Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Phúc Lạc Hội

Bàn Mạt chược bốn cạnh. Bốn người phụ nữ Trung Hoa di cư trên đất Mỹ. Bốn cô con gái Trung Hoa thế hệ Hai. Mười sáu câu chuyện chồng chéo. Quá khứ là thế giới huyền ảo của Trung Hoa cổ kính, là chế độ đa thê, là chiến tranh Trung Nhật. Hiện tại là những rắc rối đời thường, những khỏang cách thế hệ, những phiền phức của cuộc sống thực dụng kiểu Mỹ. Để bớt nỗi nhớ quê hương và sự lạc lõng ở xứ người, bốn người phụ nữ Trung Hoa đã mượn bàn Mạt chược để lập Joy Luck Club. Trong những ván mạt chược và những bữa ăn họp mặt, họ đã kể cho nhau nghe về quá khứ và hiện tại trong cuộc sống gia đình. Và như bao cô gái thế hệ Hai trên nước Mỹ, các cô luôn va chạm với Mẹ, nhưng rồi nhờ kinh nghiệm sống của Mẹ, các cô đã vượt qua khó khăn của cuộc sống.. Amy Tan đã diễn tả tài tình cuộc sống và tâm tình của 2 thế hệ người Trung Hoa di cư thông qua 16 câu chuyện của từng người, từ cuộc sống đại gia đình của người Trung Hoa xưa, nỗi sợ hãi của chiến tranh, sự lạc lõng ở xứ người… *** AMY TAN sinh ở OAKLAND, CALIFORNIA vào năm 1952, hai năm rưỡi sau khi cha mẹ có nhập cư vào nước Mỹ. Mặc dù cha mẹ cô mong mỏi cô sẽ theo nghề bác sĩ giải phẫu thần kinh kiêm nghệ sĩ dương cầm nghiệp dư, cô lại trở nên bác sĩ tư vấn cho trẻ em tàn tật, và đồng thời là nhà văn tự do. Cô viếng quê hương Trung Hoa lần đầu tiên năm 1987 và thấy đúng như mẹ cô đã nói: “Ngay khi chân tôi chạm đất Trung Hoa, tôi lập tức trở thành người Trung Hoa”.   AMY TAN hiện sống cùng chồng tại San Francisco.   PHÚC LẠC HỘI là tác phẩm đầu tay của cô. Amy Tan (Tần Ái Mỹ) thuộc thế hệ nhà văn gốc Hoa đầu tiên thành công trên văn đàn Mỹ. Bà sinh năm 1952 tại California và thường viết về những gian nan mà phụ nữ người Hoa đã gặp ở quê nhà cũng như cuộc sống khó khăn mà con gái của họ gặp trên đất Mỹ. Bà thành công ngay với những tác phẩm đầu tiên, như The Joy Luck Club ('Phúc Lạc Hội', 1989; dựng thành phim năm 1991; bản dịch Việt ngữ đăng dưới đây), và The Kitchen God’s Wife ('Phu nhân Táo quân', 1991;), cả hai đều mang tính tự truyện. Sau đó bà còn viết The Hundred Secret Senses ('Trăm niềm ẩn thức', 1995) và The Bonesetter’s Daughter ('Con gái thầy lang ', 2000) và hai truyện thiếu nhi: The Moon Lady ('Chị Hằng', 1992) và The Chinese Siamese Cat ('Mèo xiêm Trung Quốc', 1994). Tác phẩm của bà đã được dịch nhiều ở Việt Nam.  *** Bà lão nhớ lại chuyện con thiên nga mà bà mua hồi xa xưa ở Thượng Hải bằng một số tiền điên rồ. Con chim này, theo lời khoe của người bán ở chợ, trước kia là một chú vịt đã cố rướn cổ dài ra, hy vọng trở thành thiên nga, và bây giờ, nhìn kìa - nó đẹp đẽ quá, làm sao mà mà nỡ ăn thịt nó!   Rồi bà và con thiên nga đã vượt qua hàng dặm biển, cố vươn về phía nước Mỹ. Trên cuộc hành trình, bà thủ thỉ với con thiên nga “Ở Mỹ, ta sẽ có một đứa con gái giống như mi. Nhưng ở đó sẽ không ai cho rằng giá trị của con ta được tính bằng mức ăn to nói lớn của chồng nó. Ở đó sẽ không ai khinh dễ nó, bởi vì ta sẽ bắt nó nói tiếng Anh đặc giọng Mỹ. Và ở đó nó sẽ quá no đủ không còn nuốt được một nỗi buồn nào! Nó sẽ biết ta muốn nói gì, bởi vì ra sẽ cho nó con thiên nga này - một tạo vật; tốt hơn hẳn những điều người ta mong mỏi.”   Nhưng khi bà đến đất nước mới, các nhân viên nhập cư đã giật con thiên nga ra khỏi tay bà, để lại trên đôi tay chới với của bà độc nhất một chiếc lông chim làm kỷ niệm. Và rồi bà phải điền vào quá nhiều biểu mẫu đơn từ đến nỗi bà quên mất vì sao bà đến đây và những gì bà để lại phía sau.   Giờ thì bà đã già. Và bà có một cô con gái lớn lên chỉ nói toàn tiếng Anh và uống Coca-Cola nhiều hơn là nuốt đi nỗi buồn. Từ lâu, bà muốn trao cho cô ta chiếc lông chim duy nhất đó và bảo cô “Chiếc lông chim này trông có vẻ vô giá trị, nhưng nó đã từ xa đến đây và chất chứa tất cả thiện ý của mẹ”. Bà đã chờ đợi, năm này qua năm khác, chờ đến ngày bà có thể kể cho con gái nghe điều này bằng tiếng Anh, đặc giọng Mỹ.  *** Ba tôi bảo tôi giữ chân thứ tư trong PHÚC LẠC HỘI. Tôi sẽ thế chỗ mẹ tôi. Từ khi bà chết, chỗ của bà ở bàn mạt chược bỏ trống đã hai tháng nay. Ba tôi cho rằng chính những suy nghĩ của mẹ tôi đã giết chết bà.   Ông nói:   “Mẹ con có một ý mới trong đầu. Trước khi mẹ con có thể nói ra, ý nghĩ đó đã phát triển quá lớn và vỡ tung, chắc hẳn đó là một ý nghĩ chẳng hay ho tí nào.”   Bác sĩ nói mẹ tôi chết bởi chứng phình mạch não. Và những người bạn của mẹ tôi ở PHÚC LẠC HỘI nói bà chết y như một con thỏ: chết một cách nhanh chóng và để lại công việc còn đang dở. Kỳ họp mặt tới của PHÚC LẠC HỘI là tới phiên mẹ tôi đãi đằng.   Trước khi chết một tuần, bà gọi tôi, đầy tự hào và sức sống, bà nói: “Dì Linh nấu chè đậu đỏ. Mẹ sẽ nấu chè chế mè phủ”.   “Thôi đừng phô trương, mẹ ơi”.   “Không phải là phô trương” - bà nói, hai loại chè gần giống nhau, chabudwo. Hoặc là bà có thể nói butong, chẳng giống nhau tí nào hết. Ðây là một trong những cách nói của người Hoa có nghĩa là phần tốt hơn của những ý nghĩ lẫn lộn. Tôi không thể nào nhớ được những gì mà từ thoạt đâu tôi đã không hiểu.   Mẹ tôi bắt đầu có ý tưởng lập PHÚC LẠC HỘI ở San Francisco vào năm 1949, trước khi sinh tôi hai năm. Ðó là năm cha mẹ tôi chạy khỏi Trung Quốc chỉ mang theo một chiếc giỏ bằng da cứng chứa đầy những áo dài lụa lạ kỳ. “Không có thời giờ xếp những thứ khác”, mẹ tôi đã giải thích như thế với cha tôi. Sau khi hai người lên tàu. Tuy nhiên, cha tôi vẫn điên cuồng bới tay giữa những tấm lụa trơn để tìm những chiếc áo vải và quần len của mình.   Khi đến San Francisco, cha tôi bắt mẹ tôi giấu mớ quần áo bóng bẩy này. Mẹ tôi mặc mỗi chiếc áo xẩm carô nâu đến khi Hội Cứu Tế Người Tị Nạn bố thí cho bà hai chiếc áo cũ, cả hai đều lớn quá cỡ ngay cả cho phụ nữ Mỹ. Hội Cứu Tế bao gồm một nhóm nữ truyền giáo đã lớn tuổi ở nhà thờ rửa tội cho người Trung Hoa đầu tiên. Và vì đã nhận quà, cha mẹ tôi không thể từ chối mời lời gia nhập giáo phái của họ. Hơn nữa, cha mẹ tôi không thể bỏ qua lời khuyên rất thiết thực của những phụ nữ lớn tuổi này. Cha mẹ tôi có thể học thêm tiếng Anh ở lớp học kinh thánh vào tối thứ tư hàng tuần và sau này, hát hợp xướng mỗi sáng thứ Bảy hàng tuần. Ðó là lý do mẹ tôi gặp gia đình họ Tô, họ Chung và họ St. Clair. Mẹ tôi có cảm giác là những người đàn bà trong những gia đình này cũng đã trải qua những nỗi khổ không tả xiết bên Trung Hoa và có những hy vọng họ không thể nào diễn tả được bằng tiếng Anh ít ỏi của mình. Hay ít nhất, mẹ tôi nhận ra được vẻ chết lặng trên khuôn mặt những người đàn bà này. Và bà thấy họ mừng rỡ thế nào khi bà đề xuất ý kiến lập PHÚC LẠC HỘI.   PHÚC LẠC là ý nghĩ mẹ tôi nhớ được từ thời bà mới lấy chồng lần đầu ở Quế Lâm, trước khi bọn Nhật tới. Do đó, tôi nghĩ tới PHÚC LẠC như câu chuyện Quế Lâm của bà. Đó là câu chuyện bà thường kể cho tôi nghe mỗi khi bà buồn, mỗi khi không có chuyện gì làm, mỗi khi rửa chén và lau bàn xong, mỗi khi cha tôi đọc báo, hút hết điếu Pall Mall này tới điếu Pall Mall khác, đó là dấu hiệu không được quấy rầy ông. Những lúc đó, mẹ tôi lấy ra cái hộp đựng áo len trượt tuyết cũ do họ hàng chẳng bao giờ gặp bên Vancouver gởi qua. Bà thường cất lại một chiếc áo len, kéo ra một sợi chỉ quăn và đặt sợi chỉ lên một miếng bìa cứng. Và khi bà bắt đầu quấn chỉ nhanh nhẹn, nhịp nhàng, bà bắt đầu kể chuyện. Mười mấy năm ròng rã, bà chỉ kể cho tôi nghe một câu chuyện duy nhất, trừ phần kết thúc câu chuyện ngày càng đen tối hơn, ám ảnh đời bà dai dẳng và cuối cùng, ám ảnh cả đời tôi.   “Ta mơ thấy Quế Lâm ngay cả trước khi ta thấy tận mắt”, mẹ tôi bắt đầu kể bằng tiếng Hoa - “Ta mơ thấy những đỉnh núi lởm chởm chạy dài theo một con sông uốn khúc, hai bên bờ phủ rêu xanh rờn. Sương mù trắng lơ lững trên những đỉnh núi. Và nếu như ta thả mình theo dòng nước và lấy rêu làm thức ăn, ta sẽ có đủ sức leo lên tới đỉnh núi. Nếu như không may ta trượt té, ta chỉ ngã vào một thảm rêu êm như nhung và cười lớn. Nhưng một khi ta lên được tới đỉnh, ta có thể nhìn khắp xung quanh và cảm thấy một niềm hạnh phúc vô biên để cả đời không bao giờ cảm thấy lo lắng nữa.”   Bên Trung Quốc, mọi người đều mơ về Quế Lâm. Khi ta tới đó, ta mới nhận thấy giấc mơ của ta mới tồi tàn và ý nghĩ của ta mới nghèo nàn làm sao. Khi ta thấy những ngọn đồi, ta vừa cười vừa rùng mình. Những đỉnh núi trông như những đầu cá chiên khổng lồ cố nhảy ra khỏi thùng dầu. Phía sau mỗi ngọn đồi, ta có thể nhìn thấy bóng của một con cá khác, rồi một con khác nữa. Và khi những đám mây chỉ lay động một chút thôi thì bỗng nhiên những ngọn đồi biến thành một đàn voi kỳ quái đang chậm rãi tiến về phía ta. Con có thể tưởng tượng được không? Và ở chân đồi là những hang động bí mật. Bên trong có những tảng đá treo có hình dáng và màu sắc như cải bắp, dưa tây, củ cải, củ hành. Con sẽ chẳng bao giờ có thể tưởng tượng được những tảng đá này kỳ lạ và đẹp đẽ đến dường nào.   Nhưng ta không đến Quế Lâm để ngắm cảnh đẹp.   Người đàn ông đã từng là chồng ta mang ta và hai con đến QUẾ LÂM vì ông nghĩ rằng chúng ta sẽ an toàn ở đó. Ông là một sĩ quan trong quân đội Quốc Dân Ðảng, và sau khi ông an vị chúng ta trong một căn phòng nhỏ ở một căn nhà hai tầng, ông lại ra đi về hướng Tây - Bắc, đến Trùng Khánh.   Chúng ta biết là bọn Nhật đang thắng thế, ngay cả khi báo chí nói không phải vậy. Mỗi ngày, mỗi giờ, hàng ngàn người đổ về thành phố, chen chúc trên vỉa hè, cố tìm chỗ sinh sống. Nghèo có, giàu có, người Thượng Hải có, người Quảng Ðông có, người từ phía Bắc có, và không chỉ người Hoa, mà có cả người ngoại quốc và những vị truyền giáo của đủ thứ tôn giáo. Và dĩ nhiên là có cả Quốc Dân Đảng và những sĩ quan trong quân đội, những người này nghĩ là họ phải hơn hẳn những người khác.   Chúng ta là một đám người ô hợp bị bỏ lại phía sau. Giả sử không có bọn Nhật, chắc hẳn sẽ có rất nhiều lý do để những người này đánh nhau. Con có hiểu không? Người Thượng Hải với nông dân vùng biển phía Bắc, thợ rẫy với thợ hớt tóc, phu kéo xe với người tị nạn từ Miến Ðiện. Người này khinh người kia. Chẳng ai để ý là mọi người đều ở chung trên một vỉa hè để khạc nhổ, đều cùng bị dịch tả hoành hành. Ai cũng hôi hám, nhưng người này cứ than phiền người kia hôi nhất. Còn ta? Ta chúa ghét bọn sĩ quan không quân Mỹ cứ suốt ngày bô bô habba - habba, làm ta phải đỏ mặt. Nhưng tệ nhất là bọn nông dân miền Bắc hỉ mũi vào tay, chen lấn với người khác và cuối cùng lây bệnh cho người khác.   Do đó, Quế Lâm mất hết vẻ thơ mộng đối với ta. Ta không còn leo lên đỉnh núi để thốt lên rằng những ngọn đồi này mới đáng yêu làm sao! Ta chỉ tự hỏi, bọn Nhật đã đến được những ngọn đồi nào. Ta thường ngồi chờ trong bóng tối của căn nhà, hai tay ẵm hai con, sẵn sàng chạy. Khi còi báo động có máy bay rít lên ta và mấy người bên cạnh đứng bật dậy và hối hả chạy về phía hàng sau để trốn như thú rừng. Nhưng con không thể ở lâu trong bóng tối. Cái gì đó trong con mờ dần và con như trở thành một người chết đói, thèm khát ánh sáng đến điên cuồng. Bên ngoài, ta có thể nghe thấy tiếng bom. Bùm! Bùm! Và rồi tiếng đá rơi như mưa. Và bên trong, ta chẳng còn thèm khát những tảng đá có hình bắp cải hay củ cải. Ta chỉ có thể thấy lòng một ngọn đồi cổ xưa nhỏ nước, lúc nào cũng có thể đổ sập lên đầu ta. Con có thể tưởng tượng được như thế này không, không muốn ở bên trong, cũng không muốn ở bên ngoài, không muốn ở đâu cả, chỉ muốn biến đi.   Khi tiếng ném bom chỉ còn ở xa xe, chúng ta lại chui ra như những con mèo con tìm đường về thành phố. Và lúc nào cũng vậy, ta rất ngạc nhiên khi thấy những ngọn đồi trên nền trời nóng bỏng đã không bị xé toạc ra.   Ta đã nghĩ ra PHÚC LẠC HỘI vào một tối mùa hè nóng đến nỗi muỗi cũng rơi xuống đất, cái nóng ẩm ướt làm cho cánh chúng quá nặng. Khắp nơi đều đông đúc đến nỗi không thể hít thở không khí trong lành. Mùi cống rãnh không chịu nổi dâng lên cửa sổ lầu hai của ta, và không biết đi đâu, chúng bèn chui vào mũi ta. Suốt cả ngày đêm, ta luôn nghe những tiếng hét la. Ta không biết có phải đó là tiếng một người nông dân gào rát cổ tìm heo đi lạc hay tiếng người sĩ quan đánh đập một người nông dân gần chết vì nằm giữa đường đi của hắn trên vỉa hè. Ta không đi đến cửa sổ để tìm xe. Ích gì? Và đó là lúc ta nghĩ mình đâu phải có người giúp đỡ mới di chuyển nổi.   Ta có ý định tụ tập một nhóm bốn phụ nữ, mỗi người giữ một tay ở bàn mạt chược của ta. Ta biết mình muốn mời những người nào. Họ đều còn trẻ như ta, gương mặt đầy khát vọng. Một người là vợ sĩ quan quân đội, giống như ta. Một người là một cô gái dáng điệu rất thanh lịch, xuất thân từ một gia đình giàu có ở Thượng Hải. Cô đã trốn đi, mang theo chỉ một ít tiền bạc. Còn một cô nữa, từ Nam Kinh tới, có mái tóc đen nhánh, ta chưa từng thấy bao giờ. Cô này xuất thân từ một gia đình cấp thấp, nhưng xinh đẹp và vui vẻ. Cô lấy một ông chồng già, sau ông chết để cô ở lại với một cuộc sống khá hơn.   Cứ mỗi tuần, một người trong nhóm của ta mời bạn bè họp lại để có dịp phát tài và cũng để phấn chấn tinh thần. Người chủ nhà phải đãi thức ăn đặc biệt, ngõ hầu mang lại may mắn khắp mọi mặt: Bánh bao mang hình nén bạc, bún gạo cọng dài chúc sống lâu, đậu phộng nấu mong sinh con trai, và dĩ nhiên còn có thêm nhiều cam để cuộc sống được đầy đủ, ngọt ngào.   Với khả năng đạm bạc mà bọn ta đãi đằng nhau tươm tất đến thế đấy! Bọn ta không để ý rằng bánh bao được nhồi nhân bí, xắt dày, và cam thì lốm đốm đầy những lỗ có sâu. Bọn ta ăn dè xẻn, không phải vì dường như không có đủ thức ăn, nhưng để có thể phân trần vì sao không cắn thêm được miếng nữa, bọn ta phải tự nhồi đầy bụng từ sáng sớm. Bọn ta biết mình có được những thứ xa xỉ mà ít người đạt tới. Bọn ta là những người may mắn.   Mời các bạn đón đọc Phúc Lạc Hội của tác giả Amy Tan.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Từ Hôn
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Từ Hôn của tác giả Hồ Biểu Chánh. Trong „Từ hôn“ tác giả đã dùng kỹ thuật đối thoại, lối viết được xem là tân tiến của thời đó, để diễn tả 3 mẫu người lập dị - mà họ gọi là “chủ nghĩa” –: Châu Tất Ðắc với thuyết “bất cần lao”, Lê Võ Lộ theo gương Lão Tử đặt ra thuyết “vô khả vô bất khả”, Nguyễn Tự Cao lấy tên mình lập ra phái “tự cao” Cốt chuyện quanh quẩn việc cô giám đốc trường nữ công là Cẩm Hương bắt cá với Tất Ðắc sẽ làm mối để anh ta cưới được con gái của một bà Phủ là Bạch Yến với một số tiền đánh cuộc là 2000 đồng. Cô Yến và bà Phủ thuận ý. Lý do đưa đến từ hôn thật bất ngờ. Kết quả ra sao mời bạn đọc tiếp. *** Hồ Biểu Chánh là một nhà văn lớn của Nam Bộ vào những năm đầu thế kỉ 20 với những xáo trộn xã hội do cuộc đấu tranh giữa mới và cũ. Tiểu thuyết của ông, gồm hơn 60 quyển, chủ yếu xoay quanh các vấn đề đạo đức, nhân nghĩa, tình đời bị cuốn trôi, bị xen lẫn, phải vùng vẫy trong làn hương mê muội của tiền bạc. Đọc về Nam Bộ xưa là tiếp xúc với những ngôn từ có phần chân quê, lạ lẫm thêm cách nói chuyện hưỡn đãi, nhưng cũng không kém phần tinh tế vì những khía cạnh của một câu chuyện tưởng như chân chất bình thường lại được xoáy vào ở mọi góc cạnh, và bất giác khiến ta giật mình khi những gai góc của nó lộ ra. Tôi chưa đọc nhiều tiểu thuyết của ông, chỉ mới 5 quyển thôi gồm các tựa: Từ hôn, Ăn Theo Thủa Ở Theo Thời, Nhơn tình ấm lạnh, Con nhà nghèo và Con nhà giàu, nên cũng chỉ bàn đến nội dung trong những truyện trên. “Từ hôn” là một câu chuyện nội dung đơn giản, kể về một chàng trai có gốc quan lại, tên là Châu Tất Đắc, nhưng hiện tại học hành chưa đến nơi đến chốn, công việc cũng không có để nuôi thân, nhờ một bà mai nhanh trí khôn ngoan giới thiệu để kết hôn với một cô gái con nhà giàu có, được cưng như trứng mỏng, với một điều kiện duy nhất là anh chàng phải ở rể. Để được nhà gái chấp thuận, anh chàng và bà mai đã câu kết với nhau đơm đặt nhiều chuyện như anh đã học đậu bằng “bác vật”, lại còn sắp có một công việc ăn lương lớn. Làm tất cả những điều đó, anh nọ chỉ nhằm vào một mục tiêu duy nhất là được làm “nghề chồng”, cái nghề chỉ nằm nhà vợ ăn không ngồi rồi, sung sướng tấm thân, như “chuột sa hũ nếp”. Khi cá lớn cá nhỏ đều đã cắn câu, anh được vợ sắp cưới yêu đương mê mẩn, mẹ vợ quý trọng thương mến, cứ ngỡ mọi chuyện sẽ êm xuôi mà cứ thế làm đám cưới, thì đột ngột anh từ hôn… … bởi con người ta, thời nào cũng vậy, vẫn cần một lòng tự trọng để sống trên đời, để không hổ thẹn với tòa án chuẩn mực công bình và thấu hiểu nhất đó là lương tâm.   Đọc truyện của Hồ Biểu Chánh, cũng là một bước nhìn lại quá khứ, không phải của tôi, mà là của con người, của thiên hạ, đế thấy con tạo xoay vần, nhân gian biến đổi, nói thiệt, không khỏi có chút chạnh lòng. *** Tóm tắt Tiểu thuyết "Từ hôn" của Hồ Biểu Chánh kể về cuộc hôn nhân giữa Châu Tất Ðắc và Bạch Yến. Châu Tất Ðắc là một người lập dị, theo thuyết "bất cần lao". Ông cho rằng con người không cần phải lao động mà chỉ cần hưởng thụ cuộc sống. Bạch Yến là một cô gái xinh đẹp, nhưng lại có tính cách mạnh mẽ, độc lập. Cuộc hôn nhân của hai người bắt nguồn từ một cuộc cá cược giữa Châu Tất Ðắc và Cẩm Hương, giám đốc trường nữ công. Cẩm Hương muốn chứng minh rằng cô có thể tìm được một người chồng cho Bạch Yến, dù cho anh ta có lập dị đến đâu. Ban đầu, Châu Tất Ðắc và Bạch Yến sống rất hạnh phúc. Họ có chung những quan điểm sống và yêu thương nhau rất nhiều. Tuy nhiên, theo thời gian, những mâu thuẫn giữa hai người bắt đầu nảy sinh. Châu Tất Ðắc không muốn làm việc, chỉ muốn hưởng thụ cuộc sống. Bạch Yến thì muốn có một người chồng có thể mang lại cho cô một cuộc sống ổn định. Cuối cùng, hai người quyết định từ hôn. Châu Tất Ðắc trở về với cuộc sống của mình, còn Bạch Yến thì tìm được một người chồng khác. Đánh giá Tiểu thuyết "Từ hôn" là một tác phẩm văn học xuất sắc của Hồ Biểu Chánh. Tác phẩm đã đề cập đến một vấn đề xã hội bức thiết trong giai đoạn đầu của thế kỷ 20, đó là vấn đề hôn nhân. Tác phẩm đã thể hiện được sự mâu thuẫn giữa hai quan điểm sống: quan điểm sống hưởng thụ và quan điểm sống cần lao. Quan điểm sống hưởng thụ sẽ dẫn đến những hậu quả xấu, như: lười biếng, ích kỷ, không có trách nhiệm với bản thân và xã hội. Bên cạnh đó, tác phẩm cũng đã thể hiện được sự mạnh mẽ, độc lập của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Bạch Yến là một cô gái có cá tính, không chịu khuất phục trước những định kiến của xã hội. Cô đã tự mình quyết định cuộc đời của mình, không phụ thuộc vào bất cứ ai. Cảm nhận Tôi rất thích tiểu thuyết "Từ hôn" của Hồ Biểu Chánh. Tác phẩm đã mang đến cho tôi nhiều suy nghĩ sâu sắc về cuộc sống và con người. Tôi đồng ý với quan điểm của tác giả rằng quan điểm sống hưởng thụ sẽ dẫn đến những hậu quả xấu. Con người cần phải có một quan điểm sống đúng đắn, cần lao để có thể xây dựng cuộc sống tốt đẹp cho bản thân và xã hội. Tôi cũng rất ngưỡng mộ nhân vật Bạch Yến. Cô là một người phụ nữ mạnh mẽ, độc lập, có ý chí và nghị lực. Cô là một tấm gương sáng cho những người phụ nữ trong xã hội. Tôi nghĩ rằng tiểu thuyết "Từ hôn" là một tác phẩm văn học đáng đọc. Tác phẩm đã mang đến cho người đọc những giá trị nhân văn sâu sắc. Mời các bạn mượn đọc sách Từ Hôn của tác giả Hồ Biểu Chánh.
Người Gia Sư
Lịch sử đích thực chứa đựng những bài học tựa như những kho báu, mặc dù, trong một số trường hợp, kho báu không dễ phát hiện, và khi được tìm ra lại chẳng đáng kể về số lượng, đã cạn kiệt, phần cốt lõi đã teo tóp và hầu như chẳng bõ công cạy cục tìm tòi. Điều đó có đúng với lịch sử của tôi hay không, tôi không giỏi đánh giá cho lắm. Đôi khi tôi nghĩ có thể câu chuyện của mình có ích cho ai đó, có thể đem lại sự thú vị cho người khác, nhưng người đời có sự đánh giá của riêng mình. Được ít người biết đến, sau nhiều năm trôi qua, và với việc sử dụng một vài cái tên giả, tôi không sợ mạo hiểm, và tôi sẽ tiết lộ với các bạn những gì tôi thậm chí không tâm sự với ngay cả người bạn thân nhất của mình. Cha tôi là một mục sư ở miền Bắc nước Anh, người đáng được tất cả những ai biết đến kính nể. Thời trai trẻ, ông sống khá thoải mái bằng thu nhập từ công việc của mình và chút sản nghiệp riêng. Mẹ tôi, người phụ nữ kết hôn với ông bất chấp sự phản đối của gia đình, là con gái của một địa chủ, và là một người ngoan đạo. Chẳng ích gì khi nói với bà rằng nếu trở thành vợ của một mục sư thì bà sẽ phải từ bỏ cỗ xe ngựa, cô hầu phòng, và tất cả những thứ xa xỉ, thanh nhã của sự giàu sang, điều mà đối với bà ít quan trọng hơn nhiều so với những thứ thiết yếu trong cuộc sống. Một cỗ xe ngựa và một cô người hầu tiện lợi thật đấy, nhưng, ơn Trời, bà có đôi chân để tự bước đi, có đôi tay để tự làm được những việc cần thiết của cá nhân. Một ngôi nhà đẹp và những mẫu đất không phải là những thứ chẳng đáng giá một xu, nhưng bà thích sống dưới mái nhà tranh cùng với Richard Grey hơn là sống trong một cung điện với bất cứ người đàn ông nào khác trên đời này. Biết rằng tranh cãi, phản đối chẳng ích gì, cha của bà sau một thời gian dài, đã nói với đôi uyên ương rằng nếu thích thì họ cứ việc lấy nhau, nhưng, nếu như vậy, thì con gái của ông sẽ không được hưởng một mẩu của nả nào từ gia đình. Ông cụ hy vọng tuyên bố đó có thể dập tắt ngọn lửa tình yêu nồng nàn trong trái tim đôi trẻ, nhưng ông đã nhầm. Cha tôi biết quá rõ rằng giá trị vượt trội không dễ nhận thấy của mẹ tôi chính là kho báu ở trong con người bà và nếu bà ưng thuận về xây đắp tổ ấm của ông thì ông sẽ hân hoan đón nhận bà với bất cứ điều kiện nào. Trong khi đó, mẹ tôi thích lao động bằng đôi bàn tay của mình hơn là phải chia tay người đàn ông mà bà đã đem lòng yêu, người mà bà tình nguyện đem lại hạnh phúc, khi mà cả trái tim và tâm hồn của hai người đã hòa làm một. Vậy là tài sản thừa kế của bà đã làm căng cái ví của người chị gái khôn ngoan hơn, người đã kết hôn với một vị quan thái thú, còn bà đi chôn vùi bản thân trong ngôi nhà đơn sơ của vị mục sư giữa những ngọn đồi trong sự ngạc nhiên và thương hại của tất cả những người quen biết. Bất chấp tất cả những chuyện đã xảy ra, dù tính cách mạnh mẽ của mẹ tôi và những ý thích nhất thời của cha tôi, tôi tin rằng bạn tìm khắp cả nước Anh này cũng chẳng thể tìm nổi một đôi vợ chồng nào hạnh phúc hơn cha mẹ tôi. ... Mời các bạn đón đọc Người Gia Sư của tác giả Anne Brontë.
Tỉnh Mộng
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Tỉnh Mộng của tác giả Hồ Biểu Chánh. Bà phủ Tiên góa chồng chỉ có một gái là Yến Tuyết xinh đep và đoan trang. Yến Tuyết có người anh con dì là Trường Xuân, trước làm thông ngôn, tham giàu lấy người vợ xấu xí, rồi xin thôi việc ra làm hội đồng địa hạt. Yến Tuyết ngây thơ bị Trường Xuân dùng những lời ong bướm gợi tình, nên thất tiết và mang thai. Sợ chuyện đổ bể thì mang tai tiếng và có hại trong việc tranh chức cai tổng, Trường Xuân muớn Kỳ Tâm làm nôm (là người nhận một số tiền đền bù để làm chồng một cô gái chửa hoang ). Kỳ Tâm vốn là con một ông cả giàu có lớn, vì gia đình suy sụp phải bỏ học, lại bị vị hôn thê phụ bạc nên chán ngán nhâm tình. Chàng nhận làm nôm để giúp mẹ con bà phủ khỏi mang tiếng xấu và để có dịp hiểu đời thêm, chớ không nhận tiền. Kỳ Tâm bằng lòng nhận điều kiện của Yến Tuyết là chỉ đóng vai chồng hờ và điều kiện của Trường Xuân là phải ra khỏi gia đình bà Phủ bất cứ lúc nào khi có yêu cầu. Chàng chỉ đòi hỏi một điều là được biết chuyện tình giữa Trường Xuân và Yến Tuyết. Trường Xuân tưởng nhờ người nôm tạm để về sau còn đi lại với Yến Tuyết, không ngờ từ khi thất thân với Trường Xuân, nàng khinh bỉ chàng và luôn luôn lánh mặt. Kết quả ra sao mời bạn đọc tiếp... Tỉnh mộng *** Tóm tắt Tỉnh Mộng là một tiểu thuyết hiện thực của nhà văn Hồ Biểu Chánh, được xuất bản năm 1937. Tác phẩm kể về cuộc đời và tình yêu của ba nhân vật chính là Yến Tuyết, Kỳ Tâm và Trường Xuân. Yến Tuyết là một cô gái xinh đẹp và đoan trang, nhưng lại ngây thơ và thiếu hiểu biết. Cô bị Trường Xuân, người anh con dì của mình, dụ dỗ và thất tiết. Trường Xuân là một người đàn ông tham lam và ích kỷ, chỉ biết nghĩ đến bản thân. Anh ta đã lợi dụng sự ngây thơ của Yến Tuyết để thỏa mãn dục vọng của mình. Kỳ Tâm là một chàng trai có học thức và phẩm hạnh. Anh ta nhận làm nôm cho Yến Tuyết để giúp cô thoát khỏi tai tiếng. Kỳ Tâm yêu Yến Tuyết ngay từ lần đầu tiên gặp gỡ, nhưng anh ta biết rằng tình yêu của mình là vô vọng. Cuối cùng, Trường Xuân đã bị bà Phủ đuổi ra khỏi nhà. Yến Tuyết đã sinh con cho Kỳ Tâm, nhưng cô vẫn không thể quên được Trường Xuân. Kỳ Tâm đã trở thành người chồng hiền lành và yêu thương Yến Tuyết hết mực. Anh ta đã giúp Yến Tuyết vượt qua nỗi đau tinh thần và tìm lại hạnh phúc. Cảm nhận Tỉnh Mộng là một tiểu thuyết có giá trị nhân văn sâu sắc. Tác phẩm đã phản ánh chân thực cuộc sống của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến Việt Nam. Tác phẩm cũng ca ngợi tình yêu chân thành, thủy chung, và tinh thần đấu tranh cho hạnh phúc của con người. Tác phẩm được viết bằng ngôn ngữ giản dị, dễ hiểu, nhưng vẫn mang đậm chất Nam Bộ. Nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật của Hồ Biểu Chánh cũng rất thành công. Đánh giá Tỉnh Mộng là một tiểu thuyết đáng đọc của nhà văn Hồ Biểu Chánh. Tác phẩm đã để lại trong lòng độc giả nhiều ấn tượng sâu sắc về cuộc đời và số phận của những con người trong xã hội phong kiến Việt Nam. Một số điểm hạn chế của tác phẩm Cốt truyện khá đơn giản, chưa có nhiều điểm nhấn. Kết thúc truyện có phần hơi dễ đoán. Tuy nhiên, những hạn chế này không làm giảm đi giá trị của tác phẩm. Tỉnh Mộng vẫn là một tiểu thuyết xuất sắc của nhà văn Hồ Biểu Chánh. Mời các bạn mượn đọc sách Tỉnh Mộng của tác giả Hồ Biểu Chánh.
Hai Khối Tình
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Hai Khối Tình của tác giả Hồ Biểu Chánh. “Ái tình là ý nghĩa của sự sống. Ngày nay khối tình của em đã tan rã, thế thì em còn sống làm chi nữa, mà chị khuyên em phải sống.” “Sự sống còn nhiều mục đích khác cao thượng lắm, chớ nào phải sống đặng say sưa với ái tình mà thôi đâu.” “Em không có mục đích nào khác nữa.” “Em còn trẻ, em chưa lịch duyệt thế cuộc, nên em mới nói như vậy. Trong một ít nữa rồi em sẽ thấy sự sống có nhiều mục đích tốt đẹp nồng nàn hơn ái tình thập bội.” *** Cảm nhận Hai Khối Tình là một tiểu thuyết hiện thực của nhà văn Hồ Biểu Chánh, được xuất bản năm 1936. Tác phẩm kể về cuộc đời và tình yêu của hai nhân vật chính là cô Cúc và ông trạng sư Xương. Cô Cúc là một cô gái xinh đẹp, tài giỏi, có chí tiến thủ. Cô đã thi đậu bằng Thành chung, trở thành người phụ nữ đầu tiên trong gia đình đỗ đạt. Cô có ước mơ trở thành nhà văn, viết tiểu thuyết để đấu tranh cho quyền lợi của phụ nữ. Ông trạng sư Xương là một người đàn ông hào hoa, phong nhã, có học thức uyên bác. Ông rất quý mến cô Cúc, luôn giúp đỡ cô trong cuộc sống và học tập. Ông cũng là người có tư tưởng tiến bộ, ủng hộ quyền bình đẳng của phụ nữ. Tình yêu của cô Cúc và ông trạng sư Xương là một tình yêu đẹp, nhưng cũng gặp phải nhiều trắc trở. Vì những khác biệt về quan niệm sống và hoàn cảnh gia đình, họ đã phải chia tay nhau. Tiểu thuyết Hai Khối Tình đã phản ánh chân thực cuộc sống của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến Việt Nam. Tác phẩm cũng thể hiện tinh thần đấu tranh cho quyền bình đẳng của phụ nữ của nhà văn Hồ Biểu Chánh. Đánh giá Hai Khối Tình là một tiểu thuyết có giá trị nhân văn sâu sắc. Tác phẩm đã phê phán xã hội phong kiến với những hủ tục lạc hậu, những bất công, áp bức đối với phụ nữ. Đồng thời, tác phẩm cũng ca ngợi tình yêu chân thành, thủy chung, và tinh thần đấu tranh cho quyền bình đẳng của phụ nữ. Tác phẩm được viết bằng ngôn ngữ giản dị, dễ hiểu, nhưng vẫn mang đậm chất Nam Bộ. Nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật của Hồ Biểu Chánh cũng rất thành công. Tuy nhiên, tác phẩm cũng có một số hạn chế như: Cốt truyện khá đơn giản, chưa có nhiều điểm nhấn. Kết thúc truyện có phần hơi dễ đoán. Nhìn chung, Hai Khối Tình là một tiểu thuyết đáng đọc của nhà văn Hồ Biểu Chánh. Mời các bạn mượn đọc sách Hai Khối Tình của tác giả Hồ Biểu Chánh.