Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ngàn Hạc Giấy của Sadako

Ngày mùng 6/8/1945, 8 giờ 15 phút sáng, một quả bom nguyên tử được thả xuống Hiroshima. Bé Sadako hai tuổi may mắn sống sót sau vụ nổ, thậm chí hoàn toàn lành lặn. Nhưng mầm bệnh của chất độc phóng xạ đã ngấm vào người em, nấu ủ suốt mười năm để rồi phát tác khi cô bé còn chưa học xong tiểu học. Dù ốm yếu, thân thể liệt dần từ dưới lên trên, hạch và các vết ung thư da nổi khắp người, nhưng với nụ cười không tắt trên môi và nỗi lòng đau đáu cho gia đình, Sadako vẫn chuyên cần dành những ngày cuối cùng của đời mình để gấp những con hạc giấy đong đầy nguyện ước. Sadako là một biểu tượng của tình thương yêu, của tiếng gọi hòa bình tha thiết. Cô bé cũng là nguyên mẫu cho bức tượng bé gái nâng hạc giấy trên Đài tưởng niệm Hòa bình cho Trẻ em ở Hiroshima. *** Hiroshima một ngày đầu tháng Tám, người đang ăn sáng người bắt đầu đi làm, nhưng ai nấy cùng dừng lại để ngẩng mặt lên trời ngắm nhìn. Ở rất cao, rất xa, có cái gì đó chói sáng rực rỡ lắm. Xuống cách mặt đất chừng 600 mét, cái chói sáng đó phát nổ, sóng xung kích bùng ra, tước đi sự sống của vạn vật. Gần thì biến thành tro bụi, xa thì sụp đổ hoặc nát vụn. Và lửa bốc lên ngùn ngụt, lửa thiêu cháy cả những dòng sông vốn đan dày như tấm lưới ở thành phố cảng này. Rồi mưa đổ xuống, mưa gom cả tro than từ chín tầng trời mang theo và tiếp đất với màu đen đặc, nhuộm đen da và đen cả tế bào sống của những người thoát chết. Từ đó, những mầm bệnh lặng lẽ vươn dài. Sadako là một bé gái thuộc vào trường hợp ấy. Hai tuổi dính mưa nguyên tử, mười năm ủ bệnh, chẩn đoán ung thư máu vào năm mười một tuổi, và mười hai thì từ giã cõi đời. Gần một năm chữa trị là gần một năm ngập tràn nước mắt, đau đớn và hi sinh cho nhau giữa Sadako và mọi người trong gia đình em. Tất cả được khắc họa lại ở cuốn sách này, khiến ta vừa cảm phục, yêu mến, vừa không khỏi xót xa. Với trái tim kiên cường và giàu lòng trắc ẩn, Sadako đã gói gọn bao yêu thương bí mật, bao mong ước thầm kín của mười hai năm ngắn ngủi trên đời vào những cánh hạc giấy. SADAKO VÀ NGÀN HẠC GIẤY phản ánh một câu chuyện bình dị và chân thực, đồng thời cũng là lời lên án thầm lặng mà mạnh mẽ nhất của một thế hệ trẻ em bị ép buộc làm nạn nhân chiến tranh. Bên cạnh Sadako chống chọi với bệnh tật, còn thấp thoáng hình bóng nước Nhật gian khó thời hậu chiến. Cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, dân cư xoay xỏa kiếm sống bằng chợ đen và vật vã chạy trốn cảnh sát kinh tế... Nhưng ở đó, không có oán hận hay căm thù. Bởi, giống như tình thương bao la trong gia đình, một đất nước cũng cần tình người để tiến bước. *** Sasaki Masahiro sinh năm 1941 tại Hiroshima, Nhật Bản. Cùng gia đình mình, ông đã sống sót qua vụ thả bom nguyên tử xuống Hiroshima năm 1945. Em gái Sadako của ông, sau một thời gian chống chọi với bệnh ung thư máu do bị nhiễm phóng xạ, đã qua đời khi mới mười hai tuổi. Từ năm 2000, Sasaki bắt đầu đến nhiều nơi trên khắp đất Nhật để kể lại câu chuyện của em gái cũng như lan tỏa thông điệp về hòa bình và tình thương trong xã hội. *** Trước mặt tôi lúc này là Đài tưởng niệm Hòa bình cho Trẻ em. Đài tưởng niệm nằm ở một góc công viên Hòa bình Hiroshima*, phần trên là tượng một bé gái đang đứng, hai cánh tay giơ lên nâng một con hạc giấy lớn. Công trình kiến trúc ở gần tâm vụ nổ nguyên tử Hiroshima nhất. Tòa nhà được bảo tồn nguyên trạng ngay sau vụ nổ, và ngày nay đã trở thành biểu tượng của ước mơ hòa bình mãi mãi trên toàn thế giới. Bức tượng được lấy nguyên mẫu từ em gái tôi, Sasaki Sadako. Cách đây hơn nửa thế kỉ, vào năm 1945, gia đình Sasaki chúng tôi là nạn nhân của bom A thả xuống Hiroshima. Thời điểm đó, Nhật Bản đang chìm trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Bố Shigeo đã nhập ngũ, chỉ còn bốn người ở lại thành phố là tôi, bà nội Matsu, mẹ Fujiko và Sadako em gái tôi. Vào cái ngày nghiệt ngã ấy, mái ấm của chúng tôi đã bị thiêu rụi hoàn toàn. “Bom A” còn được gọi là “bom nguyên tử”. Và quả bom nguyên tử thả xuống Hiroshima năm 1945 đánh dấu lần đầu tiên loài người sử dụng vũ khí hạt nhân trong chiến tranh. Sức công phá của vụ nổ tương đương 16.000 tấn bom TNT thông thường. Tuy nhiên, khía cạnh kinh khủng của vũ khí hạt nhân không chỉ nằm ở khả năng tàn phá của nó tại thời điểm phát nổ, mà còn ở lượng lớn chất phóng xạ khuếch tán sau khi thả bom. Nhiều người phải bỏ mạng vì hội chứng nhiễm phóng xạ cấp tính*. Có những người tuy sống sót sau vụ nổ, nhưng hệ lụy của phóng xạ còn kéo dài đến nhiều năm tiếp theo. Kể cả khi chiến tranh kết thúc, không ít người vẫn sống cùng nỗi lo ung thư hay bạch cầu*. Sadako bị chẩn đoán mắc bệnh máu trắng vào năm em học lớp Sáu. Sau khi tiếp xúc với lượng lớn chất phóng xạ trong thời gian ngắn, những triệu chứng sẽ xuất hiện trên toàn thân và nạn nhân sẽ tử vong trong khoảng thời gian từ một đến hai tuần. Hiện tượng bạch cầu trong máu tăng đột biến. Bệnh có thể gây ra các triệu chứng như sốt cao, thiếu máu, nhiễm trùng, chảy máu... Bố mẹ tôi đã làm mọi việc có thể để giúp Sadako đấu tranh với bệnh tật. Cả gia đình cùng nỗ lực tối đa nhằm vượt qua thử thách. Sadako vốn hay nghĩ cho mọi người, dù đau đớn đến đâu khi chống chọi với căn bệnh, em cũng không để lộ ra ngoài, mà luôn giữ khuôn mặt tươi cười vui vẻ để không làm ai lo lắng. Trong câu chuyện này, tôi sẽ kể về sự gắn bó của gia đình mình khi cùng nhau khắc phục gian nan. Sadako chưa từng than thở một lời, em không rên rỉ hay kêu đau bao giờ. Ngày qua ngày, em gấp những điều ước của mình thành hạc giấy. Rồi em mất ở tuổi mười hai, chưa đầy một năm kể từ khi biết mình mắc bệnh. Sadako không phải đứa trẻ duy nhất thiệt mạng vì bom nguyên tử. Tuy em là nguyên mẫu cho bức tượng ở Đài tưởng niệm, nhưng tượng được dựng lên là để an ủi hương hồn của tất cả các em nhỏ cùng cảnh ngộ. Trên bia đá dưới chân Đài tưởng niệm có khắc dòng chữ: Chúng em kêu gọi. Chúng em nguyện cầu. Vì hòa bình cho thế giới. Tôi viết cuốn sách này, không chỉ nhằm thuật lại cuộc chiến chống bệnh tật của Sadako, mà còn muốn các bạn hiểu thêm về những em bé là nạn nhân của mưa bom bão đạn. Khi nhìn bức tượng, ta có cảm giác bé gái đang giúp hạc giấy bay lên trời. Bên trên cánh hạc là vòm không xanh thẳm cao vời vợi, và đằng sau cô bé là những tán lá sum sê của hàng cây xanh lấp lánh. Vào thời điểm bom nguyên tử dội xuống Hiroshima, dù nước Nhật ngùn ngụt khói lửa chiến tranh, chúng tôi vẫn đang sống trong hạnh phúc bé mọn cùng gia đình mình. Buổi sáng mùng 6 tháng Tám năm 1945. Bầu trời cao xanh, tuyệt đẹp. *** Ngàn hạc giấy của Sadako – Những cánh hạc chở khao khát hòa bình. Chiến tranh thế giới thứ Hai kết thúc nhưng thảm họa từ vụ nổ nguyên tử ở thành phố Hiroshima vẫn kéo dài mãi về sau. Cô bé Sasaki Sadako, là một trong những nạn nhân từ thảm họa đó. Sadako bị nhiễm phóng xạ, mất vì bệnh máu trắng khi mới 12 tuổi. Và Ngàn cánh hạc của Sadako, là những dòng chữ của anh trai cô bé – Sasaki Masahiro, viết về quãng đời đầy ý nghĩa mà Sadako đã sống.   Đề tài phản chiến trong Ngàn hạc giấy của Sadako Được viết bởi Sasaki Masahiro, một người không chỉ trải qua những giây phút kinh hoàng nhất của thành phố Hiroshima vào thời khắc Mỹ ném trái bom đầu tiên xuống Nhật Bản, mà ông còn là người thân liên quan trực tiếp với nhân vật trung tâm trong cuốn truyện – bé Sadako. Nên có thể nói, những dòng văn của Sadako no Senbazuru – Ngàn hạc giấy của Sadako, những dòng văn được viết lên bằng ngôi kể thứ nhất – tác giả xưng “tôi”, kể lại trải nghiệm, các sự kiện ông tự mình trải qua đã thấm đẫm hơi thở của lịch sử, hơi thở của thời đại. Qua đó mà Sasaki Masahiro gửi gắm, thể hiện tư tưởng phản chiến đầy mạnh mẽ. Cụm từ phản chiến xuất hiện đầu tiên trong tên một phong trào xã hội: Phong trào chống chiến tranh – Phong trào phản chiến. Phong trào này là sự phản đối việc sử dụng bạo lực, gây hấn quân sự, những cuộc xung đột vũ trang giữa các cộng đồng, quốc gia, dân tộc… Trong văn chương, các tác giả thể hiện tinh thần phản chiến bằng nhiều cách thức khác nhau. Như khắc họa, tái hiện hiện thực chiến tranh, những con người thời chiến hay những con người bước ra từ cuộc chiến… mà từ đấy thể hiện những hậu quả do chiến tranh mang lại. Qua đấy, bày tỏ khát vọng yêu hòa bình, mong muốn một thế giới không còn xung đột, làm dấy lên trong lòng người tinh thần phản đối chiến tranh, đoàn kết con người thành một khối, vì một thế giới không còn tiếng súng, tiếng bom, không còn những mảnh đời bất hạnh vì bom đạn. Trong dòng chảy của văn học mang đề tài phản chiến, Ngàn hạc giấy của Sadako vừa góp tiếng nói vào phong trào chung chống chiến tranh trên thế giới, đồng thời, vừa cất lên tiếng nói riêng của một tác giả Nhật Bản, đã trải qua những giờ phút tang thương nhất của cuộc đời, đã phải chứng kiến những người thân yêu lần lượt ra đi trong đau đớn vì chiến trận, khi quả bom nguyên tử đầu tiên được Mỹ đưa vào sử dụng vì mục đích quân sự. Khi nhắc đến đề tài phản chiến trong tác phẩm Ngàn hạc giấy của Sadako, trước hết, cần phải nói rằng đây là cuốn tiểu thuyết nhìn lại: khi con người ở hiện tại, nhìn lại những sự kiện đã xảy ra và viết về những năm tháng đã qua trong lịch sử. Nhưng không chỉ mang tính lịch sử, Ngàn hạc giấy của Sadako còn mang tính tự truyện nhằm khắc họa lên hình tượng một nhân vật có thật, thậm chí là cùng chung dòng máu thân thiết với người viết. Vì thế, đề tài phản chiến ở cuốn sách, vừa thể hiện trong từng mốc thời gian ứng với từng sự kiện có thật, mà còn thể hiện trong những chứng nhân lịch sử, và kết tinh lại, ở hình ảnh cô bé Sadako. Chiến tranh là đau thương, là những mất mát không thể tránh khỏi. Nhưng quả bom nguyên tử Mỹ thả xuống hai thành phố Hiroshima và Nagasaki vào bối cảnh Chiến tranh thế giới thứ Hai sắp kết thúc, việc Nhật đầu hàng Đồng Minh chỉ còn là vấn đề thời gian thì mãi vẫn là điều gây tranh cãi trong lịch sử. Người dân Nhật Bản nói chung, người dân ở Hiroshima nói riêng, đến tận khi trái bom phát nổ, vẫn đang diễn ra nhịp sống thường nhật. Thậm chí, theo mô tả của tác giả Masahiro, khi trái bom rơi xuống, phát nổ tạo hai vệt sáng chói lọi, người dân còn ra đường ngắm nhìn và thốt lên: “Đẹp quá!” Để rồi, về sau nhìn lại, tất cả hiện về là những ký ức đầy đau đớn, cay đắng: “Tại sao lại quăng quả bom tàn khốc đó xuống nước Nhật chứ?” Quả thực là quá tàn khốc khi vụ nổ nguyên tử không chỉ san phẳng thành phố Hiroshima, tạo lên những cảnh tượng tang tóc ám ảnh mãi những ai còn sống: thành phố chìm trong biển lửa, xác người chết, dòng sông nhuốm máu, mưa đen phóng xạ… Mà hơn cả còn là những di chứng chiến tranh kéo dài đến hàng thế hệ: căn bệnh máu trắng, ung thư da mà Sadako và những trẻ em trên toàn nước Nhật gánh chịu, những đứa trẻ khiếm khuyết về ngoại hình hay trí tuệ… Chiến tranh cướp đi tính mạng con người. Và trong thời bình vãn đi tiếng súng, di chứng chiến tranh lại cướp đi tương lai, hi vọng của bao gia đình, bao đứa trẻ khác. Tái hiện hiện thực chiến tranh thảm khốc, khắc họa lên những số phận bất hạnh như cô bé Sadako vào thời đại mà tiếng súng đã lìa xa, lần nữa, tác giả Sasaki Masahiro đã góp một phần tiếng nói vào phong trào chống chiến tranh nói chung, chống việc sử dụng và thử nghiệm vũ khí nguyên tử, vũ khí hạt nhân nói riêng ở hiện tại và tương lai. Đồng thời, thể hiện tinh thần phản chiến, ủng hộ hòa bình trong Ngàn hạc giấy của Sadako cũng là một cách, Sasaki Masahiro bày tỏ tấm lòng nhân đạo, trĩu nặng yêu thương của ông, của một con người đã nếm trải đủ đau thương quá khứ mang lại: tố cáo tội ác chiến tranh, yêu thương những mảnh đời bất hạnh và khát khao về tương lai tốt đẹp. Chẳng vậy mà, con người ấy đã mang tư tưởng phản chiến cùng tinh thần nhân đạo đó, không chỉ gửi gắm vào những con chữ trong Ngàn hạc giấy của Sadako, mà còn gửi vào những chuyến đi thực tế tới khắp nước Nhật, dành trọn gần như phần đời còn lại để đấu tranh cho hòa bình và lan tỏa yêu thương. Câu chuyện của tình yêu và lòng dũng cảm Bên cạnh việc thể hiện đề tài phản chiến, cất lên tiếng nói chống chiến tranh mạnh mẽ, Ngàn hạc giấy của Sadako còn là câu chuyện của tình yêu và lòng dũng cảm, thông qua hình tượng trung tâm: cô bé Sadako nhỏ bé, bất hạnh mà tốt bụng, kiên cường. Mà đó cũng chính là một phần mục đích của tác giả Sasaki Masahiro khi kể lại quá khứ về người em gái nhỏ đã ra đi vì căn bệnh máu trắng: các tế bào bạch cầu ác tính phát triển thành tế bào ung thư da di căn khắp cơ thể: lan tỏa yêu thương tới nước Nhật, và tới cả thế giới. Thật vậy, Ngàn hạc giấy của Sadako là một câu chuyện bi kịch, câu chuyện về cái chết, buồn thương, day dứt và khắc khoải. Nhưng vượt lên trên tất cả đau thương mà chiến tranh mang lại, vẫn là tình yêu thương ấm áp ẩn sau câu từ, con chữ tưởng như chỉ là lời trần thuật đơn thuần về những gì đã qua. Đó là tình thương mà những con người trong hoàn cảnh gian nan, khó khăn nhất gửi tới nhau: Có hoạn nạn mới thấm thía hai tiếng chân tình. Đó là tình thương của hai tiếng gia đình: dẫu vất vả, cực nhọc vẫn luôn cố gắng, hi sinh vì nhau, bên nhau vượt qua nghịch cảnh. Đó là tình thương của những cô bé, cậu bé bất hạnh đã gửi trao cho nhau sự quan tâm đầy thơ trẻ, trong sáng. Một Nhật Bản, một Hiroshima hoang tàn sau chiến tranh, oằn mình vì nạn đói, chuyển mình trước những bước tiến mạnh mẽ chung của cả xã hội, đã sáng lên những tấm lòng như xua tan đêm đen của đạn bom như vậy đấy. Và giữa yêu thương nhỏ nhặt, giản dị của con người thời chiến và hậu chiến ở thành phố Hiroshima, cô bé Sadako hiện lên như một thiên thần nhỏ, giàu lòng nhân hậu, hi sinh cùng thương yêu. Sadako, cô bé phát bệnh khi mới 11 tuổi, thời gian sống chỉ còn 1 năm, bao dự định, bao ước mơ chưa thành, cô bé ấy đã ra đi khi tuổi thơ còn chưa trọn vẹn. Nhưng tin rằng, với quãng đời ít ỏi, Sadako đã thật sự sống những phút giây không hoài phí, đã sống trọn một cuộc đời ngắn ngủi. Sadako yêu thương thật nhiều, cũng trao gửi đi thật nhiều tin yêu. Giữa cơn bạo bệnh, cô bé đó vẫn chỉ một lòng lo cho gia đình, nghĩ suy đến món nợ của người cha, vẫn dành những quan tâm bình dị tới những người xung quanh. Nụ cười của Sadako, vẫn nở trên môi kể cả khi cơn đau hành hạ. Nơi thân thể bé nhỏ, suy kiệt ấy, là cả trái tim kiên cường, nghị lực, bền bỉ khao khát yêu và được yêu, khao khát sống và được sống trọn từng giây phút của đời người. Giọt nước mắt Sadako rơi, những câu nói nghẹn ngào của em: “Chị ơi, có phải lần sau sẽ đến lượt em không?”, “Bom nguyên tử đáng sợ thật đấy.” như những vết dao cứa vào tim độc giả, đau nhói. Sadako kiên cường trong đau đớn khiến ta khâm phục, nhưng một cô bé lo sợ trước cái chết cận kề lại càng làm ta cảm động, đau xót. Bởi, đó mới thật sự là cuộc đời, đó mới thực sự là chiến tranh và nhắc nhở mỗi người rằng, vết thương chiến tranh khi xưa, vẫn chưa từng khép miệng. Nhưng dẫu cuộc đời có khổ đau, số phận có nghiệt ngã thì yêu thương, tình đời, tình người, lòng dũng cảm vẫn luôn ngời sáng. Như cách Sadako đã kiên cường ra sao, như cánh hạc giấy mỏng manh đã chở nặng tâm tư bé gái 12 tuổi đến lúc giã từ cõi đời thế nào. Bài ca của niềm hi vọng Chợt nghĩ, cuộc đời cô bé Sadako, thật giống với bông hoa anh đào, biểu tượng cho lòng dũng cảm của con người Nhật Bản. Vòng đời của hoa có ngắn ngủi, nhưng khi cánh hoa rụng xuống, cũng chính là lúc loài hoa ấy bước vào quá trình ủ nụ, để mùa xuân năm sau, tiếp tục bung sắc. Sadako ra đi, song yêu thương em trao gửi, đã lan tỏa và nuôi dưỡng tâm hồn người ở lại. Cô bé ấy mất, nhưng tình thương của em vẫn còn sống mãi. Những cánh hạc em gấp, có lẽ không chỉ chứa đựng nguyện ước về một ngày em khỏe bệnh, về một ngày cha em trả được hết nợ, mà còn chứa đựng nguyện ước, hi vọng về một ngày thế giới vắng tiếng bom rơi, để không còn ai, phải chịu nỗi đau em đang mang. Chẳng thế mà, bức tượng bé gái, giơ cao đôi tay ôm cánh chim hạc giơ lên bầu trời xanh ở Công viên Hòa Bình tại thành phố Hiroshima, lấy nguyên mẫu từ cô bé Sadako, đã trở thành một trong những biểu tượng hòa bình của cả nước Nhật. Cô bé Sasaki Sadako, là một nhân vật có thật và Ngàn hạc giấy của Sadako, là câu chuyện có thật kể về cô bé đó. Nhưng Sadako, có lẽ từ lâu đã trở thành một hình ảnh biểu tượng cho tuổi thơ Nhật Bản kiên cường, vươn lên từ đau thương chiến tranh mà lan tỏa yêu thương, mà nói lên tiếng nói hi vọng vì một ngày mai hòa bình. Hình ảnh ấy, cũng như bao hình ảnh trẻ em khác trên toàn thế giới nói chung, và như chính hình ảnh trẻ em Việt Nam nói riêng, vẫn hát mãi những khúc ca hòa bình, về ngày mai, về tương lai không còn tiếng bom rơi, đạn nổ: “Em ước mong sao, bầu trờ chẳng đen bóng mây Em ước mong sao trẻ thơ đừng vương bão giông Vì em biết chân trời đang khép… Vì em biết nỗi đau nghiệt ngã…” (Lời bài hát Em ước mong sao) “Những cánh én chấp chới của mọi tuổi thơ Những cánh én lấp lánh đầy nhạc và thơ Em ước mong sao bầu trời chẳng đen bóng mây Để ngàn chim hót, để đàn én bay” (Lời bài hát Cánh én tuổi thơ) Review Mọt Mọt Mời các bạn đón đọc Ngàn Hạc Giấy của Sadako của tác giả Sasaki Masahiro.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Cô Gái Chơi Dương Cầm
Cô gái chơi dương cầm (nguyên bản tiếng Đức: Die Klavierspielerin) là tiểu thuyết nổi tiếng nhất của của nữ văn sĩ người Áo Elfiede Jelinek. Tác phẩm xuất bản năm 1983 và được đông đảo người đọc đón nhận. Trong cuốn tiểu thuyết này, Jelinek bóc trần những gì được coi là cấm kỵ trong cuộc sống gia đình người Áo. Cuốn tiểu thuyết bày ra một liên hệ rất không bình thường giữa cô giáo và bà mẹ già độc đoán. Erika là cô giáo dương cầm tài giỏi bậc nhất tại nhạc viện Vienna. Nhưng sự nghiêm trang và đứng đắn của Erika có thể chỉ là vẻ giả tạo bên ngoài. Một khi đã bước ra khỏi căn phòng dạy nhạc, người phụ nữ này lại lén lút đến xem phim tại một cửa hàng phim khiêu dâm, rình mò những đôi trai gái làm tình và luôn giấu sẵn một lưỡi dao cạo trong người để cắt xẻo da thịt của chính mình. Mối quan hệ của Erika và những người xung quanh lại càng bất thường hơn. Người phụ nữ ngoài 30 này vẫn bị bà mẹ độc đoán kiểm soát mọi lúc mọi nơi. Đối với học trò, Erika lại tỏ ra rất lạnh nhạt và nghiêm khắc. Cô sợ mất đi vị trí độc tôn của mình nên tìm cách trù dập những sinh viên tài năng nhất. Nhưng có một chàng sinh viên đã lọt vào mắt xanh của Erika. Cậu là Walter, một sinh viên chuyên ngành kỹ sư rất điển trai với ngón đàn điêu luyện. Thấy Erika lạnh nhạt, Walter lại càng muốn chiếm lấy tình cảm của cô. Cậu học trò Klemmer cũng là một con người có cuộc sống bị kìm hãm. Họ đến với nhau theo cách tự hành hạ, tự làm đau đớn bản thân và làm cho người khác đau. *** Elfriede Jelinek sinh ngày 20/10/1946 tại Mürzzuschlag thuộc Miền Hạ Áo. Từ 1966 đến nay, địa chỉ chỗ ở của bà tại thủ đô Vienna không thay đổi. Chính vì thế, bà luôn coi mình là dân Vienna "chính hiệu". Cha bà là người Do Thái gốc Czech, mẹ bà lại là một tín đồ rất ngoan đạo của Thiên Chúa giáo. Thuở nhỏ bà học ba-lê. Từ năm 6 tuổi, bà học dương cầm theo yêu cầu của mẹ. Đạo diễn người Áo Michael Haneke đã chuyển thể tiểu thuyết này thành phim cùng tên rất nổi tiếng và đã đoạt 3 giải thưởng trong Liên hoan phim Cannes năm 2001. Năm 2004, Elfriede Jelinek được trao giải Nobel Văn học. *** Tác phẩm: Ngoài ba tiểu thuyết lớn (Die Liebhaberinnen, Die Klavierspielerin, Lust) với những chủ đề: nước Áo với quá khứ phát xít, tuổi thơ bị đè nén, số phận phụ nữ trong chế độ nam quyền, văn hoá porno..., Jelinek còn là tác giả của một tập thơ, nhiều vở kịch, một số kịch bản phim và nhiều tiểu luận phê bình. Ngoài ra, bà còn là dịch giả với những bản dịch tác phẩm của Thomas Pynchon, Georg Feydeau, Eugène Labiche, Christopher Marlowe và Oscar Wilde.   Giải thưởng: Jelinek đã nhận được rất nhiều giải thưởng văn học uy tín của các nước nói tiếng Đức cho các tiểu thuyết và các vở kịch của bà (Trong đó có Georg-Büchner-Preis năm 1988, giải thưởng văn học lớn nhất của Đức). Năm 2004, bà được trao giải Nobel văn chương.   - 1969: Giải nhất cuộc thi Thơ sinh viên Áo   - 1969: Giải của Tuần văn hóa thanh niên ở Innsbruck cho Aus einem Iiustriertenriman (Trích từ một tiểu thuyết tranh) và bản thảo chưa xuất bản của wirsind lockvÖgel baby! (chúng ta là chim mồi, các em ạ!)   - 1972/1973: Học bổng quốc gia dành cho văn học.   - 1978: Giải Roswitha của thành phố Bad Gandersheim.   - 1979: Giải khuyến khích dự án Kịch bản phim Die Ausgensperrten (Những kẻ bên lề).   - 1983: Giải văn chương của Bộ giáo dục và nghệ thuật Áo.   - 1986: Giải Heinrich BÖll của thành phố Köin.   - 1987: Giải văn chương của bang Steiermark.   - 1989: Giải văn chương của thành phố Wien.   - 1994: Giải Walter Hansenclever của thành phố Aachen.   - 1994: Giải Peter Weiss của thành phố Bochum.   - 1996: Giải văn chương của thành phố Bremen cho tiểu thuyết Die Kinder Toten (Con cái người chết).   - 1998: Giải Georg Büchner.   - 2000: Giải manuskripte của bang Steiermark.   - 2002: Giải sân khấu Berlin của Quỹ Preuβische Seehandlung.   - 2002: Giải của thành phố Mülheim cho kịch bản Macht Nichts (không sao cả).   - 2002: Giải Heinrich Heine của thành phố Düsseldorf.   - 2003: Giải Else Lasker-Schüler của Nhà hát Pfalztheater ở Kaiserslautern cho sự nghiệp nhà viết kịch.   - 2004: Giải Lessing cho công tác phê bình.   - 2004: Giải của thành phố Mülheim cho kịch bản Das Werk (Nhà máy).   - 2004: Giải Stig Dagerman của Hội Stig Dagerman (Thụy Điển).   - 2004: Giải kịch truyền thanh viết cho người mù trong chiến tranh.   - 2004: Giải văn chương Franz Kafka (Séc).   - 2004: Giải Nobel (Thụy Điển).   Mời các bạn đón đọc Cô Gái Chơi Dương Cầm của tác giả Elfriede Jelinek.
Vương Nguyên
Pearl Buck (tên thật là Pearl Comfort Sydenstricker, có tên Trung Quốc là Trại Chân Châu) là con một nhà truyền giáo người Mỹ. Sau khi ra đời chưa đầy 5 tháng, bà đã được cha mẹ đưa sang Trung Quốc sinh sống. Từ nhỏ và suốt cả cuộc đời bà yêu mến và thích tìm hiểu cuộc sống của người dân Trung Quốc, cảm thông với những người dân địa phương bị nhiều tầng áp bức. Năm 15 tuổi, bà được gửi trọ học tại một trường dạy Anh văn ở Thượng Hải. Năm 17 tuổi, cha mẹ cho Pearl Buck về Mỹ, học tại Trường Đại học Randolph Macon (tiểu bang Virginia). Năm 1917 bà kết hôn với một mục sư và theo chồng đi truyền giáo tại miền Bắc Trung Hoa. Từ năm 1922, bà dạy ở Đại học Nam Kinh và Kim Lăng. Năm 1925, Pearl Buck bắt đầu viết cuốn tiểu thuyết đầu tiên Gió Đông, Gió Tây (do chạy loạn Quốc dân đảng, năm 1930 mới xuất bản được). Sau đó hàng loạt tiểu thuyết nổi tiếng khác về đề tài Trung Quốc ra đời, như Đất Lành, Những Người Con Trai, Một Nhà Chia Rẽ, Người Mẹ, Những Đứa Trẻ Chậm Lớn… trong đó tiểu thuyết Đất Lành được nhận giải Pulitzer năm 1931. Năm 1933, bà được Đại học Yale tặng bằng Cử nhân Văn chương Danh dự. Năm 1938, bà được Đại học West Virginia và Đại học St. Lawrence trao tặng bằng Tiến sĩ Văn chương Danh dự. Năm 1938 Pearl Buck nhận giải thưởng Nobel vì các tác phẩm mô tả đời sống nông thôn Trung Hoa một cách phong phú và xác thực (chủ yếu với tiểu thuyết Đất Lành và hai cuốn tự truyện Người Tha Hương (1936) viết về người mẹ và Thiên Thần Chiến Đấu (1936) viết về cha của bà). Sau khi nhận giải, Pearl Buck tiếp tục sáng tác rất nhiều, ngoài văn xuôi bà còn viết kịch, kịch bản phim, tiểu luận và sách cho thiếu nhi. Bà cũng là người đã dịch Thủy Hử (All men are brothers) và một số tác phẩm văn học Trung Quốc sang tiếng Anh. Trong Thế chiến II, Pearl Buck viết nhiều sách báo chính luận chống chủ nghĩa phát xít. Những năm 50, bà xuất bản một số tác phẩm về đề tài gia đình và xã hội Mỹ, kí bút danh I. Sedge. Năm 1951, Pearl Buck được bầu làm thành viên Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn học Hoa Kỳ. Năm 1955, bà li dị chồng và tục huyền với giám đốc một hãng quảng cáo. Cuối đời, bà quan tâm đến đề tài các nhà bác học nguyên tử buộc phải chế tạo vũ khí giết người hàng loạt. Đồng thời, bà tích cực tham gia các hoạt động từ thiện, xã hội như: sáng lập ra tổ chức không vụ lợi Hiệp hội Đông Tây (The East and West Association, 1941) nhằm truyền bá những hiểu biết giữa các dân tộc trên thế giới; cùng chồng lập nên tổ chức Căn nhà tình nghĩa (Welcome Home, 1949) giúp trẻ mồ côi; lập ra Quỹ Pearl S. Buck (The Pearl S. Buck Foundation, 1963) và tặng cho quỹ này 7 triệu đôla. • Tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt: Gió Đông, gió Tây; Ảo vọng; Sống vì đất; Tiếng gọi đồng quê; Lá thư Bắc Kinh; Tình yêu sau cùng; Người mẹ; Nhớ cảnh nhớ người; Yêu muộn; Nạn nhân buổi giao thời; Mấy người con trai Vương Long; Đứa con người yêu; Một phút một đời; Một lòng với em; Một cuộc hôn nhân; Lưu đày; Lưu đày biệt xứ; Cánh hoa e ấp; Đông phương huyền bí qua truyện cổ thần tiên; Truyện Đông phương; Người vợ tiên; Những người đàn bà tuyệt vời trong gia đình Kennedy; Những người đàn bà trong gia đình Kennedy; Tà áo xanh; Nỗi buồn nhược tiểu; Người yêu nước; Ngoài chân mây; Hứa hẹn; Bão loạn; Mẫu đơn; Quỷ địa ngục chẳng bao giờ ngủ; Yêu mãi còn yêu; Ba người con gái của Lương phu nhân; Trái tim kiêu hãnh; Một trái tim tự hào; Biên giới tình yêu; Tình cõi chân mây; Nô tì Mẫu Đơn; Đóa hoa ẩn mình; Trang; Người thành phố; Bí mật đời nàng; Người yêu nước; Thiên Hậu; Người cung nữ; Từ Hi Thái hậu; Con rồng linh diệu; Hạt giống của rồng; Vương Nguyên; Đất lành; Chuyện Kinh Thánh; Những người con của tiến sĩ Lương; Tiếng nói trong nhà; Tử thần và rạng đông; Người mẹ già; Những mảnh hồn sầu xứ.” *** Đây, những lý do nào đã khiến Vương Nguyên, con trai Vương Hổ Tướng, tìm đến căn nhà đất của ông nội hắn, Vương Long…   Khi ở Nam về, cãi cọ, chống đối với cha, Vương Nguyên năm đó 19 tuổi. Một đêm đông gió rét, những hạt tuyết sa lốp bốp đập vào cánh cửa sổ, Vương Hổ Tướng ngồi một mình trong căn phòng rộng lớn, trầm ngâm suy nghĩ, trước ánh than hồng của chiếc lò sưởi; chàng mơ vọng một ngày kia con trở về, một trang thanh niên anh tuấn, cầm quân xuất trận như chàng, lập chiến công hiển hách, nối chí cha tạo những võ công chàng đã hoạch định mà nay vì tuổi già chưa thực hiện được. Chính cái đêm hôm đó, không ai ngờ tới, Vương Nguyên đã đột ngột trở về.   Người thanh niên sừng sững đứng trước mặt chHổ Tướng nhận đúng con chàng, nhưng thấy con ăn vận một lối quân trang chưa từng thấy bao giờ. Đó là sắc phục của dân quân cách mạng, đối thủ với những lãnh chúa như chàng. Khi đã hiểu ý nghĩa cơ sự, Hổ Tướng như bừng tỉnh giấc mơ, đứng phắt dậy, hai mắt dán chặt vào con, tay sờ soạng tìm thanh đoản kiếm lúc nào cũng để bên cạnh người, chàng sẵn sàng giết đứa nghịch tử, như đã hạ thủ bất cứ một đối thủ nào khác. Nhưng lần này cũng là lần đầu tiên, đứa con dám cả gan bộc lộ lòng uất hận đối với cha, từ trước đến nay hắn chưa có dám thế bao giờ. Người thanh niên cởi phanh chiếc áo màu lam, để hở chiếc ngực sạm nắng, nhẵn thín, hét lên, tiếng tuy còn non nhưng rắn rỏi mạnh bạo: - Con biết ý cha muốn giết con lắm! Đó là một phương tiện độc nhất của cha! Giết con đi!   Nhưng ngay lúc đó, người thanh niên cũng biết cha chàng không đủ can đảm giết được con. Hai mắt trừng trừng nhìn cha, cánh tay Vương Hổ Tướng từ từ hạ dần, thanh đoản kiếm rơi xuống nền gạch, Vương Hổ Tướng lấy tay bưng miệng cố giữ cho đôi môi đỡ run như sắp muốn khóc. ... Mời các bạn đón đọc Vương Nguyên của tác giả Pearl S. Buck.
Linh Sơn
Linh Sơn là cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn Trung Quốc đoạt Giải Nobel Văn học năm 2000: Cao Hành Kiện - con người đa tài trên nhiều lĩnh vực như viết kịch, làm thơ, vẽ, viết lý luận và viết tiểu thuyết.  Linh Sơn không có truyện đủ đầu đuôi phát triển cùng xung đột, mâu thuẫn tới cao trào theo như chuẩn định. Linh Sơn cũng không có nhân vật (theo chuẩn mực thông thường) với đầy đủ diện mạo, hình hài, cốt cách, cảnh ngộ. Linh Sơn tựa như một gallery những gương mặt thấp thoáng, le lói, vừa thực vừa ảo. Nó như một bức tranh thuỷ mặc đẹp thăm thẳm nhờ những nét chấm phá điêu luyện của người hoạ sĩ.  Linh Sơn rất hiện đại ở bút pháp, bố cục nhưng cũng đầy khí cốt, hồn phách Trung Hoa. Vừa dân tộc tính, vừa hiện đại, cả hai đều ở mức cao, đó có lẽ là lý do mà tác phẩm này đã được Uỷ ban Giải thưởng Nobel lựa chọn để trao giải. *** Cao Hành Kiện (4/1/1940) là một nhà văn, nhà viết kịch, nhà phê bình người Trung Quốc đầu tiên và là công dân Pháp thứ 13 được trao Giải Nobel Văn học trong suốt 100 năm qua. Ông cũng còn được biết đến với tư cách là một dịch giả, đạo diễn sân khấu và họa sĩ. Ông sinh ra và lớn lên ở Cống/Cám Châu, Giang Tây, Trung Quốc. Ông tốt nghiệp trường Đại học Ngoại ngữ Bắc Kinh năm 1962 ngành tiếng Pháp. Sau khi tốt nghiệp ông được phân công đến Cục xuất bản ngoại văn làm phiên dịch. Trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa (1966-1976) ông đã bị đưa vào trại học tập cải tạo và phải âm thầm thiêu hủy cả một va-li đầy bản thảo tác phẩm của mình, trong đó có một vài cuốn tiểu thuyết chỉ chờ ngày xuất bản và 15 vở kịch. Sau đó, ông bị gửi vào trại cải tạo giáo dục mất 7 năm. Năm 1975 ông trở về Bắc Kinh, làm việc tại Cục xuất bản Ngoại văn. Đến năm 1978 ông nhận chức phiên dịch cho Hiệp hội tác gia Trung Quốc. Năm 1980 ông về làm công tác biên kịch tại Kịch viện Nghệ thuật Nhân dân Bắc Kinh. Cao Hành Kiện là một trong những văn nghệ sĩ tiền phong của Trung Quốc đã cổ vũ, đấu tranh cho quyền sáng tác văn nghệ tự do và đích thực. Chính phủ Trung Quốc đã từng coi ông là một phần tử chống đối và các tác phẩm của ông đã bị cấm lưu hành từ năm 1986. Ông đã bỏ Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 1989 sau vụ thảm sát Thiên An Môn. Năm 1988, ông sang Pháp sinh sống và nhập quốc tịch Pháp từ 1998, hiện cư ngụ tại ngoại ô Paris, khu Bagnolet. Mười chín năm sống ở Pháp, ông đã tập trung vào viết sách, soạn kịch và triển lãm nghệ thuật. Vào năm 1992 ông đã giành được giải Chevalier de l'Ordre des Arts et des Lettres (Huân chương về Văn học và Nghệ thuật) của Chính phủ Pháp. Sau khi ông đoạt giải Nobel năm 2000, báo chí Trung Quốc không rầm rộ về việc này, nhưng tờ báo ra hằng ngày Tin tức buổi chiều Dương Thành, vào năm 2001, trong một cuộc chỉ trích về Linh Sơn đã gọi ông là một "nhà văn dở tệ" và nói rằng việc ông đoạt giải Nobel thật là lố bịch. Linh Sơn là một tác phẩm nổi tiếng của ông, tổng hợp nhiều hình thái và thể loại văn chương gồm hồi ký, chuyện tình, phóng sự xã hội, thực tế, hư cấu, triết lý, đối thoại, độc thoại... hoà quyện vào nhau. Giáo sư Lee Mabel, người dịch tác phẩm Linh Sơn sang tiếng Anh (Soul Mountain) đã nhận định: "Linh Sơn là câu chuyện của người đi tìm sự an bình và tự do bên trong". Cao Hành Kiện còn là một họa sĩ vẽ tranh thủy mặc độc đáo. Ông đã cho tổ chức khoảng 30 cuộc triển lãm tranh khắp nơi trên thế giới và nhận được nhiều lời khen ngợi. *** Mi muốn kể cho nàng một chuyện có từ đời nhà Tấn. Chuyện ni cô đến xin bố thí ở cửa một đại tướng quân nổi tiếng vì ngạo mạn. Theo lệ, người ta báo với quản gia và quản gia cho ni cô một xâu nghìn đồng chinh. Ni cô từ chối, muốn gặp thí chủ, người ban tiền cho mình. Quản gia đành chuyển đạt lời thỉnh cầu này lên tổng quản gia, tổng quản gia muốn rũ gạt nhà sư nên đã ra lệnh cho gia nhân mang đưa cho ni cô một lượng bạc. Ai dám nói ni cô lại một lần nữa từ chối, lại yêu cầu gặp đích thân đại tướng quân, khẳng định chắc chắn rằng ông ta đang lâm nạn và ni cô đến đây để đặc biệt cầu kinh hóa giải cho ông ta. Tổng quản gia chỉ còn có thể trình lên và viên tướng ra lệnh đưa ni cô vào.     Khi nhìn thấy khuôn mặt của nhà sư mặc dù đầy bụi nhưng rất thanh tú và thoát tục, vị tướng nghĩ ngay ni cô không có chút nào là kẻ lừa bịp hay một mụ đàn bà chuyên trò dâm tà, ông bèn hỏi nhà sư muốn gì. Ni cô tiến lên, chắp tay chào rồi lùi lại nói đinh ninh rằng từ lâu đã nghe thấy đại tướng quân hào hiệp và khoan dung. Ni cô từ xa đặc biệt đến đây để thực hành bảy bảy bốn chín ngày chay giới vì vong linh của mẹ tướng quân đã chết. Đồng thời ni cô cầu xin Phật A Di Đà giáng phúc cho viên tướng, phù hộ độ trì cho ông tai qua nạn khỏi. Cuối cùng, viên tướng ra lệnh cho quản gia xếp đặt một gian phòng ở sân trong và cho gia nhân sửa soạn bàn hương ở đại sảnh.     Từ hôm ấy, tiếng tụng kinh gõ mõ cứ vang lên từ sáng đến chiều trong tướng phủ. Thời gian trôi đi, viên tướng cảm thấy ngày một nguôi dịu trong lòng và sự kính trọng của ông đối với vị sư nữ không ngừng tăng lên. Nhưng mỗi chiều vị sư nữ trẻ lại bỏ ra một giờ tắm táp. Viên tướng ngạc nhiên: nhà sư không tóc thì việc gì phải bận đến đầu tóc cùng trang điểm như một người đàn bà bình thường. Vậy tại sao tắm, nghi lễ đơn giản để thanh tẩy tâm can trước khi thay hương, lại kéo dài đến như thế? Hơn nữa, vào lúc ấy, người ta nghe thấy nước chảy không ngừng. Ni cô dội nước lên mình liên tục hay sao? Tướng quân bắt đầu bị sự tò mò ám ảnh. ... Mời các bạn đón đọc Linh Sơn của tác giả Cao Hành Kiện.
Đồng Hồ Xương - David Mitchell
Mỗi người trong chúng ta là một chiếc “đồng hồ xương”, thời gian hữu hạn trôi qua, và những gì còn lại là xương cốt. Trái với con người hữu thời là những kẻ vô thời, bất tử nhờ tự nhiên hoặc bằng cách tước đoạt mạng sống của người khác, nhưng những kẻ ấy liệu có hạnh phúc hơn khi không thấy thời gian hữu hạn? Năng lực đặc biệt, khả năng thấy trước tương lai, tuổi thọ… không bù đắp được sự cần thiết về gia đình, tình bằng hữu đối với con người. Cuốn tiểu thuyết mới nhất đầy ấn tượng của Mitchell mở đầu với câu chuyện của Holly Sykes, một thiếu niên người Anh với khả năng có thể nghe được những giọng nói độc ác. Với Holly là người dẫn đường, Mitchell đã đưa người đọc của mình qua những câu chuyện thần thoại của hàng loạt người kể thuộc các thể loại khác nhau, đã thực sự đạt tới đỉnh điểm của trận chiến mà ở đó thiện và ác xoay vần mà không hề phóng đại. Cái nhìn của ông về tương lai có thể u ám, nhưng khả năng kể chuyện của ông khiến cho The Bone Clocks trở nên thú vị, đặc biệt đối với những người hâm mộ trung thành, những người sẽ được gặp lại nét quen thuộc trong các tác phẩm trước đây của Mitchell. Trận chiến gần như vĩnh viễn không kết thúc ở rìa của thế giới hàng ngày; “những chiếc đồng hồ xương” là những bầy người, cam chịu chạy xuống và chết. Đó là một chuyến đi không tưởng khi chúng ta theo chân Holly Sykes, từ người thiếu niên đào tẩu đến một bà già chứng kiến sự thất bại của văn minh. *** Mình kéo toang rèm cửa. Bầu trời khát khô, dưới sông đầy tàu thuyền lớn nhỏ lô nhô nhưng trong đầu mình chỉ có đôi mắt màu sô cô la của Vinny, dầu gội đầu chảy xuống lưng chàng, mồ hôi lấm tấm trên vai chàng, rồi nụ cười tinh quái của Vinny. Tim mình như muốn vỡ tung. Chúa ơi, ước gì mình thức dậy ở nhà Vinny trên phố Peacock, chứ không phải trong căn phòng chết giẫm này. Đêm qua những lời ấy như tự thốt ra, “Lạy Chúa, em yêu anh quá chừng, Vin à,” rồi Vinny phả khói thuốc thành đám mây nhỏ, rồi Vinny giả giọng như Thái tử Charles, “Phải nói rằng, ta cũng ưa ở cùng cô lắm, Holly Sykes à,” mình cười muốn són cả ra, mặc dù vẫn hơi bực vì chàng chẳng đáp “Anh cũng yêu em”. Thiệt tình. Nhưng mà, đàn ông con trai hay ra vẻ vớ vẩn bông lơn để mà che giấu cảm xúc, chẳng phải báo vẫn viết vậy sao. Ước gì mình gọi được cho Vinny ngay bây giờ. Ước gì người ta chế ra điện thoại có thể gọi mọi nơi mọi lúc. Giờ này hẳn chàng đang cưỡi chiếc Norton đi làm trên Rochester, chàng mặc áo da có chữ LED ZEP đính đinh bạc. Tháng Chín này mình tròn mười sáu tuổi, chàng sẽ chở mình trên chiếc Norton. Dưới nhà có tiếng đóng cửa tủ đánh rầm. Má. Còn ai đóng cửa kiểu đó nữa. Hay má biết rồi? Mình nghĩ mà quặn cả ruột. Không có đâu. Hai đứa vô cùng cẩn thận. Má đang tuổi mãn kinh nên nóng nảy. Chỉ có vậy thôi. Đĩa Fear of Music của Talking Heads đang nằm trong máy, mình hạ cây kim máy xuống. Vinny mua tặng mình đĩa này, hôm đó là ngày thứ Bảy thứ nhì tụi mình gặp nhau ở tiệm đĩa Magic Bus Records. Đĩa hay tuyệt. Mình thích bài “Heaven” và “Memories Can’t Wait” nhưng nói chung cả album không có lấy một bài dở. Vinny đã từng đến New York, từng xem Talking Heads biểu diễn. Dan bạn của Vinny làm bảo vệ ở đó nên cho Vinny vào sau cánh gà, Vinny đã gặp David Byrne và ban nhạc. Năm sau mà đi tiếp thì chàng sẽ dẫn mình theo. Mình thay đồ, ngắm mấy vết cắn yêu trên người rồi ước gì tối nay lại được đến thăm Vinny, nhưng chàng bận đi gặp bạn ở Dover. Đàn ông rất ghét đàn bà hay ghen, nên mình giả bộ không ghen gì hết. Stella - bạn thân nhất của mình, đã đi London để đi săn đồ cũ ở chợ Camden. Má nói mình còn quá nhỏ, không thể đi London mà không có người lớn, vậy là Stella rủ Ali Jessop. Ngày hôm nay mình chỉ còn trông mỗi việc hút bụi ở quầy bar để kiếm ba bảng tiền tiêu vặt. Chán mớ đời. Rồi phải ôn tập để chuẩn bị thi tuần tới. Thực lòng chỉ muốn nộp giấy trắng, dẹp hết tam giác tam giếc Py-ta-go và tiểu thuyết Chúa ruồi với vòng đời sâu bọ nhảm nhí. Có khi làm vậy luôn. Ừ, biết đâu đó. ... Mời các bạn đón đọc Đồng Hồ Xương của tác giả David Mitchell.