngớt chửi rủa những nhà chính trị, nhưng lời nguyền rủa thực sự của anh lại nhắm vào vụ giết người máu lạnh này. - Một vài bài viết về vụ án, rồi chấm hết. - Các sự kiện thời sự giống như các món ăn nhanh ấy mà - Tôi nói - nhanh, dễ nuốt và dễ quên… - Chúng ta là những người yếm thế quá chăng? - Nghề của tôi là phải biết sống với những người bệnh hoạn mà. Câu nói ấy đã làm Milo bật cười. Nhưng giờ thì anh đang nhăn trán, quệt tay vuốt những sợi tóc vương trên mặt, và thở ra những vòng tròn khói thuốc rung rung. Nhích chiếc xe thêm một đoạn đường nữa, Milo cho dừng lại. Anh chỉ tay vào một trong những ngôi nhà nho nhỏ nhưng trông gọn ghẽ: - Nhà bà ấy đấy. Ngôi nhà có mặt tiền màu trắng, có bốn cột, các cánh cửa chớp màu đen, các đồ trang trí lấp lánh trên cánh cửa bóng loáng. Cao hơn lề đường ba bậc là lối nhỏ có lát đá xuyên qua bãi cỏ. Một cánh cổng có các mũi sắt nhọn chặn trên đường lái ô tô vào nhà. Hai cánh cửa sổ tầng hai có màu hổ phách lấp phía sau các tấm rèm màu tai tái. - Hình như có người ở nhà - Tôi nói. - Xe của ông ấy đang đậu trên lối cho ô tô vào nhà đấy. Một chiếc xe vừa chở khách, vừa chở hàng màu sáng đậu trên lối xe hơi vào nhà. - Ông ta luôn ở nhà - Milo nói - Cứ về nhà rồi là ông ta không đi đâu nữa. - Ông ta vẫn còn để tang ư? Milo nhún vai: - Bà ấy đi xe Mustang nhỏ màu đỏ. Bà ta trẻ hơn ông ấy khá nhiều. - Nhiều là bao nhiêu? - 15 tuổi. - Điều gì ở ông ấy khiến anh quan tâm? - Là hành động của ông ta khi nói chuyện với tôi. - Ông ấy tỏ vẻ bối rối chăng? - Không hợp tác. Paz và Fellows cũng nghĩ như thế. Nghĩa là chẳng có điều gì ông ấy nói giúp ích được cho cuộc điều tra. Milo không đánh giá cao những điều tra viên đã tiến hành vụ này trước khi nó được trao cho anh. Với suy nghĩ rằng mình cũng sẽ rơi vào tình trạng bất lực như họ nên anh rất ưu tư. - Mà này - Tôi nói - Phải chăng người chồng luôn là nghi can đầu tiên trong các vụ án? Cho dù đâm bà ta ở ngoài đường phố nghe có vẻ không tiêu biểu lắm. Anh lấy tay dụi mắt: - Đúng vậy. Đập nát óc bà ta trong phòng ngủ có lẽ tiêu biểu cho một vụ án hôn nhân hơn. Nhưng chuyện đã xảy ra rồi. - Milo xoay xoay điếu xì gà rồi tiếp - Cuộc sống dài lắm, mọi thứ đều có thể xảy ra. - Chính xác những vết xe đạp đã được phát hiện ở chỗ nào? - Ngay phía Bắc của cái xác nhưng tôi không coi trọng bằng chứng này nhiều. Mấy tay trong phòng thí nghiệm nói rằng những vết xe ấy có thể đã ở đó từ một cho đến mười ngày. Có thể đó là vết xe của một thằng nhóc hàng xóm, sinh viên hay một người luyện tập thể dục. Thêm vào đó, khi tiến hành xét hỏi từng gia đình ở khu vực này mọi người đều nói họ không nhìn thấy một người đi xe đạp lạ nào trong cả tuần đó. - Một người đi xe đạp lạ nghĩa là sao? - Nghĩa là một người nào đó không phù hợp. - Ý nói một ai đó da không trắng phải không? - Đại để là như vậy. - Một khu vực yên tĩnh như thế này mà không ai nghe thấy hay nhìn thấy điều gì đó vào lúc 11 giờ đêm thì thật đáng ngạc nhiên. - Tôi nói. - Điều tra viên nói rằng có thể là bà ta không kêu được. Không có vết thương chứng tỏ có sự phản vệ, vì vậy có lẽ bà ấy đã không kháng cự nhiều. - Ra thế. Tôi đã đọc các kết quả pháp y, hồ sơ, từ báo cáo sơ bộ của Paz và Fellows đến kết luận của nhà nghiên cứu bệnh học và tập ảnh khám nghiệm tử thi. Không biết tôi đã phải nhìn bao nhiêu ảnh loại này trong những năm qua. Đây là lần tôi có cảm giác tởm lợm nhất. - Không kêu được chắc là do bị đâm đúng vào tim? - Tôi hỏi. - Điều tra viên nói rằng có thể cú đâm đó đã làm cho tim bị nát khiến bà ta rơi vào tình trạng đột sốc. Anh bật ngón tay thô kệch kêu một tiếng tách nhẹ rồi đưa cả bàn tay lên vuốt mặt. Nhìn nghiêng, khuôn mặt anh giống của một con hà mã, đầy hút trứng cá và mệt mỏi. Anh rít thêm một vài hơi thuốc nữa. Tôi lại nghĩ tới những tấm ảnh chụp trước khi khám nghiệm tử thi: Xác Hope Devane trắng như băng dưới ánh đèn của điều tra viên; ba vết đâm sâu, tím bầm được chụp cận cảnh - một vết ở ngực, một vết ở đáy xương chậu, một vết ngay phía trên thận trái. Kịch bản phía pháp y đưa ra là Hope đã bị đánh bất ngờ và ngất ngay lập tức bằng một cú đâm trúng tim, rồi tiếp đến là nhát đâm thứ hai ở âm đạo, cuối cùng bị đặt nằm sấp bên lề đường và đâm một nhát vào lưng. - Một người chồng đã làm như vậy à. - Tôi nói - Chắc anh tưởng tượng ra điều còn tồi tệ hơn thế nhưng như thế thì chắc phải có nhiều sự tính toán đấy. - Ông chồng này là một trí thức, phải vậy không? Một người biết nghĩ đấy chứ. Khói thuốc phụt ra khỏi xe thành những dải nhỏ, tan biến ngay khi gặp cơn gió ban đêm. - Anh Alex ạ, thực ra, tôi muốn kẻ giết người đó là Seacrest bởi những lý do cá nhân. Vì nếu không phải là ông ta thì vụ trời đánh này sẽ đúng là một cơn ác mộng. - Có quá nhiều nghi can à? - Chính vậy - Milo nói như hát - Có rất nhiều người có thể được xem là không ưa bà ấy.   Mời các bạn đón đọc Ba Nhát Đâm Bí Ẩn của tác giả Jonathan Kellerman.
Bọn Làm Bạc Giả
Paris, những năm đầu thế kỷ 20, định mệnh đã mang tên thiếu niên ngông cuồng bỏ nhà đi, chàng nhà văn lãng tử mê phiêu bạt, gã tú tài nuôi mộng thi thư, quý phu nhân bạc nhược vì tình, tay sinh viên trường y bội bạc và cậu học sinh sa đọa bởi cám dỗ đến với nhau, rồi từng người họ lại nối kết với những người khác, tạo nên một mạng lưới quan hệ chằng chịt… Không có một cốt truyện rõ ràng, không có một đường dây xuyên suốt, từ đầu đến cuối Bọn làm bạc giả là dòng chảy tùy hứng của số phận mà qua đó, bằng ngòi bút tài tình André Gide đã tạo nên một thế giới nhân sinh sâu thẳm, đi tới tận cùng vùng tăm tối trong bản thể con người. Được xem là tác phẩm tiêu biểu cho sự nghiệp sáng tác của Gide, cuốn sách này hàm ẩn cái chân lý văn chương trác tuyệt của ông và nhờ vậy mà trở nên bất tử. Nhận định "Bọn làm bạc giả là một cuốn bách khoa hiếm hoi về sự hỗn hoạn, nhu nhược và tuyệt vọng của nhân loại." - Nhà xuất bản Penguin Books "Tiểu thuyết của Gide mải mê chiêu đãi chúng ta một bữa tiệc đầy ắp những nốt nhạc và thanh âm, một mạng lưới chồng chéo những âm mưu và định mệnh. Nhưng sự hòa trộn đó không tạo nên một bản tạp âm chối tai mà là một phức điệu đích thực, một sự hỗn độn trong trật tự, hệt như một khúc fugue đầy biến động và vô phương hướng của Bach." - Giáo sư Robert Wexelblatt *** “Hình như họ muốn làm chúng ta tưởng rằng con người không có lối thoát nào khác ra khỏi tính ích kỷ, ngoài một lòng vị tha còn gớm ghiếc hơn! Tôi cho rằng nếu có cái gì đấy bỉ ổi hơn con người, và đê hèn hơn, thì đấy là số đông người. Chẳng có lí lẽ nào có thể thuyết phục được tôi là đem cộng những cá thể nhớp nhúa lại sẽ cho ra được một tổng thể tuyệt vời. Chẳng lần nào bước chân lên xe điện hoặc xe lửa mà tôi không ao ước xảy ra một tai nạn khủng khiếp biến cái đám người rác rưởi đó thành một đống nhão nhoét; ồ, kể cả tôi, tất nhiên…” ------------------- “Bọn làm bạc giả” là cuốn tiểu thuyết được coi như dấu mốc quan trọng trong sự nghiệp sáng tác của André Gide. Chính bản thân tác giả cho rằng, đây là cuốn tiểu thuyết đầu tiên trong sự nghiệp của ông, bất chấp cả việc nó được viết  khi A. Gide đã 60 tuổi và có một sự nghiệp sáng tác đồ sộ trước đó. “Bọn làm bạc giả” có nhiều tầng hình ảnh được đan lồng với nhau: những thiếu niên bị sa đà vào cuộc hoan vui; sự lưu hành tiền giả khiến người ta phải đặt ra câu hỏi: tiền giả chỉ đơn giản là tiền hay là sự phơi bày cảm xúc dối trá của con người; chuyện ngoại tình của các ông bố bà mẹ; chuyện sáng tác văn chương, chữa bệnh tâm thần bằng phương pháp tâm lí,…những vấn đề mang tính chất thời sự nóng hổi lúc bấy giờ. Cuốn tiểu thuyết mở ra từng dòng tự sự về thiếu niên ngông cuồng bỏ nhà đi, chàng nhà văn lãng tử mê phiêu bạt, gã tú tài nuôi mộng thi thư, quý phu nhân bạc nhược vì tình, tay sinh viên trường y bội bạc và cậu học sinh sa đọa bởi cám dỗ đến với nhau, rồi từng người họ lại nối kết với những người khác, tạo nên một mạng lưới quan hệ chằng chịt…Các nhân vật được xây dựng rất phức tạp với nhiều lớp lang về xuất thân, tư tưởng, hành động, tái hiện một bức tranh toàn cảnh đời sống tầng lớp thị dân Pháp cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX.  “Bọn làm bạc giả” không được sắp xếp theo trình tự thời gian nhất định mà bị phá vỡ khi A.Gide đã đưa vào tác phẩm những trang nhật ký của nhân vật nhà văn Édouard. Ông đã viết rất nhiều tác phẩm và tác phẩm tiếp theo đây cũng có cái tên “Bọn làm bạc giả”, nói cách khác, cuốn sách của A.Gide là tiểu thuyết bên trong tiểu thuyết .  *** Bernard tự nhủ: - Bây giờ nghe như có tiếng bước chân ngoài hành lang thì phải. Hắn ngẩng đầu nghe ngóng. Không phải: cha và anh hắn ở lại tòa án, mẹ hắn bận đi thăm viếng, chị gái đi dự hòa nhạc; còn thằng út, thằng Caloub, thì trường học đã cầm chân hắn mỗi ngày sau khi bãi trường. Bernard Profitendieu ở nhà hì hục học thi tú tài, còn ba tuần lễ trước mặt hắn nữa thôi. Gia đình tôn trọng sự tịch mịch của hắn, ngạ quỷ thì không. Bernard đã cởi áo veston mặc ngoài mà vẫn khó thở. Từ khung cửa sổ mở ra đường, chỉ có sức nóng ùa vào. Trán hắn nhễ nhại. Một giọt mồ hôi chảy xuống sống mũi, và rơi xuống lá thư hắn đang cầm nơi tay. Hắn nghĩ: “Diễn trò nước mắt rồi đây. Nhưng thà chảy mồ hôi còn hơn là chảy nước mắt.” Phải, ngày tháng đã rành rành. Không nghi ngờ vào đâu được: thư liên quan đến Bernard, chính hắn. Thư gửi cho mẹ hắn, một lá thư tình mười bảy năm xưa, không kí tên. - Chữ cái này là nghĩa gì? Chữ V, cũng có thể là N lắm chứ... Có nên hỏi mẹ không?... Mình hằng tin tưởng ở sự biết điều của mẹ. Mình tự do tưởng tượng một ông hoàng nào đó. Còn hơn nếu vỡ lẽ mình là con của một tên ma cô nào thì sao? Không biết cha đẻ là ai, mình mới đỡ sợ phải giống ông ta. Mọi cuộc điều tra đều sinh trói buộc. Đáng kể chăng là sự nhẹ nhõm. Đừng đào sâu. Hôm nay thế cũng đủ cho ta rồi. Bernard gấp thư lại. Thư cùng một khổ giấy với mười hai lá thư khác trong gói. Một dải màu hồng buộc lại tất cả mà hắn không cần phải tháo ra, hắn chuồi thư vào đó để thắt cả xấp lại như cũ. Hắn đặt xấp thư vào chiếc hộp nhỏ rồi đặt chiếc hộp vào ngăn kéo bàn. Ngăn kéo không phải mở ra, nó đã tiết lộ bí mật bằng ngỏ trên. Bernard chắp nối những miếng rời của mặt gỗ đỡ tấm mã não phủ lên. Hắn nhẹ tay thận trọng, sập tấm mã não xuống, đặt lại lên trên đó hai giá đèn bằng pha lê cùng với chiếc đồng hồ kềnh càng mà hắn vừa mới đem ra sửa chơi. Đồng hồ gõ bốn tiếng. Hắn vặn lại cho đúng giờ. - Hai cha con ông dự thẩm và ông luật sư không về trước sáu giờ đâu. Ta đủ thì giờ. Thế nào cũng phải cho ông dự thẩm về thấy trên bàn tờ thư đẹp đẽ trong đó ta sẽ nói ý nghĩa sự ra đi của ta. Nhưng trước khi viết, mình thấy rất cần giải thông tư tưởng một chút đã và đi tìm gặp thằng bạn Olivier để cầm chắc một chỗ đậu, ít nữa là tạm thời. Olivier bạn thiết của ta ơi, đã đến lúc ta thử lửa tính chiều lòng của cậu và để cho cậu chứng tỏ giá trị của cậu với ta. Cái đẹp trong tình bạn của hai đứa chính là từ trước tới nay chúng ta chưa hề lợi dụng nhau. Nào! Yêu cầu giúp đỡ một việc ngộ nghĩnh chắc không đến nỗi tẻ nhạt. Phiền nỗi Olivier không ở một mình. Mặc, ta sẽ tìm cách tách riêng hắn ra. Ta muốn cho hắn hoảng kinh vì sự trầm tĩnh của ta. Chính trong cõi bất thường mình mới cảm thấy mình tự nhiên hơn hết. Con đường T..., nơi Bernard Profitendieu sống cho tới hôm nay ở gần sát vườn Luxembourg. Tại đây, cạnh hồ nước Médicis, trên lối đi nhìn xuống hồ nước, mấy đứa bạn hắn có thói quen hẹn nhau mỗi ngày thứ tư từ bốn đến sáu giờ, chuyện trò về nghệ thuật, triết học, thể thao, chính trị và văn học, Bernard bước đi rất nhanh, nhưng khi qua khỏi cổng vườn, hắn nhác thấy Olivier Molinier và lập tức chậm chân lại. Cuộc hội họp hôm đó đông đảo hơn lệ thường, có lẽ vì đẹp trời. Có vài đứa nhập bọn mà Bernard chưa quen. Mỗi đứa trong bọn trẻ này, hễ đứng trước cả bọn, là đóng một vai trò và hầu như mất hết tự nhiên. Olivier bừng đỏ mặt khi thấy Bernard đi tới và, khá đột ngột, hắn bỏ người thiếu nữ đang chuyện trò, lảng ra xa. Bernard là bạn thân thiết nhất của hắn, vì thế Olivier vô cùng thận trọng không làm ra vẻ gì là kiếm tìm hắn; đôi khi hắn còn vờ vĩnh không trông thấy Bernard nữa là khác. Trước khi tới với Olivier, Bernard phải đối đầu với nhiều nhóm, và chính vì cũng giả vờ không tìm kiếm Olivier nên Bernard còn chần chờ. Bốn đứa bạn trong bọn đang đứng quanh một đứa nhỏ người để râu đeo kính xấp xỉ lớn tuổi hơn mấy đứa kia, đang cầm cuốn sách. Hắn tên Dhurmer. Dhurmer ngỏ lời với một đứa trong bọn một cách đặc biệt hơn, nhưng lấy làm sung sướng rõ rệt vì được cả bọn lắng nghe. Dhurmer nói: - Mày nghĩ coi. Tao gắng tới trang ba mươi vẫn không thấy màu sắc gì hết, một chữ để mô tả cũng không. Chàng ta nói về một người đàn bà, áo đỏ hay xanh tao cũng chẳng hay chứ đừng nói gì. Tao, hễ không có màu sắc thì giản dị lắm, tao chẳng nom thấy gì. Và vì cần đại ngôn, nhất là vì hắn cảm thấy mình bị coi như mất bớt vẻ chững chạc, hắn nhấn mạnh: - Tuyệt đối không thấy gì hết. Bernard không để tai tới thằng khoa ngôn nữa, hắn xét thấy không nên bỏ đi quá vội, nhưng hắn đã bắt đầu nghe bọn kia cãi cọ ở sau lưng và Olivier trở lại nhập bọn sau khi bỏ rơi người thiếu nữ; một đứa ngồi trên chiếc ghế dài đọc báo Action Française. Olivier Molinier, giữa bọn chúng, sao trông trịnh trọng thế! Hắn vẫn là một trong mấy đứa nhỏ tuổi nhất. Khuôn mặt còn trẻ thơ và ánh mắt của hắn biểu lộ sự sơ khai của tư tưởng. Hắn dễ đỏ mặt. Tính tình đằm thắm. Dù hắn tỏ ra hòa nhã đối với mọi người, không hiểu một sự dè dặt khó hiểu nào đó, một sự e ấp nào đó vẫn ngăn cách hắn với bạn bè. Hắn khổ tâm vì điều đó. Không có Bernard thì hắn đã khổ hơn. Giống như Bernard lúc này, Molinier ghé vào từng nhóm một lát vì nể bạn, nhưng những điều hắn nghe, không có gì khiến hắn lưu tâm. Hắn nhòm qua vai thằng đọc báo. Bernard, không quay lại, nghe Olivier nói: - Mày không nên đọc báo, nó làm mày ứ huyết. Và tên kia đáp trả lại chanh chua: - Còn mày, hễ ai nói tới Maurras(1) là mày xanh mặt. Tiếp theo, một tên thứ ba, giọng giễu, hỏi: - Bộ mày thích những bài của Maurras sao? Và tên thứ nhất đáp: - Chán ngấy, nhưng tao thấy Maurras có lí. Kế đó, một tên thứ tư mà Bernard không nhận ra giọng: - Còn cái gì không làm mày ngấy, mày đều tưởng là thiếu bề sâu? Tên thứ nhất cãi lại: - Mày tưởng chỉ cần ngốc là chọc cười được ư? - Lại đây! - Bernard vừa nói nhỏ giọng, vừa đột ngột nắm lấy tay Olivier. Hắn kéo Olivier đi ra xa mấy bước. - Trả lời mau, mình có chuyện gấp. Cậu có nói với mình là cậu không ngủ cùng một tầng lầu với hai ông bà, đúng không? - Mình đã chỉ cửa phòng mình cho cậu rồi, cửa phòng mở ra ngay cầu thang, đi một nửa tầng lầu là lên nhà chính. - Cậu có nói em cậu ngủ chung với cậu? - Phải, thằng Georges. - Cậu và Georges không thôi? - Ừ. - Thằng nhỏ biết kín miệng không? - Nếu cần. Tại sao thế? - Là thế này. Mình đã bỏ nhà, hay nói đúng hơn, tối hôm nay mình sẽ bỏ nhà. Mình chưa biết đi đâu. Cậu có thể chứa mình một đêm không? Olivier mặt tái bệch hẳn ra. Chấn động quá mãnh liệt, hắn không đủ sức nhìn Bernard. Olivier bảo: - Được, nhưng đừng đến trước mười một giờ. Mỗi đêm má xuống thăm hỏi trước khi đi ngủ rồi khóa cửa. - Thế thì làm sao... Olivier cười: - Mình có chìa khóa khác. Cậu sẽ gõ cửa khe khẽ để khỏi đánh thức Georges nếu hắn ngủ. - Liệu bác gác cổng có để mình vào không? - Mình sẽ báo cho bác biết. Yên trí! Mình với bác ăn ý nhau lắm. Chính bác cho mình cái chìa khóa kia đấy. Hẹn gặp lại. Hai người từ giã không bắt tay nhau. Và trong khi Bernard bỏ đi, nghiền ngẫm lá thư muốn viết mà ông dự thẩm sẽ phải bắt gặp khi trở về, thì Olivier, vốn không muốn người ta bắt gặp mình đứng riêng với Bernard, nên tìm tới Lucien Bercail mà bọn kia để cho đứng hơi riêng rời. Nếu không yêu Bernard nhất thì Olivier đã yêu thích Lucien lắm đấy. Bernard bạo gan bao nhiêu thì Lucien rụt rè bấy nhiêu. Ai nấy cảm thấy Lucien yếu ớt, dường như hắn chỉ sống bằng trái tim và trí tuệ. Hắn ít khi có can đảm sấn sổ tới, nhưng hắn đã mừng ra mặt ngay khi thấy Oilivier lại gần. Lucien có làm thơ chăng, mọi người đều nghi hoặc; tuy nhiên thiết tưởng Olivier là kẻ độc nhất được Lucien thổ lộ dự định. Cả hai lần ra mé khuôn viên. Lucien bảo: - Tôi muốn làm sao thuật lại, không phải chuyện một nhân vật, nhưng câu chuyện về một địa điểm, - đấy, chẳng hạn câu chuyện một lối đi công viên, như lối đi này, thuật lại những gì xảy ra - từ sáng tới chiều. Trước tiên bọn giữ em đến, rồi bọn vú em đeo những tấm dải... Không, không hẳn... trước tiên là người toàn màu xám tất cả, không phân biệt đàn ông đàn bà tuổi tác, để quét dọn lối đi, tưới cỏ, thay hoa, tóm lại để sửa soạn sân khấu và trang trí trước khi cổng mở, anh hiểu chứ? Bấy giờ bọn vú em vào. Bọn bé con vọc cát cãi cọ, bọn giữ em tát bọn nhỏ. Kế đó là các lớp học nhỏ bãi ra... thêm bọn đàn bà thợ thuyền nữa. Có những kẻ nghèo khó đến ngồi ăn trên ghế. Sau đó là bọn thanh niên kiếm tìm nhau, bọn khác trốn tránh nhau, bọn nữa đứng ngồi riêng, tư lự. Và kế đó là dân chúng, vào lúc nhạc trỗi lên và lúc các nhà hàng đóng cửa. Bọn học sinh, sinh viên như hiện giờ. Buổi chiều, bọn tình nhân hôn nhau, có những kẻ chia tay khóc lóc. Cuối cùng, hết ngày, một cặp người già... Và thình lình, một hồi trống khua: đóng cổng. Mọi người đi ra. Kịch chấm dứt. Anh hiểu chứ: một cái gì đó cho mình cái cảm giác thôi hết rồi của mọi thứ, cái cảm giác của sự chết... nhưng vẫn không nói tới cái chết, cố nhiên. - Phải, tôi hiểu lắm, - Olivier đáp, hắn đang nghĩ tới Bernard chứ có nghe lọt chữ nào đâu. Lucien hăng say nói tiếp: - Chưa hết, chưa hết! Tôi muốn, trong phần coi như màn vĩ thanh, chứng minh chính cái lối đi này đây, ban đêm, sau khi mọi người bỏ đi hết rồi, thì thanh vắng, đẹp hơn ban ngày nhiều; trong cảnh im lặng mênh mông, mọi tiếng động trong thiên nhiên xuất thần: tiếng vòi nước, tiếng gió trong lá, và tiếng lảnh lót của con chim đêm. Ban đầu tôi nghĩ tới chuyện thêm vào đó những bóng tối, có lẽ thêm những bức tượng... nhưng tôi cho rằng như thế lại nhạt nhẽo hơn; cậu nghĩ sao? Mời các bạn đón đọc Bọn Làm Bạc Giả của tác giả André Gide.
Án Mạng Ở Công Viên Gorky
Ba vụ án mạng xảy ra tại trung tâm vui chơi giải trí Moscow : ba xác chết được tìm thấy đóng băng trong tuyết, tất cả các khuôn mặt và các ngón tay đều biến mất. Chánh thanh tra tổ án mạng Arkady Renho là một con người tài giỏi, nhạy cảm, trung thực và hoài nghi tất cả mọi thứ về nghề nghiệp của mình. Để xác minh danh tính của các nạn nhân và hé mở sự thật, anh phải chiến đấu với lực lượng cảnh sát của KGB, FBI và cả New York, giống như thực hiện một nhiệm vụ bất khả thi - và anh phải cố gắng sống sót để làm điều đó. Bộ sách Arkady Renko gồm có: Án Mạng Ở Công Viên Gorky (#1) Chó Sói Cắn Chó Nhà (#5) ... *** Martin Cruz Smith, tên khai sinh là Martin William Smith, sinh ngày 3 tháng 11 năm 1942, tại Reading, Pennsylvania, Mỹ. Ông tốt nghiệp trường Đại học Pennsylvania, Philadelphia năm 1964. Hiện tại, ông đang sống cùng gia đình ở San Rafael, California. Từ năm 1965 đến 1969, Martin trở thành phóng viên và chỉ bắt đầu viết tiểu thuyết hư cấu từ thập niên 70 với tác phẩm đầu tay, The Indians Won. Canto for a Gypsy, cuốn tiểu thuyết thứ ba trong sự nghiệp của ông và là cuốn thứ hai viết về nhân vật Roman Grey, một nhà môi giới nghệ thuật người Gypsy, đã được đề cử giải Edgar. Một tác phẩm khác cũng từng được đề cử giải Edgar, Nightwing (1977), được coi là tiểu thuyết đột phá của Martin và được chuyển thể thành bộ phim cùng tên vào năm 1979. Martin Cruz Smith nổi tiếng với series tiểu thuyết xoay quanh nhân vật trung tâm là chuyên gia điều tra người Nga, Arkady Renko, xuất hiện lần đầu trong tác phẩm Án mạng ở công viên Gorky (Gorky Park). Renko được biết đến như một điều tra viên cao cấp chuyên gắn liền với các vụ án giết người và luôn sẵn sàng phơi bày bản chất tham nhũng, bất lương trong bộ phận những nhân vật chủ chốt có tầm ảnh hưởng lớn cũng như được bảo vệ chặt chẽ của thời “Cải tổ”. Án mạng ở công viên Gorky đã được tạp chí New York Times đánh giá là “cuốn tiểu thuyết trinh thám đầu tiên của thập niên 80”, đồng thời trở thành cuốn sách bán chạy nhất và được Hiệp hội Nhà văn Trinh thám trao giải Gold Dagger. Trong suốt thập niên 90, Martin Cruz Smith đã hai lần được Hiệp hội các nhà văn viết truyện trinh thám quốc tế nhánh Bắc Mỹ trao tặng giải thưởng Dashiell Hammett, lần đầu vào năm 1996 với tác phẩm Rose và lần thứ hai với Havana Bay năm 1999. Năm 2004, Martin Cruz Smith xuất bản tác phẩm Wolves Eat Dogs, cuốn tiểu thuyết thứ năm trong series tám quyển về Arkady Renko. Tác phẩm đã được Bách Việt xuất bản vào quý III năm 2015, với tựa đề Chó sói cắn chó nhà. Tháng 9 năm 2010, sự trở lại của Martin và Arkady Renko đã đưa tác phẩm thứ bảy, Three Stations, lên vị trí đầu bảng trong danh sách tiểu thuyết bán chạy nhất của tạp chí New York Times. Bachviet Books *** Martin Cruz Smith sinh ngày 3 tháng 11 năm 1942 tại hoa Kỳ. Martin Cruz Smith xếp hạng nổi tiếng thứ 36200 trên thế giới và thứ 269 trong danh sách Tiểu thuyết gia nổi tiếng. Ông theo học tại Đại học Pennsylvania vào đầu những năm 1960, tốt nghiệp với bằng văn bản sáng tạo. Vào giữa những năm 1960, ông bắt đầu làm việc như một nhà báo; ông xuất bản tác phẩm văn học đầu tiên của mình, Người Ấn Độ Won, vào năm 1970. *** Matxcova chìm đắm trong sắc màu. Những ngọn đèn pha lờ mờ ở Quảng trường Đỏ hòa lẫn ánh đèn neon từ các sòng bạc trong Quảng trường Cách mạng. Ánh sáng len lỏi chui lên từ trung tâm thương mại dưới lòng đất ở Manezh. Ánh đèn rực rỡ bao quanh các tòa tháp bằng kính và đá hoa cương bóng loáng, trên đỉnh mỗi tòa là tháp hình chóp nhọn. Thị trưởng thành phố yêu thích những ngọn tháp. Dẫu những mái vòm mạ vàng vẫn thấp thoáng quanh Vành đai Garden*, nhưng hằng đêm máy xúc lại xé toạc thành phố già nua và đào những cái hố ngập tràn ánh sáng ngày càng rộng hơn để nhào nặn nên một Matxcova hiện đại, cao vút như Houston hay Dubai. Đó chính là Matxcova mà Pasha Ivanov đã góp phần xây dựng, một khung cảnh đang chuyển dịch của các mảng kiến tạo, dòng dung nham nóng rực và những sai lầm chết người. Điều tra viên cấp cao Arkady Renko ngó ra ngoài từ cửa sổ tầng mười nhìn xuống thi thể Pasha Ivanov đang nằm trên vỉa hè. Ivanov đã chết nhưng không quá đẫm máu, tay và chân gập lại trong tư thế quái dị. Hai chiếc Mercedes màu đen đỗ ở lề đường, một của Ivanov, và chiếc SUV còn lại dành cho các vệ sĩ của ông ta. Đôi khi Arkady nhận thấy, điểm chung của các doanh nhân thành đạt lẫn những ông trùm mafia ở Matxcova là đều sở hữu hai con Mercedes dòng SS-black của Đức. Ngoài các vệ sĩ từ chiếc xe hộ tống của Ivanov, thì lễ tân và nhân viên điều hành thang máy của tòa nhà cũng được trang bị vũ khí. Hành lang, thang máy dành cho khách, lối đi cho người phục vụ và mặt trước tòa nhà đều gắn máy quay. Pasha đã đến đây lúc 9:28 tối, lên thẳng căn hộ an toàn nhất Matxcova và vào lúc 9:48 thì lao thẳng xuống đường phố. Arkady đã đo khoảng cách từ điểm Ivanov chạm đất tới chân tòa nhà. Nếu là một vụ giết người thì khoảng cách đó thường gần hơn vì nạn nhân sẽ cố gắng vùng vẫy để không bị rơi. Còn nếu là tự tử thì điểm rơi sẽ có một đích đến duy nhất và cách xa hơn. Ivanov gần như đã chạm tới lòng đường. ... Mời các bạn đón đọc Án Mạng Ở Công Viên Gorky của tác giả Martin Cruz Smith.
Trái Tim Của Brutus
Trái tim của Brutus được nhà xuất bản Kobunsha xuất bản lần đầu năm 1989, và năm 2011 được chuyển thể thành phim truyền hình do diễn viên Fujiwara Tatsuya thủ vai chính. GIỚI THIỆU SÁCH: Suenaga Takuya đảm trách phát triển robot sử dụng trí thông minh nhân tạo ở công ty Công nghiệp nặng MM. Là một gã trai sáng giá, đầy hứa hẹn tương lai, y trở thành “ứng cử viên” chức hôn phu của Hoshiko – con gái út ông chủ. Vì thế, khi người tình Yasuko bắt đầu thai nghén đứa con của gã, Takuya hoang mang. Cùng với Naoki – anh trai cùng cha khác mẹ của Hoshiko, và Hashimoto – đồng nghiệp ở công ty, y quyết định vạch ra một kế hoạch giết người… Một cuộc “chạy tiếp sức” cho án mạng được bắt đầu hoàn hảo, nhưng cái kết lại nằm ngoài sức tưởng tượng của bất cứ ai. *** Suenaga Takuya là một kĩ sư triển vọng trong lĩnh vực phát triển người máy thông minh cho một doanh nghiệp sản xuất thiết bị công nghiệp cực thịnh. Hắn là một kẻ tham vọng, luôn tìm mọi cách để leo lên và đang nhắm tới vị thế con rể của Phó giám đốc công ty. Ai dè, mọi tính toán của hắn trật lất khi cô nhân tình mang thai và khăng khăng không định bỏ đứa trẻ. Takuya bị dồn vào thế bí, thận trọng suy tính và quyết định bày ra một kế hoạch giết người… Brutus là tên một nhân vật nổi tiếng trong lịch sử La Mã. Ban đầu, ông ta thuộc phe đối địch với Julius Caesar nhưng về sau đã quy hàng và được Caesar trọng dụng. Có điều, cuối cùng ông lại chính là kẻ đã ám sát thành công Ceasar dẫn đến sự sụp đổ của Đế chế La Mã. Vậy trong câu truyện về trái tim kẻ phản bội này, Higashino Keigo muốn truyền thông điệp gì tới người đọc? *** Về tác giả: Higashino Keigo sinh năm 1958 tại Osaka, là nhà văn trinh thám hàng đầu hiện nay tại Nhật Bản. Năm 1985, Higashino Keigo giành được giải Edogawa Rampo lần thứ 31 cho tác phẩm trinh thám hay nhất với tiểu thuyết Giờ tan học. Các năm sau đó, Higashino Keigo liên tục được đề cử vô số giải thưởng văn học lớn. Năm 1999, ông đoạt giải Mystery Writers of Japan Inc với tiểu thuyết Bí mật của Naoko, và năm 2006, là giải Naoki lần thứ 134 cho Phía sau nghi can X. Các tác phẩm khác của Higashino Keigo đã được Nhã Nam phát hành: - Phía sau nghi can X - Bí mật của Naoko - Bạch dạ hành - Điều kỳ diệu ở tiệm tạp hóa Namiya - Hoa mộng ảo - Ảo dạ - Ma nữ của Laplace - Phương trình hạ chí - Sự cứu rỗi của Thánh nữ - Ma thuật bị cấm - Án mạng mười một chữ - Vụ án mạng ở lữ quán Kairotei *** Mở đầu Lúc băng ngang Naomi, không hiểu sao Takashima Yuuji cảm thấy có cơn ớn lạnh chạy dọc sống lưng. Anh đứng lại, ngước nhìn Naomi. Cô vẫn vô cảm như mọi khi, tiếp tục cử động cánh tay thon dài nhịp nhàng và chính xác đến ngỡ ngàng. Anh không nhận ra chút bất thường nào trong thao tác ấy. Tất cả đều như mọi ngày. Yuuji đưa mắt nhìn sang Haruko đứng cạnh Naomi. Haruko đảm nhiệm công đoạn trước Naomi, lắp ghép và hàn các chi tiết. Còn Naomi thực hiện lắp ghép hoàn thiện. Rời khỏi vị trí của Naomi và Haruko, Yuuji trở lại lối đi, bắt đầu tiến trình thường nhật. Bên trong xưởng tối âm u. Nhưng thực ra có tối cũng chẳng sao. Không ảnh hưởng gì đến công việc của các cô gái cả. Như đêm nay, bởi anh ở đây nên mới có chút ánh đèn le lói. Vì Yuuji sẽ chẳng thể đi lại nếu không có đèn. Anh tiến vài mét rồi dừng bước, kiểm tra công việc của các đồng nghiệp luôn im lặng dọc hai bên lối đi. Lúc này là 3 giờ sáng. Tại xưởng lắp ráp số 3 này, 30 con rôbốt đang hoạt động. Chúng không cần nghỉ ngơi hay ăn uống gì mà vẫn có thể làm việc suốt 24 giờ. Tính cả Yuuji thì chỉ có hai con người làm việc ở xưởng này. Thế nhưng anh không hề gặp cộng sự của mình trong giờ làm. Bởi nếu người này làm ca ngày, người còn lại sẽ làm ca đêm. Do vậy, thẻ chấm công của cả hai hầu như không có con số nào trùng lặp. Yuuji phải trải qua đêm dài chỉ có 30 con rôbốt vô cảm bầu bạn. Khi trời sáng, anh sẽ thay ca với cộng sự còn lại. Hai người chỉ gặp nhau tại thời điểm đó. Nhưng thật ra họ cũng không giáp mặt nhau nhiều. Bởi lẽ, khi giao ca cũng chỉ cần nhập liệu vào máy tính là được rồi. Sau khi kết thúc công việc, Yuuji sẽ thay đồ rồi về ký túc xá dành cho nhân viên độc thân, ăn một suất ăn dở tệ ở căng tin dành cho người làm ca đêm, chui vào bồn tắm, xem cuộn băng đã hẹn giờ ghi hình rồi đi ngủ. Đến khi tỉnh dậy thì trời đã xế chiều. Sau đấy lại là một bữa ăn dở tệ và ca trực khác. Trong xưởng, 30 con rôbốt sẽ vẫn vận hành theo đúng nhịp điệu mọi ngày, thực hiện công việc y hệt đêm trước. Anh sẽ tiếp tục giám sát chúng, sửa chữa hỏng hóc và cung cấp linh kiện. Điều này sẽ tiếp diễn trong hai tuần. Sau đó, anh sẽ làm ca ngày hai tuần rồi lại phải đổi sang ca đêm. Yuuji đã sống như vậy hơn một năm nay. Mình chịu hết nổi rồi! Yuuji ngước nhìn con rôbốt hàn cỡ lớn, thì thầm. Tính tới đêm nay, anh đã làm ca đêm được mười ngày rồi. Anh muốn nói chuyện với ai đó, muốn được tiếp xúc với con người. Yuuji lại nhớ tới bạn gái mình. Cô có mái tóc dài, khuôn mặt làm người ta liên tưởng tới mấy con búp bê Nhật. Hầu như Chủ nhật nào hai người cũng hẹn hò. Bản thân anh tương đối ít nói, và bạn gái anh cũng thuộc diện kiệm lời so với những cô gái trẻ khác. Dẫu vậy, những lúc ở cạnh cô, anh thấy tinh thần mình hồi phục. Tình cảm ấy tiếp thêm động lực để anh tiếp tục cố gắng một tuần nữa. Tuy nhiên, mấy Chủ nhật gần đây hai người không thể gặp nhau. Bạn gái anh luôn có việc bận không tránh được. Chẳng biết làm gì khác, anh dạo phố một mình, mua sắm linh tinh rồi quay về. Điều này cũng làm tâm trí thảnh thơi đôi chút, nhưng không sánh bằng việc hẹn hò với bạn gái. Đã hai tuần chưa gặp cô, Yuuji thấy bồn chồn không yên. Anh đang phải làm ca đêm nên cũng không gọi điện được. Yuuji tự nhủ, sau khi kết hôn sẽ xin chuyển sang bộ phận khác bằng bất cứ giá nào. Anh vẫn chưa giới thiệu bạn gái với cha mẹ, nhưng đã quyết định cưới cô. Như vậy hai người sẽ được bên nhau hằng ngày. Nhưng nếu cứ làm công việc hiện tại thì mong ước đó khó thành hiện thực. Cả hai đều định đi làm, nếu cứ thế này, mỗi hai tuần sinh hoạt của họ sẽ bị lệch. Nhưng dù có chuyển sang bộ phận khác đi nữa, công việc của Yuuji thường phải làm theo ca, nên có lẽ sẽ không tránh được những buổi làm đêm. Nhưng vậy cũng tốt hơn hiện giờ. Ít ra anh còn được làm chung với những con người bằng xương bằng thịt. Đối với Yuuji, thế đã đủ hấp dẫn lắm rồi. Thu nhập có giảm một chút cũng được. “Không rõ nhân tài nào đã bày ra trò này, nhưng cũng phải nghĩ đến hoàn cảnh của tôi chứ!” Đứng nhìn hàng dài rôbốt đang làm việc, Yuuji tặc lưỡi. Đúng lúc đó, Yuuji nghe thấy tiếng còi báo động vang lên từ hướng anh vừa đi qua. Không cần nhìn đèn nhấp nháy, anh đã cất bước về phía rôbốt phát ra tín hiệu. Chỉ cần chút khác biệt trong âm thanh, Yuuji có thể biết ngay là con rôbốt nào. Hơn nữa, chi có vài đối tượng quen thuộc là hay gặp sự cố như vậy. “Quả đúng là mày à.” Anh nhìn Haruko, càu nhàu. Haruko đã dừng hoạt động trong khi rút linh kiện từ thiết bị cung cấp. Tuy nhiên, lỗi không nằm ở rôbốt Haruko mà ở thiết bị cung cấp linh kiện. Do phương thức sản xuất đa dạng sản phẩm với số lượng nhỏ1, thiết bị này nhả ra nhiều linh kiện có kích cỡ khác nhau. Vì vậy máy cũng hay bị nghẹt như thế. Thiết bị cung cấp linh kiện nằm giữa Haruko và Naomi. Yuuji nhòm vào kiểm tra, quả nhiên là linh kiện bị lệch làm máy nghẹt. Anh cố gỡ ra, nhưng mãi không được. “Khỉ thật!” Yuuji ngẩng lên, nhìn sang Haruko và thì thầm. Đúng lúc đó, Yuuji thấy cái bóng của Naomi đang bắt đầu cử động, hắt xuống thân máy của Haruko. Anh không kịp ngoái đầu lại hay hét lên. Khi anh định chạy trốn, cánh tay bằng thép thon dài của Naomi đập mạnh vào đầu anh, vốn chỉ đang đội mũ đồng phục. Yuuji mất ý thức trong giây lát, gục xuống mặt bàn trước con robot. Naomi đổ sập xuống cơ thể anh. Yuuji rên rỉ yếu ớt, sau đó tiếng rên tắt đi. Vài giây sau, Naomi bắt đầu phát còi báo động. Tuy nhiên không có ai lao đến. Sự việc xảy ra vào 3 giờ khuya. Ngoài Naomi và Haruko, những con rôbốt khác vẫn làm việc miệt mài. Phải một lúc sau, những cỗ máy đã mất người quản lý ấy mới báo còi ầm ĩ vì đủ loại hỏng hóc. Mời bạn đón đọc Trái Tim Của Brutus của tác giả Higashino Keigo & Nguyễn Quang Phương (dịch).