Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Sư Tử

Sư tử (nguyên bản tiếng Pháp: Le Lion), tác phẩm của nhà văn người Pháp Joseph Kessel, là câu chuyện về một cô gái và chú sư tử của cô. Patricia có một tài năng hiếm có: trò chuyện với thú vật, và cô bé nghĩ mình có thể điều khiển mọi thứ. Cô bé nổi tiếng với cả thú vật và con người. Câu chuyện được thuật lại thông qua một người đàn ông Pháp trong chuyến viếng thăm Kenya. Câu chuyện xoay quanh tình bạn giữa Patricia và chú sư tử King, được Patricia nuôi từ khi mới sinh ra. Ouriounga, một thiếu niên người Maasai mong muốn kết hôn với Patricia đã quyết định thể hiện mình bằng cách giết sư tử, như tục lệ ở bộ tộc cậu. Tuy nhiên, chú sư tử mà cậu chọn giết lại là King. Cha của Patricia đã bắn King để bảo vệ Ouriounga khỏi cái chết. Cái nhìn lý tưởng của Patricia về thảo nguyên châu Phi tan vỡ, cô bé đầu hàng trước yêu cầu của mọi người và rời đi cùng với người kể chuyện, đi học tại một trường nội trú ở Nairobi. Irene và Louis Kamp đã chuyển thể cuốn tiểu thuyết thành kịch bản cho bộ phim cùng tên năm 1962, với sự tham gia của William Holden, Trevor Howard, Capucine, và Pamela Franklin. *** Joseph Kessel sinh ra ở Clara, Achentina, ngày 10-02-1898. Cha ông là người Nga gốc Do Thái chạy trốn sự truy nã của Sa hoàng, sang Pháp học ngành Y. Nước Pháp trở thành Tổ quốc tinh thần của gia đình Kessel từ đấy. Bác sĩ Kessel tình nguyện đi làm thầy thuốc cho một khu di dân nông nghiệp Do Thái ở Achentina, và Joseph Kessel ra đời ở Tân Thế Giới.   Khi gia đình trở về Pari, Joseph chuẩn bị thi cử nhân văn khoa trong khi vẫn mơ ước trở thành một diễn viên hài kịch. Nhưng một dịp tốt đã đến, cho phép ông làm việc tại tòa báo Journal des débats, tờ báo hàng ngày có uy tín nhất ở Pari. Ở tòa báo, người ta vẫn còn thấy chiếc ghế bành của Chateaubriand để đó.   Thế rồi chiến tranh xảy ra, và vừa đúng lúc mười tám tuổi, ông bỏ hẳn sân khấu và tạm thời bỏ nghề báo để làm phi công. Chính trong nghề này mà ông tìm thấy nguồn cảm hứng cho tiểu thuyết Phi đoàn. Nhà phê bình Henry Clouard cho rằng Kessel là người đầu tiên viết mảng văn học về hàng không.   Năm 1919, Kessel tình nguyện sung vào quân đội viễn chinh của Pháp sang Siberi. Ông đã kể lại chuyến đi ấy trong tiểu thuyết Thời hoang dã. Ông trở về qua Trung Quốc, Ấn Độ và khép lại vòng đi thế giới đầu tiên.   Sau đó, ông luôn luôn ở vị trí hàng đầu thuận lợi cho việc quan sát thời sự. Ông tham gia cuộc nổi dậy của Ái Nhĩ Lan chống lại nước Anh. Ông được chứng kiến những bước đầu của chủ nghĩa phục quốc Do Thái. Hai mươi năm sau, ông nhận được giấy nhập cảnh vào nước Ixraen non trẻ, tờ visa mang số 1. Ông đi theo những người buôn nô lệ cuối cùng trên biển Đỏ cùng với Henri de Monfreid. Ông được thấy những bước đầu của bưu điện Hàng không cùng với Mermoz và Sain Exupery. Ở nước Đức đang thời biến động, ông gặp “người đàn ông mặc áo đen xoàng xĩnh, chẳng có vẻ gì lịch sự, chẳng có vẻ gì quyền thế, chẳng có chút gì ưa nhìn, của một người đàn ông nào đó, vẻ buồn buồn và khá tầm thường”. Người đó là Hitler.   Sau cuộc chiến năm 40 mà ông bắt đầu trong một trung đoàn công binh và kết thúc ở vị trí một phi công của nước Pháp tự do, Joseph Kessel lại trở về nghề văn và nghề báo. Ông được bầu và Viện Hàn Lâm Pháp tháng 11 năm 1962. Ông mất năm 1979.   Joseph Kessel là tác giả của hơn hai mươi tiểu thuyết và truyện như: Phi đoàn, Những trái tim trong trắng, Sư tử, Tiểu đoàn trên không, Đoàn quân bóng tối, Chợ nô lệ, Người đàn bà đi qua quán cà phê…  *** Tôi dâng tặng tiểu thuyết này tới cơ quan quản trị các Vườn quốc gia Kênya đã có công bảo tồn sự sống hoang dã miền đông Phi châu cho các thế hệ tới, để ca ngợi lòng tận tụy nhiệt thành của những con người gánh vác trách nhiệm các khu bảo tồn đó, đặc biệt để ca ngợi bạn tôi, ông giám đốc Tabêrê, trong ngôi nhà anh tôi đã phác họa xong chủ đề câu chuyện này.   Các sự kiện trong câu chuyện diễn ra tại bảo tồn Ambôlêsi. Hẳn là mỗi khu vườn quốc gia đều có một vị giám đốc. Thế nhưng tính các vị giám đốc trong cuốn sách này cũng như tính các bà vợ và cô con gái ông lại hoàn toàn do tác giả tạo ra. Là các nhân vật tiểu thuyết, các tính cách đó chẳng có chút gì chung với gia đình Tabêrê cả. Dẫu sao tôi cũng ngỏ lời cám ơn anh vì anh đã chia sẽ với tôi những kinh nghiệm lâu đời và hiếm hoi của anh về các giống thú hoang. Không được anh giúp sức, cuốn sách này hẳn đã không thể nào ra đời. *** Phải chăng nó đã vành mi mắt tôi để coi thử trong đó có gì? Tôi không thể đoán chắc điều đó. Khi thức giấc, rõ ràng tôi đã thấy như là có một ngọn bút lông mềm và nhám dạo dọc khuôn mặt mình, thế nhưng khi tỉnh dậy hẳn thì tôi lại thấy nó đang ngồi rất ngoan ở ngang tầm cái gối và nhìn tôi chăm chú.   Tầm vóc nó không lớn hơn một sọ dừa. Bộ lông mọc ngắn của nó có màu vỏ dứa khô. Với bộ lông như thế từ đầu ngón chân tới đỉnh hộp sọ, trông nó như thể mặc lông dệt. Riêng cái mặt lại phủ bằng một thứ mặt nạ satanh đen, xuyên qua đó long lanh hai giọt nước: đôi con mắt.   Trời chưa rạng hẳn, nhưng cây đèn bão đêm qua tôi quên tắt vì mệt cũng đủ sáng để tôi nhìn thấy rành rành trên nền tường vôi trắng vị sứ giả bất ngờ đó của bình minh.   Vài giờ sau, sự hiện diện của nó hẳn sẽ là chuyện bình thường đối với tôi. Nó có cả bầy sống trên những cây cao xung quanh gian lều; nhiều gia đình đông đủ giỡn chơi trên cùng một cành cây. Nhưng bữa qua, lúc chiều sẩm tối mới tới đây, người kiệt lực. Vì vậy, vào lúc này, tôi đã nín thở mà nhìn con khỉ tí xíu ngồi rất gần mặt tôi.   Cả nó cũng không nhúc nhích. Cả đôi giọt nước bên trong cái mặt nạ satanh đen cũng bất động.   Trong đôi mắt nhìn ấy không thấy sợ sệt, nghi kỵ và cả tò mò nữa. Tôi chỉ là đối tượng cho một sự xem xét nghiêm túc, vô tư.   Thế rồi cái đầu dệt lông ấy, to bằng nắm tay trẻ nhỏ ở tuổi còn nằm trong nôi, bỗng ngoẹo về bên trái. Đôi mắt khôn ngoan lộ ra một vẻ buồn rầu, thương hại. Nhưng đó là buồn thương cho tôi.   Tưởng chừng đôi mắt ấy mong muốn cho tôi những chuyện tốt lành, muốn đem cho tôi một lời khuyên. Nhưng lời khuyên gì vậy?   Lúc đó hẳn tôi đã có một cử động vô ý. Thế là cái nắm tròn màu ngà ngà vàng đó nhảy vụt lên, bay từ bàn này sang ghế kia cho tới khung cửa sổ để ngỏ, và tan biến đi trong sương mù buổi sáng.   Quần áo đi rừng của tôi từ đêm qua vứt đó vẫn y nguyên dưới đất cạnh chân giường, gần cây đèn bão.   Tôi lấy mặc vào và đi ra ngoài hiên.   Bữa chiều qua, mặc dù trời tối mù mịt, tôi nhớ rằng có để ý thấy những bụi gai lớn bao quanh gian lều mình ở, và trước lều là một cánh rừng thưa mênh mông chạy dài hút trong màn đêm bí ẩn. Nhưng lúc này sương mù đã che kín hết. Vật chuẩn duy nhất cho tôi chỉ còn ngay trước mặt tôi, nối với trời cao trên nóc thế giới, cái bàn khổng lồ chứa tuyết vĩnh cửu quanh đỉnh núi Kilimanjarô.   Một tiếng động giống như có ai lăn vội những con xúc xắc đã khiến tôi ngoảnh nhìn về những bậc cầu thang gỗ thô dẫn tới hàng hiên. Một con linh dương thong thả, ung dung leo lên các bậc tam cấp.   Một con linh dương thực sự, nhưng rất nhỏ xinh, tai nó không chấm đầu gối tôi, sừng giống như những lá thông, và vó chỉ to bằng móng tay.   Con vật kỳ diệu chui từ sương mù ra ấy chỉ dừng lại khi gặp mắt cá chân tôi và nó ngẩng mõm lên với tôi. Tôi khom xuống hết sức thận trọng và chìa bàn tay về phía cái đầu gọt giũa hết sức đẹp đẽ, hết sức tinh tế. Con linh dương nhỏ không cựa quậy. Tôi sờ vào hai cánh mũi nó, ve vuốt chúng.   Nó để mặc tôi, mắt nó nhìn chăm chú vào mắt tôi. Và trong vẻ trìu mến câm lặng của đôi mắt ấy tôi thấy có điều gì đó cũng hệt như khóe nhìn đến là buồn và đến là khôn ngoan của chú khỉ con. Cả lần này nữa, tôi cũng không đủ khả năng để hiểu.   Dường như muốn tạ lỗi vì không nói được, con linh dương liếm các ngón tay tôi. Rồi nói khẽ khàng gỡ mồm khỏi tay tôi. Sau đó, vó chân nó lại tạo ra trên bậc thang gỗ tiếng những quân xúc xắc lăn đi. Nó đi khuất.   Tôi chỉ còn có một mình.   Nhưng trải qua mấy giây lát ấy, bình minh nhiệt đới vốn ngắn ngủi lạ lùng đã nhường chỗ cho rạng đông.   Từ trong lòng bóng tối, ánh sáng đột ngột vọt ra, lộng lẫy, sáng lóa, rạng rỡ. Tất cả bừng lên, long lanh, lấp lánh.   Những mũi tên hồng xuyên qua tuyết trên đỉnh Kilimanjarô.   Khối sương mù dày đặc bị sức nóng mặt trời đào bới, phá phách, hút đi, đã tản ra thành những màng mỏng, thành cột, thành cuộn, thành đường xoắn, thành những khối, những giải, những sợi, và thành vô vàn hạt nhỏ tựa như bột kim cương.   Cỏ lúc thường, khô cứng và màu vàng, lúc này trông mềm ra và lộng lẫy sương mai.   Trên những cây mọc rải quanh lều tôi ở, ngọn cây có những chùm gai lúc này đã được chuốt bóng lại, chim đang hót và khỉ đang kêu choe chóe.   Và đằng trước hàng hiên, khói sương dần dần tan biến để mở ra một khoảng ngắt xanh càng vô cùng khoáng đãng và bí ẩn, và tít sâu trong đó vẫn còn những đám mây nho nhỏ mới tụ đang chập chờn bay và đến lượt chúng cũng lại bốc đi nốt.   Tấm màn này vén lên tiếp tấm màn kia, trái đất mở màn diễn những trò ban ngày và của muôn loài.   Sau hết, ở cuối cánh rừng thưa, nơi vẫn còn bám lại một dải sương mờ nhẹ như lông tơ, thấy có bóng nước long lanh.   Hồ? Ao? Hay đầm nước lầy? Không phải loại nào cả, mà chỉ là một vùng nước rộng. Bên dưới hẳn là có những mạch nước ngầm yếu ớt và nước không đủ sức lan xa hơn nữa, chỉ run rẩy lăn tăn giữa những đám cỏ cao, giữa những lau sậy và những bụi cây rậm rạp.   Những con thú tụ tập bên đầm nước.   Trong chuyến viễn du tôi vừa thực hiện tại vùng Đông Châu Phi, dọc theo các con đường lớn và đường mòn - Kivu, Tanganyika, Uganda, Kenya - tôi đã thấy nhiều con thú đó. Những bầy thú bị tiếng xe ầm ầm xua đuổi tan tác, những bóng hình thoăn thoắt, hốt hoảng, rồi biến mất.   Đôi khi tôi cũng có dịp rình trong giây lát một con thú hoang, việc đó chỉ thực hiện được từ rất xa hoặc kín đáo, có thể nói là xem trộm cũng được.   Tôi đã chiêm ngưỡng những tư thế của những sinh mệnh tự do và thuần khiết ở chốn rừng rậm khô khan với một tình cảm đặc biệt pha lẫn thèm khát, hào hứng, ước ao và thất vọng. Dường như được gặp lại một thiên đường tôi từng mơ ước, từng quen biết từ thuở nào không còn nhớ nổi. Tôi đã kề ngưỡng cửa thiên đường ấy mà không thể vượt qua.   Hết gặp gỡ này sang gặp gỡ khác, tôi chợt thấy có nhu cầu - hẳn là một nhu cầu - trẻ con nhưng ngày càng thúc bách - được thấy mình nhập vào cõi hồn nhiên trong trắng của những buổi đầu đã rất xa xưa của thế giới.   Vì thế, trước khi trở lại châu Âu, tôi đã quyết định ghé qua một trong những Vườn hoàng gia xứ Kênya, những khu bảo tồn có những luật lệ cực kỳ khắt khe chở các thú hoang được sống trong tất cả các hình thái đời sống của chúng.   Và giờ đây, chúng kia rồi.   Mời các bạn đón đọc Sư Tử của tác giả Joseph Kessel.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tên Tôi Là Đỏ - Orhan Pamuk
AudioBook Tên Tôi Là Đỏ   Cuốn sách là một hỗn hợp sắc bén giữa truyện vụ án, ngụ ngôn hậu hiện đại, tiểu thuyết lãng mạn lịch sử, và đặc biệt là ấn tượng về vẻ đẹp vĩnh hằng, huyền bí của Istanbul. Tên tôi là Đỏ có thể lay động gì tới đông đảo độc giả Việt Nam? Một câu trả lời thật khó mà cặn kẽ. Bởi bản thân cuốn tiểu thuyết này đã chứa đựng những thách thức. Không phải bề dày đồ sộ của gần 600 trang sách khổ lớn. Cũng không phải một câu chuyện vụ án ly kỳ có tới 3 án mạng bi thảm xảy ra. Các chương sách sẽ lôi tuột độc giả hướng về Istanbul của bốn trăm năm về trước, để lắng nghe lời thì thầm sâu thẳm của đô thành này, để thấu hiểu những mâu thuẫn trong quá khứ và hiện tại của Istanbul, cùng vẻ đẹp vĩnh hằng của nó. Tùy theo hành trình khám phá của độc giả, có nhiều câu chuyện đan xen trong cuốn sách đa tầng ý nghĩa này. Nhưng ấn tượng nhất là Istanbul, với đủ góc độ từ kinh thành tráng lệ cho tới những con phố nhỏ tối tăm. Đô thành ấy chứa đựng một bề dày văn hóa mà tiêu biểu là những cuốn sách của các nhà tiểu họa đạo Hồi, những người nhìn cuộc sống từ trên đỉnh cao của Thượng đế, dày công lặp lại hình thái nghệ thuật truyền thống, với họ, "cái Đẹp của thế giới thuộc về Allah". Một trong những chương sách gây sức hút nhất trong cuốn tiểu thuyết là chương 51. Trong đêm khuya thanh vắng, giữa một đêm mùa đông buốt giá, nhà tiểu họa già Osman đắm mình trong Quốc khố, lật giở những trang sách mình mơ ước suốt mấy chục năm qua. Một họa sĩ bậc thày với những ngón tay già nua bị tê cóng vì lạnh đang hào hứng bước vào thế giới của những xúc cảm tinh tế và đẹp đẽ của hàng nghìn trang sách quý. Ông không hay biết rằng say mê của mình đang đánh thức cả một bề dày quá khứ nhỏm dậy, và trong khoảnh khắc vui sướng tột độ ấy, Osman đã lấy cây kim từng đâm chọc mắt một nhà tiểu họa bậc thày để ấn vào mắt mình, với thái độ can đảm, bình tĩnh và kiên quyết. Các nhà tiểu họa Hồi giáo bao giờ cũng ẩn giấu trong mình khao khát được mù, sau nhiều năm cống hiến. Điểm nổi bật trong Tên tôi là Đỏ là sự đa thanh của các giọng điệu. 59 chương sách không có chương nào để lẫn hai giọng điệu đan xen. Mỗi người có một tiếng nói riêng. Cả con chó, cả xác chết, cả màu sắc… đều cất lên thứ ngôn ngữ riêng của mình. Đan cài trong những vụ án mạng, những giọng điệu xếp hàng thẳng dẫn dụ độc giả trôi vào một thế giới đầy màu sắc. Những tiếng nói không bị hạn chế tầm nhìn đã va đập dội vào nhau, là chất liệu làm nên một bầu không khí tin cậy về độ trung thực song lại mới mẻ đáng kinh ngạc với một cuốn tiểu thuyết lịch sử. Một điều sung sướng khác: câu hỏi lớn dành cho Orhan Pamuk, vì sao giải Nobel Văn học cao quý lại đến với đất nước Thổ Nhĩ Kỳ nhỏ bé sẽ được chính độc giả giải mã trong cuốn sách dày dặn này. Không phải sự đầu tư vô cùng lớn lao của Pamuk với chi tiết của hàng nghìn bức tiểu họa được dày công nghiên cứu. Cũng không hẳn là một cái nhìn giằng co căng thẳng giữa Đông và Tây luôn hiện diện trong các sáng tác của ông. Vượt lên trên đó là bản sắc văn hóa của Thổ Nhĩ Kỳ, là tình yêu của nhà văn đối với một thành phố đầy thăng trầm và biến động. Chính điều đó làm nên sức lay động trong cái nhìn sâu thẳm về lịch sử Thổ Nhĩ Kỳ, trên hành trình truy tìm linh hồn đau khổ của thành phố quê hương của Pamuk. Có thể nói, chính Istanbul cùng số phận của mình đã tạo nên Pamuk, một trong những tiếng nói mới mẻ và độc đáo nhất trong văn chương đương đại. Tên tôi là Đỏ được lấy từ một chương sách là một cảm hứng bất tận trong cuốn tiểu thuyết này. Như đã nói, tác phẩm là một thách thức đối với độc giả, không phải vì câu chuyện vụ án chỉ được giải mã ở phần kết, mà người đọc sẽ cảm nhận và ngấm dần một nền văn hóa vốn đang bị lãng quên, nơi giao thoa giữa châu Âu và châu Á. Trên hành trình khám phá ấy, điều bất ngờ đó là một cái nhìn gần gũi và thân thuộc như trong bất kỳ xã hội nào: những mối tình tuyệt đẹp, những đè nén tâm lý, những khát khao đầy bản năng… mà điểm khác biệt chính là cách giải quyết vấn đề ấy, với những lý giải của văn hóa và tôn giáo của đô thành Istanbul thế kỷ 16. Tác phẩm là một cột mốc văn học với giải thưởng Nobel 2006, là kiệt tác xứng đáng để giới thiệu tên tuổi của Pamuk đến với thế giới, trong đó có độc giả Việt Nam. Mời các bạn đón đọc Tên Tôi Là Đỏ của tác giả Orhan Pamuk.
Âm Thanh Và Cuồng Nộ - William Faulkner
Âm thanh và cuồng nộ là cuốn tiểu thuyết thứ 4 của William Faulkner, được ấn hành lần đầu tiên vào ngày 07.10.1929, là tác phẩm đã đưa ông đến đỉnh cao của sự thành công, được đông đảo công chúng biết đến. Nhan đề Âm thanh và cuồng nộ được trích từ một câu thơ của William Shakepeare trong vở bi kịch Macbeth, cảnh 5, hồi 5, đó là một định nghĩa về cuộc đời “ It is tale told  by an idiot, full of sound and fury, signifying nothing”. Trong tiểu thuyết Âm thanh và cuồng nộ, William Faulkner đã sử dụng lối kết cấu của tiểu thuyết dòng ý thức để diễn tả nội dung tác phẩm. Tuy nhiên điều mà người đọc nhận thấy ở tác phẩm này đó là sự chống đối lại kết cấu truyền thống của tiểu thuyết dòng ý thức. Các sự kiện trong tác phẩm này không đi theo một trình tự nhất định, cốt truyện đơn giản song lại bị bẻ vụn ra, xáo tung lên, lắp ghép một cách hỗn loạn. Thêm vào đó, W.Faulker còn cố tình đánh lạc hướng người đọc bằng cách lặp đi lặp lại tên gọi của các nhân vật trong truyện: ông  Jason Compson là chồng của bà Caroline Bascomb,  bà lại có ông em là Maury Bascomb. Hai vợ chồng nhà Compson có cô con gái là Caroline (Hay Caddy) và ba cậu con trai là Quentin, Jason và Maury (sau này đổi tên là Benjamin hay Benjy). Caddy lấy chồng, sinh ra đứa con gái, lại lấy tên là Quentin để tưởng nhớ người anh xấu số của mình. Như vậy trong câu chuyện xuất hiện hai cặp nhân vật có tên là Jason và Quentin. Âm thanh và cuồng nộ là tiểu thuyết Gothic của thời hiện đại, mang đậm hơi thở của Hoa Kì trong nỗi đau của buổi giao thời. Nó thể hiện những đóng góp của Faulkner trong việc đổi mới và cách tân tiểu thuyết Gothic. Đó là sự kết hợp  một cách nhuần nhuyễn  các yếu tố của tiểu thuyết trinh thám và tiểu thuyết lịch sử tạo cho câu chuyện thành công ở nhiều phương diện, không những đóng góp cách tân đối với văn chương, nghệ thuật mà còn ở phương diện lịch sử và tư tưởng. Mời các bạn đón đọc Âm Thanh Và Cuồng Nộ của tác giả William Faulkner.
Cao Lương Đỏ - Mạc Ngôn
AudioBook Cao Lương Đỏ   Đây là tuyển tập một số truyện ngắn, truyện dài đặc sắc của văn học đương đại Trung Quốc. Trong đó, tác phẩm Cao lương đỏ - truyện vừa của Mạc Ngôn là tiêu biểu nhất. Tác phẩm từng được giải thưởng văn học Mao Thuẫn, và được đạo diễn Trương Nghệ Mưu dựng thành phim. Bộ phim cũng làm vinh danh cho nền điện ảnh Trung Quốc khi đoạt được hai giải thưởng phim quốc tế.  *** Nhân vật chính của câu chuyện là Từ Chiếm Ngao - một anh hùng dân tộc xuất thân từ một thổ phỉ trong thời kỳ Nhật xâm lược Trung Quốc. Mối tình kỳ lạ giữa Từ Chiếm Ngao và Cửu Nhi có một sức quyến rũ khó tả đối với độc giả. Họ đã gặp nhau trong một hoàn cảnh đặc biệt: Từ Chiếm Ngao là môt trong những phu kiệu đưa Cửu Nhi về nhà chồng, nàng bị gả ép cho con trai một gia đình giàu có nhưng mắc bệnh hủi. Bất ngờ đoàn phu kiệu bị bọn cướp chặn đường trấn lột và có ý định bắt cóc cô dâu. Từ Chiếm Ngao đã dũng cảm chống lại bọn cướp có vũ khí. Tình cảm của hai người nảy nở sau biến cố bất ngờ đó. Từ Chiếm Ngao đã bí mật giết chết cả bố chồng và người chồng bị hủi của Cửu Nhi, giải thoát cho nàng khỏi số kiếp bất hạnh. Họ trở thành một cặp đôi bí mật. Cửu Nhi cũng trở thành một nữ anh hùng, cùng Từ Chiếm Ngao tập hợp nghĩa quân chống lại giặc xâm luợc quê hương và bà đón nhận một cái chết thật nhẹ nhàng, thanh thản… Các nhân vật trong Cao lương đỏ cá tính, khí phách, sống ngang tàng và cũng đầy niềm lạc quan như những ngọn cao lương thẳng tắp vút lên trên bầu trời của Cao Mật - một nét điển hình của người dân vùng Cao Mật mà chúng ta sẽ gặp lại trong rất nhiều tác phẩm của Mạc Ngôn, ông đã lấy những hình mẫu chính từ mảnh đất mà ông được sinh ra và lớn lên để nhào nặn thành các tác phẩm bất hủ. *** Cao lương đỏ như một bản nhạc tuyệt vời ngợi ca tình yêu, sự tự do phóng khoáng của con người. Tác phẩm được kể bằng cái nhìn chủ quan của nhà văn, vừa khốc liệt, lại vừa bay bổng, cuốn hút độc giả hết trang này qua trang khác - một kiểu kể chuyện rất điển hình của Mạc Ngôn đó là sự hòa trộn giữa hiện thực và yếu tố kỳ ảo, phi thường. Ngay cả cái chết trong câu chuyện cũng thật lạ kỳ, thật phi thường, nhẹ bỗng. Cao lương đỏ là một tác phẩm lạ và rất đáng để độc giả thưởng thức.   Ngoài ra trong tuyển tập này, chúng ta còn được tiếp cận với các truyện ngắn của các cây bút nổi tiếng Trung Quốc như Vương Mông, Lão Khai, những câu chuyện mang những triết lý nhân văn sâu sắc, đồng thời rất gần gũi với chúng ta. Có thể nói, cuốn sách mỏng này sẽ đem lại cho độc giả những cảm xúc mới lạ.  Mời các bạn đón đọc Cao Lương Đỏ của tác giả Mạc Ngôn.
Chuông Nguyện Hồn Ai - Ernest Hemingway
AudioBook Chuông Nguyện Hồn Ai   Chuông nguyện hồn ai là một bản anh hùng ca về cuộc đấu tranh anh dũng của nhân dânTây Ban Nha chống lại bọn phát xít Franco bảo vệ chế độ cộng hòa, một cuộc chiến kéo dài từ năm 1936 tới năm 1939. Nhân vật chính là Robert Jordan, một chiến sĩ người Mỹ chiến đấu trong Lữ đoàn quốc tế, tham gia cuộc chiến tranh vĩ đại chống lại sự bành trướng toàn cầu của chủ nghĩa phát xít. Trong kế hoạch tấn công nhằm giải phóng một vùng lãnh thổ Tây Ban Nha của Sư đoàn số 14 do tướng Gôndơ người Nga chỉ huy, Robert Jordan được lệnh phối hợp với một nhóm du kích đặt mìn phá hủy một cây cầu để chặn viện binh và đường rút chạy của quân địch. Anh lên đường đến Villaconejos để tổ chức kế hoạch tấn công cây cầu. Tại đây, khi gặp cô du kích Tây Ban Nha xinh đẹp tên là Maria, mối tình sâu nặng và đồng điệu trong một lý tưởng chung giữa anh và cô nảy nở. Tình yêu đó đã giúp cho hai người nhận thức sâu sắc hơn ý nghĩa của cuộc sống và công việc họ đang làm. Nhưng bỗng Robert Jordan nhận thấy bọn phát xít đã đánh hơi được kế hoạch của cuộc tấn công và đang ráo riết tập trung quân bố trí phản kích. Anh cử ngay Andrés mang báo cáo về Ban chỉ huy Sư đoàn đóng ở Navacerrada đề nghị thay đổi kế hoạch tác chiến và cho ngừng ngay việc phá hủy cầu. Thế nhưng thật không may, do nhiều trắc trở, lẽ ra đoạn đường chỉ cần đi trong ba giờ, Andret phải mất cả một ngày. Khi bức thư của Robert Jordan đến tay Gôndơ thì đã quá muộn, những chiếc máy bay ném bom đầu tiên mở màn cho trận đánh đã quần đảo trên bầu trời. Robert Jordan đành cho nổ mìn phá cây cầu theo kế hoạch đã định và dẫn đội du kích rút lui. Dọc đường, bom đạn quân thù khiến anh bị gãy chân, vết thương quá nặng, anh quyết định từ giã đồng đội và người yêu, ở lại ngọn đồi bên cạnh chiếc cầu bị phá nhằm chiến đấu cầm chân địch cho đội du kích rút lui an toàn. Mời các bạn đón đọc Chuông Nguyện Hồn Ai của tác giả Ernest Hemingway