Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ông Xã Là Phúc Hắc Đại Nhân

Nếu bạn nhìn tựa truyện và mường tượng về một chuyện tình siêu ngọt giữa một giám đốc đẹp trai, lạnh lùng, gian xảo và một cô nàng thỏ trắng ngây thơ, ngốc nghếch theo motif quen thuộc, vậy thì thất đáng tiếc phải nói rằng bạn đã đoán sai rồi. Đây đơn thuần là câu chuyện về một cậu bé đem lòng yêu một cô bé. Và tôi có thể đảm bảo với bạn một điều rằng, nó sẽ không làm bạn thất vọng.   Câu chuyện của Khang Duật và Âu Dương Miểu Miểu bắt đầu vào một ngày tháng 09 năm 1995, khi cả hai mới chỉ là học sinh cấp hai. Cho tới mãi sau này, Miểu Miểu mới hiểu được rằng thời khắc cậu học sinh Ái Tân Giác La Khang Duật bước vào lớp đã trở thành bước ngoặt lớn nhất trong cuộc đời của cả hai người.  Ngoại hình xuất chúng cùng dòng họ Ái Tân Giác La đều là minh chứng cho xuất thân vương giả của Khang Duật. Bạn bè trong lớp đặt cho cậu biệt danh “Vương gia”. Nhưng ít ai biết được rằng chính dòng dõi cao quý đó lại là nguyên nhân gây nên bao đau thương và mất mát cho Khang Duật và gia đình trong thời kỳ Cách mạng văn hoá.  Mất cha từ khi còn nhỏ, gia cảnh lại bần hàn khiến Khang Duật chín chắn và già dặn hơn hẳn những người bạn cùng trang lứa. Rời xa quê hương, một mình sống tại nơi đất khách xa lạ, vừa đi học vừa phải đi làm kiếm tiền, Khang Duật đã học cách sống tự lập từ những ngày niên thiếu. Cuộc sống của cậu thiếu niên Khang Duật không có quá nhiều niềm vui cho tới khi cậu gặp được Miểu Miểu.  Khác với Khang Duật, những năm tháng thơ ấu của Miểu Miểu trôi qua khá êm đềm bên cha mẹ và cô em gái sinh đôi. Cũng như bao cô bé ở cái tuổi trăng tròn, Miểu Miểu vô tư, hồn nhiên, có đôi chút ngốc nghếch và thi thoảng nghịch phá. Nếu có gì đặc biệt đáng nói ở Miểu Miểu thì chính là cô bé rất thích chó. Cực kỳ thích. Thích tới mức nào ý hả? Hãy đọc đoạn trích sau để biết thêm chi tiết!  “Vào ngày 14 tháng 2 năm 2005, hắn mua một chiếc nhẫn thật oách cầu hôn tôi. Nhìn thấy chiếc nhẫn thật oách này, đầu óc tôi hoàn toàn đình công. Là nhẫn kim cương! “Bao…bao nhiêu tiền?” tôi không dám nhận, mắt cũng bị tia sáng từ kim cương chiếu vào đến sắp mù. “Rẻ hơn ở Thượng Hải, anh nhờ đàn anh mua ở Thụy Sĩ, 17 vạn(1).” “Cái gì!!!” Tôi kinh hoàng nhảy dựng lên, còn làm đổ đồ uống trên bàn. Phản ứng của tôi làm Khang Duật nhíu mày, “Em không thích?” Tôi lắc đầu, vào lúc như thế này tôi không dám nói không thích, chính là… chính là… “Tiền ở đâu anh mua?” hắn bây giờ còn đang thực tập, tuy rằng tiền lương rất cao, nhưng chúng tôi đang tính mua một căn hộ rộng rãi, hơn nữa còn có tiền sinh hoạt, hắn làm gì có 17 vạn. “Mượn!” “Cái gì!!!” lần này là tôi gân cổ lên hét. “Em nói nhỏ chút!!” “Anh thật ngu ngốc!! Mượn tiền mua nhẫn, có phải anh bị đầu máy bay đâm không vậy.” “…” “Trả lại, trả lại tiền cho người ta nhanh lên!!Ngay lập tức, ngay lập tức!!” tôi kéo cổ áo Khang Duật điên cuồng gào. “Anh sẽ trả sau!!” “P, lấy cái gì trả, đi làm trai bao à!!” tuy rằng hắn đẹp trai từ nhỏ, rất có tố chất làm trai bao. Hình như Khang Duật nghe không nổi nữa, mặt tối sầm, phi thường hung ác, “Em chỉ cần nói muốn hay không!!” (…) Nhưng là tôi vẫn cảm thấy không tự nhiên trong lòng. “Cái nhẫn này có thể mua được bao nhiêu con chó a…” từ nhỏ tôi vốn là một đứa mê chó. “…” “Có thể mua được Ngao Tạng!” Gân xanh trên trán Khang Duật đang giật tưng tưng. Tôi không hề phát hiện điều đó, nhìn chiếc nhẫn bóng loáng tiếp tục nhắc đi nhắc lại, “Nếu không mua được Ngao Tạng cũng có thể mua được tám con chó kéo đi.” Âm thanh lãnh léo giá buốt của Khang Duật nhẹ nhàng vang lên, “Em muốn chó, hay là muốn anh!!” Tôi đang đắm chìm trong việc tính xem 17 vạn có thể mua bao nhiêu con chó nên trả lời một cách phản xạ, “Chó…” Không chỉ trong thời khắc được cầu hôn đầu óc Miểu Miểu mới hoạt động theo cách không giống ai như vậy. Ngay từ những ngày đầu gặp Khang Duật, Miểu Miểu đã không… bình thường. Cụ thể là sau một tuần ngồi cùng bàn, cô nàng tư tưởng luôn lơ lửng trên mây này vẫn không nhớ tên của cậu bạn. Nhưng duyên phận trêu ngươi, Miểu Miểu càng không để ý Khang Duật, duyên phận càng gắng sức vác Khang Duật đến đập thẳng vào mặt Miểu Miểu.  Vậy nên bạn học Khang Duật mới tình cờ được nhìn thấy “thiên thần có cánh” của Miểu Miểu rồi lại ngẫu nhiên bắt gặp cảnh Miểu Miểu “giải quyết nỗi buồn gấp gáp” bên cánh đồng cỏ. Nói chung đã không thấy nhau thì thôi, một khi đã thấy thì toàn gặp phải cảnh tượng khó quên. Rồi bằng một nhịp đập kỳ diệu nào đó của trái tim, Khang Duật thích Miểu Miểu. Và từ đây là quá trình Khang Duật dùng cả thanh xuân phúc hắc của mình để theo đuổi cô bạn cùng lớp.  * * * * * Khi đọc xong bộ truyện này, tôi cảm thấy rất ghen tị với Miểu Miểu và Khang Duật. Trong khi có những người đi hết cả cuộc đời cũng chẳng thể tìm được “nửa kia” của mình, Khang Duật và Miểu Miểu lại may mắn tìm thấy tình yêu đích thực trong những năm tháng tươi đẹp nhất. Điều đó không đáng ghen tị sao?  Nhưng trên hết, tôi ngưỡng mộ tình yêu giữa hai người. Gặp nhau từ những ngày cắp sách tới trường, chuyện tình của Miểu Miểu và Khang Duật cũng thuần khiết, trong sáng và đáng yêu như bao tình yêu học trò khác. Cũng có những trò nghịch phá, cũng có những giây phút ngượng ngùng và không thể thiếu những kỳ thi áp lực căng thẳng.  Khang Duật dùng sự thông minh và phúc hắc của mình để chinh phục Miểu Miểu. Từ việc hối lộ cái bụng không đáy của em gái Miểu Miểu cho tới đe doạ, cưỡng ép bạn bè trong lớp phải gọi cô là “Phúc Tấn”, phải nói là không từ thủ đoạn. Còn Miểu Miểu, cô đơn giản là thích Khang Duật, thích ở bên Khang Duật, thích chính là thích vậy thôi.  Nhưng nếu chỉ có vậy, câu chuyện của Miểu Miểu và Khang Duật cũng chưa thể khiến tôi đặc biệt ấn tượng đến thế. Tôi nhớ trong những bộ phim tình cảm, vào thời khắc kết hôn, cô dâu và chú rể luôn nắm tay nhau và nói lên lời thề nguyện: “Con hứa sẽ ở bên người đó, yêu thương người đó bất kể khi giàu sang hay nghèo khó, khoẻ mạnh hay bệnh tật, hạnh phúc hay khổ đau.” Sự thật là chẳng nhiều người có thể thực hiện được lời thề này cho tới cuối đời. Nhưng Khang Duật và Miểu Miểu đã cùng nhau trải qua tất cả những khó khăn và thử thách đó trước cả khi hai người thực sự bước vào đời mà chẳng cần phải thốt lên lời thề. Từ khi chỉ là một cậu học sinh, Khang Duật đã có thể ở bên ủng hộ Miểu Miểu, giúp cô vượt qua căn bệnh tim quái ác. Khi Miểu Miểu tự ti và tổn thương bởi di chứng béo phì sau khi điều trị bằng thuốc, Khang Duật cũng không ghét bỏ cô mà chỉ bế cô lên rồi nói: “Miểu Miểu, không sao, mình còn ôm được!”.  Miểu Miểu và Khang Duật đã bảo vệ và giữ vững tình yêu của mình thành công trong những năm tháng yêu xa, một người du học một người ở lại quê nhà. Cô bé Miểu Miểu ngốc nghếch học cách sẻ chia nỗi đau với Khang Duật khi anh mất đi người thân yêu nhất. Khang Duật phấn đấu từ một thiếu niên với hai bàn tay trắng thành một người đàn ông thành đạt đủ để thuyết phục mẹ Miểu Miểu chấp nhận xuất thân bần hàn của anh. Yêu nhau thì dễ nhưng giữ vững tình yêu thì thật khó.  Có thể khi đọc đến đây, nhiều bạn sẽ nghĩ rằng đó chỉ là tiểu thuyết, một chuyện tình đẹp như vậy sao có thể tồn tại trong cuộc sống đời thực. Nhưng lần này ngòi bút của tác giả Khuyển Thần Khuyển Khuyển đã khiến tôi tin rằng câu chuyện của Khang Duật và Miểu Miểu là có thật. Hay ít nhất một tình yêu đẹp như thế thực sự tồn tại ở đâu đó ngoài kia, chỉ là nó chưa đến với chúng ta.  Nếu như vậy trong lúc chờ đợi, sao không cùng dõi theo câu chuyện của Miểu Miểu và Khang Duật và rồi biết đâu một ngày nào đó sẽ có ai đó tới bên và hỏi bạn rằng: “Cưng ơi, ký giùm anh một cái tên trên hộ khẩu được không, ngay ở ô phối ngẫu!” ____________ " ": Trích dẫn từ truyện Review by #Linh_Hy Tần - fb/ReviewNgonTinh0105 *** Mời các bạn đón đọcÔng Xã Là Phúc Hắc Đại Nhân của tác giả Khuyển Khuyển.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ngược Đường Trường Thi - Nguyễn Triệu Luật
Nguyễn văn Canh Viện Nghiên Cứu Hoover, Đại Học Stanford S au khi cướp ngôi nhà Lý, nhà Trần lo củng cố quyền lực. Một trong công việc này là tìm mọi cách tiêu diệt hết những người lãnh đạo của triều đại cũ, và đồng thời tê liệt hóa hoạt động của tông thuộc hay các bầy tôi của triều đại này. Công tác ấy có hy vọng giúp tránh được hậu họa mất ngôi báu về tay triều đại cũ. Nhà Trần làm những gì để ngăn ngừa hậu họa đó? Lật lại các trang sử cũ, ta thấy có 3 phương cách nhà Trần áp dụng: a)Tiêu diệt những người lãnh đạo. b) Đày ải một số ở những nơi xa xôi. c) Xóa tông tích lý lịch để những kẻ chống đối tiềm thế không còn nhớ tới nguồn gốc của mình. Cuốn Ngược đường trường thi của Nguyễn Triệu Luật đã mô tả khá đủ về vấn đề này. a) Tiêu diệt những người được xếp vào hàng lãnh đạo của Triều đình họ Lý. Nhà Trần chiếm ngôi của nhà Lý không bằng võ lực. Thái sư Trần Thủ Độ ép vua Lý Huệ Tông nhường ngôi cho Công chúa thứ hai là Lý Chiêu Hoàng, và cho Trần Cảnh kết hôn với Lý Chiêu Hoàng. Kế đó Lý Chiêu Hoàng phải nhường ngôi cho Trần Cảnh. Còn Lý Huệ Tông bị buộc phải đi tu, và sau tự tử chết. Vì vậy, việc tàn sát không xảy ra như thường thấy. Triều đại mới vẫn cho phép tông thuộc họ Lý sinh hoạt bình thường. Vào năm 1232, nhân ngày lễ tiên hậu hàng năm, Thái sư Trần Thủ Độ cho mời tất cả những người vào hàng lãnh dạo họ nhà Lý đến cử hành tế lễ tại lăng miếu như thường lệ. Lăng miêu ấy thuộc làng Du Lâm, tổng Hội Giang, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Thường thì, mỗi khi tế lễ xong, mọi người được mời xuống một căn phòng xây dưới đất gọi là cung, để dự tiệc. Lần này, sau khi tông thất nhà Lý xuống cung hết, Trần Thủ Đô cho giật sập sàn xây phía trên, rồi đổ đất chôn sống hơn 70 tông thất nhà Lý. b) Đày ải một số người di nơi xa xôi hẻo lánh. Trần Thủ Độ cho lập hai làng ở giáp biên giới Hoa Việt. Đó là làng Băng Hà ỏ cửa ải Kỳ Cấp, và làng Ba Điểm tại đèo Lai, thuộc châu Hữu Lũng. Những người này là cận thần nhà Lý, và những kẻ chống nhà Trần được đưa lên lập nghiệp tại đây. Họ chỉ được làm lính, không được thi cử, không được làm quan. Mục đích việc đầy ải những người này là để họ sẽ gặp nguy cơ khi Bắc quân sang xâm lăng, và chắc rằng họ sẽ bị tiêu diệt. Tuy nhiên, khi quân Mông Cổ sang xâm chiếm nước ta, cả dân cư hai làng ấy đẽ theo giặc. Sau khi đánh đuổi được quân xâm lăng, nhà Trần di cư những người này vào Nam. c) Bắt những tông thuộc nhà Lý đổi ra họ Nguyễn và không được đi thi, không được làm quan. Vì bị đe dọa nhiều người phải thiên cư đi nơi khác và sống cuộc đời nông dân trong nhiều thế hệ. Nhờ mưu chước này, Trần Cảnh đã lập ra nhà Trần vào năm 1225. Vì thấy được tâm tàn sát của Trần Thủ Độ, hoàng tử thứ hai của vua Lý Anh Tông là Lý Long Tường vào năm đó đã bỏ trốn. Ông đem đề tế khí vượt biển trốn sang Triều Tiên để tị nạn. Vì vậy ông không bị chôn sống vào dịp lễ tiên hậu kể trên. Sau khi sinh sống ở Triều Tiên được 27 năm tức là vào năm 1253, nhân khi quân “bách chiến bách thắng” Mông Cổ sang xâm lăng, ông được vua Triều Tiên triệu dụng. Ông tuyển mộ nghĩa dũng quân và giúp đánh bại quân xâm lăng. Vì có công đánh giặc, vua Triều Tiên ban cho ông họ Lý (lúc sang tị nạn, ông phải dùng họ Nguyễn) và tước vị Hoa Sơn tướng quân. Nay còn di tích là Việt Thanh Nham và có bia ghi công của ông là Thụ Hàng Môn Bi Các. Con cháu ông cùng với những gia nhân theo ông đi tị nạn lúc đó hiện lập nghiệp thành làng tại quận Khang Linh, đạo (tỉnh) Hoàng Hải. Hồi 1988 khi ghé qua Hán Thành, tôi có nhờ một Khoa Trưởng Phân Khoa Cao Học thuộc trường Đại học Hàn Quốc đưa đi thăm các làng người Việt ấy mà tôi được biết họ hành nghề đánh cá và được trả lời rằng các làng ấy thuộc địa phận Bắc Hàn. Ở phía bên kia khu phi quân sự. Một số hậu duệ Hoa Sơn tướng quân hiện ở Hán Thành và đã có liên lạc tìm về nơi đất tổ tại Du Lâm, Bắc Ninh. Tại Hoa Kỳ, sau biến cố 1975, một số hậu duệ nhà Lý vượt thoát được nạn cộng sản và đang sinh sống ở đây. Ông Nguyễn Tư Cự hiện ở California là một người trong số đó. Là trưởng chi thuộc dòng dõi đời thứ năm của Thượng thư Nguyễn Tư Giản (Bộ Lại, đời Tự Đức) và cháu ba đời của nhà giáo dục, nhà văn hóa và cũng là nhà cách mạng Nguyễn Triệu Luật, tác giả cuốn truyện này, ông Cự đã được dòng họ Nguyễn giao phó công việc liên lạc với Hán Thành để tìm tin tức và tài liệu cũng như tiếp xúc với hậu duệ của Hoa Sơn tướng quân. Tôi biết rằng đã có nhiều tài liệu rất đặc sắc về hậu duệ họ nhà Lý, ở hải ngoại và cả ở trong nước. Và trong một ngày không xa, sẽ có một cuốn sách đầy đủ về trường hợp hi hữu, có một không hai trong lịch sử Việt Nam này. Ngày 10 tháng 12 năm 1994 Mời các bạn đón đọc Ngược Đường Trường Thi của tác giả Nguyễn Triệu Luật.
Kết Thúc Vòng Thiêng - Rostislav Kinjalov
Cho đến ngày nay nền văn minh Olmec cổ ít được người biết đến, nhất là ở Việt Nam. Trong cuốn tiểu thuyết lịch sử “Kết thúc vòng thiêng” giáo sư dân tộc học người Nga R. Kinjalov đã vẽ lại bức tranh cổ xưa sinh động của người Olmec huyền bí, một dân tộc da đỏ đã sống ở Mexico cách đây hơn 3.200 năm. Dựa vào những chứng cứ lịch sử-khảo cổ, Kinjalov giới thiệu với chúng ta cuộc sống của một dân tộc vào loại cổ xưa nhất của hành tinh. Trong cuốn sách này bạn đọc sẽ thấy được sinh hoạt của người Olmec cổ: điều kiện thiên nhiên, tổ chức xã hội, tình yêu, phong tục tập quán, tín ngưỡng tôn giáo, quyền lực và tham vọng của những người cầm quyền. Sức mạnh của thiên nhiên huyền bí luôn làm người Olmec kinh sợ, họ thờ đủ các thần: thần Độc cước – vị thần của bão tố; Thần Tâm đất – chủ nhân khủng khiếp của Âm phủ, động đất và núi lửa; Thần Cóc Vĩ đại – Đức Mẹ của các vị thần; Thần Mặt trời; Thần Nước; Thần Ngô trẻ – người cung cấp lương thực cho dân tộc Olmec v.v… Cũng như nhiều dân tộc da đỏ khác ở châu Mỹ, dân tộc Olmec dùng người sống để tế thần, một phong tục dã man mà chúng ta ngày nay không thể tưởng tượng nổi. Trong cuốn tiểu thuyết “Kết thúc vòng thiêng” chúng ta thấy hệ thống xã hội của người Olmec cổ phân cấp khá chặt chẽ với những đẳng cấp rõ ràng. Bên cạnh hệ thống chính quyền (Vua, các quan lại…) còn có hệ thống tín ngưỡng (các thầy Tư tế) giữ vị trí hết sức quan trọng trong cuộc sống của dân tộc. Theo quan niệm của người Olmec cổ, thế giới tồn tại theo chu kỳ 104 năm, gọi là vòng thiêng. Hết 104 năm các vị thần sẽ phán quyết hủy diệt hay kéo dài sự tồn tại của thế giới, và bắt đầu một vòng thiêng mới. Đồng thời tác giả cũng đưa bạn đọc vào cuộc hải hành hư cấu của một vị quan Ai Cập cổ đến vùng đất đỏ xa xôi bên kia đại dương để so sánh sự phát triển không đồng đều giữa các nền văn minh lúc bấy giờ, trong khi Ai Cập đang ở thời kỳ đồ đồng và đã chuyển sang thời kỳ đồ sắt thì dân tộc Olmec ở Mexico đang ở thời kỳ đồ đá. Với những chứng cứ khoa học xác thực, từ đầu đến cuối cuốn tiểu thuyết, tác giả dẫn bạn đọc đi hết cuộc phiêu lưu này đến cuộc phiêu lưu khác, để dần dần giải mã những bí ẩn của dân tộc Olmec cổ huyền bí. Nhà Xuất bản Trẻ hân hạnh giới thiệu cùng bạn đọc cuốn tiểu thuyết đầu tiên nói về dân tộc Olmec ở đất nước Mexico xinh đẹp, để các bạn có điều kiện tìm hiểu thêm về một nền văn minh cổ xưa. *** Sao-Lorenso. Mexico. Tình yêu không có tuổi, không ranh giới và bất tử! • D. Golsuorsi. “Mùa hè cuối cùng của Forsait.” Nhiều năm trôi qua từ khi vòng thiêng mới bắt đầu. Trong làng Tahcum-Tracang không ai dám gọi đến tên của người phụ nữ quái gở này, bà ta đi hết nhà này qua nhà khác tìm kiếm thứ gì đó không rõ. Người ta gọi bà là lão bà, còn những kẻ bất kính trong đám thanh niên cũng chỉ dám thì thầm “bà điên”. Dân làng cho rằng bà bị thần ác ám và họ sợ hãi một cách sùng tín khi bà xuất hiện, họ mời bà ngồi cạnh bếp lò, mời ăn, uống. Đôi khi bà nhận thức ăn, đôi khi không nhận và bà chỉ gạt những cánh tay nhiệt tình ra. Bà rất ít nói, không để ý đến ai, không nhìn thẳng vào mặt người đối thoại mà nhìn vào khoảng không, lời của bà thường đứt đoạn và khó hiểu. Bà lão mất trí vì đau khổ và thời gian, đó là bà Tiang thuộc tộc họ Socan. Bà không có nhà, không có người thân. Các con của ông chú do bà chăm sóc đã đi theo tiên tổ từ lâu, con của họ cũng đã mất. Cháu của họ thì xem bà như người xa lạ. Thực ra chúng không hiểu bà lão này là họ hàng thế nào với chúng. Đám con cháu của Tug-Anseng và Nam-Suc, vô số con trai và con gái của Cangah, không biết tên thật và số phận của bà. Mỗi tháng một lần bà lão bị nỗi lo xâm chiếm. Bà như thoát khỏi cơn mê, động tác trở nên rõ hơn và mạnh hơn, đôi mắt mờ đục rực sáng. Bà ra khỏi làng, và theo đường vòng để không gặp ai trên đường, đi đến hẻm núi mọc đầy cây non ăn sâu vào khu đồi của thành phố, nơi ngày xưa người ta đã thực hiện những nghi lễ của vòng thiêng và chôn chiếc đầu đá của Shang. Khối đá khổng lồ quá lớn nên không thể chôn kỹ, chiếc hố quá cạn và lớp đất lấp trên bức tượng không đủ dày nên nước mưa từ sườn đồi dần dần cuốn trôi lớp đất đắp, để lộ ra khuôn mặt của bức tượng với đôi mắt bất động nhìn lên bầu trời. Tiang cẩn thận dọn sạch cành khô, lá cây và dây leo tươi phủ trên khuôn mặt thân yêu và ngồi xuống cạnh đó. Trong những ngày này bà trò chuyện hàng giờ với bức tượng y như với người sống. “Hôm nay em ăn ngon lắm Shang à, – bà nói, – một cô gái mời em bánh ngô…, cô gái này giống em khi còn trẻ…, chàng nhớ không, chàng khen bánh ngô của em lắm mà, lúc đó chàng đã cười như bây giờ vậy… Xem này, đây là mảnh vỏ từ thân cây mà chúng ta đã ngồi lúc đó… Em giữ nó mãi mãi, em nhớ hết…, chúng ta yêu nhau biết chừng nào! Chỉ tiếc rằng chúng ta không có con; vì nếu có nó, anh đã có thể hãnh diện vì con trai của mình, em xin thề đó! Tất cả cũng chỉ vì lão Anaib-Ungir đáng nguyền rủa. Nhưng lão đã bị kiến ăn từ lâu rồi, ngay cả đống xương dơ bẩn của lão cũng đã mục trong rừng. Chỉ còn em ngồi đây tâm sự cùng anh, mặt trời vẫn chiếu sáng chúng ta…, chàng vẫn còn yêu em như ngày xưa chứ?”. Và cũng trong một buổi gặp như thế, trái tim chung thủy, cháy bỏng yêu thương của Tiang đã ngừng đập – để mãi mãi hòa nhịp cùng tượng đá ngàn năm. • Leningrad – Gumolosar, 1974 – 1977 Mời các bạn đón đọc Kết Thúc Vòng Thiêng của tác giả Rostislav Kinjalov.
Đường Chân Trời Đã Mất - James Hilton
Một câu chuyện đọc xong người đọc phải phân vân suy nghĩ. Một câu chuyện về một chiếc máy bay di tản bị cướp đi đưa bốn người về một tu viện Lama ở vùng núi cao Tây Tạng. Hay đúng hơn câu chuyện về một con người Conway, ba mươi tư tuổi, công tác tại lãnh sự quán Anh ở Baskul (Ấn Độ), một người có sức hấp dẫn kỳ lạ. Ai đã gặp anh một lần cũng phải nhớ mãi. Anh có một thời sinh viên sôi động, đại diện thể thao của Trường Đại học Oxford, đã giành hầu hết các giải của Nhà trường, khiến một giáo sư giàu tình cảm đã tặng anh danh hiệu Vinh quang: Conway Vinh quang. Cuộc chiến tranh 1914-1918 đã chen ngang vào cuộc đời anh. Cũng như hàng triệu người khác, anh bị nó lôi cuốn vào cuộc bắn giết, sợ hãi, điên dại phóng đãng... Anh ra khỏi cuộc chiến tranh không thương tật, nhưng thực tế thương tật ở bên trong. Sau chiến tranh anh trở về giảng dạy ở Trường Đại học Oxford hai năm, rồi đi làm công tác ở Bộ Ngoại giao vì anh biết nhiều ngôn ngữ Đông Phương. Anh là một con người thấy việc cần làm thì đem hết sức mình ra làm, chứ không vì cái tiếng anh hùng. Một con người không chuộng hình thức, người ta thường nghĩ anh biếng nhác, thực ra chỉ vì anh không muốn ganh đua, không muốn xô đẩy người khác để mình tiến lên. Do vậy, trên đường đời không bao giờ anh được món bở mà thường chỉ bị đẩy đi đến những nơi xa xôi hẻo lánh. Tuy nhiên, anh vẫn không thấy buồn, trái lại còn có phần vui vì như vậy đã tránh được cuộc sống đầy cạnh tranh, chen lấn của xã hội đương thời. Chính với tâm trạng trên, khi bị bắt cóc đưa lên một tu viện Lama xây dựng ở lưng chừng trời, bên mép một dãy núi hoang vu ở Tây Tạng, anh đã gặp Lama tu viện trưởng và đã bị ông thuyết phục đến mức muốn ở lại đây để làm tu sĩ. Và chỉ ít lâu sau anh được tu viện trưởng trước khi chết đã cho anh kế vị. Nhưng vì bổn phận đối với Mallinson, viên phó lãnh sự cùng đi, một thanh niên có gia đình thân thuộc, có người yêu ở London, nên anh này nhất thiết đòi về. Và có lẽ còn vì Lo-Tsen, một nữ tu sĩ đã nhiều tuổi lắm rồi, song trông cô vẫn còn trẻ, coi như mới chỉ mười bảy, mười tám tuổi, như lúc cô mới đến tu viện Lama. Conway đã yêu cô, một tình yêu không đòi hỏi được đáp lại, yêu cái thanh tú mảnh mai, và anh không ngờ Mallinson đã thuyết phục được Lo-Tsen thu xếp cùng trở về. Hai người cần có Conway là người có thể giúp đỡ họ vượt qua những khó khăn đầy rẫy trên đường. Vì bổn phận và vì yêu hai người, nên anh đã nhận lời đưa họ trở về… Conway không hề kể lại cho bạn bè nghe về câu chuyện trở về này, nên chỉ biết do ngẫu nhiên mà một người bạn anh đã gặp được anh đang nằm tại một bệnh viện của Hội truyền giáo ở Trùng Khánh: Lúc này anh đã mất hết trí nhớ. Bạn anh đã ở lại chăm sóc cho anh hồi phục được trí nhớ rồi đưa anh về London. Nhưng giữa đường, anh đã lẩn đi, dường như để tìm đường trở lại tu viện Lama, khiến bạn anh đã mất bao công sức đi hàng ngàn dặm đường, đi khắp nơi để tìm anh. Liệu anh có tìm được đường trở về tu viện Shangri-La ở Tây Tạng không? Đó là điều khó hiểu. ***  James Hilton là một tiểu thuyết gia người Anh đã viết một số tiểu thuyết bán chạy nhất, bao gồm Lost Horizon (1933) và Goodbye, Mr. Chips (1934), Random Harvest (1941). Trong tác phẩm Lost Horizon, ông hư cấu ra Shangri-La. Sinh ra tại Leigh, James Hilton là con trai của John Hilton, hiệu trưởng của Trường Chapel End ở Walthamstow. Ông được đào tạo tại Leys School, Cambridge. Hilton đã viết hai cuốn sách nổi tiếng nhất của mình, Lost Horizon (1933) và Goodbye, Mr. Chips (1934), trong khi sống trong một ngôi nhà liền kề khá bình thường trên Oak Hill Gardens, Woodford Green. Ngôi nhà nay vẫn còn, với một tấm bảng màu xanh đánh dấu cư trú của Hilton. Ông đã kết hôn hai lần, lần đầu tiên đến Alice Brown và sau đó đến Galina Kopineck. Cả hai cuộc hôn nhân đã kết thúc bằng ly hôn. Ông qua đời tại Long Beach, California do ung thư gan. Tác phẩm: Catherine Herself, 1920 Storm Passage, 1922 The Passionate Year, 1924 Dawn Of Reckoning (Rage In Heaven), 1925 Meadows Of The Moon, 1926 Terry, 1927 The Silver Flame (Three Loves Had Margaret), 1928 Murder at School (U.S. title: Was It Murder?), xuất bản với bút danh Glen Trevor, 1931 And Now Goodbye, 1931 Contango (Ill Wind), 1932 Knight Without Armour (Without Armor), 1933 Lost Horizon, 1933 Goodbye, Mr. Chips, 1934 We Are Not Alone, 1937 To You, Mr Chips, 1938 Random Harvest, 1941 The Story Of Dr. Wassell, 1944 So Well Remembered, 1945 Nothing So Strange, 1947 Twilight Of The Wise, 1949 Morning Journey, 1951 Time And Time Again, 1953 Mời các bạn đón đọc Đường Chân Trời Đã Mất của tác giả James Hilton.
451 Độ F - Ray Bradbury
451 độ F xứng đáng được xem là một kiệt tác kinh điển có thể thay đổi cuộc đời bất kỳ ai đọc nó. Tác giả Ray Bradbury là một trong những nhà văn lừng danh nhất của thế kỷ XX, tiểu thuyết 451 độ F ban đầu có tên là Lính phóng hỏa (The Fireman), dị bản đầu tiên có nhõn 25 nghìn chữ, được đăng trên tạp chí Galaxy Science Fiction. Hơn ba năm sau, qua một trận ốm nặng, nhà văn Ray Bradbury mới bổ sung thêm rất nhiều cho lần xuất bản sau đó. Ray Bradbury kể rằng đã dành toàn bộ hơi sức mình và “từ một vài động cơ ẩn mật nào đó bên  trong” để tạo dựng nên 451 độ F, một câu chuyện giả tưởng phong phú đến bất ngờ bởi tính dự báo về một xã hội hiện đại đầy những lo âu và bất ổn trong tương lai. Khắc họa xã hội giả tưởng thông qua anh chàng Montag “với cái mũ sắt tượng trưng mang số 451 trên cái đầu phớt lạnh và đôi mắt bừng lửa màu cam”, thế giới tiểu thuyết 451 độ F hiện lên đầy quái dị quanh việc “đốt là một cái thú”, nung cháy bầu trời buổi tối thành màu đỏ - vàng - đen, thiêu cháy làm cho rụi hẳn những mảnh vụn và tàn dư than củi của lịch sử. Ở xã hội mà lính cứu hỏa lại chính là “người châm mồi cho đám cháy” đó, nơi mà truyền hình phù phiếm thống trị, tri thức nông cạn, giải trí “ăn liền” được tung hê, nơi mà “không có sách thì thế giới vẫn ngon lành”, 451 độ F đã rung lên một hồi chuông cảnh báo về sự xuống cấp văn hóa trong một xã hội mà ý tưởng sáng tạo bị ruồng bỏ đến thản nhiên và tội nghiệp. Gấp gáp và sống động, nhà văn Ray Bradbury dường như muốn tất cả độc giả cùng tham gia và rơi vào “độ nóng” của từng mạch truyện. Nơi mà con người chìm mê trong công nghệ, những tình cảm thân thuộc bị xói mòn, nơi mà người ta kết nối với nhau qua sóng chứ không phải là từ những tín hiệu của những cái ôm.  Sự xuất hiện những con “chó máy” vô cảm trong tiểu thuyết khá thú vị, nó làm đúng chức năng, tự nhắm mồi, tự về nhà, tự tắt, “nó chỉ là cáp đồng, pin và điện” khiến không ít người phải giật mình vì tiện ích của đời sống hiện đại. Gấp lại 451 độ F, hẳn không ít người vẫn tủm tỉm đến bóng dáng cô nàng Clarisse “nhỏ nhắn và trắng như sữa”, đi lích rích trong đêm khuya, thích ngửi mùi và nhìn ngắm các thứ, đôi khi cô gái ấy đi suốt đêm, “cứ đi hoài và ngắm mặt trời mọc”.  Thời niên thiếu của mỗi người, chẳng đã từng đôi bận điên rồ đến ngọt ngào như thế hay sao. 451 độ F sắc nhọn, tinh tế, thực tiễn và ấm áp đến những dòng chữ cuối cùng là vậy. Được Ray Bradbury viết vào năm 1963, 451 độ F qua hơn 60 năm vẫn làm chao đảo những độc giả khó tính, trước một “kiệt tác tiên tri”, đáng báo động với chính thế giới của chúng ta. *** Ray Bradbury Douglas là một nhà văn chuyên về sáng tác các tác phẩm kinh dị, khoa học viễn tưởng, và bí ẩn người Mỹ. Nổi tiếng với cuốn tiểu thuyết Fahrenheit 451 (1953) và tập hợp những câu chuyện khoa học viễn tưởng như The Martian Chronicles (1950) và The Illustrated Man (1951), Ray Bradbury là một trong những nhà văn nổi tiếng nhất thế kỷ 20 và 21 của nước Mỹ. Nhiều tác phẩm của ông đã được chuyển thể thành phim và chương trình truyền hình. Bradbury sinh ngày 22 tháng 8 năm 1920 ở Waukegan, Illinois, cha mẹ là Esther (Moberg) Bradbury, một người Mỹ gốc Thụy Điển, và Leonard Spaulding Bradbury,[8] một người sửa chữa và bảo dưỡng đường dây điện và điện thoại. Bradbury có quan hệ với học giả Shakespeare Mỹ Douglas Spaulding. Ông cũng là hậu duệ của Mary Bradbury, người đã bị xử tại các cuộc xét xử phù thủy Salem năm 1692. Bà đã kết hôn với Captain Thomas Bradbury của Salisbury, Massachusetts. Thời niên thiếu, Ray đi cùng cha đến Los Angeles trong thời kỳ suy thoái. Thời điểm này, cuốn tiểu thuyết giả tưởng của Edgar Rice Burroughs "Tarzan" đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến cậu. Cậu đã đi lang thang khắp Hollywood, bám theo những người nổi tiếng để xin chữ ký. Ray không đi học đại học, ông dành thời gian ở các thư viện để tự học và bắt đầu viết cho các tạp chí. Năm 1950, Bradbury cho ra mắt cuốn sách đầu tiên The Martian Chronicles là câu chuyện giả tưởng về những Earthlings chạy trốn khỏi một hành tinh đang xung đột với cư dân trên Sao Hỏa. Ray sáng tác ra những tác phẩm nổi tiếng khác như Dandelion Wine, I Sing the Body Electric và From the Dust Returned. Bradbury được ghi nhận sáng tác 27 quyển tiểu thuyết và hơn 600 câu chuyện ngắn. Các tác phẩm của ông đã bán hơn 8 triệu bản trên toàn cầu và chuyển thể sang hơn 36 ngôn ngữ. Ông bị đột quỵ vào năm 1999 và phải ngồi xe lăn suốt quãng đời còn lại. Bradbury qua đời tại Los Angeles, California ở tuổi 91 sau một thời gian bệnh tật kéo dài.[20][21] Ông có bốn người con. Vợ của ông đã qua đời vào năm 2003.   Mời các bạn đón đọc 451 Độ F của tác giả Ray Bradbury.