Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chớ Gọi Tôi Là Người

Để rửa mối nhục thất bại của dân Trung Quốc trên đấu trường võ thuật quốc tế, một tổ chức dân gian tự xưng là Ủy ban Tổng động viên nhân dân toàn quốc, gọi tắt là Tổng hội, nỗ lực lần theo manh mối quyết tìm cho ra truyền nhân của phái Đại Mộng Quyền, tương truyền là môn phái thượng đình có thể mượn lực chế nhân, vô địch thiên hạ. Tình cờ, bọn họ nhận ra anh chàng đạp xe xích lô tên Đường Nguyên Báo ở ga Bắc Kinh chính là người thừa hưởng bí kíp võ thuật. Và thế là, vô số màn hoạt náo bi hài đã được bày ra dưới ngòi bút của ông vua "văn học lưu manh" Trung Quốc. Đầy ắp tính biểu tượng và những đặc trưng văn hóa, xã hội không kèm giải thích, cuốn sách là một thách thức với cả những độc giả đã trót say mê thế giới nghệ thuật độc đáo, kỳ dị của Vương Sóc. "Khác lạ đến mức khó chịu... Cốt truyện đơn giản, mặc dù nó đã lạc bước vào sự cường điệu hoang đường phóng túng đến độ đáng kinh ngạc..." - USA Today "Vương Sóc, được coi như 'Kerouac của Trung Quốc'... Vở hài kịch siêu thực này mang đến một kết thúc đậm tính khải huyền." - The Economist Người khác nhau ôm động cơ viết tiểu thuyết khác nhau. Đa số tiểu thuyết không cần phải nhìn nhận một cách nghiêm túc. nếu cứ khăng khăng muốn hỏi câu vì sao, chỉ càng khiến đầu óc mình rối loạn. Nói theo một ý nghĩa nào đó, tôi là người không có đầu óc, càng không phải kẻ dốc hết tâm sức, cần mẫn miệt mài. Thoạt tiên hiểu ra điểm này, mọi người mới có thể tránh việc tự mình dẳn vặt. Tôi đề nghị bạn hãy xem thứ này là một mớ càn xiên bát nháo." - Vương Sóc *** "Cuộc họp hôm nay có bốn vấn đề cần thảo luận.Vấn đề thứ nhất do đồng chí Trưởng Ban thư ký Ủy ban tổ chức giải thi đấu tự do Trung Quốc mở rộng Triệu Hàng Vũ trình bày về tình hình hoạt động của Ban thư ký trong giai đoạn trước với các cổ đông, vấn đề thứ hai là do trong các cổ đông có tồn tại một số ý kiến không tín nhiệm một vài lãnh đạo của Ban thư ký, để giải tỏa thắc mắc của các cổ đông, để chứng minh lần thi đấu này là thực sự cần thiết, chúng tôi đã tìm được một băng video ghi cảnh thi đấu ở Sapporo[1], sẽ phát cho các vị cổ đông xem trong thời gian giải lao. Vấn đề thứ ba có liên quan tới việc đổi tên cho Ủy ban tổ chức giải thi đấu tự do Trung Quốc mở rộng và cơ cấu thường trực của Ban thư ký. Vấn đề thứ tư là để công việc được tiến hành thuận lợi, chúng tôi thực hiện hoạt động nhận tiền quyên góp lần thứ ba - mong các vị cổ đông không ra về trước giờ tan họp." Đây là một nhà hát có súc chứa tới hơn nghìn người, hiện giờ các chỗ ngồi đều vắng tanh vắng ngắt. Trên sân khấu bày chiếc bàn tròn lớn, người tham dự cuộc họp ngồi chen chúc xung quanh, một luồng ánh sáng chiếu lên gương mặt người chủ trì. Đó là một thanh niên cực kỳ đẹp trai. Luồng ánh sáng chuyển động về phía người đàn ông đeo kính có gương mặt xanh xao, mái tóc bù xù đang ngồi cạnh người chủ trì, mắt kính phản quang khiến người ta gần như không thể nhìn thấy đôi mắt của ông ta. Xem cách nói gấp gáp cũng đủ nhận ra đây là người dễ bị kích động. Ông ta chính là Triệu Hàng Vũ, Trưởng Ban thư ký Ủy ban tổ chức giải thi đấu tự do Trung Quốc mở rộng. "Về công việc của Ban thư ký Ủy ban tổ chức giải thi đấu tự do Trung Hoa mở rộng, tôi xin trình bày bốn điểm. Sau khi trình bày xong mời các vị cổ đông đặt câu hỏi, hỏi trực tiếp hay đưa giấy cũng được, tôi xin lần lượt trả lời. Nếu có câu nào tôi không trả lời được thì những đồng chí khác trong Ban thư ký sẽ giải đáp. Trước tiên tôi cần phải nói rằng êkíp Ban thư ký đã làm việc rất tốt, công việc cũng có chút thành tích. Thứ hai là Ban Thư ký làm việc rất vất vả. Ở đây tôi có vài con số muốn nói cho mọi người biết, từ khi Ban thư ký bắt đầu làm việc, mọi nhân viên chúng tôi từ trên xuống dưới chưa từng được ăn ngon ngủ yên. Chặng đường đã đi vất vả như đường từ Bắc Kinh vượt qua Thái Bình Dương tới San Francisco vậy. Tổng cộng ăn hết hơn bảy nghìn gói mì tôm, hút hơn mười bốn nghìn điếu thuốc, uống tới hơn một trăm cân trà. Trong trương mục đã ghi rõ các khoản tiền, không một xu nào rơi vào túi riêng của tôi cả. Thứ ba, cá biệt có thể có đồng chí khi nấu mì đã ăn vài quả trứng chiên, khi làm đêm ngoài uống chè ra còn dùng thêm ít mật ong. Đối với những trường hợp chi vượt tiêu chuẩn như vậy, chúng tôi phát hiện một xử lý một, quyết không nương tay. Cũng xin hoan nghênh các đồng chí đã thẳng thắn phê bình. Sau đây tôi xin trình bày về tình hình công tác của Ban thư ký gần đây, cũng chính là điểm cuối cùng. Trong hội nghị cổ đông lần trước, chúng ta đã ra nghị quyết phải tìm truyền nhân của Đại Mộng quyền. Hội nghị vừa kết thúc, chúng tôi đã lập tức phái 9 đội đi khắp nơi tìm kiếm. Tính tới đêm qua đã có 8 đội trở về. 8 đội này đã đi khắp Tam Sơn Ngũ Nhạc nhưng đều trở về tay trắng. Giờ chúng ta chỉ có thể hy vọng vào đội thứ 9 mà thôi. Đội này do nữ nhân viên giỏi nhất của Ban thư ký là Bạch Độ dẫn đầu, trước lúc xuất phát tôi đã kiên quyết ra lệnh: Không tìm được truyền nhân Đại Mộng quyền thì đừng quay về gặp tôi! Tôi rất tin tưởng năng lực của đồng chí Bạch Độ, chỉ cần người đó còn sống thì dù phải đi khắp chân trời góc bể cô ấy cũng sẽ tìm được anh ta. Tuy nhiên có một sự thực khốc liệt đang bày ra trước mắt chúng ta, chúng ta không thể không nghĩ tới khả năng Đại Mộng quyền đã bị thất truyền. Nói cho cùng thì lần cuối cùng chúng ta nghe được tin tức về truyền nhân Đại Mộng quyền là hơn 90 năm trước. Chúng tôi nhận ra người tráng sĩ Nghĩa Hòa Đoàn[2] bị giải ra pháp trường trong bức ảnh năm đó chính là Chưởng môn nhân của Đại Mộng quyền." Triệu Hàng Vũ mở chiếc túi da đen đặt trên bàn, lấy ra một tấm ảnh đen trắng đã được phóng to. Trong ảnh là một đám dân đen áo quần rách rưới đang bị đội lính tuần tay cầm yêu đao giải ra pháp trường. Trong đó có một người đàn ông da đen mình trần, dáng người mập mạp, tóc tết đuôi sam quấn quanh cổ, bên cạnh có đánh dấu một mũi tên đen nho nhỏ. "Đây là do nhân viên tình báo của chúng tôi chụp lại trong điện Louvre ở Paris. Người đàn ông có mũi tên đen chỉ vào ở trong ảnh chính là Chưởng môn đương thời của Đại Mộng quyền, còn danh tính quê quán thì không có cách nào khảo cứu." Triệu Hàng Vũ đưa tắm ảnh cho người bên cạnh để mọi người truyền tay nhau xem, ai cũng nhìn đi nhìn lại người đàn ông thô kệch trong bức ảnh một cách hứng thú. "Giống gã đồ tể phải không?" Triệu Hàng Vũ châm điếu thuốc, hỏi người đàn ông gầy gò có dáng dấp như một vị giám đốc với mái tóc bóng mượt, mặc âu phục đeo kính gọng vàng đang chăm chú nhìn bức ảnh. "Anh nên hiểu điều này, chân nhân bất lộ tướng." "Các anh làm thế nào để biết đây là Chưởng môn của Đại Mộng quyền?" Người đàn ông gầy gò hỏi lại. "Chúng tôi có bốn bằng chứng để chứng minh điều này." Triệu Hàng Vũ gẩy gẩy tàn thuốc, chậm rãi nói. "Đầu tiên chúng tôi tra trong hồ sơ lưu trữ của nhà Thanh, và đọc một số lượng lớn ngoại truyện dã sử có ghi chép về các hoạt động chiến đấu của Nghĩa Hòa Đoàn suốt một dải từ Bắc Kinh đến Thiên Tân. Tất cả các ghi chép đều cho thấy rằng, năm đó, khi Nghĩa Hòa Đoàn hoạt động mạnh mẽ nhất, dưới quyền của Tào Phúc Điền ở huyện Tĩnh Hải thành phố Thiên Tân có viên đại tướng giỏi dùng Đại Mộng quyền, mượn lực chế nhân, súng đạn Tây dương không động đến được một sợi lông của người đó. Cuộc chiến tại tô giới Tử Trúc Lâm và giáo đường North Cathedral anh ta đều tham gia, giết chết vô số người Tây. Sau khi khu vực Bắc Kinh, Thiên Tân bị chiếm đóng, có người trong đội quân của Lưu Thập Cửu ở thôn Cao Gia còn nhìn thấy anh ta. Sau đó, vị hảo hán này cùng bị bắt với Đại Đao Vương Ngũ ở Bắc Kinh, bị chém ở Thái Thị Khẩu[3]. Đó là điểm thứ nhất. Thứ hai, thông qua bức ảnh này, chúng tôi đã tìm được con cháu của người tuần bổ dẫn đầu trong ảnh. Người lính tuần này đã tự sát vì sợ tội trong Cách mạng văn hóa, nhưng chúng tôi tìm được 'Đại Mộng quyền phổ' trong nhà ông ta. Căn cứ vào lời kể của Quế Lôi Thanh, cư dân ở số 125 ngõ Thái Lai, phố Tiểu Quách Trang, quận Hà Đông thành phố Thiên Tân, cha anh ta có được cuốn quyền phổ này khí xử trảm tù binh Nghĩa Hòa Đoàn năm đó, rốt cục là vị nào thì không thể biết được. Người của Nghĩa Hòa Đoàn bị bắt không nói rõ danh tính, chỉ luôn miệng nói: 'Sau hai mươi năm nữa lại làm một trang hảo hán'. Có một điểm có thể khẳng định, cha anh ta chỉ tham gia hành động sát hại các tráng sĩ của Nghĩa Hòa Đoàn một lần. Mà là do lính Tây bắt đi và bị chụp ảnh lại. Bởi vậy, cuốn quyền phổ này phải là của những người trong bức ảnh. Chúng tôi cũng tìm được ngài Boll Per là con cháu của vị giáo sĩ truyền giáo người Pháp Bo 11 Per - người đã chụp lại bức ảnh này, hiện nay đang làm tùy viên của Đại sứ quán Pháp tại Trung Quốc. Ngài ây đã rất nhiệt tình kê khai cho chúng tôi danh sách những người bạn của ông nội đã từng đến Trung Quốc hồi đó. Cuối cùng chúng tôi đã tìm được viên hạ sĩ quan chỉ huy quân Pháp trước kia nay ở thành phố Toulouse phía Nam nước Pháp tên là Radu, chính là người châu Âu mặc quân phục đứng cuối hàng trong bức ảnh. Ông cụ đã hơn một trăm tuổi, nhưng vẫn còn tráng kiện, ký ức về những việc đã xảy ra trong cuộc viễn chinh đến Trung Quốc vào cuối thế kỉ trước cũng còn rất rõ, đương nhiên bây giờ ông có quan hệ rất hữu hảo với nhân dân Trung Quốc. Sau khi biết ý định của chúng tôi, ông Radu đã lập tức chỉ cho chúng tôi người đàn ông mà mũi tên chỉ vào, nói anh ta chính là 'bậc kỳ nhân có thể làm thay đổi hướng bay của đạn'. Theo lời kể của Radu, ông đã từng chiến đấu với người này, khi đó một hàng người nhằm vào anh ta cùng bắn, nhưng tất cả đạn bắn ra đều bay ngược trở lại làm chết một loạt lính Tây ngay tại đó. Trong lúc hoảng loạn, ông Radu đã nhắm bắn lên trời, không ngờ phát súng lại bắn trúng vào người đó, thế là bọn họ ùa đến bắt anh ta lại, còng tay giải đi." "Đáng tiếc, đáng tiếc!" Tất cả cùng than thở. "Nhân tiện nói thêm, ông Radu cảm thấy rất hối hận về những gì mình đã làm khi còn trẻ, luôn miệng nhờ chúng tôi chuyển lời xin lỗi của mình đến nhân dân Trung Quốc." "Tôi có bốn vấn đề muốn hỏi đồng chí Trưởng Ban thư ký." Một vị chủ doanh nghiệp nông sản da mặt đen sạm, dáng vẻ thông minh hỏi Triệu Hàng Vũ: "Thứ nhất, nếu việc có hay không truyền nhân của Đại Mộng quyền còn chưa xác định được, vậy chúng ta có cần tiếp tục lãng phí tiền bạc và nhân lực để tìm kiếm hay không? Các môn phái võ lâm của nước ta đầy đủ cả, lẽ nào lại không thể sánh với Đại Mộng quyền hay sao? Anh sống chết theo đuổi cuộc tìm kiếm này phải chăng là vì một mối quan hệ cá nhân nào đó? Thứ hai, người Tây đã khôi phục lại quan hệ hữu hảo với nước ta, vì hòa bình thế giới, chúng ta có cần thiết gây chiến như vậy không? Thứ ba, nhân viên của Ban thư ký chỉ vẻn vẹn có hơn mười người, công việc cũng mới bắt đầu được một tuần, thế mà đã ăn hết bảy nghìn gói mì tôm, uống tới hơn một trăm cân trà, thực quá phí phạm. Nếu cứ tiếp tục như vậy, tôi khó lòng gánh vác được, cho dù có khó hạ thấp thêm tiêu chuẩn thì cũng nên bãi bỏ việc ăn uống quá ngon, nghiện thuốc quá nhiều đi, chung quy lại, không phải chúng tôi mời người ta đến ăn uống. Thứ tư, các anh đi Pháp điều tra, sao không sắp xếp để đại biểu cổ đông dẫn đầu?" "Tôi xin được trả lời bốn câu hỏi mà vị đại biểu này đã nêu." Triệu Hàng Vũ nghiêm túc nói. "Cũng là bốn điểm. Thứ nhất, chúng tôi không chuẩn bị để chết treo trên một cái cây là Đại Mộng quyền. Đồng thời với việc tìm kiếm truyền nhân của Đại Mộng quyền, chúng tôi cũng tiến hành liên hệ với truyền nhân của các phái như Đại Bằng quyền, Ưng Trảo Hầu quyền. Một khi chứng minh được Đại Mộng quyền đã thất truyền thì sẽ mời họ xuống núi. Ngoài ra, về hứng thú của cá nhân tôi với Đại Mộng quyền thì chỉ là muốn khống chế địch giành thắng lợi mà thôi, không hề có động cơ cá nhân nào trong đó. Đại Mộng quyền mượn lực chế nhân thực sự là tuyệt chiêu đúc kết nghìn năm tính túy của nước ta, chờ lát nữa xem video các vị sẽ biết. Nếu đem so thể lực với sự hung tợn thì những dàn tộc ăn rau quả như chúng ta khó có thể thắng được các chủng tộc ăn thịt - như bản thân tôi, nếu tính về mười đời trước thì cũng là môn đệ thư hương. Thứ hai, những người Tây già cả không phải lo, nhưng bọn Tây trẻ vẫn hung hăng sừng sộ. Nhìn thế giới ngày nay, chúng ta khó có thể tranh với người khác, đánh nhau không lấy được một cái huy chương vàng, sĩ diện của tổ tông coi như đã bị lũ con cháu hèn kém chúng ta làm cho mất hết rồi." "Cả nước cùng tiến lên rất khó," người chủ trì xen vào. "Hơn một tỷ người phục vụ một người nổi trội nhất thì còn có thể. Để tôi nói, thứ mà tổ tông để lại ngoài ăn ra thì còn có đánh nhau." "Tôi vẫn chưa nói hết." Triệu Hàng Vũ bất mãn lườm người chủ trì một cái, nói với mọi người. "Không làm như vậy không được, nỗi sỉ nhục hơn một trăm năm nay không tìm người thay chúng ta thì không thể được. Tôi bất chấp tất cả, ai có thể giúp được chúng ta, tôi sẽ móc cả trái tim mình ra trao cho người ấy. Anh chưa nghe người nước ngoài nói: 'Một người Trung Quốc là một con rồng, một nhóm người Trung Quốc là một ổ giòi."' "Đây là nói quá về chúng ta."   Mời các bạn đón đọc Chớ Gọi Tôi Là Người của tác giả Vương Sóc.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tình Yêu Sau Cùng - Pearl S. Buck
Vào những ngày cuối đời, Pearl S. Buck sống với chồng thứ hai, Richard Walsh - cùng với 150 đứa trẻ đủ màu da; do chính bà đem về giáo dưỡng trong một trang trại ở Pennsylvania (Mỹ). Đó là thời kỳ đã giã từ chồng trước, bà dắt con trai ở lại nước Mỹ sau khi cuộc chiến ở Hoa Lục kết thúc. Cả hai từng vùng vẫy cố thoát khỏi nghịch cảnh thời thế nhưng vẫn chỉ là hư không. Song mối tình dị chủng phải chia lìa mà vẫn không làm tiêu tan ý chí đoàn tụ rất keo sơn, bất diệt của họ. Càng xa nhau bao nhiêu thì sợi dây vô hình càng thắt chặt bấy nhiêu cho đến khi nhận được hung tin từ vợ kế của chồng báo cho biết viên đạn đồng đã kết liễu đời chàng.  Sự đau đớn tột cùng thôi thúc tác giả viết nên một thiên tình sử não nuột về hôn nhân dị chủng của chính tác giả. Và Pearl S. Buck đã hóa thân qua nhân vật làm vợ mang tên Êly - thuật lại một đoạn sống của một người chồng nửa Á, Âu mang quốc tịch Trung Hoa có vợ là người Mỹ trăm phần trăm.  Tự sự kể về cuộc tình dị chủng ấy từng sống thật say đắm, tha thiết và nồng ấm. Bằng giọng văn lạnh lùng mà quyến rũ, ngọt ngào, thương cảm lạ lùng đã làm xúc động hàng triệu độc giả trên thế giới.  *** Pearl Buck (tên thật là Pearl Comfort Sydenstricker, có tên Trung Quốc là Trại Chân Châu) là con một nhà truyền giáo người Mỹ. Sau khi ra đời chưa đầy 5 tháng, bà đã được cha mẹ đưa sang Trung Quốc sinh sống. Từ nhỏ và suốt cả cuộc đời bà yêu mến và thích tìm hiểu cuộc sống của người dân Trung Quốc, cảm thông với những người dân địa phương bị nhiều tầng áp bức. Năm 1938 Pearl Buck nhận giải thưởng Nobel vì các tác phẩm mô tả đời sống nông thôn Trung Hoa một cách phong phú và xác thực (chủ yếu với tiểu thuyết Đất Lành và hai cuốn tự truyện Người Tha Hương (1936) viết về người mẹ và Thiên Thần Chiến Đấu (1936) viết về cha của bà). Sau khi nhận giải, Pearl Buck tiếp tục sáng tác rất nhiều, ngoài văn xuôi bà còn viết kịch, kịch bản phim, tiểu luận và sách cho thiếu nhi. Bà cũng là người đã dịch Thủy Hử (All men are brothers) và một số tác phẩm văn học Trung Quốc sang tiếng Anh. Cuối đời, bà quan tâm đến đề tài các nhà bác học nguyên tử buộc phải chế tạo vũ khí giết người hàng loạt. Đồng thời, bà tích cực tham gia các hoạt động từ thiện, xã hội như: sáng lập ra tổ chức không vụ lợi Hiệp hội Đông Tây (The East and West Association, 1941) nhằm truyền bá những hiểu biết giữa các dân tộc trên thế giới; cùng chồng lập nên tổ chức Căn nhà tình nghĩa (Welcome Home, 1949) giúp trẻ mồ côi; lập ra Quỹ Pearl S. Buck (The Pearl S. Buck Foundation, 1963) và tặng cho quỹ này 7 triệu đôla. • Tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt: Gió Đông, gió Tây; Ảo vọng; Sống vì đất; Tiếng gọi đồng quê; Lá thư Bắc Kinh; Tình yêu sau cùng; Người mẹ; Nhớ cảnh nhớ người; Yêu muộn; Nạn nhân buổi giao thời; Mấy người con trai Vương Long; Đứa con người yêu; Một phút một đời; Một lòng với em; Một cuộc hôn nhân; Lưu đày; Lưu đày biệt xứ; Cánh hoa e ấp; Đông phương huyền bí qua truyện cổ thần tiên; Truyện Đông phương; Người vợ tiên; Những người đàn bà tuyệt vời trong gia đình Kennedy; Những người đàn bà trong gia đình Kennedy; Tà áo xanh; Nỗi buồn nhược tiểu; Người yêu nước; Ngoài chân mây; Hứa hẹn; Bão loạn; Mẫu đơn; Quỷ địa ngục chẳng bao giờ ngủ; Yêu mãi còn yêu; Ba người con gái của Lương phu nhân; Trái tim kiêu hãnh; Một trái tim tự hào; Biên giới tình yêu; Tình cõi chân mây; Nô tì Mẫu Đơn; Đóa hoa ẩn mình; Trang; Người thành phố; Bí mật đời nàng; Người yêu nước; Thiên Hậu; Người cung nữ; Từ Hi Thái hậu; Con rồng linh diệu; Hạt giống của rồng; Vương Nguyên; Đất lành; Chuyện Kinh Thánh; Những người con của tiến sĩ Lương; Tiếng nói trong nhà; Tử thần và rạng đông; Người mẹ già; Những mảnh hồn sầu xứ.” *** Giấc mơ đó không làm tôi sợ hãi chút nào, nhưng tôi cảm thấy nó có nỗi buồn vô tận. Tôi không thể sợ hãi Diên Tôn được, dù với hình thể nào chàng đến với tôi. Câu chuyện ma quỷ vẫn chỉ làm tôi mỉm cười. Sự xét đoán về tiềm thức của tôi luôn luôn làm cho tôi nhớ tới người thân yêu xa cách..tuy cố giữ không thổ lộ là tôi trông thấy Diên Tôn.  Bà Mạch quả quyết rằng trông thấy bà mẹ hiện lên, bà mẹ sống ở Ireland và chết ở đấy.  Bà giảng giải cho tôi nghe, vẻ long trọng:  - Đó là một buổi sáng đẹp trời vào dịp Phục sinh. Bữa trước tôi mới cãi nhau với Mạch và không muốn đi nhà thờ nữa. Tôi mặc quần áo cũ để lau sàn bếp. Mạch gào lên tôi phải cùng đi với hắn và các con đến nhà thờ - lúc này chúng tôi có sáu đứa. Nhưng tôi quyết từ chối và hắn đi một mình. yên tĩnh trở lại, tôi rửa mặt, mặc chiếc áo ngủ sạch và đi nằm để lấy lại sức. Giữa lúc này, mẹ tôi hiện về. Bà mặc toàn đồ trắng, như một bà tiên. Mớ tóc hoa râm kết thành giải theo thói quen của bà. Bà bảo tôi Con khốn nạn của mẹ, con chỉ là một người đàn bà thì đành phải an phận. Tôi trả lời và nhắm mắt ngủ ngay như trẻ thơ. Đúng thế mẹ yêu dấu của con. Khi tôi tỉnh giấc, Mạch đã trở về đang cho các con ăn. Tôi trở dậy người khoẻ mạnh như cũ.  Đó là một câu chuyện dựng đứng, nhưng bà Mạch tin là đã trông thấy.  Chiều nay, tôi đến thư viện thành phố gần nhất đấy và tìm thấy cả nửa tá sách nói về mộng mị và ảo tưởng. Tôi lấy làm hổ thẹn, đọc những sách này vì tôi không tin dị đoan. Nhưng lại tự nhủ nếu một thanh củi, một phần nguyên liệu, có thể biến thành nhiệt năng trước mắt tôi, thành lửa, thành tro và sức nóng, thì tại sao một hình hài sống động, một trí óc sáng suốt, một tâm hồn giàu tình cảm và lòng vị tha lại không thể hiện dưới mắt tôi với một hình thể khác. Cứ như vậy tôi đi sâu vào cuộc phiêu lưu, đi tìm người tôi yêu.  Diên Tôn chàng ơi, anh có còn sống thật không? ... Mời các bạn đón đọc Tình Yêu Sau Cùng của tác giả Pearl S. Buck.
Tình Ơi Là Tình
Khi người ta chỉ là một nữ công nhân, hôn phối phải chăng là lối thoát duy nhất khỏi cuộc sống khốn cùng? Bằng lối viết đầy khiêu khích không hề đứng về phía con người, nữ tác giả không đếm xỉa đến ma quỷ thánh thần đã trả lời câu hỏi đó với “sự mỉa mai hoan lạc” và nỗi bi quan tàn khốc vẫn thường thấy ở bà. Tình ơi là tình (Die Liebhaberinnen), với tác phẩm này Jelinek lần đầu tiên khẳng định chỗ đứng trên văn đàn và trong mắt người hâm mộ. Đó là một cuốn sách mang “đặc trưng Jelinek nhất”. Thành công ấy có thể chỉ kém cuốn tiểu thuyết đầy hơi hướng tự thuật Cô giáo dương cầm (tạm gọi theo chuyển thể phim của Die Klavierspielerin) mà trong đó, lại một lần nữa, phụ nữ đóng vai trò chính. Nhưng sự so sánh đó quá khập khiễng, có giống nhau thì chỉ ở cái khía cạnh Jelinek tài tình hơn các đồng nghiệp của bà khi đào bới các ngõ ngách trong tâm hồn giống cái. Và chính năng khiếu ấy không được đồng bào của bà nồng nhiệt đón chào: Có mấy ai đủ dũng cảm đi vạch áo cho người xem lưng, kể cả phụ nữ là những người được bà cho mượn một ngôn ngữ mãnh liệt. Nói theo cách của Jelinek, là “những thây ma muốn mồ yên mả đẹp, nhưng tôi lại cứ khai quật chúng lên, ngày này qua ngày khác”. Một người cầm bút đã băn khoăn hỏi bà rằng, khi đọc nguyên tác có thể cảm nhận được nhịp điệu âm nhạc rất đặc biệt trong từng câu, vậy bà có ý kiến gì về việc tác phẩm của mình được dịch sang ngôn ngữ khác, liệu những bản giao hưởng tuyệt vời ấy có mang được hết các nốt nhạc của mình sang một dàn nhạc công khác với một nhạc trưởng khác? Và tôi mạn phép được trích đáp từ của chính tác giả để xin thứ lỗi cho khiếm khuyết nào xảy ra trong quá trình chuyển ngữ: “Thật khổ cho các nhà dịch thuật! Họ phải viết lại hoàn toàn công việc của tôi bằng ngôn ngữ nước họ để cho tác phẩm có thể chứa đựng giá trị nguyên gốc. Những trò chơi ngôn ngữ chỉ được yêu thích ở những nơi được phép. Và chỉ những nhà văn mới yêu thích trò chơi này, nhưng họ chẳng hơi đâu mà dịch tôi làm gì!”. Tôi rất mong bà chỉ nói dỗi để làm dáng, hoặc đoán lầm. *** Elfriede Jelinek sinh ngày 20/10/1946 tại Mürzzuschlag thuộc Miền Hạ Áo. Từ 1966 đến nay, địa chỉ chỗ ở của bà tại thủ đô Vienna không thay đổi. Chính vì thế, bà luôn coi mình là dân Vienna "chính hiệu". Cha bà là người Do Thái gốc Czech, mẹ bà lại là một tín đồ rất ngoan đạo của Thiên Chúa giáo. Thuở nhỏ bà học ba-lê. Từ năm 6 tuổi, bà học dương cầm theo yêu cầu của mẹ. Đạo diễn người Áo Michael Haneke đã chuyển thể tiểu thuyết này thành phim cùng tên rất nổi tiếng và đã đoạt 3 giải thưởng trong Liên hoan phim Cannes năm 2001. Năm 2004, Elfriede Jelinek được trao giải Nobel Văn học. *** một ngày đẹp trời brigitte hạ quyết định, cô muốn chỉ còn làm một người đàn bà, hoàn toàn là đàn bà, cho một gã tên là heinz.   cô tin là từ nay trở đi những nhược điểm của cô sẽ trở nên đáng yêu, những ưu điểm sẽ được ưu ái.   nhưng heinz chẳng thấy tí gì đáng yêu ở brigitte, còn những nhược điểm của cô chỉ làm gã kinh tởm.   giờ đây brigitte chăm chút sắc đẹp của mình cho cả heinz nữa, vì đã là đàn bà rồi thì không còn đường thoái lui nữa, đàn bà thì phải chăm sóc sắc đẹp chứ. brigitte mong tương lai sẽ cảm tạ cô bằng vẻ ngoài trẻ hơn tuổi, nhưng biết đâu brigitte chẳng hề có tương lai. tương lai hoàn toàn phụ thuộc vào heinz.   khi trẻ thì người ta bao giờ cũng có diện mạo trẻ trung, già đi rồi thì đằng nào cũng quá muộn. nếu lúc đó nom không trẻ hơn tuổi thì xung quanh sẽ tuyên án không thương tiếc: ai bảo hồi trẻ không lo dùng mỹ phẩm!   vậy thì brigitte đã làm cái việc sẽ rất quan trọng trong tương lai.   khi người ta không có hiện tại thì phải lo trước đến tương lai thôi.   brigitte may nịt vú. nếu may một đường ngắn thì phải may nhiều nhiều, tối thiểu phải là bốn mươi đường may như cách tính lương theo sản phẩm. nếu may một đường dài hơn và phức tạp hơn thì sẽ phải may ít hơn. thật nhân đạo và công bằng.   brigitte có thể kiếm được nhiều chàng công nhân, nhưng cô chỉ muốn duy nhất có heinz, người đang định trở thành doanh nhân.   vật liệu là đăng-ten nylon trên một lớp mút mỏng. nhà máy của cô có nhiều thị phần ở nước ngoài, và nhiều thợ may nữ từ nước ngoài đến. nhiều người thôi việc vì cưới chồng, đẻ con hoặc chết.   brigitte hy vọng đến lúc nào đó sẽ thôi việc để đi cưới chồng và đẻ con. brigitte hy vọng heinz sẽ đưa cô ra khỏi đây.   nếu không được thế thì coi như chết rồi, ngay cả khi cô vẫn còn sống.   tạm thời brigitte chưa có gì khác ngoài cái tên của mình, trong phần tiếp của câu chuyện brigitte sẽ lấy họ của heinz. cái đó quan trọng hơn là tiền bạc và của cải, nó có thể đem lại tiền bạc và của cải.   cuộc sống đích thực, tức là cuộc sống biết lên tiếng khi được hỏi, cuộc sống đích thực ấy là cuộc sống khi được hoàn thành. đối với brigitte thì cuộc sống và công việc như nước và lửa. ở đây chúng ta bàn nhiều hơn đến thì giờ rảnh rỗi.   trong trường hợp cụ thể này, cuộc sống có tên là heinz. cuộc sống đích thực không chỉ mang cái tên heinz, mà chính là heinz. ... Mời các bạn đón đọc Tình Ơi Là Tình của tác giả Elfriede Jelinek.
Tin Tức Về Một Vụ Bắt Cóc
Gabriel Garcia Márquez (sinh năm 1927) tại Aracataca, một thị trấn bên bờ biển Caribê, thuộc miền Bắc Columbia, ông là nhà văn nổi tiếng người Colombia. Ngoài viết văn ông còn là một nhà báo và một nhà hoạt động chính trị. Ông được biết đến với các tiểu thuyết Tình yêu thời thổ tả, Mùa thu của vị trưởng lão, Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi, Trăm năm cô đơn... Gabriel Garcia Márquez sinh ra và lớn lên tại một gia đình trung lưu gồm 11 người con và ông là anh cả. Những năm đầu tiên học tại đại học Quốc gia Colombia Márquez đã bắt đầu tham gia viết báo và bắt đầu những tác phẩm văn học đầu tiên gồm 10 truyện ngắn nổi tiếng. Sau khi học được năm kỳ, ông quyết định bỏ học rồi chuyển về Barranquilla thực sự bước vào nghề báo và viết tiểu quyết đầu tay La hojarasca (Bão lá). Trong năm 1955, ông tới Thụy Sỹ làm đặc phái viên của tờ El Espectador. Sau đó qua Ý học tại Trung tâm thực nghiệm điện ảnh rồi sang Paris sinh sống trong điều kiện vật chất vô cùng khó khăn. Trong thời gian này ông viết cuốn tiểu thuyết La mala hora (giờ xấu), đồng thời tách từ cuốn này viết nên El coronel no tiene quien le escriba (Ngài đại tá chờ thư). Năm 1982 ông nhận giải Nobel văn học cho những cống hiến của mình. Sau đó ông vẫn tiếp tục sáng tác và có nhiều tác phẩm giá trị, ngày càng khẳng định được tên tuổi trên văn đàn thế giới. *** Tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt: - Ký sự về một cái chết đã được báo trước (tiểu thuyết), Nguyễn Mạnh Tứ dịch, NXB Văn Học, 1983. - Ngài đại tá chờ thư (tập truyện), Nguyễn Trung Đức - Phạm Đình Lợi - Nguyễn Mạnh Tứ dịch, NXB Văn Học, 1983; 2001. - Người chết trôi đẹp nhất trần gian, Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Hải Phòng - NXB Đồng Nai, 1987. - Giờ xấu (tiểu thuyết), Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Thanh Niên, 1989; NXB Văn Học, 2001. - Tướng quân giữa mê hồn trận (tiểu thuyết), Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Văn Học, 1990; NXB Hội Nhà Văn, 1999.  - Mười hai truyện phiêu dạt (tập truyện), Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Quân Đội Nhân Dân, 1995; NXB Văn Học, 2004. - Tình yêu thời thổ tả (tiểu thuyết), Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Văn Học, 1995; 2000. - Trăm năm cô đơn (tiểu thuyết), Nguyễn Trung Đức - Phạm Đình Lợi - Nguyễn Quốc Dũng dịch, NXB Văn Học, 1986; 1992; 1999; 2000. - 36 truyện đặc sắc (tập truyện ngắn), Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Văn Học, 2001. - Tin tức về một vụ bắt cóc (tiểu thuyết), Đoàn Đình Ca dịch, NXB Đà Nẵng, 1998; NXB Văn Nghệ TP. HCM, 2001. - Những người hành hương kì lạ (tập truyện ngắn), Phan Quang Định dịch, NXB Thanh Niên, 2002. - Tuyển tập truyện ngắn, Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Văn Học, 2004. - Sống để kể lại (hồi kí), Lê Xuân Quỳnh dịch, NXB TP. Hồ Chí Minh, 2005. - Ông già và đôi cánh khổng lồ, Nguyễn Trung Đức dịch, in trong Tập truyện ngắn nước ngoài chọn lọc, NX B Quân Đội Nhân Dân, 1998; Tuyển tập truyện ngắn Châu Mỹ Latinh, NXB Hội Nhà Văn, 1999. - Làng này không có kẻ trộm, Quà Tết, Nguyễn Trung Đức dịch, in trong Truyện ngắn chọn lọc - tác giả đoạt giải Nobel, NXB Hội Nhà Văn, 1998; Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt giải Nobel, NXB Hội Nhà Văn, 2004. - Dấu máu em trên tuyết (tập truyện), Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Đà Nẵng, 1997. - Máy bay của người đẹp ngủ, Gió Bắc, Mùa hè hạnh phúc của bà Phorớt, Thánh bà, Người bạn Mutit của tôi, Thưa Tổng thống - chúc ngài thượng lộ bình an, Dấu máu em trên tuyết, Nguyễn Trung Đức dịch; Giấc ngủ trưa ngày thứ ba, Nguyễn Kim Thạch dịch, in trong Tuyển tập truyện ngắn Châu Mỹ Latinh, NXB Hội Nhà Văn, 1999. - Chuyện buồn không thể tin được của Êrênhđira ngây thơ và người bà bất lương, Nguyễn Trung Đức dịch, in trong cuốn Thời cơ của Matraga, NXB Mũi Cà Mau, 1986; Những truyện ngắn nổi tiếng thế giới, NXB Hội Nhà Văn, 1999. - Buổi chiều tuyệt vời của Bantaxa, Dương Tường dịch; Thần chết thường ẩn sau ái tình, Người chết trôi đẹp nhất trần gian, Nguyễn Trung Đức dịch, in trong Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt giải Nobel, NXB Văn Học, 1999. - Biển của thời đã mất, Nguyễn Trung Đức dịch, in trong Truyện ngắn chọn lọc - tác giả đoạt giải Nobel, NXB Hội Nhà Văn, 1998; Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt giải Nobel, NXB Văn Học, 1999; Truyện ngắn Châu Mỹ, NXB Văn Học, 2000; Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt giải Nobel, NXB Hội Nhà Văn, 2004. - Bà Maria Dos Przeres, Đoàn Đình Ca dịch, in trong Truyện ngắn Châu Mỹ, NXB Văn Học, 2000. - Đôi mắt chó xanh, Nguyễn Trung Đức dịch, in trong Truyện ngắn Châu Mỹ, NXB Văn Học, 2000; Truyện ngắn chọn lọc - tác giả đoạt giải Nobel, NXB Hội Nhà Văn, 1998; Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt giải Nobel, NXB Hội Nhà Văn, 2004. - Thần chết thường ẩn sau ái tình, Nguyễn Trung Đức dịch, in trong Truyện ngắn đặc sắc các tác giả đoạt giải Nobel, NXB Văn Học, 2004. *** Như đã thoả thuận, vào hồi 9 giờ sáng ngày hôm sau Villamizar tới Medellin một đêm hoàn toàn không ngủ. Đó là một bữa tiệc hồi sinh. Đến 4 giờ sáng khi chỉ còn lại hai người ở trong phòng, Maruja và Villamizar đều hưng phấn trao đổi về những kỉ niệm xưa cho tới khi trời gần sáng. Tại trang trại La Loma khách luôn được đón tiếp bằng bữa tiệc thịnh soạn, nhưng bây giờ trong bữa tiệc có cả rượu sâm banh để chúc mừng Maruja được trả tự do. Tuy nhiên, đó là một cuộc nghỉ ngơi ngắn, vì khi đó Pablo Escobar rất vội, ẩn nấp tại một nơi nào đó trên thế giới, không chiếc lá chắn là những con tin. Sứ giả mới của ông là một người rất cao to, tóc vàng, râu dài màu hung hung, nói nhiều, người ra gọi ông ra với cái tên Mono. Ông nói, ông có toàn quyền để đàm phán về việc ra đầu thú của Escobar.   Theo sự sắp đặt của tổng thống César Gaviria, trong suốt quá trình thảo luận về mặt pháp lý với những luật sự của Escobar đều tiến hành thông qua bác sĩ Carlos Eduardo Meija với sự hiểu biết của Bộ trưởng Tư pháp. Để đầu thú về mặt thể xác, Meija hành động theo thoả thuận với Rafael Pardo, người thay mặt chính phủ, và phía bên kia do Jorge Luis Ochoa đại diện. Mono và chính Escobar từ trong bóng tối. Villamizar tiếp tục đóng vai trò trung gian giữa Escobar và chính phủ, cha Garcia Herreros là người bảo trợ tinh thần cho Escobar, cha luôn sẵn sàng cho những vấp váp khẩn cấp.   Sự hối thúc của Escobar để Villamizar có mặt tại Medellin ngay sau ngày Maruja được trả lại tự do làm cho mọi người nghĩ rằng việc ra đầu thú của Escobar sắp xảy ra đến nơi, nhưng liền sau đó hoá ra không phải, vì còn thiếu một số chi tiết về việc giải trí cho Escobar, trong thời gian bị giam. Sự quan tâm lớn nhất của tất cả, trước hết là Villamizar là không xảy ra chuyện gì trước khi Escobar ra đầu thú. Villamizar biết rằng Escobar hoặc những người sống sót của ông ra có thể phải trả giá bằng chính mạng sống của mình vì thiếu sự hoài nghi tối thiểu vào lời nói.   Sự băng giá để bị phá vỡ bởi chính Escobar khi ông gọi điện thoại tới trang trại La Lome, ông chào một cách thoải mái:   - Xin chào bác sĩ, Villamizar, ông vui lòng chứ? Villamizar chưa khi nào nhìn thấy Escobar mà cũng chưa khi nào nghe ông ta nói.   Ông cảm thấy cảm động và tuyệt đối tin tưởng vào tiếng nói hoàn toàn xa lạ.   “Tôi rất cảm ơn vì ông đã tới” – Escobar nói tiếp không đợi trả lời, với điều kiện sống của đời thường và giọng nói chói tai của những người chăn nuôi gia súc nơi thảo nguyên. “Ông là người giữ đúng lời hứa, chắc ông không làm tôi thất vọng”, ngay lập tức ông vào đề:   - Chúng ta bắt đầu thu xếp việc tôi ra đầu thú như thế nào? ... Mời các bạn đón đọc Tin Tức Về Một Vụ Bắt Cóc của tác giả Gabriel García Márquez.
Tiểu Thư Victoria
Trong tác phẩm Tiểu thư Victoria, Hamsun miêu tả câu chuyện tình bi thảm của giới trẻ, ý thức của họ về mất mát và khao khát, với sự đồng cảm và chia sẻ. Đó là câu chuyện tình yêu lãng mạn, say đắm của Johannes - con trai một thợ xay bột mì nghèo và nàng Victoria xinh đẹp, con gái một chủ lâu đài. Nhưng số phận trớ trêu đã khiến họ không thể đến được với nhau. Những định kiến xã hội về tầng lớp, gia đình và những biến cố dữ dội xảy ra trong cuộc đời Victoria đã đem lại một câu chuyện buồn... Chuyện hấp dẫn người đọc với đầy đủ trạng thái của cảm giác, với hình ảnh sinh động và ngôn ngữ đầy sáng tạo. *** Knut Hamsun tên thật là Rnud Pedersen, (04.8.1859 - 19.02.1952) nhà văn Na Uy đoạt giải Nobel Văn học năm 1920. Ông là nhà văn làm đổi mới văn xuôi Na Uy và là người luôn cố gắng thể hiện đời sống tâm hồn vô thức.   Năm 1890, tác phẩm Sult (Đói) của ông được xuất bản, gây chấn động lớn trong văn giới bấy giờ với một bút pháp lạ lùng sâu thẳm, mô tả rất xác thực, tinh vi, nhưng đôi khi cũng khá hài hước những cảm xúc và ý tưởng của một nhà văn trẻ đang hồi khốn khó. Có lẽ đây là tác phẩm gây ấn tượng sâu sắc nhất cho giới phê bình học giả cũng như bạn đọc toàn cầu kể từ ngày nó ra đời cho tới nay. Tác phẩm này cũng đã được dựng thành phim hai lần. Lần thứ nhất năm 1966, do Henning Carlsen (sinh 1929) nhà sản xuất phim lừng danh người Đan Mạch đạo diễn; lần thứ hai năm 2001 do đạo diễn, biên kịch người Mỹ Maria Giese đạo diễn. Từ đó trở đi, bút lực của ông ngày càng dồi dào sung mãn. Về mặt bút pháp, ông là một trong những nhà văn cùng thời khác như James Joyce (1882-1941), Marcel Proust (1871-1922) và Virginia Woolf (1882-1941)… đã khai thác một cách tài tình thủ pháp Dòng ý thức ; hình thành nên trào lưu văn học hiện đại. Nếu không xét tới quan điểm chính trị của Knut Hamsun – vốn đã trăm phần trăm sai trái, không có gì cần bàn cãi nữa (có lẽ bản thân Knut Hamsun cũng đã nhận ra những sai lầm của ông trong quãng thời gian cuối đời), có thể khẳng định đa phần những di sản văn học mà ông để lại cho nhân loại là vô cùng quý báu. Và người đọc chúng ta có thể tri ân ông ở khía cạnh này. Một số tác phẩm: - Den Gaadefulde. En kjærlighedshistorie fra Nordland (Con người bí ẩn, dưới tên Knud Pedersen, 1877), tiểu thuyết - Bjørger (dưới tên Knud Pedersen Hamsund, 1878), tiểu thuyết  - Fra det moderne Amerikas Aandsliv (Cuộc sống tinh thần của xã hội Mỹ hiện đại, 1889), tiểu luận  - Sult (Đói, 1890), tiểu thuyết  - Fra det ubevidste sjaceleliv (Từ cuộc sống vô thức của tâm hồn, 1890), tiểu luận  - Mysterier (Những điều bí ẩn, 1892), tiểu thuyết  - Redaktør Linge (Biên tập viên Linge, 1893)  - Ny Jord (Đất mới, hoàn tất năm 1893)  - Pan (Quý ngài, 1894), tiểu thuyết  - Ved Rigets Port (Nơi cổng vương quốc, 1895), kịch  - Livets Spil (Trò đời, 1896)  - Aftenrøde. Slutningspil (Hoàng hôn, 1898), kịch  - Victoria. En kjærlighedshistorie (Victoria, 1898), tiểu thuyết  - Munken Vendt. Brigantines saga I (1902), kịch thơ  - Det vilde Kor (Bản hợp xướng hoang dã, 1904), thơ  - Under Høststjærnen. En Vandrers Fortælling (Dưới ngôi sao mùa thu, 1906), tiểu thuyết  - Benoni (1908), tiểu thuyết  - En Vandrer spiller med Sordin (Kẻ lang thang chơi đàn không dây, 1909), tiểu thuyết  - Den sidste Glæde (Niềm vui cuối cùng, 1912), tiểu thuyết  - Børn av Tiden (Những đứa con của thế kỉ, 1913), tiểu thuyết  - Segelfoss By (Thị trấn Segelfoss, 2 tập, 1915), tiểu thuyết  - Markens Grøde (Nhựa của đất, 2 tập, 1917), tiểu thuyết  - Konerne ved Vandposten (Những người đàn bà bên giếng, 2 tập, 1920), tiểu thuyết  - Siste Kapitel (Chương cuối, 2 tập, 1923), tiểu thuyết  - Landstrykere (Những kẻ lang thang, 2 tập, 1927), tiểu thuyết  - August (Tháng Tám, 2 tập, 1930), tiểu thuyết  - Ringen sluttet (Vòng vây đã khép, 1936), tiểu thuyết  - Paa gjengrodde Stier (Theo lối mòn hoang, 1949) *** Con trai người thợ xay bột mì vừa đi vừa suy nghĩ. Đó là một cậu bé có đôi vai rộng, khoảng mười bốn tuổi, da rám cháy vì gió và mặt trời, là một người có tài phịa ra đủ các chuyện. Lớn lên, cậu sẽ theo nghề làm diêm. Nghề này rất nguy hiểm, không thể đùa với nó được, vì hễ để lưu huỳnh dính vào các ngón tay, sau đó sẽ không một người nào đủ dũng cảm chìa tay cho anh bắt. Thế nhưng anh lại được bạn bè kính trọng vì thông thạo một nghề đáng sợ như vậy. Cậu vào rừng thăm các con chim của mình. Chim chóc ở đây đều là bạn cũ của cậu, cậu biết chỗ chúng làm tổ, hiểu ngôn ngữ chúng và biết bắt chước tiếng chúng để trả lời. Cậu thường cho chúng ăn các viên bột mì được xay ở chiếc cối xay nhà cậu. Những hàng cây mọc theo lối đi cũng là bạn cũ của cậu. Mùa xuân cậu lấy nhựa cây, còn mùa đông thì cậu chăm sóc chúng một cách tận tâm, rung tuyết khỏi cành để chúng khỏi gãy vì nặng. Thậm chí ở tít trên đỉnh núi, trong cái hang trước kia là nơi khai thác đá, không có hòn đá nào cậu không biết rõ. Cậu khắc chữ lên mặt các phiến đá rồi xếp lại theo thứ tự: tảng lớn chính giữa là ông linh mục, còn các tảng bé xung quanh là các con chiên ngoan đạo. Nói chung, cái hang đá bị bỏ quên này đã được chứng kiến đủ các trò chơi lạ lùng của cậu. Lúc này cậu đang rẽ sang bên và đi xuống bờ đập. Bánh xe của chiếc cối xay chạy bằng nước đang quay, tạo nên những tiếng ồn kinh khủng. Cậu thường đi dạo ở đây, vừa đi vừa nói chuyện thành tiếng với chính mình. Cậu có cảm giác như mỗi chiếc bong bóng nhỏ đều có cuộc sống riêng của mình, và có thể nói về một điều gì đấy, còn dòng nước tràn qua đập đổ xuống thì mỏng và thẳng đứng như những bó sợi trắng lấp lánh treo trên dây. Ở quãng sông phía dưới bờ đập có cá, và cậu đã nhiều lần tới câu ở đó. Lớn lên, cậu sẽ làm nghề thợ lặn. Chỉ làm nghề thợ lặn thôi, chứ không làm gì khác. Từ boong tàu, cậu sẽ nhảy ùm xuống biển để lạc vào một thế giới kì diệu, nơi các con sóng làm đung đưa các khu rừng hoang dã, còn tận dưới đáy là một lâu đài nguy nga bằng san hô, sẽ có một công chúa đứng bên cửa sổ lâu đài vẫy tay bảo cậu: "Mời chàng vào!"... Nhưng đúng lúc ấy cậu bỗng nghe có tiếng người. Đó là tiếng bố cậu đang gọi to: "Juhannes!". - Có người từ lâu đài tới tìm con. Họ cần người chở các cô cậu sang đảo. Juhannes vội rảo bước về phía lâu đài. Thế là cậu con trai của người thợ xay bỗng nhiên nhận được một ân huệ lớn. Trong thực tế, khu nhà của ông chủ trông chẳng khác gì một lâu đài nhỏ, một lâu đài đơn độc, huyền ảo giữa rừng xanh. Một dãy các cửa sổ hình bán nguyệt chạy dài theo tường và mái nhà dốc đứng của ngôi nhà gỗ được quét sơn trắng. Mỗi lần có khách, một ngọn cờ được cắm trên đỉnh chiếc tháp hình tròn. Khu nhà này được nhân dân trong vùng gọi là lâu đài, với một bên là bờ vịnh, bên kia là rừng rậm, còn thấp thoáng phía xa là những túp lều nông dân nhỏ bé. Juhannes gặp đám trẻ con nhà quyền quý ở bến và giúp chúng lên thuyền. Cậu biết chúng từ lâu - đó là con của ông chủ lâu đài và các bạn bè của họ từ thành phố tới. Mọi người đều đi giày cao cổ, và khi thuyền tới đảo, chỉ một mình Victôria - lúc ấy mới mười tuổi - đi đôi giày bé tí, nên chắc ai đó phải bế cô lên bờ. ... Mời các bạn đón đọc Tiểu Thư Victoria của tác giả Knut Hamsun.