Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Phúc Lạc Hội

Bàn Mạt chược bốn cạnh. Bốn người phụ nữ Trung Hoa di cư trên đất Mỹ. Bốn cô con gái Trung Hoa thế hệ Hai. Mười sáu câu chuyện chồng chéo. Quá khứ là thế giới huyền ảo của Trung Hoa cổ kính, là chế độ đa thê, là chiến tranh Trung Nhật. Hiện tại là những rắc rối đời thường, những khỏang cách thế hệ, những phiền phức của cuộc sống thực dụng kiểu Mỹ. Để bớt nỗi nhớ quê hương và sự lạc lõng ở xứ người, bốn người phụ nữ Trung Hoa đã mượn bàn Mạt chược để lập Joy Luck Club. Trong những ván mạt chược và những bữa ăn họp mặt, họ đã kể cho nhau nghe về quá khứ và hiện tại trong cuộc sống gia đình. Và như bao cô gái thế hệ Hai trên nước Mỹ, các cô luôn va chạm với Mẹ, nhưng rồi nhờ kinh nghiệm sống của Mẹ, các cô đã vượt qua khó khăn của cuộc sống.. Amy Tan đã diễn tả tài tình cuộc sống và tâm tình của 2 thế hệ người Trung Hoa di cư thông qua 16 câu chuyện của từng người, từ cuộc sống đại gia đình của người Trung Hoa xưa, nỗi sợ hãi của chiến tranh, sự lạc lõng ở xứ người… *** AMY TAN sinh ở OAKLAND, CALIFORNIA vào năm 1952, hai năm rưỡi sau khi cha mẹ có nhập cư vào nước Mỹ. Mặc dù cha mẹ cô mong mỏi cô sẽ theo nghề bác sĩ giải phẫu thần kinh kiêm nghệ sĩ dương cầm nghiệp dư, cô lại trở nên bác sĩ tư vấn cho trẻ em tàn tật, và đồng thời là nhà văn tự do. Cô viếng quê hương Trung Hoa lần đầu tiên năm 1987 và thấy đúng như mẹ cô đã nói: “Ngay khi chân tôi chạm đất Trung Hoa, tôi lập tức trở thành người Trung Hoa”.   AMY TAN hiện sống cùng chồng tại San Francisco.   PHÚC LẠC HỘI là tác phẩm đầu tay của cô. Amy Tan (Tần Ái Mỹ) thuộc thế hệ nhà văn gốc Hoa đầu tiên thành công trên văn đàn Mỹ. Bà sinh năm 1952 tại California và thường viết về những gian nan mà phụ nữ người Hoa đã gặp ở quê nhà cũng như cuộc sống khó khăn mà con gái của họ gặp trên đất Mỹ. Bà thành công ngay với những tác phẩm đầu tiên, như The Joy Luck Club ('Phúc Lạc Hội', 1989; dựng thành phim năm 1991; bản dịch Việt ngữ đăng dưới đây), và The Kitchen God’s Wife ('Phu nhân Táo quân', 1991;), cả hai đều mang tính tự truyện. Sau đó bà còn viết The Hundred Secret Senses ('Trăm niềm ẩn thức', 1995) và The Bonesetter’s Daughter ('Con gái thầy lang ', 2000) và hai truyện thiếu nhi: The Moon Lady ('Chị Hằng', 1992) và The Chinese Siamese Cat ('Mèo xiêm Trung Quốc', 1994). Tác phẩm của bà đã được dịch nhiều ở Việt Nam.  *** Bà lão nhớ lại chuyện con thiên nga mà bà mua hồi xa xưa ở Thượng Hải bằng một số tiền điên rồ. Con chim này, theo lời khoe của người bán ở chợ, trước kia là một chú vịt đã cố rướn cổ dài ra, hy vọng trở thành thiên nga, và bây giờ, nhìn kìa - nó đẹp đẽ quá, làm sao mà mà nỡ ăn thịt nó!   Rồi bà và con thiên nga đã vượt qua hàng dặm biển, cố vươn về phía nước Mỹ. Trên cuộc hành trình, bà thủ thỉ với con thiên nga “Ở Mỹ, ta sẽ có một đứa con gái giống như mi. Nhưng ở đó sẽ không ai cho rằng giá trị của con ta được tính bằng mức ăn to nói lớn của chồng nó. Ở đó sẽ không ai khinh dễ nó, bởi vì ta sẽ bắt nó nói tiếng Anh đặc giọng Mỹ. Và ở đó nó sẽ quá no đủ không còn nuốt được một nỗi buồn nào! Nó sẽ biết ta muốn nói gì, bởi vì ra sẽ cho nó con thiên nga này - một tạo vật; tốt hơn hẳn những điều người ta mong mỏi.”   Nhưng khi bà đến đất nước mới, các nhân viên nhập cư đã giật con thiên nga ra khỏi tay bà, để lại trên đôi tay chới với của bà độc nhất một chiếc lông chim làm kỷ niệm. Và rồi bà phải điền vào quá nhiều biểu mẫu đơn từ đến nỗi bà quên mất vì sao bà đến đây và những gì bà để lại phía sau.   Giờ thì bà đã già. Và bà có một cô con gái lớn lên chỉ nói toàn tiếng Anh và uống Coca-Cola nhiều hơn là nuốt đi nỗi buồn. Từ lâu, bà muốn trao cho cô ta chiếc lông chim duy nhất đó và bảo cô “Chiếc lông chim này trông có vẻ vô giá trị, nhưng nó đã từ xa đến đây và chất chứa tất cả thiện ý của mẹ”. Bà đã chờ đợi, năm này qua năm khác, chờ đến ngày bà có thể kể cho con gái nghe điều này bằng tiếng Anh, đặc giọng Mỹ.  *** Ba tôi bảo tôi giữ chân thứ tư trong PHÚC LẠC HỘI. Tôi sẽ thế chỗ mẹ tôi. Từ khi bà chết, chỗ của bà ở bàn mạt chược bỏ trống đã hai tháng nay. Ba tôi cho rằng chính những suy nghĩ của mẹ tôi đã giết chết bà.   Ông nói:   “Mẹ con có một ý mới trong đầu. Trước khi mẹ con có thể nói ra, ý nghĩ đó đã phát triển quá lớn và vỡ tung, chắc hẳn đó là một ý nghĩ chẳng hay ho tí nào.”   Bác sĩ nói mẹ tôi chết bởi chứng phình mạch não. Và những người bạn của mẹ tôi ở PHÚC LẠC HỘI nói bà chết y như một con thỏ: chết một cách nhanh chóng và để lại công việc còn đang dở. Kỳ họp mặt tới của PHÚC LẠC HỘI là tới phiên mẹ tôi đãi đằng.   Trước khi chết một tuần, bà gọi tôi, đầy tự hào và sức sống, bà nói: “Dì Linh nấu chè đậu đỏ. Mẹ sẽ nấu chè chế mè phủ”.   “Thôi đừng phô trương, mẹ ơi”.   “Không phải là phô trương” - bà nói, hai loại chè gần giống nhau, chabudwo. Hoặc là bà có thể nói butong, chẳng giống nhau tí nào hết. Ðây là một trong những cách nói của người Hoa có nghĩa là phần tốt hơn của những ý nghĩ lẫn lộn. Tôi không thể nào nhớ được những gì mà từ thoạt đâu tôi đã không hiểu.   Mẹ tôi bắt đầu có ý tưởng lập PHÚC LẠC HỘI ở San Francisco vào năm 1949, trước khi sinh tôi hai năm. Ðó là năm cha mẹ tôi chạy khỏi Trung Quốc chỉ mang theo một chiếc giỏ bằng da cứng chứa đầy những áo dài lụa lạ kỳ. “Không có thời giờ xếp những thứ khác”, mẹ tôi đã giải thích như thế với cha tôi. Sau khi hai người lên tàu. Tuy nhiên, cha tôi vẫn điên cuồng bới tay giữa những tấm lụa trơn để tìm những chiếc áo vải và quần len của mình.   Khi đến San Francisco, cha tôi bắt mẹ tôi giấu mớ quần áo bóng bẩy này. Mẹ tôi mặc mỗi chiếc áo xẩm carô nâu đến khi Hội Cứu Tế Người Tị Nạn bố thí cho bà hai chiếc áo cũ, cả hai đều lớn quá cỡ ngay cả cho phụ nữ Mỹ. Hội Cứu Tế bao gồm một nhóm nữ truyền giáo đã lớn tuổi ở nhà thờ rửa tội cho người Trung Hoa đầu tiên. Và vì đã nhận quà, cha mẹ tôi không thể từ chối mời lời gia nhập giáo phái của họ. Hơn nữa, cha mẹ tôi không thể bỏ qua lời khuyên rất thiết thực của những phụ nữ lớn tuổi này. Cha mẹ tôi có thể học thêm tiếng Anh ở lớp học kinh thánh vào tối thứ tư hàng tuần và sau này, hát hợp xướng mỗi sáng thứ Bảy hàng tuần. Ðó là lý do mẹ tôi gặp gia đình họ Tô, họ Chung và họ St. Clair. Mẹ tôi có cảm giác là những người đàn bà trong những gia đình này cũng đã trải qua những nỗi khổ không tả xiết bên Trung Hoa và có những hy vọng họ không thể nào diễn tả được bằng tiếng Anh ít ỏi của mình. Hay ít nhất, mẹ tôi nhận ra được vẻ chết lặng trên khuôn mặt những người đàn bà này. Và bà thấy họ mừng rỡ thế nào khi bà đề xuất ý kiến lập PHÚC LẠC HỘI.   PHÚC LẠC là ý nghĩ mẹ tôi nhớ được từ thời bà mới lấy chồng lần đầu ở Quế Lâm, trước khi bọn Nhật tới. Do đó, tôi nghĩ tới PHÚC LẠC như câu chuyện Quế Lâm của bà. Đó là câu chuyện bà thường kể cho tôi nghe mỗi khi bà buồn, mỗi khi không có chuyện gì làm, mỗi khi rửa chén và lau bàn xong, mỗi khi cha tôi đọc báo, hút hết điếu Pall Mall này tới điếu Pall Mall khác, đó là dấu hiệu không được quấy rầy ông. Những lúc đó, mẹ tôi lấy ra cái hộp đựng áo len trượt tuyết cũ do họ hàng chẳng bao giờ gặp bên Vancouver gởi qua. Bà thường cất lại một chiếc áo len, kéo ra một sợi chỉ quăn và đặt sợi chỉ lên một miếng bìa cứng. Và khi bà bắt đầu quấn chỉ nhanh nhẹn, nhịp nhàng, bà bắt đầu kể chuyện. Mười mấy năm ròng rã, bà chỉ kể cho tôi nghe một câu chuyện duy nhất, trừ phần kết thúc câu chuyện ngày càng đen tối hơn, ám ảnh đời bà dai dẳng và cuối cùng, ám ảnh cả đời tôi.   “Ta mơ thấy Quế Lâm ngay cả trước khi ta thấy tận mắt”, mẹ tôi bắt đầu kể bằng tiếng Hoa - “Ta mơ thấy những đỉnh núi lởm chởm chạy dài theo một con sông uốn khúc, hai bên bờ phủ rêu xanh rờn. Sương mù trắng lơ lững trên những đỉnh núi. Và nếu như ta thả mình theo dòng nước và lấy rêu làm thức ăn, ta sẽ có đủ sức leo lên tới đỉnh núi. Nếu như không may ta trượt té, ta chỉ ngã vào một thảm rêu êm như nhung và cười lớn. Nhưng một khi ta lên được tới đỉnh, ta có thể nhìn khắp xung quanh và cảm thấy một niềm hạnh phúc vô biên để cả đời không bao giờ cảm thấy lo lắng nữa.”   Bên Trung Quốc, mọi người đều mơ về Quế Lâm. Khi ta tới đó, ta mới nhận thấy giấc mơ của ta mới tồi tàn và ý nghĩ của ta mới nghèo nàn làm sao. Khi ta thấy những ngọn đồi, ta vừa cười vừa rùng mình. Những đỉnh núi trông như những đầu cá chiên khổng lồ cố nhảy ra khỏi thùng dầu. Phía sau mỗi ngọn đồi, ta có thể nhìn thấy bóng của một con cá khác, rồi một con khác nữa. Và khi những đám mây chỉ lay động một chút thôi thì bỗng nhiên những ngọn đồi biến thành một đàn voi kỳ quái đang chậm rãi tiến về phía ta. Con có thể tưởng tượng được không? Và ở chân đồi là những hang động bí mật. Bên trong có những tảng đá treo có hình dáng và màu sắc như cải bắp, dưa tây, củ cải, củ hành. Con sẽ chẳng bao giờ có thể tưởng tượng được những tảng đá này kỳ lạ và đẹp đẽ đến dường nào.   Nhưng ta không đến Quế Lâm để ngắm cảnh đẹp.   Người đàn ông đã từng là chồng ta mang ta và hai con đến QUẾ LÂM vì ông nghĩ rằng chúng ta sẽ an toàn ở đó. Ông là một sĩ quan trong quân đội Quốc Dân Ðảng, và sau khi ông an vị chúng ta trong một căn phòng nhỏ ở một căn nhà hai tầng, ông lại ra đi về hướng Tây - Bắc, đến Trùng Khánh.   Chúng ta biết là bọn Nhật đang thắng thế, ngay cả khi báo chí nói không phải vậy. Mỗi ngày, mỗi giờ, hàng ngàn người đổ về thành phố, chen chúc trên vỉa hè, cố tìm chỗ sinh sống. Nghèo có, giàu có, người Thượng Hải có, người Quảng Ðông có, người từ phía Bắc có, và không chỉ người Hoa, mà có cả người ngoại quốc và những vị truyền giáo của đủ thứ tôn giáo. Và dĩ nhiên là có cả Quốc Dân Đảng và những sĩ quan trong quân đội, những người này nghĩ là họ phải hơn hẳn những người khác.   Chúng ta là một đám người ô hợp bị bỏ lại phía sau. Giả sử không có bọn Nhật, chắc hẳn sẽ có rất nhiều lý do để những người này đánh nhau. Con có hiểu không? Người Thượng Hải với nông dân vùng biển phía Bắc, thợ rẫy với thợ hớt tóc, phu kéo xe với người tị nạn từ Miến Ðiện. Người này khinh người kia. Chẳng ai để ý là mọi người đều ở chung trên một vỉa hè để khạc nhổ, đều cùng bị dịch tả hoành hành. Ai cũng hôi hám, nhưng người này cứ than phiền người kia hôi nhất. Còn ta? Ta chúa ghét bọn sĩ quan không quân Mỹ cứ suốt ngày bô bô habba - habba, làm ta phải đỏ mặt. Nhưng tệ nhất là bọn nông dân miền Bắc hỉ mũi vào tay, chen lấn với người khác và cuối cùng lây bệnh cho người khác.   Do đó, Quế Lâm mất hết vẻ thơ mộng đối với ta. Ta không còn leo lên đỉnh núi để thốt lên rằng những ngọn đồi này mới đáng yêu làm sao! Ta chỉ tự hỏi, bọn Nhật đã đến được những ngọn đồi nào. Ta thường ngồi chờ trong bóng tối của căn nhà, hai tay ẵm hai con, sẵn sàng chạy. Khi còi báo động có máy bay rít lên ta và mấy người bên cạnh đứng bật dậy và hối hả chạy về phía hàng sau để trốn như thú rừng. Nhưng con không thể ở lâu trong bóng tối. Cái gì đó trong con mờ dần và con như trở thành một người chết đói, thèm khát ánh sáng đến điên cuồng. Bên ngoài, ta có thể nghe thấy tiếng bom. Bùm! Bùm! Và rồi tiếng đá rơi như mưa. Và bên trong, ta chẳng còn thèm khát những tảng đá có hình bắp cải hay củ cải. Ta chỉ có thể thấy lòng một ngọn đồi cổ xưa nhỏ nước, lúc nào cũng có thể đổ sập lên đầu ta. Con có thể tưởng tượng được như thế này không, không muốn ở bên trong, cũng không muốn ở bên ngoài, không muốn ở đâu cả, chỉ muốn biến đi.   Khi tiếng ném bom chỉ còn ở xa xe, chúng ta lại chui ra như những con mèo con tìm đường về thành phố. Và lúc nào cũng vậy, ta rất ngạc nhiên khi thấy những ngọn đồi trên nền trời nóng bỏng đã không bị xé toạc ra.   Ta đã nghĩ ra PHÚC LẠC HỘI vào một tối mùa hè nóng đến nỗi muỗi cũng rơi xuống đất, cái nóng ẩm ướt làm cho cánh chúng quá nặng. Khắp nơi đều đông đúc đến nỗi không thể hít thở không khí trong lành. Mùi cống rãnh không chịu nổi dâng lên cửa sổ lầu hai của ta, và không biết đi đâu, chúng bèn chui vào mũi ta. Suốt cả ngày đêm, ta luôn nghe những tiếng hét la. Ta không biết có phải đó là tiếng một người nông dân gào rát cổ tìm heo đi lạc hay tiếng người sĩ quan đánh đập một người nông dân gần chết vì nằm giữa đường đi của hắn trên vỉa hè. Ta không đi đến cửa sổ để tìm xe. Ích gì? Và đó là lúc ta nghĩ mình đâu phải có người giúp đỡ mới di chuyển nổi.   Ta có ý định tụ tập một nhóm bốn phụ nữ, mỗi người giữ một tay ở bàn mạt chược của ta. Ta biết mình muốn mời những người nào. Họ đều còn trẻ như ta, gương mặt đầy khát vọng. Một người là vợ sĩ quan quân đội, giống như ta. Một người là một cô gái dáng điệu rất thanh lịch, xuất thân từ một gia đình giàu có ở Thượng Hải. Cô đã trốn đi, mang theo chỉ một ít tiền bạc. Còn một cô nữa, từ Nam Kinh tới, có mái tóc đen nhánh, ta chưa từng thấy bao giờ. Cô này xuất thân từ một gia đình cấp thấp, nhưng xinh đẹp và vui vẻ. Cô lấy một ông chồng già, sau ông chết để cô ở lại với một cuộc sống khá hơn.   Cứ mỗi tuần, một người trong nhóm của ta mời bạn bè họp lại để có dịp phát tài và cũng để phấn chấn tinh thần. Người chủ nhà phải đãi thức ăn đặc biệt, ngõ hầu mang lại may mắn khắp mọi mặt: Bánh bao mang hình nén bạc, bún gạo cọng dài chúc sống lâu, đậu phộng nấu mong sinh con trai, và dĩ nhiên còn có thêm nhiều cam để cuộc sống được đầy đủ, ngọt ngào.   Với khả năng đạm bạc mà bọn ta đãi đằng nhau tươm tất đến thế đấy! Bọn ta không để ý rằng bánh bao được nhồi nhân bí, xắt dày, và cam thì lốm đốm đầy những lỗ có sâu. Bọn ta ăn dè xẻn, không phải vì dường như không có đủ thức ăn, nhưng để có thể phân trần vì sao không cắn thêm được miếng nữa, bọn ta phải tự nhồi đầy bụng từ sáng sớm. Bọn ta biết mình có được những thứ xa xỉ mà ít người đạt tới. Bọn ta là những người may mắn.   Mời các bạn đón đọc Phúc Lạc Hội của tác giả Amy Tan.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Anh Bạn Điển Trai
Một bản dịch khác của tác phẩm này là Ông Bạn Đẹp (Phùng Văn Tửu dịch). Anh bạn điển trai là biệt danh do một cô gái đặt cho Đuyroa và được xã hội thượng lưu chấp nhận. Đó là câu chuyện về một anh chàng số đỏ đã bám váy đàn bà để tiến thân. Đuyroa được các phu nhân mở cổng trước đưa tới xã hội thượng lưu, mở cổng sau đón vào các khuê phòng và leo dần lên những nấc thang danh vọng và tiền tài trên những tấm lưng nuột nà để trần của họ. Từ một thanh niên nông thôn tài hèn, trí đoản, mang thân đi làm lính viễn chinh, học nghề cướp bóc, mãn hạn về với lon quèn hạ sĩ nhưng trời lại phú cho anh ta một mẽ ngoài rất đẹp với bộ ria và cặp mắt làm say đắm từ các cô gái lầu xanh đến các tiểu thư và mệnh phụ lầu son. *** Henri René Albert Guy de Maupassant (1850–1893) là nhà văn viết truyện ngắn nổi tiếng người Pháp. Guy de Maupassant sinh tại vùng Normandie ở miền bắc nước Pháp, trong một gia đình giàu có. Cha mẹ Maupassant ly thân năm ông lên mười một tuổi, và bà mẹ đã một mình nuôi dạy con. Từ ảnh hưởng ấy, bà đã trở thành nhân vật nữ trong rất nhiều câu chuyện của ông. Maupassant được gửi đến trường nội trú ở Yvetot vì bản tính bất trị, hay nổi loạn. Ông từng học ở trường Phổ thông cao đẳng tại Rouen và được bằng Cử nhân Văn chương. Sau khi tốt nghiệp, Maupassant gia nhập quân đội và tham gia Chiến tranh Pháp–Phổ (1870–1871). Năm 1871, ông đến Paris làm một viên chức nhỏ cho Bộ Hải quân. Từ năm 1878 trở đi ông làm một viên chức Bộ Giáo dục. Cuộc đời làm viên chức nhỏ kéo dài khá lâu, đã để lại nhiều dấu ấn trong tư tưởng và sự nghiệp của ông, góp phần quan trọng vào việc hình thành "hình tượng con người bé nhỏ" - một kiểu nhân vật văn học quan trọng sẽ ra đời vào cuối thế kỷ 19 và thịnh hành suốt nửa đầu thế kỷ 20. Với những khó khăn dồn dập, Maupassant ngày càng trở nên bi quan đến nỗi bị chứng nhức đầu kinh niên không dứt, chỉ có thể làm dịu cơn đau bằng cách hít ether. Việc lạm dụng ether đã gây cho ông nhiều ảo giác và cuối cùng Maupassant bị sụp đổ tinh thần hoàn toàn. Rồi ông trở nên giàu có, và chi tiêu bừa bãi vào thú ăn chơi. Nhưng sau thời gian này, ông trở nên tuyệt vọng, vào năm 1892 tự tử nhưng được cứu sống. Sau đó Maupassant bị giam trong dưỡng trí viện tư nhân Doctor Blanche tại Passy, Paris. Maupassant mất ngày 6 tháng 7 năm 1893, chỉ vừa 42 tuổi, trong thời kỳ thứ ba của bệnh giang mai, căn bệnh đã kết liễu cuộc đời của nhà văn.   Tiểu thuyết Một cuộc đời (Une vie, 1883) Anh bạn đẹp (Bel-Ami, 1885) Mont-Oriol (1887) Pierre et Jean (1888) Fort comme la Mort (1889) Notre Coeur (1890) Truyện ngắn Viên mỡ bò (Boule de Suif, 1880) La Maison Tellier (1881) Une partie de campagne (1881) Cô Fifi (Mademoiselle Fifi, 1882) Contes de la Bécasse (1883) Au soleil (1884) Clair de Lune (1883) Les sœurs Rondoli (1884) Yvette (1884) Miss Harriet (1884) Adieu (1884) Monsieur Parent (1885) Contes du jour et de la nuit (1885) La Petite Roque (1886) Toine (1886) Le Horla (1887) Sur l'eau (1888) Le Rosier de madame Husson (1888) L'héritage (1888) La Main gauche (1889) Histoire d'une fille de ferme (1889) La vie errante (1890) L'Inutile beauté Le père Millon (1899, sau khi chết) Le colporteur (1900) Les dimanches d'un bourgeois de Paris (1900) Bố của Simon (Le Papa de Simon) La Ficelle (1883) La Légende du Mont St Michel (1882) Kịch Histoire du vieux temps (1879) Musotte (1890) La paix du ménage (1893) Une répétition (1910) Phê bình Émile Zola (1883) Étude sur Flaubert (1884)   Mời các bạn đón đọc Anh Bạn Điển Trai của tác giả Guy de Maupassant.
Lời Hồi Đáp 1997 - Lee Woo Jung
Cuốn sách như là một cuốn băng quay chậm để người đọc được sống lại những ký ức thanh xuân tươi đẹp của bản thân mình. Tiểu thuyết “Lời hồi đáp 1997” được chính biên kịch Lee Woo Jung chấp bút nên những fan nguyên tác của phim “Reply 1997” cảm thấy yên tâm vì nội dung, tư tưởng chính của phim sẽ được truyền tải một cách đúng đắn và chân thật nhất. Dù mới xuất hiện trên thị trường Việt Nam song cuốn sách đã nhanh chóng thu hút được sự quan tâm của những người yêu thích series phim Hàn Quốc “Reply”. “Lời hồi đáp 1997” kể về tình bạn thân của 6 bạn trẻ ở thời điểm làn sóng thần tượng Hàn bắt đầu xuất hiện và phát triển mạnh mẽ. Những câu chuyện, những khoảnh khắc của từng nhân vật không chỉ quen thuộc với các bạn trẻ 8x Hàn mà rất nhiều bạn trẻ ở các nước khác cũng thấy tuổi thanh xuân của mình trong đó. Bởi làn sóng Hallyu đã ập đến rất nhiều nước, đặc biệt là ở Việt Nam sự yêu thích văn hóa Hàn phát triển rất mạnh mẽ. Nhóm bạn thân 6 người có tính cách rất khác biệt nhưng lại gắn kết chặt chẽ với nhau một cách kỳ lạ. Sung Si Won – học kém nhưng lại đặc biệt có năng khiếu văn chương, là fan cuồng thứ thiệt, trung thành với anh Tony trong nhóm H.O.T. và là một cô gái có trái tim ấm áp. Mo Yoo Jung – cô nàng điệu chảy nước, lúc nào cũng cười tít mắt, là fan cuồng nhưng tình yêu dành cho các thần tượng lại dễ dàng bị thay đổi. Tuy nhiên, cô nàng rất nghĩa khí với bạn bè. 4 chàng trai còn lại trong nhóm là Yoon Yoon Jae – đẹp trai, học giỏi, lạnh lùng với tất cả mọi người trừ Si Won; Kang Joon Hee – đẹp trai, học giỏi và tinh tế; Do Hak Chan – chàng trai Seoul tốt bụng, giỏi thể thao, tính cách đàn ông nhưng lại sợ giao tiếp với con gái; Còn chàng trai cuối cùng là Bang Sung Jae – chuyên gia gây cười và hòa giải viên cho cả nhóm. “Lời hồi đáp 1997” tập trung đi sâu vào tình cảm trong sáng nhưng mãnh liệt của mối tình đầu. Yoon Jae là chàng trai sẵn sàng làm tất cả để người con gái mình yêu hiểu được tình cảm của mình. Tuy nhiên, khi biết anh trai mình cũng thích Si Won, cậu đã quyết định từ bỏ. Giữa tình yêu và tình cảm gia đình, Yoon Jae đã lựa chọn anh trai. Có thể nói, “Lời hồi đáp 1997” là ký ức thanh xuân tươi đẹp của tất cả mọi người. Dù là người trẻ hay người đã bước sang tuổi trung niên cũng muốn được sống trong quãng thời gian ấy một lần nữa.  *** "Hôm nay Yoo Jung tỏ tình với mình đấy." Yoon Jae giữ Si Won lại bằng lời thổ lộ của mình. Si Won dừng bước. Không hiểu sao trong giây phút này, Si Won cảm thấy không đủ tự tin để nhìn vào mắt Yoon Jae, chỉ có thể nói ra một câu gượng gạo: "Mình nghe kể rồi." "...Làm thế nào bây giờ?" Hết đứa này đến đứa kia, sao cứ hỏi mình thế nhỉ? Khuôn mặt Si Won trở nên khó hiểu. "Thế cậu thấy thế nào?" "Chả biết nữa." Yoo Jung là bạn cực thân của Si Won. Yoon Jae là bạn nối khố không khác gì anh em ruột thịt. Si Won thực lòng cũng không biết phải nói gì vào lúc này. "Hay từ chối nhé?" "Sao lại hỏi mình?" Bản thân cậu thích thì cậu đi mà hẹn hò, sao lại bắt mình trả lời nhỉ? ~ Si Won nhìn Yoon Jae đầy thắc mắc. "Từ chối nhé?" Câu hỏi thứ hai trở nên khẩn thiết hơn. Yoon Jae lôi ra mớ coupon quà sinh nhật của Si Won rồi rút ra một tờ. Tự nhiên lại lôi coupon ra làm gì thế nhỉ?" ~ Si Won thắc mắc nhận lấy tờ giấy Yoon Jae đưa cho. Thực hiện điều ước vô điều kiện. "Điều ước của cậu là gì?" "...Hãy bảo mình từ chối đi." Yoon Jae hạ giọng nói nhỏ khiến Si Won phải ngẩng lên nhìn. #Reply1997 Mời các bạn đón đọc Lời Hồi Đáp 1997 của tác giả Lee Woo Jung.
Ivan Có Một Không Hai - Katherine Applegate
Ivan là một chú khỉ đột, một Lưng bạc dũng mãnh. Nhưng cậu không sống trong rừng nhiệt đới hùng vĩ hay dẫn dắt gia đình của riêng mình. Cậu sống trong trung tâm mua sắm. Trong một cái lồng kính mà cậu gọi là lãnh thổ. Cuộc sống bình lặng trôi qua với ti vi, tranh vẽ và với cô bạn voi Stella cùng cậu chó hoang Bob. Cho tới khi Ruby xuất hiện. Cô bé đã khiến Ivan nhìn lại lãnh thổ và những bức tranh của mình với một con mắt hoàn toàn khác. Và đây cũng chính là động lực để Ivan quyết tâm thực hiện một thay đổi lớn lao… “Ivan có một không hai sẽ làm trái tim bạn tan vỡ – và rồi, thật kỳ lạ làm sao, hàn gắn lại nó. Cổ vũ cho Ivan và những người bạn của cậu cũng chính là cổ vũ cho tình người và khả năng tiềm tàng trong mỗi chúng ta.” – Gary D.Schmidt, tác giả đoạt giải Newbery Honor *** Từ Điển - vỗ ngực: vỗ vào ngực liên tục bằng một tay hoặc hai tay để tạo nên những tiếng động lớn (cách thức thường thấy ở các chú khỉ đột khi chúng muốn uy hiếp đối thủ) - lãnh thổ: khu vực cư trú, cai quản - tiếng hộc: tiếng hộc hộc nghe tựa như tiếng kêu của các chú lợn, thường được khỉ đột bố và khỉ đột mẹ dùng để thể hiện thái độ khó chịu - bóng-tôi: những cục phân khô ném vào khách tham quan - 9855 ngày (con số chỉ mang tính ví dụ): trong khi khỉ đột hoang dã ước chừng thời gian bằng mùa và thức ăn (dựa theo kinh nghiệm của chúng về "mùa nào thức nấy") thì Ivan đã biết tính ngày. (9855 ngày tương đương với hai mươi bảy năm.) - Không-Bám-Đuổi: tên của con khỉ đột nhồi bông - lưng bạc (hoặc sếp xám, tên sau ít được dùng hơn): một con đực trưởng thành đã bước qua tuổi mười hai, trên lưng có khoảng lông màu xám bạc. Lưng bạc là biểu tượng của quyền uy, giữ trọng trách bảo vệ cả bầy - tinh tinh ướt nhèo nhèo (từ lóng, mang tính công kích): con người (ám chỉ lớp mồ hôi nhớp nháp trên làn da không lông lá) - đu đu: một trò chơi giải trí (ám chỉ trò đu dây leo)   Mời các bạn đón đọc Ivan Có Một Không Hai của tác giả Katherine Applegate.
Đường Đua Của Những Giấc Mơ - Wendelin Van Draanen
Đây là cuốn sách khiến bạn sẽ tin rằng: Cuộc đời gập ghềnh đá sỏi ngoài kia chẳng có thể ngăn được bước chân bạn dù những cơn giông bão luôn lăm le muốn quật ngã bạn bất cứ lúc nào. “ Tôi là một người đam mê điền kinh. Đó là điều tôi làm. Đó là bản chất của tôi. … Tôi chạy khắp mọi nơi. Đua với tất cả mọi người. Tôi yêu cái cảm giác được làn gió lướt trên gò má rồi lùa qua mái tóc. … Nhưng bây giờ thì sao? Tôi đang mắc kẹt trên chiếc giường này, và hiểu rõ rằng mình sẽ chẳng bao giờ tiếp tục chạy được nữa.” Bạn có tưởng tượng được rằng, nếu một ngày bạn mất đi vĩnh viễn chân của mình, thì cuộc đời bạn sẽ thế nào không? Cô gái nhân vật chính trong cuốn sách này, đã phải hứng chịu một cuộc đời mất mát và đớn đau như thế, thậm chí cô ấy là một vận động viên điền kinh với bao ước mơ và hoài bão lớn lao. Giấc mơ của cô, đam mê của cô, biến cố hiểm ác ập đến và mang đi tất cả. Cô ấy mất hoàn toàn đi một chân của mình trong một vụ tai nạn xe buýt ở trường, giấc mơ điền kinh của Jessica tưởng chừng như tàn lụi từ đây! Dù nhận được hàng nghìn động viên về quá trình hồi phục thuận lợi và hứa hẹn cô sẽ có thể bước đi trở lại với sự giúp đỡ của chân giả, Jessica vô cảm nghĩ: Ai thèm quan tâm về việc đi bộ khi bạn sống để chạy cơ chứ? Liệu có một cổ tích nào cho Jessica hay không? Liệu có một ai đó có đủ can đảm đi cùng cô khi một chân của cô đã không còn? Liệu trái tim của cô có thể rung động trong lúc bản thân còn chưa nguôi mặc cảm? Một người bình thường bỗng chốc trở thành tàn tật và phải hứng chịu bao nhiêu ánh mắt thương hại của những người xung quanh. Liệu cô gái có mạnh mẽ để quay trở lại cuộc sống bình thường như trước kia và còn hơn thế nữa là làm được những điều không ai nghĩ rằng cô có thể? “”Đường đua của những giấc mơ”, đúng như tên gọi đầy cảm hứng, đã đưa người đọc đi qua hành trình cảm xúc từ tuyệt vọng cho đến hi vọng, sau cùng là khát vọng vươn tới những giấc mơ rực rỡ nhất, hoài bão cháy bỏng nhất. Cuốn sách tựa như chòm sao Bắc Đẩu soi sáng cho những tâm hồn lạc lối trên hành trình theo đuổi giấc mơ của mình,  khiến người đọc một lần nữa tin tưởng rằng: Khi bạn tưởng đó là vạch kết thúc thì đó chính là vạch khởi đầu của một hành trình khác tuyệt vời hơn nhiều. Các nhân vật trong cuốn tiểu thuyết này nhắc nhở chúng ta rằng: Biến cố trong cuộc đời xảy ra với Jessica hoàn toàn có thể ập đến với bất cứ ai trong chúng ta, nhưng quan trọng là thái độ đối mặt với của mỗi người ra sao. Đọc cuốn sách này để bạn biết nâng niu và trân trọng hiện tại. Hãy ngừng than vãn hay nghĩ rằng bản thân mình kém may mắn. Đây là cuốn tiểu thuyết đã làm lay động hàng triệu độc giả bởi trái tim dũng cảm và thông điệp của nhân vật: Sau tất cả, đừng đánh giá những gì bạn thấy bởi bạn đâu hiểu hết về những gì họ đã phải trải qua. Một cuốn sách đã đạt giải giải thưởng danh giá Ala’s Schneider Family Award, Van Draanen được đánh giá là  tác giả có tác phẩm hay nhất trong bảng xếp hạng 100 cuốn sách dành cho thanh thiếu niên trên thế giới! *** Wendelin Van Draanen là một tiểu thuyết gia người Mỹ, chuyên viết những tác phẩm dành cho độc giả trẻ và thiếu niên. Bằng tài năng của mình Draanen đã cho ra đời hơn 30 đầu sách với nhiều thể loại đa dạng, tiêu biểu là ‘Flipped’ – cuốn tiểu thuyết đã lọt top 100 cuốn sách dành cho trẻ em hay nhất thế kỉ 21 và được hãng Warner Brothers chuyển thể thành phim điện ảnh năm 2010. Tác phẩm ‘Đường đua của những giấc mơ’ ( Running Dream ) đã vinh dự nhận giải thưởng ALA’s Schneider Family Award khi thể hiện xuất sắc đề tài trải nghiệm của người khuyết tật. *** Cuộc đời tôi thế là kết thúc. Đằng sau những giấc mơ do chất morphine mang lại là cơn ác mộng của hiện thực. Một hiện thực mà tôi chẳng thể đối mặt. Tôi cứ thế nức nở cho khi thiếp đi, ao ước, nài xin và cầu nguyện rằng sau khi tỉnh dậy, mình sẽ thoát khỏi cơn ác mộng này, vậy mà nó vẫn bám riết lấy tôi. "Suỵt", mẹ tôi thì thầm. "Mọi chuyện sẽ ổn thôi." Nhưng hai mắt bà lại sưng húp và đỏ hoe, Tôi biết, chính bà cũng không tin tưởng vào những gì mình đang nói. Còn cha tôi... lại hành động hoàn toàn khác. Ông thậm chí còn chẳng cố nói dối tôi. Vì làm vậy cũng đâu ích gì? Ông biết rõ sự thật mà. Những hi vọng của tôi, những giấc mơ của tôi, cuộc đời tôi... đã chấm hết. Có vẻ người duy nhất không lo lắng là bác sĩ Wells. "Chào cháu, Jessica", ông nói. Tôi chẳng rõ lúc này đang là ngày hay đêm. Ngày thứ hai đã trôi qua hay tất cả chỉ mới bắt đầu. "Cháu thấy trong người thế nào?" Tôi chỉ nhìn ông chằm chằm. Tôi có nhất thiết phải đáp lại rằng, Cháu ổn, hay không? Ông nghiên cứu hồ sơ bệnh án của tôi "Chúng a thử kiểm tra xem sao nhé?" Ông kéo tấm chăn đang đắp trên đùi tôi xuống, và tôi nhận ra mình đang phải đối diện với sự thật. Bàn chân phải của tôi không còn. Không còn mắt cá. Cũng chẳng thấy cẳng chân. Chỉ còn lại bắp đùi, đầu gối và phần mỏm cụt được quấn trong một mớ gạc. Hai mắt tôi ngấn lệ khi bác sĩ Wells tháo lớp băng và quan sát tác phẩm của chính mình. Tôi quay đi, chỉ kịp thấy mẹ đang cố nuốt xuống những giọt nước mắt. "Mọi thứ sẽ ổn thôi", bà vừa nói vừa siết chặt tay tôi. "Chúng ta sẽ vượt qua tất cả." Bác sĩ Wells lại tỏ ra vui vẻ đến khó chịu. "Rất khả quan, Jessica. Các mạch máu lưu thông tốt, vết thương có màu sắc bình thường... và đang lành lại rất nhanh." Tôi nhìn không chớp mắt vào thứ quái dị phía dưới đầu gối. ... Mời các bạn đón đọc Đường Đua Của Những Giấc Mơ của tác giả Wendelin Van Draanen.