Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tứ Thư

Tứ thư của Nho gia là bốn cuốn sách dạy con người về cương thường đạo lý. Tứ thư của Diêm Liên Khoa là bốn cuốn sách ghi lại những vết thương của lịch sử Trung Quốc thời hiện đại. Tứ thư của Nho gia là bộ sách mà tất cả các sĩ tử ngày xưa cần phải đọc để làm người. Tứ thư của Diêm Liên Khoa là tiểu thuyết mà người Trung Quốc ngày nay cần phải đọc để trả nợ lịch sử. Diêm Liên Khoa viếtTứ thư để “dâng tặng hàng ngàn hàng vạn trí thức còn sống và đã chết cùng thời kỳ lịch sử bị lãng quên”. Đó là thời kỳ cách mạng Đại nhảy vọt của Trung Quốc cuối thập niên 1950, đầu thập niên 1960. Chuyện xảy ra ở trại cải tạo dành cho các trí thức, được gọi là khu Dục Tân (đào tạo và bồi dưỡng con người mới), nằm ven bờ sông Hoàng Hà. Trại viên của khu Dục Tân khoảng 23.300 người, chín mươi phần trăm là trí thức. Giáo sư, cán bộ, học giả, nhà văn, thầy giáo, bác sĩ, nhạc sĩ, họa sĩ… dù cho kiến thức chất đầy năm xe, tài cao tám đấu, tất tần tật đều bị đưa đến đây lao động cải tạo, bồi dưỡng để thành con người mới. Và thật kinh khủng, cuộc cách mạng bồi dưỡng đó đã thành công! Trại cải tạo đã làm mới các trí thức. Mới đến mức tất cả đều từ tốt biến thành xấu, cao thượng biến thành thấp hèn; từ con người biến thành kẻ “mất tư cách làm người”. Họ biến thành súc vật? Không, ví như thế thì rất tội cho súc vật. Họ biến thành ác thú? Không, ví như thế thì ác thú sẽ kêu oan. Họ biến thành ma quỷ? Không, ví như thế thì quá bất công với ma quỷ. Họ biến thành những sinh vật kỳ quái, kinh dị đến mức không thể so sánh được với bất cứ sinh loài nào trên thế gian này. Khu Dục Tân được chia lô đánh số gồm 99 khu. Khu thứ 99 có 127 trại viên trí thức cải tạo dưới quyền lãnh đạo tối cao của nhân vật được mệnh danh là Con Trời - bộ đội phục viên. Lao động vất vả, thiếu ăn thiếu mặc, thành tích giả dối, sách vở bị đốt…, các trí thức đều khao khát được trở về nhà. Họ cắt máu tưới cho lúa ngô để tăng năng suất; rình rập người khác phạm tội để bắt bớ, tố cáo nhằm lập công. Trộm cắp, gian dối, so bì, soi mói, đố kỵ, hãm hại… những tiềm năng ác độc trong con người được phát huy tối đa. Mất mùa và thiên tai khiến cái đói trở thành đại nạn. Đói! Đói lay lắt. Đói dữ dội. Đói kiệt cùng. Chết! Chết vì đói. Chết vì rét. Chết vì vừa đói vừa rét. Những người còn lại không đủ sức khiêng người chết đi chôn, đành chất chồng thi thể đông cứng của họ trong một gian nhà. Cuối mùa đông, sau khi ăn hết cả cỏ dại, dây nịt, giày dép…, các trại viên đã tự cứu mình bằng cách ăn thịt những người chết. Giáo sư, giáo viên, bác sĩ, chuyên gia, học giả…; đàn ông, đàn bà; người già, người trẻ… đều nhóm bếp luộc thịt người. Mùi thịt theo khói bốc lên tanh tưởi. Tiếng húp xì xoạp. Có người ăn để đủ sức treo cổ mình lên xà nhà, có người ăn để chờ ngày được trở về nhà. Tổng cộng năm mươi hai xác chết đông cứng, không xác nào còn nguyên vẹn, chỗ nào có thể xẻo ăn được đều bị ăn hết. Không chỉ riêng khu Dục Tân bị đói, mà Bắc Kinh cũng đói, toàn đất nước đều đói. Con Trời đành phát cho mỗi trí thức một túi đậu tương rang, một ngôi sao đỏ bằng sắt để họ có thể trở về nhà mà không bị bắt, cho họ lấy lại những quyển sách còn sót sau vụ đốt sách mà lâu nay anh ta âm thầm phục chế, bảo bọc. Con Trời không ra đi cùng họ. Anh ta đóng một cái giá gỗ lớn hình chữ thập, tự đóng đinh mình trên đó. Máu chảy ròng ròng… Con Trời phóng thích các trại viên, thực chất là trả họ từ nơi đói khát này về nơi đói khát khác. Về phần mình, anh chọn cái chết như chúa Jesus. Chết vì giác ngộ sau bao đêm âm thầm đọc Kinh thánh và sách vở tịch thu được hay chết vì sụp đổ lý tưởng? Có lẽ cả hai. Đề cập đến những chủ đề lớn như lịch sử, sinh mệnh, nhân tính, Tứ thư là bi kịch của người trí thức, là sự phản tư đầy quyết liệt và đau đớn về lịch sử Trung Quốc hiện đại. Đồng thời, Diêm Liên Khoa đã tiếp nối một cách xuất sắc mô-tip “ăn thịt người” trong lịch sử văn học Trung Quốc. Thử thách lương tri của người trí thức bằng những tình huống nghiệt ngã nhất, Diêm Liên Khoa đã khiến người Trung Quốc phải đối mặt với “vết thương” lịch sử một cách trần trụi qua bút thuật vô cùng sáng tạo, vô cùng tàn nhẫn. Mỗi cuốn sách trong Tứ thư được viết theo một thể văn khác nhau: thể Kinh thánh, thể tự bạch, thể báo cáo chính trị và thể chuyện kể dân gian. Rất nhiều câu văn ngắn, cực ngắn, siêu ngắn. Thủ pháp trùng chương điệp cú được rải đều khắp. Nhiều dấu câu không đúng quy phạm ngữ pháp, từ đơn nhiều hơn từ ghép và từ láy, danh từ và tính từ được động từ hóa tạo nên sự khác lạ đầy tính bất trắc. Nhiều câu văn được trích dẫn trực tiếp từ Sáng Thế ký như ẩn dụ về sự tẩy trắng văn minh, trở về thuở hồng hoang mà cách mạng Đại nhảy vọt đã gây ra cho khu Dục Tân nói riêng và cả đất nước Trung Quốc nói chung… Nhân vật của Tứ thư không có tên. Tất cả đều được gọi theo danh phận trước đây: học giả, tôn giáo, giáo sư, bác sĩ, nhà văn, nhạc sĩ, nghệ sĩ, thí nghiệm, pháp luật… Cách gọi này mang tính mỉa mai một cách đau đớn, đồng thời có ý nghĩa khái quát rất cao. Sự khái quát đó hàm ý nỗi bất hạnh lớn này không chỉ xảy ra cho từng/những cá thể mà xảy ra cho cả một lớp người vốn được xem là tinh hoa của xã hội, là rường cột của quốc gia. Số phận của họ bị điều khiển bởi sự phi lý. Phi lý lịch sử đổ ụp xuống cuộc đời họ khiến cho nhân cách, lý tưởng, niềm tin và tất cả những gì cao đẹp thiêng liêng nhất đều sụp đổ. Họ bị đẩy xuống tận cùng của những dối trá, lường gạt, cơ khổ; phải làm những việc không nên làm, sống cuộc đời không nên sống, chết cái chết không đáng chết. So với thời của Tần Thủy Hoàng, sự trừng phạt, hành hạ trí thức của thời cách mạng càng dai dẳng hơn, khắc nghiệt hơn, tàn bạo hơn, khốc liệt hơn.    Giống như Vì nhân dân phục vụ, Kiên ngạnh như thủy, Phong nhã tụng, Đinh Trang mộng… Tứ thư cũng đi thẳng vào đề tài gai góc. Viết để đối thoại, để chuộc lỗi, để ăn năn, để trừng phạt và để sòng phẳng với lịch sử..., một lần nữa, Diêm Liên Khoa đã tỏ rõ sự dũng cảm và chân thành của mình bằng cách chọn “những điều không được phép viết”. Ông cho rằng, “khi bạn chọn điều đó, thì bạn phải chấp nhận vứt bỏ tất cả, kể cả cơ hội được xuất bản tác phẩm”. Chọn điều đó, nghĩa là bạn đang viết cho chính mình, bạn có thể viết bất cứ điều gì mình muốn. “Không viết nổi một tác phẩm lớn là lỗi của nhà văn chứ không phải lỗi của thời đại, đừng lấy những danh nghĩa đẹp đẽ để che đậy trách nhiệm và năng lực của nhà văn”.  Kiên trì với quan điểm sáng tác đó, Tứ thư - tác phẩm mà Diêm Liên Khoa ưng ý nhất, hoàn thành năm 2010 nhưng bị hơn mười nhà xuất bản trong nước từ chối. Năm 2013, Tứ thư được xuất bản ở Đài Loan. Năm 2014, tác phẩm được trao giải thưởng văn học Kafka. Hội đồng trao giải chọn Diêm Liên Khoa bởi vì Tứ thư là đỉnh cao sáng tác của ông, và vì ông là nhà văn “có dũng khí đối mặt với hiện thực” - thứ hiện thực nghiệt ngã và tăm tối mà cả giới trí thức và lịch sử Trung Quốc đều không dám ngoái đầu nhìn lại. *** Diêm Liên Khoa (sinh 1958) là một nhà văn Trung Quốc chuyên viết tiểu thuyết. Các sáng tác tiêu biểu: "Hạ nhật lạc" (夏日落), "Vì nhân dân phục vụ" (为人民服务), "Đinh trang mộng" (丁庄梦). Ông đã xuất bản trên 10 tập truyện ngắn. Thụ hoạt (受活), tập tiểu thuyết xuất bản năm 2004, đoạt rất nhiều giải thưởng của Trung Quốc. Các tác phẩm của ông do mang tính châm biếm cao nên nhiều tác phẩm nổi tiếng vẫn đang bị cấm tại Trung Quốc. Diêm Liên Khoa cũng thừa nhận đã phải tự kiểm duyệt bằng cách viết song song 2 phiên bản của cùng một tác phẩm để tác phẩm đã tự kiểm duyệt có thể xuất bản trong nước, đồng thời giữ phiên bản gốc xuất bản ở nước ngoài. Năm 1984 ông kết hôn cùng Trác Li Sa, năm 1985 sinh con trai Diêm Tung Nguy. Năm 2013 con trai kết hôn, năm 2014 cháu gái chào đời, hiện nay cả gia đình đều sống ở Bắc Kinh. Tác phẩm xuất bản tại Việt nam: Tứ Thư Người Tình Phu Nhân Sư Trưởng Đinh Trang Mộng Nàng Kim Liên Ở Trấn Tây Môn ... Tiểu thuyết "Ngục tình cảm", Nhà xuất bản Văn nghệ Giải phóng quân, 1991 "Nữ thanh niên tri thức cuối cùng", Nhà xuất bản Văn nghệ Bách Hoa,1993 "Vòng sinh tử", Nhà xuất bản Minh Thiên, 1995 "Chào Kim Liên", Nhà xuất bản Văn nghệ Trung Quốc, 1997 "Nhật quang lưu niên",Nhà xuất bản Hoa Thành, 1998, Công ty sự nghiệp xuất bản Liên Kinh (Đài Bắc), 2010 "Kiên ngạnh như thủy", Nhà xuất bản Văn nghệ Trường Giang, 2001; Nhà xuất bản Mạch Điền (Đài Bắc), 2009 "Gà chọi", Nhà xuất bản Văn nghệ Trường Giang, 2001 "Xuyên qua", Nhà xuất bản Văn nghệ Giải phóng quân, 2001 "Hạ nhật lạc", Công ty sự nghiệp xuất bản Liên Kinh (Đài Bắc), 2010 "Thụ hoạt", Nhà xuất bản Văn nghệ Xuân Phong, 2004; Nhà xuất bản Mạch Điền (Đài Bắc), 2007 "Đinh trang mộng", Nhà xuất bản Văn hóa nghệ thuật(Hongkong), 2006; Nhà xuất bản Mạch Điền (Đài Bắc), 2006; Công ty trách nhiệm hữu hạn truyền thông tư nhân Linh Tử (Singapore),2006 Tuyển tập truyện "Chuyện quê nhà", Nhà xuất bản Văn nghệ Bách Hoa, 1992 "Ngụ ngôn hòa bình", Nhà xuất bản Văn nghệ Trường Giang, 1994 "Đi đến thiên đường", Nhà xuất bản Thanh niên Trung Quốc, 1995 "Diêm Liên Khoa văn tập" (5 quyển), Nhà xuất bản Nhân dân Cát Lâm, 1996 "Diêm Liên Khoa tập truyện tự tuyển chọn", Nhà xuất bản Văn nghệ Hà Nam, 1997 "Gia viên hoan lạc", Nhà xuất bản Bắc kinh, 1998 "Động Hoàng Kim", Nhà xuất bản Văn nghệ, 1998 "Sáng tối tròn khuyết: Lại nói về thiên cổ dâm phụ Phan Kim Liên", Nhà xuất bản Văn nghệ Trung Quốc, 1999 "Đi về hướng Đông Nam", Nhà xuất bản Nhà văn, 2000 "Bả Lâu thiên ca", Nhà xuất bản Văn nghệ Bắc Nhạc, 2001 "Ba chày gỗ", Nhà xuất bản Thế giới mới, 2002 "Năm tháng thôn quê", Nhà xuất bản Nhân dân Tân Cương,2002 "Ngày tháng năm",Nhà xuất bản Nhân dân Tân Cương, 2002; Nhà xuất bản Nguyệt San Minh Báo (Hongkong), 2009 "Kho tàng nhà văn đương đại" (Quyển về Diêm Liên Khoa), Nhà xuất bản Văn nghệ Nhân dân, 2003 "Thiên cung đồ", Nhà xuất bản Văn nghệ Giang Tô, 2005 "Chủ nghĩa lãng mạn cách mạng: Truyện ngắn tiêu biểu của Diêm Liên Khoa", Công ty xuất bản Văn nghệ Xuân Phong, 2006 "Mẹ là dòng sông", Nhà xuất bản Văn nghệ đại chúng, 2006 "Giấc mơ của người Dao Câu", Công ty xuất bản Văn nghệ Xuân Phong,2007 "Diêm Liên Khoa văn tập" (12 quyển), Nhà xuất bản Nhật báo Nhân dân; Nhà xuất bản Nhân dân Vân Nam, Nhà xuất bản Nhân dân Thiên Tân,2007 "Tuyển tập tác phẩm của Diêm Liên Khoa" (17 quyển) "Khu cấm số 4", "Thiên công đồ", Công ty xuất bản Vạn Quyển, 2009 "Đi về hướng Đông Nam", Công ty xuất bản Vạn Quyển, 2009 "Tuyển tập truyện của Diêm Liên Khoa", Tân địa văn hóa (Đài Bắc), 2010 "Tỉnh giấc đào viên", Hoàng Sơn thư xã,2010 "Phù dung kĩ nữ: Biên niên truyện vừa của Diên Liên Khoa (1988-1990)", tập 1, Nhà xuất bản văn nghệ Triết Giang, 2011 "Trung thổ hoàn hương: Biên niên truyện vừa của Diêm Liên Khoa (1991-1993)"(tập 2),Nhà xuất bản Văn nghệ Triết Giang, 2011 "Dãy núi Bả Lâu: Biên niên truyện vừa của Diêm Liên Khoa (1993-1996)"(Tập 3) Nhà xuất bản Văn nghệ Triết Giang, 2011 "Tỉnh giấc đào viên: Biên niên truyện vừa của Diêm Liên Khoa (1996-2009)"(tập 4), Nhà xuất bản Văn nghệ Triết Giang, 2011 "Tuyển tập truyện ngắn Diêm Liên Khoa", Nhà xuất bản Nhân dân Vân Nam,2013 "Diêm Liên Khoa đen trắng" – bốn truyện vừa (4 quyển), Nhà xuất bản Văn học Nhân dân, 2014; Nhị ngư Văn hóa (Đài Bắc), 2014 "Vì nhân dân phục vụ" (Người tình của phu nhân sư trường); Nhà xuất bản Mạch Điền (Đài Bắc), 2005; Công ty trách nhiệm hữu hạn truyền thông tư nhân Linh Tử (Singapore), 2005; Nhà xuất bản Văn hóa Nghệ thuật (Hongkong),2005 "Phong nhã tụng",Nhà xuất bản Mạch Điền (Đài Bắc), 2008; Tập đoàn xuất bản Phượng Hoàng, 2008 "Tứ thư", Nhà xuất bản Mạch Điền (Đài Bắc), 2011; Nhà xuất bản Minh Báo (Hongkong),2011 "Tạc liệt chí", Nhà xuất bản Văn nghệ Thượng Hải, 2013; Nhà xuất bản Mạch Điền (Đài Bắc), 2013 "Nhật tức" (Mặt trời đã tắt), Nhà xuất bản Mạch Điền (Đài Bắc),2015 Tùy bút, tản văn "Xiềng xích xám xịt", Nhà xuất bản Văn nghệ Bách Hoa, 1999 "Về nhà", Nhà xuất bản Giải phóng quân, 2002 "Đôi đũa hồng của bà đồng: Ghi chép đối thoại giữa nhà văn và tiến sĩ văn học" (viết chung cùng Lương Hồng), Nhà xuất bản Văn nghệ Xuân Phong,2002 "Vượt qua mọi biên giới: Tản văn Diêm Liên Khoa", Nhà xuất bản Văn nghệ Trường Giang,2005 "Đất vàng và cỏ xanh: Tản văn tình thân của Diêm Liên Khoa", Nhà xuất bản Hoa Thành, 2008 "Kĩ xảo và linh hồn: Ghi chép đọc sách của Diêm Liên Khoa",Nhà xuất bản Hoa Thành,2008 "Phân chia và hợp lại: Diễn giảng văn học của Diêm Liên Khoa", Nhà xuất bản Hoa Thành, 2008 Tản văn Diêm Liên Khoa", Nhà xuất bản Văn nghệ Triết Giang, 2009 "Tôi và cha chú", Ấn khắc văn học (Đài Bắc), 2009; Nhà xuất bản Nhân dân Vân Nam, 2009 "Hiện thực của tôi, chủ nghĩa của tôi: Ghi chép đối thoại văn học của Diêm Liên Khoa"(viết chung cùng Trương Học Hân); Nhà xuất bản văn học Nhân dân Trung Quốc,2011 "Hãy đợi đấy", Trung tâm xuất bản phương Đông,2011 "Phát hiện tiểu thuyết", Nhà xuất bản Đại học Nam Khai, 2011; Ấn khắc văn học (Đài Bắc),2011 "Nhà số 711", Nhà xuất bản Nhân dân Giang Tô, 2012; Nhà xuất bản Liên Kinh (Đài Bắc), 2012 Tản mạn: Tập diễn giảng ở nước ngoài của Diêm Liên Khoa, Nhà xuất bản Trung Tín, 2012 "Tản văn Diêm Liên Khoa", Nhà xuất bản Nhân dân Vân Nam, 2013 "Khó nhất của sáng tác là hồ đồ", Nhà xuất bản Nhân dân Trung Quốc, 2013 "Những bài giảng ở hải ngoại", Nhà xuất bản Văn học Nhân dân Trung Quốc, 2013 "Ba dòng sông của hai người", "Cảm niệm", Nhị Ngư văn hóa (Đài Bắc), Nhà xuất bản Văn học Nhân dân, 2013, 2014 "Đi trên con đường của người khác: Ghi chép ngữ tứ của Diêm Liên Khoa", Nhà xuất bản Nhân dân Thượng Hải, 2014 "Hắc bạch Diêm Liên Khoa" – Bốn quyển tản văn (4 quyển), Nhà xuất bản Văn học Nhân dân, 2014 "Trầm mặc và hổn hển: Văn học Trung Quốc như tôi đã trải qua", Ấn khắc (Đài Bắc), 2014 "12 tháng của hai thế hệ" (viết chung với Tưởng Phương Châu), Ấn khắc (Đài Bắc), 2015 Mời các bạn đón đọc Tứ Thư của tác giả Diêm Liên Khoa.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Người Đàn Bà Bị Hủy Diệt
Người đàn bà bị hủy diệt là một trong những tác phẩm cuối cùng của SIMONE DE BEAUVOIR và được coi là mang đậm tính văn chương hơn cả của bà. Người Đàn Bà Bị Hủy Diệt là ba câu chuyện về cuộc đời của người đàn bà với sự thanh xuân đã qua của họ và sự đương đầu với những khủng hoảng bất ngờ. Trong câu chuyện mang tựa đề của cuốn sách, cuộc sống thanh bình của nữ nhân vật chính đã bị đảo lôn khi biết được chồng mình ngoại tình. Trong tuổi biết khôn, một nữ giáo sư thành đạt, có cuộc sống gia đình hạnh phúc, ngày một đau khổ vì đứa con trai duy nhất say mê người vợ trẻ với những giá trị trần tục của cô ta. Trong Kịch một vai, người đàn bà giàu có, hư hỏng, ở nhà một mình trong đêm giao thừa, đã trút ra sự giận dữ và thất vọng của cả một đời người bằng những lời lẽ độc địa. Tình tiết hấp dẫn cộng với những hiểu biết tâm lý phụ nữ của tác giã khiến cho Người Đàn Bà Bị Hủy Diệt được xem như là cuốn sách hay nhất của nữ văn sĩ vào hàng danh tiếng nhất ở mọi thời đại. *** Simone de Beauvoir, nữ văn sĩ Pháp (1908 – 1986), sinh tại Paris trong một gia đình tiểu tư sản. Năm 21 tuổi bà đậu thạc sĩ triết và dạy triết học tại các trường đại học ở Marseille, Roen và Paris. Năm 27 tuổi, gặp Jean-Paul Sartre, nhà văn, nhà triết học Pháp; người từ chối giải thưởng Nobel (1964) và được coi là cha đẻ của chủ nghĩa hiện sinh, bà trở thành môn đệ rồi sau đó, thành bạn đời của ông. Năm 35 tuổi, Simone de Beauvoir bỏ nghề dạy học để theo nghiệp văn chương với tác phẩm đầu tay Người khách đàn bà (1945). Tiếp theo bà lần lượt cho ra mắt các tác phẩm Pyrrhus et Cinéas, Những cái miệng vô ích, Máu của người khác… Hai tác phẩm quan trọng nhất của bà là: Giới thứ 2 (1949) và Các đại trí thức (1954) trong đó Các đại trí thức đã mang lại cho bà giải thưởng Goncourt, giải thưởng văn học quan trọng nhất của Pháp. Ngoài văn chương, Simone de Beauvoir còn viết nhiều tác phẩm triết học và hồi ký, đều tuân theo khuynh hướng hiện sinh của chồng. Người đàn bà bị hủy diệt là một trong những tác phẩm cuối cùng của SIMONE DE BEAUVOIR và được coi là mang đậm tính văn chương hơn cả của bà. TRUNG NGUYÊN *** Phải chăng đồng hồ của tôi đã chết? Không. Nhưng dường như những chiếc kim của nó không còn chuyển động nữa. Hãy đừng để ý đến chúng. Hãy nghĩ về những chuyện khác – bất kỳ cái gì đó khác hơn; về ngày hôm qua chẳng hạn, một ngày yên ổn, dễ dàng, dù có sự căng thẳng vì chờ đợi. Sự dịu dàng thức tỉnh. André nằm trong một tư thế kỳ quặc trên giường, người cuộn tròn, mắt bịt dải băng, một tay tỳ vào tường tựa như đứa trẻ. Giấc ngủ có hỗn độn và mệt mỏi, anh cần phải vượt qua nó để chứng tỏ sự bền vững của thế giới. Tôi ngồi xuống bên mép giường, đặt tay lên vai anh. - Tám giờ rồi. Tôi mang bữa sáng vào phòng sách, lấy ra cuốn đang đọc dở hôm trước, đã được một nửa. Thật buồn tẻ, tất cả là do thiếu giao tiếp. Nếu bạn thực sự muốn có sự giao tiếp, bạn phải hành động, không cách này thì cách khác. Tất nhiên không phải gặp gỡ với tất cả mọi người nhưng ít nhất cũng là hai hoặc ba người. Đôi khi tôi không cho André biết về tâm trạng, sự buồn rầu, những lo lắng vu vơ của tôi, anh cũng không nghi ngờ về những bí mật nho nhỏ đó, nhưng nhìn chung chúng tôi biết tất cả mọi chuyện của nhau. Tôi rót trà ra chén, trà Trung Quốc trong bình nóng và rất đặc. Chúng tôi uống trà và nhìn nhau xa xăm, mặt trời tháng Bảy tràn ngập căn phòng. Không biết đã bao lần chúng tôi cùng nhau ngồi bên chiếc bàn này, đối diện, cũng với bình và những tách trà nóng, rất đặc, đặt trước mặt? Và có lẽ chúng tôi sẽ còn ngồi với nhau như vậy vào ngày mai, suốt năm, và cả chục năm nữa… Vào thời điểm đó, không khí dịu dàng ngọt ngào của kỷ niệm và niềm vui của một lời hứa hẹn nào đó luôn ngự trị. Chúng tôi ba mươi hay đã sáu mươi tuổi? Tóc André bị bạc từ khi anh còn trẻ; những ngày còn trẻ, mái tóc trắng này làm nổi bật làn da trắng mịn, trông anh càng bảnh bao. Giờ đây, mái tóc đó trông vẫn rất đẹp. Dù làn da đã nhăn nheo – dấu hiệu của tuổi tác – nhưng nụ cười trên miệng và trong đôi mắt anh vẫn lấp lánh. Bất cứ cuốn album nào của anh tôi cũng thấy sự nhất quán này, những bức ảnh thời trẻ không khác chút nào so với khuôn mặt bây giờ đây; tôi đã không thể nhận ra dấu vết của tuổi tác trong chúng. Một cuộc sống với đầy tiếng cười, nước mắt, cãi vã, say đắm, thú tội, im lặng và những cơn bột phát của trái tim đã không thể xóa đi bởi thời gian. Tương lai vẫn còn chưa thể xác định đầy đủ. Anh đứng dậy. - Anh hy vọng công việc của em tốt đẹp, – anh nói. - Anh cũng thế chứ? – Tôi đáp. Anh không trả lời. Đối với sự nghiên cứu, có những lúc không thể tránh khỏi, người ta không đạt được tiến bộ nào trong công việc; nhưng anh không chấp nhận điều đó dễ dàng. Tôi mở cửa sổ. Paris oi ả dưới ánh mắt thiêu cháy của mùa hè, mùi nhựa đường và dấu hiệu của những cơn bão sắp đến. Mắt tôi dõi theo André. Có thể lúc này, khi tôi canh chừng sự biến mất của anh, thì anh lại tồn tại hiển hiện nhất, rõ ràng nhất; vóc dáng cao lớn nhỏ dần, mỗi bước chân vạch ra con đường mà anh sẽ quay lại; nó biến mất và đường phố dường như trống vắng; nhưng thực tế nó sẽ đưa anh trở về với tôi, như trở về với nơi cư trú tự nhiên của anh. Tôi thấy điều đó là chắc chắn, thậm chí còn trước cả sự hiện diện của anh. Tôi đứng trên ban công một lúc lâu. Từ tầng bảy, Paris trải dài trước mắt tôi với những đàn bồ câu bay lượn trên những mái nhà lợp đá trông tựa như những lọ hoa ống khói lò sưởi. Những chiếc cần cẩu màu đỏ, hoặc vàng, đang vươn những cánh tay thép lên bầu trời: năm chiếc, bảy chiếc, mười chiếc. Tôi đếm được mười chiếc cần cẩu như vậy; xa hơn về bên phải tôi bắt gặp một bức tường cao vút với đầy các lỗ nhỏ – một khối nhà máy, tôi cũng có thể nhìn thấy những tòa nhà đang được xây dựng – dáng dấp như những tháp cao hình lăng trụ. Không biết từ khi nào đã có những chiếc ôtô đỗ ở phần đường nhánh của đại lộ Edgar – Quinnet? Tôi quan sát, phát hiện những nét mới mẻ của thiên nhiên; giờ thì tôi không thể nhớ nổi trước đây khung cảnh như thế nào. Tôi đã muốn có hai bức ảnh để cạnh nhau, trước đây và hiện nay, để tôi có thể thấy được sự khác nhau. Không, rõ ràng là không. Thế giới bản thân nó đang tồn tại trước mắt tôi như một hiện tại vĩnh cửu, tôi đã thích ứng với nó nhanh đến mức không nhận thấy có gì thay đổi. Những thẻ tra cứu tài liệu và trang giấy trắng trên bàn thôi thúc tôi làm việc; nhưng từ ngữ cứ nhảy múa trong đầu khiến tôi không thể tập trung suy nghĩ được. Mời các bạn đón đọc Người Đàn Bà Bị Hủy Diệt của tác giả Simone de Beauvoir.
Lời Nói Dối Thứ Ba
Tiểu thuyết Cuốn Sổ Lớn (Le Grand Cahier) được viết dưới hình thức một cuốn sổ ghi chép của hai cậu bé sinh đôi. Trong thời gian về miền quê để tránh chiến tranh, hai cậu bé tự học cách mô tả những sự kiện xảy ra chung quanh và ở chính mình. Hai cậu tập làm văn trên những tờ giấy rời. Khi nào viết được một bài hoàn chỉnh, thì hai cậu chép nó vào một cuốn sổ lớn. Các chương của cuốn tiểu thuyết chính là những bài tập làm văn ấy. Hai cậu bé sinh đôi đã tự quy định cho mình một nguyên tắc hành văn như sau: "Les mots qui définissent les sentiments sont très vagues; il vaut mieux éviter leur emploi et s'en tenir à la description des objets, des êtres humains et de soi-même, c'est-à-dire à la description fidèle des faits." [Những chữ định tính các xúc cảm thì rất mơ hồ. Tốt hơn nên tránh dùng chúng, và hãy chú tâm vào việc miêu tả các vật thể, con người, và chính mình, nghĩa là miêu tả trung thành các sự kiện.] (trang 34, chương “Nos études” [Việc học của chúng tôi]) Đó chính là cái bút pháp độc đáo của cuốn tiểu thuyết Le Grand Cahier: đơn giản và vô cảm. Mọi sự kiện đều được nhìn qua con mắt của hai đứa trẻ, ghi lại bằng ngòi bút của hai đứa trẻ, và không bị diễn dịch theo bất cứ một định kiến nào. Và chính vì thế, độc giả sẽ thấy cuộc sống bày ra tất cả những góc cạnh lạ lùng nhất của nó. Một điểm độc đáo khác: suốt cả cuốn tiểu thuyết, hai đứa trẻ sinh đôi luôn luôn có cái nhìn hoàn toàn đồng nhất, luôn luôn có hành động hoàn toàn đồng nhất, và luôn luôn phát ngôn hoàn toàn đồng nhất. "Chúng tôi", chứ không bao giờ "tôi". "Chúng tôi thấy", "chúng tôi làm", "chúng tôi nói"... Điều này có nghĩa là gì? Phải chăng đó là một ẩn dụ? Câu trả lời sẽ dần dần hiện ra trong hai cuốn tiểu thuyết tiếp theo. *** Tiểu thuyết được viết dưới hình thức một cuốn sổ ghi chép của hai cậu bé sinh đôi. Trong thời gian về miền quê để tránh chiến tranh, hai cậu bé tự học cách mô tả những sự kiện xảy ra chung quanh và ở chính mình. Hai cậu tập làm văn trên những tờ giấy rời. Khi nào viết được một bài hoàn chỉnh, thì hai cậu chép nó vào một cuốn sổ lớn. Các chương của cuốn tiểu thuyết chính là những bài tập làm văn ấy. Hai cậu bé sinh đôi đã tự quy định cho mình một nguyên tắc hành văn như sau: "Les mots qui définissent les sentiments sont très vagues; il vaut mieux éviter leur emploi et s'en tenir à la description des objets, des êtres humains et de soi-même, c'est-à-dire à la description fidèle des faits." [Những chữ định tính các xúc cảm thì rất mơ hồ. Tốt hơn nên tránh dùng chúng, và hãy chú tâm vào việc miêu tả các vật thể, con người, và chính mình, nghĩa là miêu tả trung thành các sự kiện.] (trang 34, chương “Nos études” [Việc học của chúng tôi] - tập 1 - Cuốn sổ lớn.) * Đó chính là cái bút pháp độc đáo của bộ 3 cuốn tiểu thuyết của Agota Kristof: đơn giản và vô cảm. Mọi sự kiện đều được nhìn qua con mắt của hai đứa trẻ, ghi lại bằng ngòi bút của hai đứa trẻ, và không bị diễn dịch theo bất cứ một định kiến nào. Và chính vì thế, độc giả sẽ thấy cuộc sống bày ra tất cả những góc cạnh lạ lùng nhất của nó. Một điểm độc đáo khác: suốt cả cuốn tiểu thuyết, hai đứa trẻ sinh đôi luôn luôn có cái nhìn hoàn toàn đồng nhất, luôn luôn có hành động hoàn toàn đồng nhất, và luôn luôn phát ngôn hoàn toàn đồng nhất. "Chúng tôi", chứ không bao giờ "tôi". "Chúng tôi thấy", "chúng tôi làm", "chúng tôi nói"... Điều này có nghĩa là gì? Phải chăng đó là một ẩn dụ? Câu trả lời sẽ dần dần hiện ra trong hai cuốn tiểu thuyết tiếp theo. Bộ sách Twins Trilogy gồm có: Cuốn Sổ Lớn Bằng Chứng Lời Nói Dối Thứ Ba *** Agota Kristof sinh năm 1935 tại Hungary, rời bỏ quê hương năm 1956 khi quân đội Liên-Xô tràn vào đàn áp cuộc nổi dậy của sinh viên và công nhân ở Budapest. Cùng chồng và đứa con gái 4 tuổi, bà sang tỵ nạn ở Neuchâtel, Thụy-sĩ. Sau 5 năm sống với cảm thức cô đơn và đau đớn của một người lưu vong, bà quyết định từ bỏ việc làm của một công nhân, ly dị với chồng, rồi bắt đầu học tiếng Pháp và viết truyện, viết kịch, viết tiểu thuyết và làm thơ. Sau nhiều năm vật vã với ngòi bút, Agota Kristof cho ra đời cuốn tiểu thuyết đầu tay Le Grand Cahier [Cuốn sổ lớn] năm 1986. Tác phẩm này là một thành công, đoạt giải "Prix du Livre Européen", và thúc đẩy bà tiếp tục viết thêm hai cuốn tiểu thuyết nữa để hoàn tất một bộ ba. Cuốn thứ nhì La Preuve [Bằng chứng] được xuất bản năm 1988, và cuốn cuối cùng của bộ ba tiểu thuyết là Le Troisième Mensonge [Lời nói dối thứ ba] được xuất bản năm 1991 và đoạt giải "Prix du Livre Inter" năm 1992. Sau đó, bà xuất bản tiểu thuyết Hier [Hôm qua] năm 1995, rồi tiểu thuyết L'Analphabète [Người Đàn Bà Mù Chữ] năm 2004. Hoàng Ngọc-Tuấn Sydney, 14/08/2006 *** Tôi ngồi tù tại cái thành phố nhỏ thời thơ ấu. Không phải là một nhà tù thực sự, đó là một phòng giam trong ngôi nhà của cảnh sát địa phương, một tòa nhà hai tầng như biết bao những nhà khác của thành phố. Phòng giam của tôi xưa kia là một xưởng giặt, cửa và cửa sổ trông ra sân. Những chấn song cửa sổ đã được gắn vào bên trong để cho không ai có thể chạm vào và đập vỡ kính. Một góc vệ sinh được che sau một cái riđô. Giáp với một bức tường, có một cái bàn và bốn cái ghế gắn chặt xuống đất, giáp với bức tường phía trước có bốn cái giường có thể gập xuống. Ba cái đã được gập. Chỉ có một mình tôi trong phòng giam. Trong thành phố này có rất ít tội phạm, và khi có, người ta lập tức đưa đến thành phố bên, thủ phủ của vùng này cách đây hai mươi cây số. Tôi không phải là tội phạm. Tôi ở đây là do giấy tờ của tôi không hợp lệ, hộ chiếu của tôi hết hạn. Với lại tôi cũng có nợ tiền. Buổi sáng, người coi tù mang đến cho tôi bữa sáng, sữa, cà phê, bánh mỳ. Tôi uống chút cà phê rồi tôi đi tắm. Người coi tù ăn nốt bữa sáng của tôi và quét dọn phòng giam. Cửa để mở, tôi có thể ra sân nếu tôi muốn. Đó là một cái sân có tường cao phủ dây trường xuân và nho dại bao quanh. Đằng sau một bức tường, ở phía trái khi ra khỏi phòng giam là một cái hành lang có mái che của một trường học. Tôi nghe tiếng trẻ con cười, đùa, la hét trong giờ ra chơi. Khi tôi còn bé, trường học đã ở đó rồi, tôi nhớ, dù tôi không bao giờ đến trường, nhưng nhà tù thì hồi đó lại ở nơi khác, tôi cũng nhớ bởi vì tôi đã đến đó một lần. Buổi sáng một giờ, và buổi tối một giờ, tôi đi bộ ngoài sân. Đó là thói quen tôi đã có từ thuở nhỏ, khi tôi mới lên năm, tôi đã buộc phải tập đi. Điều này khiến người coi tù khó chịu, vì lúc đó tôi không nói và không nghe một câu hỏi nào. Mắt nhìn xuống đất, tay chắp sau lưng, tôi bước đi, tôi đi vòng quanh dọc theo các bức tường. Mặt đất có lát đá, nhưng cỏ vẫn mọc giữa các kẽ đá. Cái sân gần như vuông, chiều dài mười lăm bước, chiều rộng mười ba bước. Giả sử bước chân của tôi dài một mét thì diện tích cái sân là một trăm chín mươi lăm mét vuông. Nhưng chắc chắn bước chân của tôi ngắn hơn. Giữa sân có một cái bàn tròn và hai cái ghế, và giáp với bức tường cuối vườn là một cái ghế dài bằng gỗ. Ngồi xuống ghế dài đó tôi có thể nhìn thấy một phần lớn bầu trời thuở nhỏ của tôi. Từ hôm đầu, bà chủ hiệu sách đã đến thăm tôi và mang đến cho tôi các đồ dùng cá nhân và một món xúp rau. Bà tiếp tục đến hàng ngày vào giờ trưa với món xúp rau của bà. Tôi bảo bà rằng ở đây tôi được nuôi dưỡng tốt, người coi tù mang đến cho tôi một ngày hai bữa đầy đủ từ nhà hàng trước mặt, nhưng bà ấy tiếp tục mang xúp đến. Tôi ăn một chút để giữ lễ, rồi tôi đưa cái xoong cho người coi tù ăn nốt. Tôi xin lỗi bà chủ hiệu sách vì sự lộn xộn tôi đã để lại trong căn hộ của bà. Bà nói: - Có quan trọng gì đâu. Tôi và con gái tôi đã dọn dẹp cả rồi. Chỉ có rất nhiều giấy. Tôi đã đốt những tờ giấy nhàu nát và những tờ ném vào sọt. Những tờ khác, tôi đã đặt lên bàn, nhưng cảnh sát đã đến và lấy đi. Tôi im lặng một lát, rồi nói: - Tôi còn thiếu bà hai tháng tiền nhà. Bà ấy cười: - Tôi đã đòi ông quá đắt cho căn hộ nhỏ đó. Nhưng nếu ông muốn thì ông có thể hoàn lại cho tôi khi ông được về. Có lẽ là sang năm. - Tôi không nghĩ là sẽ về. Người được ủy thác của tôi sẽ thanh toán cho bà. Bà ấy hỏi tôi có cần gì không, tôi nói: - Có, tôi cần giấy và bút chì. Nhưng tôi không còn tiền. - Đáng lẽ tôi đã phải tự nghĩ ra. Hôm sau, bà ấy trở lại với món xúp, một gói giấy kẻ và nhiều bút chì. Mời các bạn đón đọc Lời Nói Dối Thứ Ba của tác giả Agota Kristof.
Bằng Chứng
Tiểu thuyết Cuốn Sổ Lớn (Le Grand Cahier) được viết dưới hình thức một cuốn sổ ghi chép của hai cậu bé sinh đôi. Trong thời gian về miền quê để tránh chiến tranh, hai cậu bé tự học cách mô tả những sự kiện xảy ra chung quanh và ở chính mình. Hai cậu tập làm văn trên những tờ giấy rời. Khi nào viết được một bài hoàn chỉnh, thì hai cậu chép nó vào một cuốn sổ lớn. Các chương của cuốn tiểu thuyết chính là những bài tập làm văn ấy. Hai cậu bé sinh đôi đã tự quy định cho mình một nguyên tắc hành văn như sau: "Les mots qui définissent les sentiments sont très vagues; il vaut mieux éviter leur emploi et s'en tenir à la description des objets, des êtres humains et de soi-même, c'est-à-dire à la description fidèle des faits." [Những chữ định tính các xúc cảm thì rất mơ hồ. Tốt hơn nên tránh dùng chúng, và hãy chú tâm vào việc miêu tả các vật thể, con người, và chính mình, nghĩa là miêu tả trung thành các sự kiện.] (trang 34, chương “Nos études” [Việc học của chúng tôi]) Đó chính là cái bút pháp độc đáo của cuốn tiểu thuyết Le Grand Cahier: đơn giản và vô cảm. Mọi sự kiện đều được nhìn qua con mắt của hai đứa trẻ, ghi lại bằng ngòi bút của hai đứa trẻ, và không bị diễn dịch theo bất cứ một định kiến nào. Và chính vì thế, độc giả sẽ thấy cuộc sống bày ra tất cả những góc cạnh lạ lùng nhất của nó. Một điểm độc đáo khác: suốt cả cuốn tiểu thuyết, hai đứa trẻ sinh đôi luôn luôn có cái nhìn hoàn toàn đồng nhất, luôn luôn có hành động hoàn toàn đồng nhất, và luôn luôn phát ngôn hoàn toàn đồng nhất. "Chúng tôi", chứ không bao giờ "tôi". "Chúng tôi thấy", "chúng tôi làm", "chúng tôi nói"... Điều này có nghĩa là gì? Phải chăng đó là một ẩn dụ? Câu trả lời sẽ dần dần hiện ra trong hai cuốn tiểu thuyết tiếp theo. *** Tiểu thuyết được viết dưới hình thức một cuốn sổ ghi chép của hai cậu bé sinh đôi. Trong thời gian về miền quê để tránh chiến tranh, hai cậu bé tự học cách mô tả những sự kiện xảy ra chung quanh và ở chính mình. Hai cậu tập làm văn trên những tờ giấy rời. Khi nào viết được một bài hoàn chỉnh, thì hai cậu chép nó vào một cuốn sổ lớn. Các chương của cuốn tiểu thuyết chính là những bài tập làm văn ấy. Hai cậu bé sinh đôi đã tự quy định cho mình một nguyên tắc hành văn như sau: "Les mots qui définissent les sentiments sont très vagues; il vaut mieux éviter leur emploi et s'en tenir à la description des objets, des êtres humains et de soi-même, c'est-à-dire à la description fidèle des faits." [Những chữ định tính các xúc cảm thì rất mơ hồ. Tốt hơn nên tránh dùng chúng, và hãy chú tâm vào việc miêu tả các vật thể, con người, và chính mình, nghĩa là miêu tả trung thành các sự kiện.] (trang 34, chương “Nos études” [Việc học của chúng tôi] - tập 1 - Cuốn sổ lớn.) * Đó chính là cái bút pháp độc đáo của bộ 3 cuốn tiểu thuyết của Agota Kristof: đơn giản và vô cảm. Mọi sự kiện đều được nhìn qua con mắt của hai đứa trẻ, ghi lại bằng ngòi bút của hai đứa trẻ, và không bị diễn dịch theo bất cứ một định kiến nào. Và chính vì thế, độc giả sẽ thấy cuộc sống bày ra tất cả những góc cạnh lạ lùng nhất của nó. Một điểm độc đáo khác: suốt cả cuốn tiểu thuyết, hai đứa trẻ sinh đôi luôn luôn có cái nhìn hoàn toàn đồng nhất, luôn luôn có hành động hoàn toàn đồng nhất, và luôn luôn phát ngôn hoàn toàn đồng nhất. "Chúng tôi", chứ không bao giờ "tôi". "Chúng tôi thấy", "chúng tôi làm", "chúng tôi nói"... Điều này có nghĩa là gì? Phải chăng đó là một ẩn dụ? Câu trả lời sẽ dần dần hiện ra trong hai cuốn tiểu thuyết tiếp theo. Bộ sách Twins Trilogy gồm có: Cuốn Sổ Lớn Bằng Chứng Lời Nói Dối Thứ Ba *** Agota Kristof sinh năm 1935 tại Hungary, rời bỏ quê hương năm 1956 khi quân đội Liên-Xô tràn vào đàn áp cuộc nổi dậy của sinh viên và công nhân ở Budapest. Cùng chồng và đứa con gái 4 tuổi, bà sang tỵ nạn ở Neuchâtel, Thụy-sĩ. Sau 5 năm sống với cảm thức cô đơn và đau đớn của một người lưu vong, bà quyết định từ bỏ việc làm của một công nhân, ly dị với chồng, rồi bắt đầu học tiếng Pháp và viết truyện, viết kịch, viết tiểu thuyết và làm thơ. Sau nhiều năm vật vã với ngòi bút, Agota Kristof cho ra đời cuốn tiểu thuyết đầu tay Le Grand Cahier [Cuốn sổ lớn] năm 1986. Tác phẩm này là một thành công, đoạt giải "Prix du Livre Européen", và thúc đẩy bà tiếp tục viết thêm hai cuốn tiểu thuyết nữa để hoàn tất một bộ ba. Cuốn thứ nhì La Preuve [Bằng chứng] được xuất bản năm 1988, và cuốn cuối cùng của bộ ba tiểu thuyết là Le Troisième Mensonge [Lời nói dối thứ ba] được xuất bản năm 1991 và đoạt giải "Prix du Livre Inter" năm 1992. Sau đó, bà xuất bản tiểu thuyết Hier [Hôm qua] năm 1995, rồi tiểu thuyết L'Analphabète [Người Đàn Bà Mù Chữ] năm 2004. Hoàng Ngọc-Tuấn Sydney, 14/08/2006 *** Trở về ngôi nhà của bà, Lucas nằm xuống gần cái barie trong vườn, dưới bóng các bụi cây. Anh đợi. Một chiếc xe quân đội dừng trước tòa nhà bộ đội biên phòng. Vài chiến sĩ xuống xe và đặt xuống đất một cái xác bọc trong vải bạt ngụy trạng. Một viên trung sĩ ra khỏi tòa nhà, làm hiệu cho các chiến sĩ mở tấm bạt. Viên trung sĩ huýt sáo : - Muốn nhận dạng không phải dễ dàng gì đâu! Thật là ngu xuẩn mới đi vượt cái biên giới khốn kiếp này giữa ban ngày ban mặt. Một chiến sĩ nói: - Lẽ ra chúng ta phải biết rằng làm thế là không thể được. Một chiến sĩ khác nói: - Mọi người ở đây đều biết điều đó. Chính những người ở nơi khác đến mới ngu thế. Trung sĩ nói: - Thôi được, ta hãy đến gặp cái thằng ngốc ở kia xem sao. Có lẽ nó biết chút ít gì đó chăng. Lucas vào nhà. Anh ngồi trên chiếc ghế trong nhà bếp. Anh cắt bánh mì, đặt một chai rượu vang và pho mát sữa dê lên bàn. Có tiếng gõ cửa. Viên trung sĩ và một người kính bước vào. Lucas nói: - Tôi đang đợi các ông đây. Mời các ông dùng rượu vang và pho mát chứ. Người lính nói: - Rất sẵn sàng. Hắn lấy bánh mì và pho mát, Lucas rót rượu. Trung sĩ hỏi: - Cậu đang đợi chúng tôi à? Tại sao vậy? - Tôi nghe thấy có tiếng nổ. Sau tiếng nổ, nhất định thế nào cũng có người đến hỏi xem tôi có nhìn thấy ai đó không. - Thế cậu có nhìn thấy ai không? - Không. - Như mọi lần? - Vâng, như mọi lần, chẳng có ai đến báo cho tôi biết ý định vượt qua biên giới cả. Viên trung sĩ cười, rồi hắn cũng dùng rượu và pho mát: - Lẽ ra cậu phải thấy một kẻ nào đó lảng vảng quanh đây hoặc trong rừng chứ. - Tôi không hề trông thấy ai cả. - Nếu cậu trông thấy kẻ nào đó thì cậu có nói không? - Nếu tôi có nói cho ông biết thì ông cũng không tin tôi. Viên trung sĩ lại cười: - Đôi khi tôi tự hỏi tại sao người ta lại gọi cậu là thằng ngốc.- Tôi cũng tự hỏi như vậy. Chả là thời niên thiếu, trong chiến tranh tôi bị thần kinh do một chấn thương. Người lính hỏi: - Đó là bệnh gì vậy? Ý cậu muốn nói gì? Lucas giải thích: - Các cuộc ném bom đã làm cho cái đầu của tôi trục trặc. Điều đó xảy ra với tôi khi còn nhỏ. Trung sĩ nói: - Pho mát của cậu rất ngon. Cảm ơn, cậu hãy đi với chúng tôi. Lucas đi theo họ. Chỉ cái xác, trung sĩ hỏi: - Cậu có biết người đàn ông này không? Cậu đã trông thấy hắn bao giờ chưa? Lucas ngắm nhìn cái xác tan tác của bố anh: - Nó hoàn toàn biến dạng rồi. Trung sĩ nói: - Có thể nhận ra một người nào đó nhờ quần áo, giày dép hoặc nhờ bàn tay, hoặc tóc của người đó. Lucas nói: - Tôi thấy rõ là người này không ở thành phố chúng ta. Quần áo của hắn không phải của vùng này. Trong thành phố chúng ta không ai mặc quần áo lịch sự như vậy. Trung sĩ nói: - Cảm ơn cậu. Tất cả cái đó, chúng tôi cũng không ngu đâu. Tôi chỉ muốn hỏi xem cậu có nhìn thấy hoặc thoáng thấy hắn ở đâu đó không thôi. - Không, không thấy ở đâu cả. Nhưng tôi thấy móng tay của hắn bị dứt ra. Hắn đã ngồi tù. - Nhà tù của chúng tôi không tra tấn ai cả. Có điều lạ là trong túi của hắn hoàn toàn trống rỗng, ngay cả một tấm ảnh, một cái chìa khóa hoặc một cái ví cũng không có. Tuy nhiên để vào được khu biên giới hắn phải có thẻ căn cước và giấy thông hành chứ. - Chắc là hắn đã vứt trong rừng rồi. - Tôi cũng nghĩ vậy. Hắn không muốn bị nhận dạng. Tôi tự hỏi hắn muốn bảo vệ ai. Nếu tình cờ trong khi đi hái nấm cậu có tìm được cái gì khác thì cậu hãy mang đến cho chúng tôi nhé. - Hãy tin tôi đi, thưa trung sĩ. ° Lucas ngồi trên ghế dài trong vườn, tựa đầu vào bức tường trắng của ngôi nhà. Mặt trời làm anh chói mắt. Anh nhắm mắt lại: - Làm thế nào bây giờ? - Như trước kia thôi. Phải tiếp tục thức giấc buổi sáng, đi ngủ buổi tối, và làm cái phải làm để mà sống. - Sẽ lâu đấy. - Có lẽ là suốt đời. Tiếng kêu của gia súc đánh thức Lucas. Anh đứng dậy và đi chăm sóc chúng. Anh cho lợn, gà, thỏ ăn. Anh đi tìm dê bên bờ sông, đưa chúng về và vắt sữa, rồi mang vào nhà bếp. Anh ngồi xuống ghế và ở đó cho đên khi trời tối. Rồi anh đứng dậy, ra khỏi nhà, và đi tưới vườn. Đêm trăng rằm. Khi trở vào nhà bếp, anh ăn một chút pho mát và uống rượu vang. Anh nghiêng người nôn qua cửa sổ. Anh dọn lại bàn, vào buống bà và mở cửa sổ cho thoáng khí. Anh ngồi trước bàn trang điểm và soi mình trong gương. Một lát sau Lucas mở cửa buồng. Anh nhìn cái giường to, đóng cửa lại và đi ra thành phố. Phố xa vắng tanh. Lucas bước nhanh. Anh dừng chân trước một cửa sổ mở và có ánh đèn. Đó là một nhà bếp. Một gia đình đang dùngbuwax tối, có một bà mẹ và ba đứa con chung quanh bàn, hai đứa trai và một bé gái. Họ ăn súp khoai tây. Người cha không có đó, Có lẽ hắn đi làm, hoặc ngồi tù hoặc trong trại tập trung. Hoặc nữa hắn đã không trở về sau chiến tranh. Lucas đi ngang các quán rượu ồn ào mà cách đây không lâu, đôi khi anh đã từng chơi kèn harmonica. Anh không vào mà tiếp tục đi. Anh theo cái phố tối tăm dẫn đến nghĩa trang. Anh dừng lại trước mộ ông và mộ bà. Bà chết năm ngoái sau một trận tai biến não thứ hai. Ông thì chết đã lau lắm rồi. Người trong thành phố kể rằng ông đã bị vợ đầu độc. Cha Lucas hôm nay chết khi cố vượt biên giới, và rồi Lucas sẽ không bao giờ biết được nấm mộ của ông. Lucas về nhà. Bằng một sợi thừng, anh leo lên buồng áp mái. Trên đó có một ổ rơm, một cái chăn nhà binh cũ, một cái hòm. Lucas mở hòm, anh lấy ra một quyển vở học sinh và viết vào đó vài dòng. Anh đóng quyển vở lại, nằm xuống ổ rơm. Mẹ và em gái Lucas chết vì đạn trái phá, cách đây năm năm, chỉ vài ngày trước khi chiến tranh kết thúc, tại đây, trong vườn nhà bà. ° Lucas ngồi trên chiếc ghế dài trong vườn, mắt nhắm, Một chiếc xe tải ngựa kéo dừng trước nhà. Tiếng động làm Lucas thức giấc. Joseph, người trồng rau đi vào vườn. Lucas nhìn ông: - Bác Joseph, bác cần gì vậy? - Tôi cần gì ư? Hôm nay là phiên chợ. Tôi đã đợi cậu đến tận bây giờ. Lucas nói: - Cháu xin lỗi bác. Cháu quên mất hôm nay là phiên chợ. Nếu bác muốn thì chúng ta có thể nhanh chóng chất hàng lên xe. - Cậu không đùa chứ? Hai giờ chiều rồi. Tôi đến không phải để chất hàng, mà để hỏi xem cậu có còn muốn tôi bán hàng cho cậu không. Nếu không thì phải bảo tôi. Tôi thì thế nào cũng xong. Tôi làm thế chỉ là để giúp cậu tôi. - Tất nhiên là thế, bác Joseph. Chỉ là cháu quên mất phiên chợ. - Không chỉ có hôm nay cậu quên. Cậu còn quên cả tuần trước và tuần trước nữa kia. - Ba tuần kia ư? Cháu không nhận ra đấy.   Mời các bạn đón đọc Bằng Chứng của tác giả Agota Kristof.
Cuốn Sổ Lớn
Tiểu thuyết Cuốn Sổ Lớn (Le Grand Cahier) được viết dưới hình thức một cuốn sổ ghi chép của hai cậu bé sinh đôi. Trong thời gian về miền quê để tránh chiến tranh, hai cậu bé tự học cách mô tả những sự kiện xảy ra chung quanh và ở chính mình. Hai cậu tập làm văn trên những tờ giấy rời. Khi nào viết được một bài hoàn chỉnh, thì hai cậu chép nó vào một cuốn sổ lớn. Các chương của cuốn tiểu thuyết chính là những bài tập làm văn ấy. Hai cậu bé sinh đôi đã tự quy định cho mình một nguyên tắc hành văn như sau: "Les mots qui définissent les sentiments sont très vagues; il vaut mieux éviter leur emploi et s'en tenir à la description des objets, des êtres humains et de soi-même, c'est-à-dire à la description fidèle des faits." [Những chữ định tính các xúc cảm thì rất mơ hồ. Tốt hơn nên tránh dùng chúng, và hãy chú tâm vào việc miêu tả các vật thể, con người, và chính mình, nghĩa là miêu tả trung thành các sự kiện.] (trang 34, chương “Nos études” [Việc học của chúng tôi]) Đó chính là cái bút pháp độc đáo của cuốn tiểu thuyết Le Grand Cahier: đơn giản và vô cảm. Mọi sự kiện đều được nhìn qua con mắt của hai đứa trẻ, ghi lại bằng ngòi bút của hai đứa trẻ, và không bị diễn dịch theo bất cứ một định kiến nào. Và chính vì thế, độc giả sẽ thấy cuộc sống bày ra tất cả những góc cạnh lạ lùng nhất của nó. Một điểm độc đáo khác: suốt cả cuốn tiểu thuyết, hai đứa trẻ sinh đôi luôn luôn có cái nhìn hoàn toàn đồng nhất, luôn luôn có hành động hoàn toàn đồng nhất, và luôn luôn phát ngôn hoàn toàn đồng nhất. "Chúng tôi", chứ không bao giờ "tôi". "Chúng tôi thấy", "chúng tôi làm", "chúng tôi nói"... Điều này có nghĩa là gì? Phải chăng đó là một ẩn dụ? Câu trả lời sẽ dần dần hiện ra trong hai cuốn tiểu thuyết tiếp theo. *** Tiểu thuyết được viết dưới hình thức một cuốn sổ ghi chép của hai cậu bé sinh đôi. Trong thời gian về miền quê để tránh chiến tranh, hai cậu bé tự học cách mô tả những sự kiện xảy ra chung quanh và ở chính mình. Hai cậu tập làm văn trên những tờ giấy rời. Khi nào viết được một bài hoàn chỉnh, thì hai cậu chép nó vào một cuốn sổ lớn. Các chương của cuốn tiểu thuyết chính là những bài tập làm văn ấy. Hai cậu bé sinh đôi đã tự quy định cho mình một nguyên tắc hành văn như sau: "Les mots qui définissent les sentiments sont très vagues; il vaut mieux éviter leur emploi et s'en tenir à la description des objets, des êtres humains et de soi-même, c'est-à-dire à la description fidèle des faits." [Những chữ định tính các xúc cảm thì rất mơ hồ. Tốt hơn nên tránh dùng chúng, và hãy chú tâm vào việc miêu tả các vật thể, con người, và chính mình, nghĩa là miêu tả trung thành các sự kiện.] (trang 34, chương “Nos études” [Việc học của chúng tôi] - tập 1 - Cuốn sổ lớn.) * Đó chính là cái bút pháp độc đáo của bộ 3 cuốn tiểu thuyết của Agota Kristof: đơn giản và vô cảm. Mọi sự kiện đều được nhìn qua con mắt của hai đứa trẻ, ghi lại bằng ngòi bút của hai đứa trẻ, và không bị diễn dịch theo bất cứ một định kiến nào. Và chính vì thế, độc giả sẽ thấy cuộc sống bày ra tất cả những góc cạnh lạ lùng nhất của nó. Một điểm độc đáo khác: suốt cả cuốn tiểu thuyết, hai đứa trẻ sinh đôi luôn luôn có cái nhìn hoàn toàn đồng nhất, luôn luôn có hành động hoàn toàn đồng nhất, và luôn luôn phát ngôn hoàn toàn đồng nhất. "Chúng tôi", chứ không bao giờ "tôi". "Chúng tôi thấy", "chúng tôi làm", "chúng tôi nói"... Điều này có nghĩa là gì? Phải chăng đó là một ẩn dụ? Câu trả lời sẽ dần dần hiện ra trong hai cuốn tiểu thuyết tiếp theo. Bộ sách Twins Trilogy gồm có: Cuốn Sổ Lớn Bằng Chứng Lời Nói Dối Thứ Ba *** Agota Kristof sinh năm 1935 tại Hungary, rời bỏ quê hương năm 1956 khi quân đội Liên-Xô tràn vào đàn áp cuộc nổi dậy của sinh viên và công nhân ở Budapest. Cùng chồng và đứa con gái 4 tuổi, bà sang tỵ nạn ở Neuchâtel, Thụy-sĩ. Sau 5 năm sống với cảm thức cô đơn và đau đớn của một người lưu vong, bà quyết định từ bỏ việc làm của một công nhân, ly dị với chồng, rồi bắt đầu học tiếng Pháp và viết truyện, viết kịch, viết tiểu thuyết và làm thơ. Sau nhiều năm vật vã với ngòi bút, Agota Kristof cho ra đời cuốn tiểu thuyết đầu tay Le Grand Cahier [Cuốn sổ lớn] năm 1986. Tác phẩm này là một thành công, đoạt giải "Prix du Livre Européen", và thúc đẩy bà tiếp tục viết thêm hai cuốn tiểu thuyết nữa để hoàn tất một bộ ba. Cuốn thứ nhì La Preuve [Bằng chứng] được xuất bản năm 1988, và cuốn cuối cùng của bộ ba tiểu thuyết là Le Troisième Mensonge [Lời nói dối thứ ba] được xuất bản năm 1991 và đoạt giải "Prix du Livre Inter" năm 1992. Sau đó, bà xuất bản tiểu thuyết Hier [Hôm qua] năm 1995, rồi tiểu thuyết L'Analphabète [Người Đàn Bà Mù Chữ] năm 2004. Hoàng Ngọc-Tuấn Sydney, 14/08/2006 Mời các bạn đón đọc Cuốn Sổ Lớn của tác giả Agota Kristof.