Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

PDF Triết học Descartes

Cuốn sách này được xem như một toàn thư về Descartes. Cuốn sách là bản in chung 3 trong 1: 2 tác phẩm quan trọng nhất của Descartes được lịch sử triết học đề cao là "Phương pháp luận" và "Những suy niệm siêu hình học" do GS. Trần Thái Đỉnh dịch sang tiếng Việt; và cuốn sách biên khảo "Triết học Descartes".Triết học truyền thống khởi đi từ thế giới và luôn lấy thế giới làm nền, còn triết học Descartes lại khởi sự từ hành vi suy tưởng của con người và luôn lấy đó làm căn cứ. Triết học của Descartes là triết học tinh thần và triết học truyền thống là triết học thiên nhiên. Descartes đả phá tất cả, Hy Lạp và Trung cổ khởi công từ chỗ truy nhận thế giới vĩnh cửu và tuyệt đối chân thật, nay Descartes khởi sự từ chỗ coi thế giới là truyện bày đặt, truyện biến ngôn và ông khởi sự từ hành vi suy tư của con người. Descartes xác định lại 2 lĩnh vực khoa học và triết học, phân ranh rõ rệt giữa những truy tầm khoa học và những suy niệm triết học. Descartes khởi sự triết học từ tư tưởng con người, tức yếu tố tinh thần của con người chứ không xây triết học trên thế giới như triết học truyền thống đã làm. Vì vậy, triết học của Descartes là triết học về con người, nhưng ngạc nhiên là ông không định nghĩa con người là con vật có lý trí. Ông đề cao ý chí (volonté) và tự do hơn. Ông coi ý chí là yếu tố căn bản và cao trọng nhất nơi con người. Có thể nói rằng, con người trong triết Descartes không còn là một vật trong thiên nhiên nữa, nhưng là một tinh thần. Descartes coi con người là một hữu thể siêu việt. Và Descartes là chỗ đứt quãng, phân ranh hai thời đại đi trước và đi sau thành hai nền tư tưởng khác hẳn nhau.

Nguồn: dantocking.com

Đọc Sách

PDF 300 lời giải đáp về luyện Khí công để chữa bệnh - Mã Tế Nhân
Khí Công là một phép luyện trị bệnh, tự thân tâm mình rèn luyện không cần phải uống thuốc, mà có công hiệu ngừa bệnh trị bệnh, giữ được sức khỏe, tăng thọ, ích trí, nó đã có thể là một tiết tấu sinh hoạt, điều tiết được mọi sự căng thẳng, lại có thể nâng cao được hiệu suất công tác. Điều này càng làm cho khí công được nhiều người ưa thích.Công pháp Khí công rất phong phú về yêu cầu và hiệu quả thu hoạch của mỗi loại công pháp đều khác nhau. Những người bị bệnh mạn tính, muốn thông qua rèn luyện Khí công để tự chữa bệnh, thường là sẽ sinh ra nhiều vấn đề, từ chọn lựa công pháp tới chính xác nắm vững được công pháp, từ phản ứng có được hay không, cho đến làm thế nào củng cố được công hiệu chữa trị, từ hiểu rõ khái quát về Khí công cho tới lựa chọn học tập đề cao được công pháp, để tiến tới việc tăng cường thể chất... Đó là những vấn đề mà mọi người muốn được giải đáp rõ ràng và cách chỉ đạo chính xác!Cuốn sách này ra đời chính là để đáp ứng nhu cầu đó của những ai yêu thích và quan tâm đến Khí công. Nội dung sách lấy việc giản minh chính xác và thực dụng có công hiệu làm đặc điểm. Nó chẳng những giúp cho người mới học tiến bước vào cửa Khí công, mà còn thích hợp với mọi người ưa thích Khí công và chỉ đạo Khí công! Tuy chưa giải đáp được thật đầy đủ mọi vấn đề Khí công, song có thể giúp ích cho bạn phần nào về sự hiểu biết và thực hành!Mã Tế Nhân
THỜI CỦA THÁNH THẦN - HOÀNG MINH TƯỜNG - TẢI SÁCH PDF MIỄN PHÍ
Thời của thánh thần là một tiểu thuyết của nhà văn Hoàng Minh Tường xuất bản vào tháng 8 năm 2008. Sách dày 650 trang, chia làm hai phần với 29 chương, do Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành. Cuốn sách đề cập đến vấn đề trong xã hội Việt Nam trong thời kỳ từ Cách mạng Tháng Tám 1945 đến thời kỳ hội nhập hiện nay, như cải cách ruộng đất, nhân văn giai phẩm, thống nhất đất nước, di tản, hòa hợp dân tộc... thông qua số phận của một gia đình.Ngay sau khi phát hành trong tháng 8 năm 2008, sách đã bị thu hồi.Tiểu thuyết này viết về những số phận khác nhau của những con người trong một gia đình có truyền thống khoa bảng ở một làng quê châu thổ sông Hồng. Bốn anh em trai nhà họ Nguyễn Kỳ là Khôi, Vĩ, Vọng, Quặc (ba người con đẻ, một con nuôi), sau Cách mạng tháng Tám 1945, mỗi người đi xa một ngả.Sau đó, có người trở thành cán bộ lãnh đạo; có người là nhà thơ nhưng bị quy là thành phần phản động, theo nhóm Nhân văn Giai phẩm, thuộc hàng ngũ xét lại; có người lại di cư vào Nam rồi đi di tản sang Mỹ; người thì ở nhà cày ruộng... "Ba thế hệ của một gia đình, từ ông Lý Phúc, đến bốn người con trai của ông, rồi đến những đứa cháu của ông đã vật vã trên nửa thế kỉ của đất nước trong cơn gió bụi và cuộc bể dâu. Dòng xoáy khốc liệt suốt hai cuộc chiến tranh đã cuốn họ đi, nhào nặn nên tính cách và số phận của họ."Toàn bộ các sự kiện lớn của đất nước, bao gồm Cải cách ruộng đất; đấu tranh chống Nhân văn Giai phẩm, chống Xét lại; Giải phóng miền Nam - Thống nhất đất nước; đến hoà hợp dân tộc... những vấn đề cốt lõi ấy, được xem xét và đánh giá qua những số phận mấy đời chìm nổi của một gia đình đều được tái hiện thông qua số phận của gia đình và những người con, cùng như những người có liên quan.
Đinh Tiên Hoàng PDF (NXB Nhật Nam 1929) - Nguyễn Tử Siêu
Đinh Tiên Hoàng (Đinh Bộ Lĩnh 968-979) Đinh Bộ Lĩnh người động Hoa Lư, châu Đại Hoàng (Hoa Lư, Ninh Bình), con trai ông Đinh Công Trứ, một nha tướng của Dương Đình Nghệ, giữ chức thứ sử Châu Hoan. Cha mất sớm, Đinh Bộ Lĩnh theo mẹ về quê ở, thường đi chăn trâu, bắt lũ trẻ khoanh tay làm kiệu để ngồi cho chúng rước và lấy bông lau làm cờ bày trận giả đánh nhau. Lớn lên rất thông minh, có khí phách và có tài thao lược. Thấy nhân dân khổ sở vì loạn 12 sứ quân, Ông dựng cờ nghĩa, mong lập nghiệp lớn. Đinh Bộ Lĩnh theo về dưới cờ của Trần Minh Công (Trần Lãm) ở Bố Hải Khẩu, được Trần Lãm nhận làm con nuôi. Khi Trần Lãm mất, Đinh Bộ Lĩnh thay quyền đem quân về giữ Hoa Lư, chiêu mộ hào kiệt để dẹp loạn 12 sứ quân. Năm Mậu Thìn (968) sau khi dẹp xong loạn 12 sứ quân, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng đế lấy niên hiệu là Tiên Hoàng đế, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư.Đinh Tiên HoàngNXB Nhật Nam 1929Nguyễn Tử Siêu88 TrangFile PDF-SCAN
PDF TRUYỀN KỲ MẠN LỤC - NGUYỄN DỮ - TẢI SÁCH PDF MIỄN PHÍ
Truyền kỳ mạn lục (chữ Hán: 傳奇漫錄, nghĩa là Sao chép tản mạn những truyện lạ), là tác phẩm duy nhất của danh sĩ Nguyễn Dư (thường được gọi là Nguyễn Dữ), sống vào khoảng thế kỷ 16 tại Việt Nam. Đây là tác phẩm được Hà Thiện Hán viết lời tựa, Nguyễn Bỉnh Khiêm (thầy dạy tác giả) phủ chính, Nguyễn Thế Nghi, dịch ra chữ Nôm, và đã được Tiến sĩ Vũ Khâm Lân (1702-?), đánh giá là một "thiên cổ kỳ bút".Ngay từ khi tác phẩm mới hoàn thành đã được đón nhận. Về sau, nhiều học giả tên tuổi như: Lê Quý Đôn, Bùi Huy Bích, Phan Huy Chú, Bùi Kỷ, Trần Văn Giáp, Trần Ích Nguyên (Đài Loan)... đều có ghi chép về Nguyễn Dữ và đánh giá tác phẩm này.Nhiều bản dịch ra chữ quốc ngữ, trong đó bản dịch của Trúc Khê năm 1943 được coi như đặc sắc nhất.Theo lời Tựa của Hà Thiện Hán (người cùng thời) viết năm 1547, thì Nguyễn Dữ viết ra tập lục này để ngụ ý trong thời gian ông ẩn cư ở rừng núi xứ Thanh.Trong Từ điển Văn học (bộ mới), nhà nghiên cứu Bùi Duy Tân cho biết trong thế kỷ 16, tình hình xã hội không còn ổn định như ở thế kỷ trước; mâu thuẫn giai cấp trở nên gay gắt, quan hệ xã hội bắt đầu phức tạp, các tầng lớp xã hội phân hóa mạnh mẽ, trật tự phong kiến lung lay, chiến tranh phong kiến ác liệt và kéo dài, đất nước bị các tập đoàn phong kiến chia cắt, cuộc sống không yên ổn, nhân dân điêu đứng, cơ cực... Muốn phản ánh thực tế phong phú, đa dạng ấy, muốn lý giải những vấn đề đặt ra trong cuộc sống đầy biến động ấy thì không thể chỉ dừng lại ở chỗ ghi chép sự tích đời trước... Cho nên Nguyễn Dư đã dựa vào những sự tích có sẵn, tổ chức lại kết cấu, xây dựng lại nhân vật, thêm bớt tình tiết, tu sức ngôn từ... tái tạo thành những thiên truyện mới. Truyền kỳ mạn lục vì vậy, tuy có vẻ là những truyện cũ nhưng lại phản ánh sâu sắc hiện thực thế kỷ 16...