Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Từ Bỏ Thế Giới Vàng - Jack London

Nếu hỏi: “Văn chương ảnh hưởng thế nào đến một con người?”, c'u trả lời xác đáng phải là: “Vô cùng lớn lao!”. Đó là khi người đọc và nh'n vật biểu trưng cho cái tôi của nhà văn đồng cảm tuyệt đối. Điều đó thay đổi hoàn toàn cuộc đời, cái nhìn của người đọc. Tôi tìm thấy nó trong tác phẩm Từ Bỏ Thế Giới Vàng của Jack London. Mọi việc vẫn bắt đầu từ tủ sách thần thánh của ba. Đó là ngày tôi bỏ qua các cuốn tiểu thuyết của Jack London để đọc Người Đẹp Ngủ Mê của Kawabata. Ba tôi không cấm nhưng sớm cảnh báo: – Con có thể đủ sức đọc hết nhưng chưa đủ kiến thức để hiểu nội dung của nó! Ở cái tuổi đang lớn với đầu óc chứa đầy ương bướng nổi loạn, tôi kiên trì đọc Người Đẹp Ngủ Mê rồi không sao thấu nổi. Ba mới chìa cho tôi cuốn Từ Bỏ Thế Giới Vàng: – Đ'y là cuộc đời thực mà con nên đọc qua! Chất ương bướng ở tuổi mười ba đã ngấm đòn sau khi đầu hàng trước tính dục, bản ngã trong thế giới Người Đẹp Ngủ Mê của Kawabata, tôi ngoan ngoãn bước vào nơi hoàn toàn thay đổi cái nhìn, ý thức về cuộc đời. Nó ảnh hưởng đến sau, sau này và mãi mãi. Đến lúc viết những dòng này, thành một con người hoàn toàn đứng trên đôi ch'n của mình, từ bỏ được “thế giới vàng” phù phiếm của mình, tôi viết với sự biết ơn s'u sắc tác giả Jack London đã sáng tạo ra Ánh Sáng Ban Ngày, nh'n vật trung t'm của tiểu thuyết. Và hơn hết, tôi nhận ra từ phúc phần ở tủ sách thần thánh của ba mình. Từ Bỏ Thế Giới Vàng với nh'n vật trung t'm Ánh Sáng Ban Ngày. Anh ta có tên hẳn hoi là Elam Harnish, nhưng đã từ l'u không còn ai buồn nhớ chơi đến cái tên đó. Họ gọi anh là Ánh Sáng Ban Ngày, do thói quen sôi động và đem sự sôi động đến mọi người chung quanh, đặc biệt ưa giật chăn những kẻ ngủ lười với bài hát “Trời đã sáng bét ra rồi kìa, mấy ông bạn đi tìm linh cảm ở sông Stewart? Trời đã sáng bét rồi kìa! Trời đã sáng bét rồi kìa! Trời đã sáng bét rồi kìa!”. Tiểu thuyết vẽ ra thế giới những kẻ đào vàng ở miền cực. Nơi lý lẽ thuộc về kẻ mạnh và nòng súng nếu anh may mắn bóp cò nhanh hơn đối phương. Ở đó đức tin về Chúa chỉ mang tính tượng trưng, nơi quá xa xăm mà ánh sáng công lý vươn tới được, chỉ những gã đàn ông liều lĩnh, khẳng khái ưa đem mạng mình đánh cược với Mẹ Thiên Nhiên mới sống nổi. Và Ánh Sáng Ban Ngày là kẻ liều lĩnh, khẳng khái, can đảm nhất trong số đó. Anh ta lăn lộn qua mọi khó khăn, đánh liều khai phá những nơi mà mọi tay can đảm đều chần chừ. Hầu như khi đến tận cùng giới hạn, anh luôn tìm mọi cách vượt qua bằng sự khéo léo, sức mạnh cơ bắp, khối óc minh mẫn và sự liều lĩnh đã thành nết. Sau khi trúng được vố to nhất trong những năm đằng đẵng “đãi tuyết tìm vàng”, Ánh Sáng Ban Ngày quyết định từ bỏ vùng cực, quay về thế giới văn minh để làm ăn. “Một anh ngố rừng”, một “con hưu sừng tấm đầu đàn thô lậu”….và hàng loạt những từ ngữ ví von khác mà người đọc có thể nghĩ ra để ví von, Ánh Sáng Ban Ngày trúng ngay quả lừa đau đớn mất sạch cả gia tài. Anh, kẻ đến Mẹ Thiên Nhiên cũng phải chào thua để nhường đường nhất định không cam chịu bị những tay thành thị ẻo lả trong các bộ độ vét lừa lọc, đã dùng đúng cách d'n đào vàng lấy lại tất cả những gì thuộc về mình. Vố đau này khiến Ánh Sáng Ban Ngày hoàn toàn trở nên thay đổi t'm tính. Anh nhận ra những kẻ thành thị làm ăn toàn là các tay chơi bạc bịp, mà trong việc chơi bài, bịp bợm thì phải bị xử lý thích đáng kèm theo thái độ khinh khi rõ ràng. Điều này khác hẳn thế giới vùng cực hoang sơ của anh, các tay đào vàng chơi bài với sự thẳng thắn và lòng tin tuyệt đối vào nhau. Lắm lúc tiền cược lên đến vài chục ngàn đô-la nhưng ký nợ chỉ vẻn vẹn là mẫu giấy nhỏ, thậm chí chẳng hề viết tên con nợ. Nhưng chưa từng có ai quỵt nhau hay gian dối bao giờ. Ánh Sáng Ban Ngày là tay đánh bạc gan dạ và ngay thẳng. Một khi thế giới văn minh chơi bịp thì anh sẽ dùng chính lối đó để đối xử lại. Anh về San Francisco, mau chóng trở thành con cá mập hung hãn trong thế giới kinh doanh, bằng chiến thuật đơn giản là xé xác để mau chóng th'u tóm và leo lên đỉnh cao của Thế Giới Vàng Thực Sự. Thế giới hoang sơ vùng cực không làm anh chai sạn nhưng thế giới văn minh thị thành đã khiến bản chất của anh từ từ chuyển sang khô cứng, độc ác và hầu như vô cảm. May thay, một cô nàng nhỏ nhắn và mỏng manh tới mức Ánh Sáng Ban Ngày có thể dùng tay kéo dài và thắt nút đã 'm thầm, len lỏi một cách vô hình vào cuộc đời anh. Dede, người phụ nữ từ chối yêu anh chỉ vì anh quá giàu. Người phụ nữ chỉ muốn có một đức ông chồng bình thường, ngày này qua ngày khác sống bên cạnh mình để cùng chia sự nghèo khó trong hạnh phúc. Người phụ nữ ấy cứu rỗi hoàn toàn cuộc đời tưởng chừng như hoang phế của Ánh Sáng Ban Ngày, thổi bùng những bản tính tươi đẹp bị cuộc sống thị thành chôn vùi, trả lại cho “niềm tự hào của vùng cực” một gã đàn ông từng khiến Mẹ Thiên Nhiên phải nghiêng mình cúi chào. Một gã đàn ông mà nàng đã yêu say đắm từ ngày đầu tiên vì chất đàn ông luôn tràn ra bên ngoài. Ánh Sáng Ban Ngày từ bỏ cái Thế Giới Vàng tài chính của mình, cùng Dede về vùng đồi đã mua từ trước sống cuộc đời nông d'n yên bình với chăn nuôi, trồng trọt. Ngày trước chỉ cần hất tay, anh đã mua được cả San Francisco, còn b'y giờ muốn mua một bộ dụng cụ nhỏ thì anh phải canh nhặt từng quả trứng gà để tích góp, đôi khi đi sửa chữa giúp hàng xóm hòng có đủ tiền. Đ'y là giai đoạn hạnh phúc nhất trong đời Ánh Sáng Ban Ngày. Nhưng cuộc sống vẫn luôn muốn thử thách lòng tham con người, ít ra là lòng tham ở kẻ từ đỉnh cao giàu sang trở thành gã nông d'n tầm thường ở Ánh Sáng Ban Ngày. Lần nọ có một đoạn ống nước bị vỡ ở triền đồi, Ánh Sáng Ban Ngày vô tình phát hiện ra mạch vàng trong lúc sửa chữa. Bản tính một tay đào vàng khét tiếng trỗi dậy, anh lần mò, đào xới, cuối cùng thấy được vàng nổi lên tận ch'n cỏ. Đúng là một Thế Giới Vàng đích thực. Tuy nhiên, Ánh Sáng Ban Ngày đã đánh đổi quá nhiều để có được tình yêu bình dị đến tầm thường từ Dede. Và cô quan trọng với anh tới mức chẳng có Thế Giới Vàng nào đủ sức cám dỗ. Anh lặng lẽ sửa chữa đoạn ống nước, trở về và nói với người vợ yêu quý của mình rằng: “Em biết b'y giờ anh đang tính gì không? Anh vừa nảy ra một kế hoạch. Anh sẽ mua bạch đàn về trồng trên khắp bờ dốc đó. Những c'y bạch đàn sẽ giữ cho đất khỏi lở nữa. Anh sẽ trồng bạch đàn sát vào nhau như eo ấy, đến độ một con thỏ đói cũng khó lòng mà len qua được. Khi những c'y bạch đàn đã bám rễ rồi thì trời cũng không thể làm lở đất ở đó được nữa.”. Đúng, anh đã chôn, đã chối bỏ Thế Giới Vàng đó để giữ những điều bình dị bên cạnh mình. ….. Tôi đã sống thời tuổi trẻ sôi động như Ánh Sáng Ban Ngày, điên cuồng khám phá cuộc sống thực tại nghiệt ngã giống như anh, đạp lên những kẻ muốn đạp mình xuống bằng sức mạnh của cơ bắp lẫn trí óc của một thằng đàn ông đúng nghĩa. Tuy chưa đến được đỉnh Thế Giới Vàng như Ánh Sáng Ban Ngày nhưng nhờ có anh, tôi sớm nhận ra những thứ phù phiếm. Ở tuổi ba mươi, chưa đủ già nhưng không quá trẻ, tôi chọn cái kết cuộc đời của mình như Ánh Sáng Ban Ngày, từ bỏ mọi thế giới vàng cám dỗ để làm một anh nông d'n tầm thường. Với tôi, Từ Bỏ Thế Giới Vàng của Jack London không đơn thuần là một cuốn tiểu thuyết. Ở đó, tôi đọc được những bài học, cách hành xử của một người đàn ông ch'n chính với cuộc đời. Ở đó, có tình yêu bao la, có sự thức tỉnh hòng chối bỏ. Và ở đó, là cuộc đời tôi muốn sống và đang sống với niềm hạnh phúc vô bờ bến dù thiếu một nàng Dede mỏng manh và nhỏ bé đến tầm thường. Xin gởi cho những t'm hồn yêu sách ch'n chính. Nếu bạn muốn tìm một quyển sách có đủ chất phiêu lưu, biến chuyển t'm lý, hiện thực xã hội, tình yêu ch'n thành, giác ngộ và thức tỉnh, Từ Bỏ Thế Giới Vàng của Jack London nhất định không làm bạn thất vọng. Và nếu bạn muốn biết đoạn đời sau của Ánh Sáng Ban Ngày sẽ hạnh phúc như thế nào, hãy lên với rừng núi của tôi, tôi luôn dành cho bạn chiếc ghế trang trọng nhất, và sẵn sàng kể cho bạn nghe Ánh Sáng Ban Ngày đã Sống-Yêu-Từ Bỏ như thế nào. *** Quán Tivoli đêm nay thật lặng lẽ. Có khoảng năm, sáu người đang tụ tập tại chiếc quầy rượu chạy dọc một bên căn phòng lớn làm bằng những thân gỗ ghép không được kín lắm. Phía bên kia căn phòng là một dãy bàn cờ bạc. Bàn tài xỉu không có ai cả. Ở bàn faro chỉ có độc một người đang chơi. Ở bàn rulet, con quay chẳng buồn hoạt động bởi vì anh chàng hồ lì đứng bên chiếc lò sưởi rực lửa đang mải tán gẫu với một thiếu nữ mắt đen, thân hình và vẻ mặt rất ưa nhìn, được mọi người tử Juneau đến Fort Yukon quen gọi la Mộng Trinh(1). Ở bàn xì phé có được ba người, nhưng họ chỉ chơi cò con vì hình như không có hứng. Trên sàn nhảy ở phía sau căn phòng lớn này chỉ có ba cặp đang nhảy một cách uể oải theo tiếng rền rĩ của chiếc dương cầm và chiếc vĩ cầm. Thật ra thị trấn Vùng Cực này không phải bị bỏ hoang, mà cư dân ở đây thì cũng chẳng phải nghèo tiền bạc. Những người đào vàng ở Lạch Da Hươu cũng như ở các vùng khác về phía tây đều đã trở về đây. Công việc đãi vàng trong mùa hạ vừa qua rất có kết quả, nên túi của họ đều nặng trĩu vừa vàng cục vừa vàng bụi. Vào thời gian này, người ta chưa biết đến sông Klondike(2), và những người thợ mỏ ở dọc theo sông Yukon(3) chưa biết cách đốt lửa cho đất mềm ra cho dễ đào. Bởi thế, về mùa đông, đám thợ mỏ nghỉ việc, quay về trú đông ở các trại lớn như thị trấn Vùng Cực này cho qua đêm dài Bắc Cực. Thì giờ rỗi rãi, túi lại rủng rinh tiền, nên họ thường đến các quán rượu tìm vui. Ấy thế mà đêm nay, quán Tivoli cứ như bị bỏ hoang. Ðứng bên lò sưởi, Mộng Trinh ngáp dài không thèm đưa tay che miệng, và nói với Charley Bates: - Nếu cứ cái điệu này mãi thì đến phải đi ngủ mất thôi. Mà có chuyện gì với cái trại này vậy nhỉ? Bộ mọi người chết hết rồi à? Bates chẳng buồn mở miệng trả lời, cứ lặng lẽ cuốn thuốc. Dan McDonald, chủ quán Tivoli kiêm chủ các sòng bạc ở đây, rầu rĩ băng ngang căn phòng trống trải, đến nhập bọn với hai người đang đứng bên lò sưởi. Mộng Trinh quay sang hỏi hắn: - Bộ có ai chết hay sao vậy? - Hình như thế. - Vậy thì có lẽ cả cái trại này chết hết rồi cũng nên. - cô gái nói với vẻ dứt khoát rồi lại ngáp dài. McDonald nhe răng cười, gật đầu, và mở miệng định nói thì cánh cửa cửa trước bỗng mở tung và một người chợt hiện ra trong ánh đèn. Ðưa tay lấy cây chổi con móc trong cửa, người mới đến phủi tuyết bám trên đôi giày da đanh kiểu thổ dân Bắc Mỹ và trên đôi vớ cao kiểu Ðức. Hẳn là anh ta trông cũng cao lớn nếu như ngay lúc đó không có anh chàng khổng lồ người Gia Nã Đại gốc Pháp từ phía quầy rượu bước lại nắm chặt lấy anh ta. - Kìa Ánh Sáng Ban Ngày! Lạy chúa, bọn này mong cậu đến mòn con mắt! - À, Louis, xin chào. Các cậu về lúc nào vậy? - Người mới đến đáp lại. - Nào, ta đi làm một ly đi, rồi cậu kể cho tớ nghe toàn bộ câu chuyện ở Lạc Khúc Xương nhé. Chà, quỷ tha ma bắt cậu đi, bắt tay cái nữa nào. Cái anh bạn đi với cậu đâu rồi? Tớ đang tìm hắn đây. Một người khổng lồ nữa từ phía quầy rượu cũng bước lại đưa tay ra bắt tay người mới đến. Anh chàng này tên Olaf Henderson, cũng là dân đào vàng chung với French Louis ở Lạch Khúc Xương. Cả hai đều là người to lớn nhất vùng, và mặc dù họ chỉ cao hơn người mới đến khoảng nửa cái đầu thôi, thế mà đứng giữa họ anh ta trong loắt choắt hẳn đi. - Ôi chào Olaf, tớ tìm cậu mãi đấy, hiểu không? - Người được gọi là Ánh Sáng Ban Ngày nói. - Ngày mai là sinh nhật của tớ, và tớ sẽ quật cho cậu ngã ngửa ra đấy, hiểu không? Cả Louis nữa, tớ cũng sẽ quật cho cậu ngã ngửa ra đấy, hiểu không? Cả Louis nữa, tớ cũng sẽ quật cho cậu ngã ngửa luôn, hiểu không? Nào, bây giờ đi uống với tớ một ly cái đã, rồi tớ sẽ cho các cậu biết. Người mới đến dường như đem theo cả hơi ấm tràn ngập căn phòng. Mộng Trinh kêu lên: - Ðúng là Ánh Sáng Ban Ngày rồi! Nàng là người đầu tiên nhận ra anh ngay khi anh vừa bước vào vùng sáng của căn phòng. Sự xuất hiện của Ánh Sáng Ban Ngày làm cho cả căn phòng hình như bỗng sáng và vui tươi hơn hẳn. Những người phục vụ trong quán tíu tít hẳn lên. Người ta cất cao giọng hát hơn. Có kẻ còn bật cười nữa. Nhịp luân vũ nhanh hẳn lên, và những cặp đang khiêu vũ, như lấy phải cái nhộn nhịp chung, cũng bắt đầu quay tít như thể họ đang bốc hứng. Ðã từ lâu mọi người đều biết rằng hễ ở đâu có Ánh Sáng Ban Ngày là ở đó không thể buồn nản được. Tại quầy rượu Ánh Sáng Ban Ngày xoay người lại thì thấy Mộng Trinh đứng cạnh lò sưởi đang nhìn anh với vẻ đón chào nồng nhiệt. - Kìa, Mộng Trinh, cô bạn cũ, - anh gọi. - Kìa, cả Charley nữa. Chuyện gì thế? Sao mặt mày lại ủ ê như người chết không có đất chôn vậy? Lại đây uống cái gì đi nào. Tất cả lại đây nào, hỡi những kẻ chết chưa có đất chôn kia, muốn uống gì thì cứ việc gọi. Nào, mọi người. Ðêm nay là đêm của tớ, và tớ sẽ làm chủ nó. Ngày mai tớ đã ba mươi tuổi, thế là già mất rồi. Ðây là giây phút cuối cùng của tuổi trẻ. Tất cả đã sẵn sàng cả rồi chứ? Nào, vô nào, vô. - Khoan đứng lên đã, Davis, - anh quay qua gọi với người chào faro, lúc này đang đẩy ghế ra sau dợm đứng lên. - Tớ muốn chơi với cậu một ván để xem tớ hoặc cậu ai sẽ phải trả tiền rượu cho mọi người ở đây nào. Móc trong túi áo khoác ra một gói vàng bụi nặng trịch, anh đặt nó vào số lớn. - Tớ đặt năm mươi đô-la trị giá bằng vàng bụi đây! - anh nói. Nhà cái bàn faro chia hai lá. Số lớn ăn. Nhà cái nguệch ngoạc số tiền thắng vào một mảnh giấy trong lúc người chung tiền cân một dúm vàng bụi tương đương với năm mươi đô là rồi trút nó vào bao của Ánh Sáng Ban Ngày. Lúc này điệu luân vũ đã chấm dứt. Ba cặp nhảy lúc nãy cùng với anh chàng nhạc công kéo vĩ cầm và anh chàng nhạc công chơi dương cầm theo nhau bước ra khỏi phòng rượu đúng lúc Ánh Sáng Ban Ngày quay lại và nhìn thấy họ. - Lại đây uống nào, mấy ông bạn, - anh ta kêu lên, - lại đây uống nào, và muốn kêu gì thì kêu. Ðêm nay là đêm của tớ, không phải lúc nào cũng có được Lại. đây uống nào, máy ông bạn cố tri, tớ nói thật đấy, vì đêm nay chính là đêm của tớ. - Một đêm chó đẻ - Charley Bates nói xen vào. - Ðúng đấy, con ạ - Ánh Sáng Ban Ngày vẫn cứ vui như không, - Một đêm chó đẻ, nhưng nó là đêm của ta, bởi vì ta là con sói đực già. Nghe ta tru đây này. Và anh cất tiếng tru thật to giống hệt như một con sói rừng xám cô độc đến nỗi Mộng Trinh phát run lên vội đưa hai ngón tay nút chặt lấy tai. Ngay lập tức Ánh Sáng Ban Ngày bế bổng nàng lên đưa vào sàn nhảy. Ba cặp nhảy lúc nãy cũng theo họ vào, rồi tất cả cùng quay cuồng theo điệu vũ xoay tròn ầm ĩ, của vùng Virginia. Ánh Sáng Ban Ngày là trung tâm của sự náo nhiệt ấy, là ngọn lửa hừng hực, đến đâu là châm chọc, cười đùa ầm ĩ đến đó, nên giúp họ thoát khỏi cái vùng lầy ủ ê đã dìm họ trước khi anh đến. Rất ít người biết rằng Ánh Sáng Ban Ngày tên thật là Elam Harnish, bởi lẽ ngay từ những ngày đầu tiên đi mở đất, người ta đã gọi anh bằng biệt hiệu đó vì thấy anh có thói quen vừa lôi bạn bè mình ra khỏi chăn êm nệm ấm vừa làu bàu là trời đã sáng bét ra rồi. Trong số những người tiên phong tiến vào vùng đất hoang ở vùng Bắc Cực xa xôi này thì anh được liệt vào hạng cố cựu nhất. Mặc dù cũng có những người đã đến vùng đất này sớm hơn anh như Ai May hoặc Jack Mc Question chẳng hạn, nhưng thường thì họ đến đây từ vùng Vịnh Hudson về phía đông băng ngang qua rặng Thạch Sơn. Còn anh đã dám vượt qua vùng đèo Chilcoot và Chilcat. Vào mùa xuân năm 1883, cách đây mười hai năm, dù lúc đó mới chỉ có mười tám tuổi anh đã cùng với năm người bạn của mình vượt qua đèo Chilcoot. Ðến mùa thu thì anh trở về, năm người bạn trước kia nay chỉ còn có một. Bốn người kia đã bỏ mạng trong cái bất trắc của vùng đất bát ngát lạnh lẽo chưa được ghi lên bản đồ ấy. Từ đó cho đến suốt mười hai năm sau, Elam Harnish vẫn tiếp tục mò mẫm tìm vàng trong cảnh tối tăm của vùng Bắc Cực. Thật chưa có ai mò mẫm tìm vàng một cách kiên trì và bướng bỉnh như anh. Anh đã lớn lên với vùng đất này và chẳng biết đến vùng đất nào khác nữa. Ðối với anh, nền văn minh cũng chỉ giống như một giấc mơ đã qua lâu lắm rồi, và những trại Bốn Mươi Dặm hoặc trại thị trấn Vùng Cực thực sự là những đô thị lớn. Không phải anh chỉ lớn lên với vùng đất này mà thôi, mà còn giúp xây dựng nó nữa, dù rằng hiện giờ nó cũng vẫn còn hoang sơ lắm. Anh đã tạo nên lịch sử và địa dư của vùng đất; những kẻ đến sau anh chỉ cần viết về những chuyến đi của anh và vẽ lại những con đường mòn mà chính chân anh đã vạch ra là đủ. Thường thì anh hùng ít sùng bái anh hùng, vậy mà những con người sinh sống ở vùng đất mới này vẫn xem anh là một anh hùng già dặn, mặc dù anh vẫn còn rất trẻ. Về thời gian, anh đã đến đây trước họ. Về công việc, anh đã làm nhiều hơn họ. Về sức dẻo dai bền bỉ, mọi người đều công nhận là anh có thể giết chết được cả những tay sừng sỏ nhất. Hơn nữa, họ còn coi anh như một kẻ táo gan, ngay thẳng và thuộc giống người da trắng. Ở bất cứ vùng đất nào mà cuộc đời chỉ là một trò may rủi không đáng bận tâm thì con người thường tự nhiên quay sang cờ bạc để tiêu khiển và nghỉ ngơi. Ở dọc sông Yukon, bọn đàn ông đặt cả cuộc đời họ vào canh bạc ăn vàng. Rồi những ai lấy được vàng từ lòng đất lại đem vàng ra đánh bạc với nhau. Elam Harnish cũng không phải là một ngoại lệ bởi vì anh đáng mặt đàn ông nhất trong bọn đàn ông, và trong người anh, cái bản năng thôi thúc chơi canh bạc của cuộc đời rất mạnh mẽ. Chính môi trường sống của anh đã quyết định hình thức của canh bạc ấy. Anh sinh ra trong một nông trại ở Iowa, sau theo bố di cư đến Ðông Oregon và sống suốt qua ng đời niên thiếu ở cái vùng mà người ta kéo tới tìm vàng đó. Bởi vậy, anh đã chẳng học được gì ngoài cách chịu đấm ăn xôi. Trong canh bạc này dĩ nhiên lòng can đảm và sức bền bỉ là cần thiết, nhưng các con bài lại do Thần Số Mệnh chia. Cứ từ tốn mà đánh thì cũng kiếm được chút đỉnh, nhưng chút đỉnh thì lại chẳng bỏ công. Bởi vậy người ta thường đánh lớn. Elam Harnish thích đánh tất cả để có thể thắng được tất cả và một khi đã không thắng được tất cả thì dù có thắng lớn đến đâu chăng nữa anh cũng vẫn tự coi mình là người thua cuộc. Trong suốt mười hai năm đào vàng vừa qua trên vùng Sông Yukon, Elam Harnish tự coi mình là người thất bại. Thật ra chỉ mới mùa hè trước đây thôi, ở Lạch Da Hươu anh đã đào được hai mươi ngàn đô-la, chưa kể con số tương đương như vậy vẫn còn nằm trong lòng đất. Nhưng anh như anh đã tuyên bố, đó cũng chỉ như gỡ lại tiền đặt cuộc trước mà thôi. Anh đã đặt cuộc cuộc đời mình trong mười hai năm trời, và cái số bốn mươi ngàn đô-la vừa gỡ được đó chẳng đủ để đền bù. Nó chỉ đủ để trả một chầu nhậu và nhảy nhót ở quán Tivoli, vi rút chút đỉnh cho qua mùa đông ở trại thị trấn Vùng Cực và mua lương thực dự trữ cho năm tới là sạch bách. Sau khi điệu vũ xoay tròn chấm dứt, Elam Harnish lại hò hét mời mọi người ra uống rượu. Cứ mỗi ly rượu là một đô-la. Một ounce(4) vàng đổi được mươi sáu đô-la. Trong phòng có ba chục người tất cả đều nhận lời mời uống rượu của Elam Harnish, và cứ sau một bản nhạc họ lại được mời uống. Ðêm nay là đêm của anh, nên anh không cho phép ai trả tiền cho bất kỳ món gì. Thật ra Elam Harnish không phải là một kẻ ưa rượu. Ðối với anh Whisky chẳng có ý nghĩa gì cả. Anh quá mạnh mẽ, quá tràn trề sinh lực; con người anh, trí óc anh hoàn toàn không có tâm sự nặng nề gì để buộc anh phải trở thành con sâu rượu. Anh có thể đi cả năm trời không uống một giọt cà phê rồi đấy. Chỉ có điều là anh thích sống hợp quần, mà ở khu vực sông Yukon cách duy nhất để biểu lộ tính hợp quần của mình là kéo nhau vào quán uống rượu, nên Elam Harnish cũng đành phải làm như vậy. Ngay từ khi anh còn là một thanh niên sống ở các vùng mỏ vàng miền Tây, người ta đã làm như thế, nên bây giờ anh cho đó là cách đúng đắn nhất để thể hiện tính hợp quần của mình. Thật ra ngoài cách đó anh chẳng còn biết cách nào nữa cả. Dù quần áo cũng chẳng có gì khác với những người chung quanh, trông anh vẫn nổi bật hẳn lên. Chân đi giày da hươu mềm có đính hạt theo kiểu thổ dân, quần yếm bình thường, áo khoác may bằng vỏ chăn. Anh đeo găng tay da dài hở ngón trong có lót len, và bên hông lủng lẳng một đai da quàng qua eo và vài theo kiểu dân miền sông Yukon. Ðầu đội nón lông thú, vành nón cuộn lên để hở những dây cột nón lòng thòng. Gương mặt xương xương, hơi dài, má hóp làm lưỡng quyền nhô hẳn lên trông giống gương mặt của thổ dân trong vùng. Người ta lại càng có lên tưởng ấy khi nhìn vào làn da cháy nắng và đôi mắt đen láy tinh tường của anh, mặc dù rõ ràng là cái màu da đồng ấy và đôi mắt ấy chỉ người da trắng mới có. Anh trông già hơn tuổi ba mươi. Thế nhưng nếu anh không có những vết nhăn và cạo râu sạch sẽ thì trông anh không có những vết nhăn và cạo râu sạch sẽ thì trông anh lại rất "trẻ con". Bởi vậy, nếu chỉ căn cứ vào nét mặt mà thôi thì khó có thể nói được tại sao trông anh lại già trước tuổi như vậy. Thực ra cái vẻ già trước tuổi như vậy. Thực ra cái vẻ già trước tuổi ấy toát ra từ toàn bộ con người anh. Từ những điều anh đã phải chu đựng để sinh tồn, và nó vượt quá sức chịu đựng của một con người. Anh đã sống một cuộc đời trần trụi và mã anh liệt, và người ta có thể thấy được phần nào cái cuộc đời ấy âm ỉ trong cặp mắt, vang lên trong giọng nói hoặc như thủ thỉ thốt lên từ đôi môi anh. Mà môi anh thì mỏng, lúc nào cũng mím chặt che khuất hàm răng trắng đều. Tuy nhiên đôi môi trông cũng đỡ khe khắt hơn nhờ ở hai bên mép cong lên làm cho chúng có một vẻ dịu dàng, cũng giống hệt như những nếp nhăn ở hai bên khoé mắt đã làm cho khuôn mặt anh lúc nào trông cũng có vẻ như đang cười cợt. Những nét duyên dáng ấy đã giúp anh thoát được vẻ cay độc, kết quả tất yếu của một đời sống man dã. Mũi anh gầy, cánh mũi nở thanh trông rất hợp với khuôn mặt. Trán anh hẹp nhưng cao và đều đặn. Mái tóc anh cũng giống như tóc thổ dân, bởi vì nó thẳng và đen nhánh, óng ánh cái màu tóc mà chỉ những con người khó mạnh mới có được. - Ánh Sáng Ban Ngày bộ tính đốt sáng cả đêm nay chắc? - McDonald nói rồi cười to giữa những tiếng la ó hò reo của đám người đang nhảy nhót. Olaf Henderson nói thêm: - Mà nó cũng dám làm như thế đấy, Louis nhỉ? Nói có chúa, chắc chắn là nó làm như thế đấy - French Louis đáp - Ðúng là một cậu con trai làm bằng vàng ròng. McDonald nói chen vào: - Rồi khi đến Ngày Ðãi Vàng cuối cùng, lúc Ðức chúa Trời xúc một xẻng cát bỏ vào trong nồi đãi, hẳn là sẽ thấy có cả nó lẫn ở trong ấy đấy. - Nói nghe hay lắm - Olaf Henderson vừa lẩm bẩm vừa nhìn tay chủ sòng bài một cách thán phục… - Ừ, hay thật - French Louis cũng khẳng định - cũng xứng đáng để chúng ta uống mừng một ly, phải không. ... Mời các bạn đón đọc Từ Bỏ Thế Giới Vàng của tác giả Jack London.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ba Chàng Độc Thân - Danielle Steel
Gray, một họa sĩ già; Charlie, một tỉ phú chuyên làm từ thiện và Adam, một luật sư đang nổi như cồn tình cờ quen biết rồi trở thành những người bạn thân thiết. Do bị ám ảnh bởi những chuyện đau buồn trong quá khứ, cả ba đều rất sợ gắn bó lâu dài với phụ nữ, cho nên tuy đã lớn tuổi họ vẫn còn độc thân. Hàng năm, vào tháng 8, họ lại gặp nhau và tận hưởng một kỳ nghỉ tuyệt vời trên chiếc du thuyền Blue Moon của Charlie ở những vùng biển thơ mộng, những thành phố xa hoa, tráng lệ quanh Địa Trung Hải. Cũng thật tình cờ, ba người phụ nữ là Carole, Maggie và Sylvia đã bước vào đời họ, làm cho cuộc sống của họ hoàn toàn thay đổi. Những suy tư, trăn trở, ngờ vực… về tình yêu, hạnh phúc và một mái ấm gia đình đã làm họ rối trí, có lúc lâm vào bế tắc. Nhưng cuối cùng đám mây che phủ cuộc đời cô độc bấy lâu nay của họ đã bị xua tan bởi tình yêu chân thành của Carole, Maggie và Sylvia. Chiếc Blue Moon từ đây sẽ êm đềm lướt trên sóng nước đầy ắp hương tình lứa đôi của “ba chàng độc thân”. *** Thần tượng của hàng triệu độc giả nữ Danielle Steel rất “được lòng" phái đẹp toàn thế giới bởi những câu chuyện đầy tinh tế của bà khi viết về họ với sự thấu hiểu và đầy lòng trắc ẩn. Danielle Steel là một trong những nữ nhà văn thành công nhất và được xếp thứ tư trong danh sách 10 tác giả kiếm tiền giỏi nhất thế giới trong năm 2009-2010 của tạp chí Forbes với hàng trăm triệu USD. Là tác giả của đầu sách góp mặt trong danh sách bán chạy nhất của tờ New York Times trong 390 tuần liên tiếp, tài năng của Danielle Steel đã được công nhận Kỷ lục Guinness vào năm 2008. Ngoài viết tiểu thuyết, Steel còn là tác giả của 10 tập truyện tranh Max and Martha dành cho thiếu nhi và cũng là tác giả của Freddie - 4 cuốn sách về những tình huống khác nhau xảy ra trong cuộc sống thường ngày. Danielle còn cho ra đời cuốn His Bright Light kể về cuộc sống cùng cái chết của chính con trai bà (Nicholas Trainna) và một tập thơ mang tên Love: Poems. Những tác phẩm của nữ nhà văn này luôn nhận được sự đón nhận nồng nhiệt của hàng triệu độc giả, đặc biệt là những độc giả nữ xem bà như thần tượng và háo hức chờ đợi từng cuốn tiểu thuyết của bà. Từ hình ảnh nhân vật Solange xinh đẹp buồn phiền vì hạnh phúc gia đình tan vỡ trong cuốn Những cánh hoa lạc loài (Kaleidoscope) đến hình ảnh một người phụ nữ mạnh mẽ, nghị lực dám vươn lên và chiến thắng nghịch cảnh để tồn tại như nhân vật Annabelle Worthington trong cuốn Người phụ nữ tốt bụng (A Good Woman); hay những suy nghĩ của nhân vật Jessie về tình yêu và niềm hạnh phúc vĩnh cửu trong cuốn Bây giờ và mãi mãi (Now And Forever) đến những nỗi đau xen lẫn vị ngọt của thứ tình yêu chân chính mà nhân vật India phải nếm trải trong cuộc hành trình tìm lại ước mơ và khát vọng sống của chính mình trong cuốn tiểu thuyết Nỗi đắng cay ngọt ngào (Bittersweet),… đều thể hiện ngòi bút tinh tế của Daniel Steel. *** Danielle Steel, tác giả "Bây giờ và mãi mãi" là tiểu thuyết gia của hơn 500 triệu bản sách được tiêu thụ trên toàn thế giới, đem lại cho bà gia tài trị giá hàng trăm triệu USD. Nhưng khi còn nhỏ, Danielle chỉ mong trở thành người dốc lòng phụng sự Chúa. Kế hoạch triển khai một cuộc sống thanh đạm và khổ hạnh của Danielle Steel sụp đổ hoàn toàn khi bà kết hôn vào năm 17 tuổi và bắt đầu viết lách sau đó hai năm. Đến nay, ở tuổi, ở tuổi 60, nhà văn sắp sửa xuất bản cuốn tiểu thuyết thứ 72 có tiêu đề Honor Thyself. Danielle Steel sinh năm 1947 tại New York. Bà là nhà văn có bút lực dồi dào và đặc biệt thành công về mặt thương mại. Tác phẩm của bà thường xuyên xuất hiện trên danh sách best-seller của The New York Times. Những tiểu thuyết của Steel đã được xuất bản và dịch tại Việt Nam, gồm có: Now And Forever (Bây giờ và mãi mãi), The Ring (Chiếc nhẫn tình yêu), Second Chance (Cơ hội thứ hai), Five Days In Paris (5 ngày ở Paris) Ánh Sao Chiều Bóng Hình Hẹn Yêu Lối Về Một Thời Say Đắm Ngôi Sao Lầm Lỗi Annabelle Người Phụ Nữ Tuyệt Vời Những Trái Tim Vàng Ba Chàng Độc Thân Tình Khúc Mùa Thu Tiền Chuộc Mạng Sự Huyền Diệu của Tình Yêu Bẫy Tình Muôn Nẻo Đường Tình Thỏa Niềm Nguyện Ước Sóng Tình Phương Nam Bến Cũ Chị Em Gái Tình Yêu Cuối Cùng Hơn Cả Ước Mơ Người Vợ Người Tình Đến Rồi Bến Đợi Một Chặng Đường Dài Bến Bờ Tình Yêu Tiếng Nói Của Con Tim Nối Lại Tình Xưa Những Cánh Hoa Lạc Loài Nỗi Buồn Số Phận Âm Vang Ngày Cũ Cánh Đại Bàng Đơn Độc Quỷ Ám Tình Hè Rực Lửa Căn Nhà Trên Phố Hi Vọng Người Đàn Ông Tuyệt Vời ... *** Mặt trời chiếu ánh nắng chói chang xuống boong chiếc du thuyền có tên Blue Moon. Chiếc du thuyền này có chiều dài 80m, được thiết kế rất đẹp và có đầy đủ tiện nghi. Trên du thuyền có hồ bơi, bãi đáp trực thăng, sáu phòng dành cho khách tuyệt đẹp và sang trọng; phòng chủ nhân có nơi dùng để chiếu phim. Thủy thủ đoàn gồm 16 người được huấn luyện rất giỏi. Chiếc Blue Moon - và chủ nhân - đã được các tạp chí về du thuyền trên thế giới đăng tải. Charlie Summer Harrington đã mua chiếc du thuyền này từ tay một ông hoàng Saudi cách đây sáu năm. Chiếc du thuyền chàng mua đầu tiên là một thuyền buồm dài 22m, khi mới 22 tuổi. Chiếc du thuyền ấy có tên là Dream. Hai mươi bốn năm sau, chàng vui hưởng cuộc sống trên chiếc du thuyền Blue Moon cho đến giờ. Charlie Harrington năm nay 46 tuổi, chàng nghĩ mình là người may mắn. Cuộc đời chàng dường như thoải mái về nhiều mặt. Năm 21 tuổi, chàng thừa hưởng một gia tài kếch sù, và từ ấy đến nay đã hai mươi lăm năm, chàng quản lý gia tài này với tinh thần trách nhiệm cao. Chàng đã đầu tư tài sản vào các nơi và điều hành cơ sở từ thiện của gia đình một cách hiệu quả. Chàng nghĩ rằng trên đời này hiếm có người sung sướng như mình, nên cố gắng hết sức để nâng cao cuộc sống của những người thiếu may mắn hơn, qua tổ chức từ thiện cũng như qua các lĩnh vực riêng tư. Chàng tin chắc mình có tinh thần trách nhiệm cao, ngay khi còn trẻ, chàng đã biết nghĩ đến người khác. Chàng luôn chăm lo cho đời sống của những thanh thiếu niên bất hạnh mà chàng biết. Cơ sở từ thiện mà chàng đang điều hành đã làm những việc rất ấn tượng về giáo dục, cung cấp thuốc men cho người nghèo, nhất là cho các nước đang phát triển, đồng thời chăm lo bảo vệ các thiếu nhi ở các thành phố cổ khỏi bị hành hạ. Charlie Harrington luôn lặng lẽ trong những công việc từ thiện. Nhưng chàng cũng xác nhận rằng mình đã quá được nuông chiều, và có cuộc sống nhiều khi quá phóng túng. Chàng đã chi hàng triệu đồng mỗi năm để lo cho sức khỏe của mọi người, và cũng chi một số tiền rất lớn để lo cho chính mình. Chàng không lấy vợ, không có con, biết cách hưởng thụ cuộc sống, và khi có dịp thuận tiện, chàng vui chơi với bạn bè. Hàng năm chàng luôn có kế hoạch cho việc vui chơi. Charlie cùng với hai người bạn thân, Adam Weiss và Gray Hawk, đi chơi suốt cả tháng Tám trên chiếc du thuyền của Charlie quanh vùng biển Địa Trung Hải, dừng lại ở bất cứ nơi nào họ muốn. Hp đã đi chơi như thế suốt mười năm qua. Họ luôn mong đợi cuộc hành trình này, nên tìm mọi cách để khỏi lỡ mất chuyến đi. Hàng năm cứ đến mùa nước cao, vào ngày một tháng Tám là Adam và Gray đáp máy bay đến Nice, lên chiếc Blue Moon đi chơi một tháng. Charlie thường ở trên thuyền từ tháng Bảy, thỉnh thoảng đến giữa tháng Chín hay cuối tháng Chín chàng mới trở về New York. Công việc ở cơ sở từ thiện hay các hoạt động tài chính đều được chàng điều hành từ trên du thuyền rất dễ. Nhưng tháng Tám là tháng dành để vui chơi. Và năm nay cũng không khác những năm trước. Chàng ngồi lặng lẽ ăn sáng phía sau boong khi chiếc du thuyền êm ả thả neo ở ngoài hải cảng St. Tropez. Đêm nay họ đã đi chơi khuya và về đến thuyền lúc bốn giờ sáng. Mặc dù đêm qua thức khuya, sáng nay Charlie vẫn dậy sớm, chuyện vui chơi chàng chỉ nhớ lờ mờ. Khi nào cuộc vui cũng có Gray và Adam tham dự. Trông ba người ai cũng thấy sợ, nhưng họ vui chơi vô hại. Họ khỏi bị ai dòm ngó vì ba người không ai có vợ và hiện cũng không có bạn gái. Họ đã thỏa thuận với nhau từ lâu rằng, dù hoàn cảnh của họ thế nào, họ cũng chỉ được lên tàu một mình, sống một tháng như dân độc thân, chỉ có đàn ông với nhau, sống xả láng với nhau. Họ không phải xin lỗi ai. Trong thời gian ngoài cái tháng vui chơi này? người nào cũng phải làm việc cật lực. Charlie là một nhà từ thiện, Adam là luật sư, còn Gray là họa sĩ. Charlie luôn mồm nói họ có quyền nghỉ vui chơi một tháng, đáng được hưởng cuộc du lịch hàng năm này. Hai trong ba người tự chọn cuộc sống độc thân. Charlie nhất quyết nói chàng không phải thuộc loại ấy. Chàng tuyên bố rằng tình trạng độc thân của chàng là có lý do, hoàn toàn vì vận đen đã xảy ra cho chàng. Chàng nói chàng muốn lấy vợ, nhưng chưa tìm ra được người vừa ý, mặc dù chàng luôn tìm kiếm. Nhưng chàng vẫn tiếp tục tìm với quyết tâm cao. Trong thời trai trẻ chàng đã đính hôn bốn lần, nhưng gần đây thì không và mỗi lần đều có chuyện không hay xảy ra khiến chàng không làm đám cưới được. Chuyện này khiến cho Charlie rất buồn và hết sức ân hận. Người vợ chưa cưới đầu tiên của Charlie đã ngủ với người bạn thân của chàng ba tuần trước ngày cưới, việc này đã gây ra cú sốc lớn cho đời chàng. Và dĩ nhiên chàng không có cách gì khác hơn là phải từ hôn. Khi ấy chàng đã 30 tuổi. Người vợ chưa cưới thứ hai thì sau khi hứa hôn với chàng đã sang làm việc ở bên Anh. Chàng cần mẫn sang thăm nàng, trong khi nàng vẫn ở lại bên ấy để làm cho tờ Vogue của Anh, không dành thì giờ về thăm chàng. Chàng kiên nhẫn chờ đợi nàng trong căn hộ chàng thuê để có thể cùng nàng chung vui. Hai tháng trước ngày cưới, nàng cho biết nàng muốn có nghề nghiệp, không muốn bỏ việc khi lấy chàng. Đây là việc rất quan trọng với chàng. Chàng muốn nàng phải ở nhà, nuôi con. Chàng không muốn lấy người làm việc, nên hai người chia tay nhau - dĩ nhiên vui vẻ chia tay, nhưng chàng hết sức thất vọng. Khi ấy chàng 32 tuổi, và vẫn muốn tìm cho ra người vợ như mình mơ ước. Một năm sau, chàng tin chắc mình, đã tìm ra người ấy - nàng rất tuyệt vời, bằng lòng bỏ trường y để lấy chàng. Họ cùng sang Nam Phi, trong những chuyến công tác cho cơ sở từ thiện, thăm viếng các trẻ em ở những nước đang phát triển. Họ có những điểm giống nhau, và sau sáu tháng gặp nhau, họ cử hành lễ đính hôn. Mọi việc đều suôn sẻ cho đến khi Charlie nhận ra rằng vị hôn thê của mình không rời khỏi người em gái song sinh, muốn đem theo cô ta mỗi khi họ đi đâu. Nhưng chàng và cô em song sinh của nàng không ưa nhau, mỗi lần gặp nhau, hai người thường cãi nhau rất kịch liệt. Chàng nghĩ rằng họ sẽ tiếp tục không ưa nhau, sẽ cãi cọ nhau mãi, cho nên đành rút lui, và người vợ chưa cưới bằng lòng. Nàng rất thương yêu cô em song sinh, nên không thể lấy người khinh bỉ em mình được. Một năm sau đó, nàng lấy người khác và cô em song sinh dọn đến ở chung với họ. Việc này làm cho Charlie thấy rằng việc chia tay cô ta là đúng đắn. Lần đính hôn sau cùng của chàng mới cách đây năm năm cũng đã kết thúc không sáng sủa gì. Nàng yêu Charlie, nhưng sau những lần tâm sự với chàng, nàng cho biết nàng không muốn có con. Dù nàng rất yêu chàng, nhưng vẫn không nhượng bộ chàng về việc này. Chàng tưởng sẽ thuyết phục được nàng, nhưng nàng cương quyết, nên hai người đành biến tình vợ chồng thành tình bạn. Chàng thường như thế. Chàng thườn g giữ tình bạn với những ai không bằng lòng kết hôn với chàng. Cứ đến mùa Giáng sinh là chàng nhận được rất nhiều thiệp chúc mừng do các phụ nữ đã từng thương yêu chàng và sau đó lấy người khác gửi đến. Chàng nhìn vào những tấm hình của họ và gia đình họ, chàng thấy tất cả đều giống nhau. Đấy là những phụ nữ đẹp, tóc vàng, có giáo dục, xuất thân từ những gia đình quý phái, theo học các trường tốt, và lấy những người chồng thích hợp. Trong các tấm thiệp mừng Giáng sinh, họ nhìn chàng cười tươi với những ông chồng có vẻ giàu sang và những đứa con tóc hoe đứng quanh bố mẹ. Chàng vẫn tiếp xúc với những người này, họ yêu mến Charlie và nhớ chàng mãi. ... Mời các bạn đón đọc Ba Chàng Độc Thân của tác giả Danielle Steel.
Con Chó Khoang Chạy Ven Bờ Biển - Chyngyz Torekulovich Aytmatov
Chyngyz Torekulovich Aytmatov (12/12/1928 - 10/6/2008) là một nhà văn người Kyrgyzstan. Ông đã viết các tác phẩm của mình bằng tiếng Nga và cả tiếng Kyrgyzstan, nổi tiếng với những sáng tác văn học về quê hương ông. *** Tác phẩm Truyện núi đồi và thảo nguyên (1963) Jamilya (1958) Cây phong non trùm khăn đỏ (1961) Người thầy đầu tiên (1962) Mắt lạc đà Vĩnh biệt Gyulsary (1966) Con tàu trắng (1970) Lên núi Phú Sĩ (đồng tác giả với Kaltay Mukhamedzhanov) Sếu đầu mùa (1975) Con chó khoang chạy trên bờ biển (1977) Và một ngày dài hơn thế kỷ (1980, sau đổi tên là Буранный полустанок) Đoạn đầu đài (1986) Тавро Кассандры, (1996) Встреча с одним бахаи (trò chuyện với Feyzolla Namdar, 1998) Когда падают горы (2006) Материнское поле (2012) *** Đêm ven biển tối như bưng bão hoà hơi ẩm và khí lạnh bay lang thang, trên suốt vùng duyên hải Ôkhôt, trên toàn mặt trận của biển và đất liền diễn ra cuộc đấu tranh muôn thuở, không gì kiềm chế được giữa hai lực lượng thiên nhiên: đất liền ngăn trở chuyển động của biển, biển tấn công đất liền. Biển ì ầm lồng lộn trong bóng tối, xông tới lao mình vào các mỏm đá, làm tung lên muôn vàn tia nước. Đất rắn như đá rên rỉ, gầm gào đánh bật những đòn dữ dội của biển. Biển và đất cứ quần nhau như thế kể từ thủa khai tịch, từ khi đêm bắt đầu là đêm, ngày bắt đầu là ngày và sẽ còn như thế mãi, ngày ngày và đêm đêm, chừng nào vẫn còn đất và nước trong dòng thời gian vô tận. Ngày ngày và đêm đêm… Lại một đêm nữa trôi qua. Đêm trước hôm ra khơi. Đêm ấy nó không ngủ. Lần đầu tiên trong đời, nó không ngủ, lần đầu tiên trong đời nó biết thế nào là mất ngủ. Nó háo hức mong ngày chóng đến để được băng ra biển. Nằm trên tấm da hải báo, nó cảm thấy đất rung chuyển nhè nhẹ, hầu như khó nhận biết do những đòn va đập của biển và nghe thấy sóng ầm ầm vật vã trong vịnh. Nó không ngủ, lắng nghe đêm tối… Ấy thế mà xưa kia, có một thời thế gian hoàn toàn khác. Bây giờ thật không thể tưởng tượng nổi một cảnh tượng như thế, bây giờ không ai hay biết điều đó, không ai ngờ đâu rằng nếu như thủa xa xưa đó, không có con vịt Luvrơ thì thế giới đã có thể được an bài khác hẳn: đất liền không chống lại nước, và nước không chống lại đất liền. Bởi vì thoạt kỳ thuỷ, thủa ban sơ, trong thiên nhiên không có đất, thậm chí không có lấy một hạt bụi. Bốn bề nước ngập mênh mông, chỉ toàn là nước. Nước từ nước sinh ra, trong cái vòng chu chuyển của mình, trong những vực thẳm đen ngòm, trong những xoáy nước vô lượng. Và sóng cuốn theo sóng, sóng tràn lan về mọi phía trong cái thế giới vô bờ bến lúc bấy giờ: chẳng từ đâu ra và chẳng đi về đâu. Còn con vịt Luvrơ, phải, đúng là thứ vịt trời bình thường, mỏ to bè mà ngày nay ta vẫn còn thấy bay từng đàn trên đầu chúng ta, hồi ấy nó bay lượn trên thế gian, trơ trọi có một mình và không biết đẻ trứng vào đâu. Khắp cõi trần chẳng có cái gì khác ngoài nước, không có lấy một cây sậy để có thể làm tổ. Vịt Luvrơ vừa kêu càng cạc vừa bay lượn, nó sợ nó sẽ không cố được, sẽ đẻ rơi trứng xuống cái vực biển không đáy. Bất kể nhằm hướng nào, bay tới đâu, vịt Luvrơ cũng chỉ thấy sóng vỗ dạt dào dưới cánh, bốn bề là nước cả mênh mông, không bờ không bến, không đầu không cuối. Vịt Luvrơ kiệt lực, thấy rõ rằng khắp thế gian này không có chỗ nào cho nó làm tổ. Thế là vịt Luvrơ đáp xuống nước, vặt lông ngực làm tổ. Chính từ cái tổ trôi nổi ấy mà đất đã bắt đầu hình thành. Dần dần đất lan rộng ra, dần dần mặt đất trở thành nơi cư ngụ của các sinh vật khác nhau. Trong số đó con người vượt hơn tất cả: con người biết dùng bàn trượt đi trên tuyết, biết dùng thuyền đi trên mặt nước. Người bắt đầu săn bắt thú, đánh bắt cá, nhờ đó tự nuôi sống mình và làm cho dòng giống mình sinh sôi nảy nở. Ôi, giá như vịt Luvrơ biết được thế gian sẽ khổ sở như thế nào khi đất rắn xuất hiện giữa vương quốc bao la của nước. Thật thế, từ khi đất xuất hiện, biển không thể yên lòng, biển tấn công đất liền, đất liền chống lại biển. Bị kẹt giữa hai lực lượng đó – giữa đất liền và biển, giữa biển và đất liền, con người lắm khi rất cực. Biển không ưa con người vì con người gắn bó với đất liền nhiều hơn… Sắp sáng rồi. Lại một đêm nữa qua đi, một ngày nữa ra đời. Giống như vành môi hươu trong làn hơi thở mờ mịt màn khói lam, trong bóng tối xám nhạt đang hửng sáng dần dần lộ rõ khoảng tiếp giáp dữ dội của biển và bờ biển. Biển thở phập phồng. Trên suốt khoảng tiếp giáp sục sôi giữa đất liền và biển hơi sương nhẹ bỗng, lạnh giá bốc lên cuồn cuộn, và khắp vùng duyên hải, suốt dọc bờ biển không ngớt dậy lên tiếng xậm xịch dai dẳng của sóng vỗ bờ. Sóng rất mực kiên gan: hết đợt này đến đợt khác, mỗi lúc một mãnh liệt hơn xông lên công phá, chồm lên bãi cát bồi rắn chắc, lạnh lẽo, vọt qua những đống đá chồng chất, trơn nhẫy màu nâu xạm, chồm lên với tất cả sức mạnh và khí thế của chúng, rồi theo nhau tàn lụi đi ở giới hạn tận cùng của mình như một hơi thở ra tụt lịm, để lại một lớp bọt tiêu tan trong khoảnh khắc và mùi ủng rữa của rong rêu bị khuấy đảo. Đôi lúc, sóng ném lên bờ cả những mảnh băng bị cuốn từ đâu tới không rõ theo dòng chuyển vận của đại dương mùa xuân. Những mảnh băng lạc loài bị vứt lên cát lập tức biến thành những mẩu kỳ quặc, bơ vơ của biển đã đông kết. Những đợt sóng tiếp theo nhanh chóng ào đến và lôi chúng trở lại thế giới tự nhiên của chúng. ... Mời các bạn đón đọc Con Chó Khoang Chạy Ven Bờ Biển của tác giả Chyngyz Torekulovich Aytmatov.
Tình Khúc Mùa Thu - Danielle Steel
Thần tượng của hàng triệu độc giả nữ Danielle Steel rất “được lòng" phái đẹp toàn thế giới bởi những câu chuyện đầy tinh tế của bà khi viết về họ với sự thấu hiểu và đầy lòng trắc ẩn. Danielle Steel là một trong những nữ nhà văn thành công nhất và được xếp thứ tư trong danh sách 10 tác giả kiếm tiền giỏi nhất thế giới trong năm 2009-2010 của tạp chí Forbes với hàng trăm triệu USD. Danielle Steel sinh năm 1947 tại New York, sống thời thơ ấu ở Pháp, nơi bà bắt đầu viết thơ và truyện ngắn khi mới lên 9 tuổi. Đến nay, bà đã là tác giả của hơn 113 đầu sách với hơn 800 triệu cuốn được xuất bản, được dịch ra 28 thứ tiếng khác nhau ở tại 47 quốc gia và đã có 22 tác phẩm được chuyển thể thành phim. Là tác giả của đầu sách góp mặt trong danh sách bán chạy nhất của tờ New York Times trong 390 tuần liên tiếp, tài năng của Danielle Steel đã được công nhận Kỷ lục Guinness vào năm 2008. Ngoài viết tiểu thuyết, Steel còn là tác giả của 10 tập truyện tranh Max and Martha dành cho thiếu nhi và cũng là tác giả của Freddie - 4 cuốn sách về những tình huống khác nhau xảy ra trong cuộc sống thường ngày. Danielle còn cho ra đời cuốn His Bright Light kể về cuộc sống cùng cái chết của chính con trai bà (Nicholas Trainna) và một tập thơ mang tên Love: Poems. Những tác phẩm của nữ nhà văn này luôn nhận được sự đón nhận nồng nhiệt của hàng triệu độc giả, đặc biệt là những độc giả nữ xem bà như thần tượng và háo hức chờ đợi từng cuốn tiểu thuyết của bà. Là một phụ nữ tài sắc, nhạy cảm, một cây bút nhiệt tâm, giàu cảm xúc nhưng Daniel Steel lại gặp phải một cuộc đời “đầy giông bão”. Trải qua 5 lần kết hôn và làm mẹ của 9 đứa con, thấy được hết những mặt tốt xấu của cuộc sống hôn nhân và gia đình dường như khiến nhà văn thấu hiểu và mang nhiều lòng trắc ẩn hơn đối với cuộc đời của những người phụ nữ. Từ hình ảnh nhân vật Solange xinh đẹp buồn phiền vì hạnh phúc gia đình tan vỡ trong cuốn Những cánh hoa lạc loài (Kaleidoscope) đến hình ảnh một người phụ nữ mạnh mẽ, nghị lực dám vươn lên và chiến thắng nghịch cảnh để tồn tại như nhân vật Annabelle Worthington trong cuốn Người phụ nữ tốt bụng (A Good Woman); hay những suy nghĩ của nhân vật Jessie về tình yêu và niềm hạnh phúc vĩnh cửu trong cuốn Bây giờ và mãi mãi (Now And Forever) đến những nỗi đau xen lẫn vị ngọt của thứ tình yêu chân chính mà nhân vật India phải nếm trải trong cuộc hành trình tìm lại ước mơ và khát vọng sống của chính mình trong cuốn tiểu thuyết Nỗi đắng cay ngọt ngào (Bittersweet),… đều thể hiện ngòi bút tinh tế của Daniel Steel. Danielle Steel viết nhiều về phụ nữ. Bà viết về niềm vui hay nỗi đau, khát vọng hay tuyệt vọng, tất cả đều mãnh liệt và ám ảnh. Những người phụ nữ trong trang sách của bà thường ở trong tình huống éo le của cuộc sống, nhưng họ đều mạnh mẽ vươn lên và chiến thắng số phận. Nói về người phụ nữ lý tưởng, nữ nhà văn quan niệm rằng: “Cuộc sống là một trò chơi mở, mọi thứ đều có thể xảy ra. Đừng bao giờ chắc chắn điều gì đó về bạn hay bất kỳ ai khác. Hiểu và tin điều quý giá đối với trái tim bạn và nỗ lực để bảo vệ nó. Hạnh phúc không phải là vĩnh viễn. Có thể có những thời điểm khó khăn, nhưng đừng bao giờ để bạn bị những khó khăn của cuộc đời cuốn trôi đi.” *** Danielle Steel, tác giả "Bây giờ và mãi mãi" là tiểu thuyết gia của hơn 500 triệu bản sách được tiêu thụ trên toàn thế giới, đem lại cho bà gia tài trị giá hàng trăm triệu USD. Nhưng khi còn nhỏ, Danielle chỉ mong trở thành người dốc lòng phụng sự Chúa. Kế hoạch triển khai một cuộc sống thanh đạm và khổ hạnh của Danielle Steel sụp đổ hoàn toàn khi bà kết hôn vào năm 17 tuổi và bắt đầu viết lách sau đó hai năm. Đến nay, ở tuổi, ở tuổi 60, nhà văn sắp sửa xuất bản cuốn tiểu thuyết thứ 72 có tiêu đề Honor Thyself. Danielle Steel sinh năm 1947 tại New York. Bà là nhà văn có bút lực dồi dào và đặc biệt thành công về mặt thương mại. Tác phẩm của bà thường xuyên xuất hiện trên danh sách best-seller của The New York Times. Những tiểu thuyết của Steel đã được xuất bản và dịch tại Việt Nam, gồm có: Now And Forever (Bây giờ và mãi mãi), The Ring (Chiếc nhẫn tình yêu), Second Chance (Cơ hội thứ hai), Five Days In Paris (5 ngày ở Paris) Ánh Sao Chiều Bóng Hình Hẹn Yêu Lối Về Một Thời Say Đắm Ngôi Sao Lầm Lỗi Annabelle Người Phụ Nữ Tuyệt Vời Những Trái Tim Vàng Ba Chàng Độc Thân Tình Khúc Mùa Thu Tiền Chuộc Mạng Sự Huyền Diệu của Tình Yêu Bẫy Tình Muôn Nẻo Đường Tình Thỏa Niềm Nguyện Ước Sóng Tình Phương Nam Bến Cũ Chị Em Gái Tình Yêu Cuối Cùng Hơn Cả Ước Mơ Người Vợ Người Tình Đến Rồi Bến Đợi Một Chặng Đường Dài Bến Bờ Tình Yêu Tiếng Nói Của Con Tim Nối Lại Tình Xưa Những Cánh Hoa Lạc Loài Nỗi Buồn Số Phận Âm Vang Ngày Cũ Cánh Đại Bàng Đơn Độc Quỷ Ám Tình Hè Rực Lửa Căn Nhà Trên Phố Hi Vọng Người Đàn Ông Tuyệt Vời ... *** Phòng triển lãm hội họa Suvery ở Paris được thiết lập trong một tòa nhà rất ấn tượng, một Hotel Particulier lịch sự của thế kỷ 18 tại khu Fauourg St. Honoré. Chỉ những nhà sưu tầm danh tiếng mới được mời đến đây. Họ đi qua bộ cửa bằng đồng khổng lồ để vào sân trong. Ngay trước sân là phòng triển lãm chính, phía bên trái là phòng làm việc của Simon de Suvery, chủ nhân của ngôi nhà. Và cánh nhà bên trái là phần con gái ông ta phụ thêm vào buổi triển lãm, ở đây trưng bày các sản phẩm đương đại. Phía sau nhà là một khu vườn đẹp rộng lớn có đầy những tác phẩm điêu khắc, chủ yếu là của Rodin. Simon de Suvery ở đây đã hơn 40 năm. Bố ông, cụ Antoine, là một trong những nhà suy tầm hội họa danh tiếng nhất châu Âu, và Simon là nhà nghiên cứu hội họa thời Phục hưng về các kiệt tác của nước Hà Lan trước khi ông khai trương phòng triển lãm này. Bây giờ ông được các viện bảo tàng khắp châu Âu hỏi ý kiến, được các nhà sư tầm tư nhân kính nể, và được hết thảy những người biết ông ngưỡng mộ, mặc dù họ thường sợ ông. Simon de Suvery có vóc dáng oai vệ, thân hình lực lưỡng, nét mặt nghiêm nghị, cặp mắt đen nhìn thấu tâm can người khác, Simon lấy vợ muộn, vì trong thời thanh niên ông mãi miết lo gầy dựng sự nghiệp, không có thời giờ dành cho những chuyện yêu đương. Đến năm 40 ông mới lấy con gái một nhà sưu tầm hội họa danh tiếng. Cuộc hôn nhân của ông thật hạnh phúc. Marjorie de Suvery vợ ông không bao giờ tham gia trực tiếp vào công việc của phòng triển lãm, phòng này được thiết lập trước khi Simon cưới bà. Bà rất say mê phòng triển lãm, ngưỡng mộ việc trưng bày của ông. Bà yêu ông tha thiết, quan tâm sâu sắc đến bất cứ điều gì ông làm. Marjorie là hoạ sĩ, nhưng bà cảm thấy không yên tâm khi đem triển lãm tác phẩm của mình. Bà vẽ phong cảnh và chân dung rất đẹp, nhưng thường là để tặng bạn bè. Thực ra, Simon thấy tranh bà đẹp nhưng không gây ấn tượng mạnh cho ông. Ông rát gắt gao trong việc đưa tác phẩm nào ra trưng bày. Ý chí của ông rất sắc đá, tinh thần cứng rắn như kim cương, hoàn toàn đặt vấn đề nghệ thuật lên trên hết, dù vậy dưới bộ mặt sắc đá ấy, luôn luôn ẩn giấu một tấm lòng vàng. Hay là Marjorie đã nói thế. Mặc dù không phải mọi người đều tin lời bà. Ông rất tốt với nhân viên, thành thật với khách hàng, và theo đuổi đến cùng bất cứ cái gì mà ông thấy cần có cho phòng triển lãm. Nhiều lúc ông bỏ ra nhiều năm trời để có được một bức tranh hay một tác phẩm điêu khắc có giá trị, nhưng ông không bao giờ ngồi chờ cho đến khi tác phẩm ấy đến tay mình. Ông đã theo đuổi vợ ông như thế cho đến khi ông cưới được bà. Và khi cưới bà, ông xem bà như báu vật – chỉ dành riêng cho ông. Chỉ khi nào ông cảm thấy cần giới thiệu bà với ai, ông mới đưa bà ra, nhất là để làm vui lòng khách hàng ... Mời các bạn đón đọc Tình Khúc Mùa Thu của tác giả Danielle Steel.
Tập Truyện Tình Yêu
Tập truyện tình yêu này gồm có: Ai Mà Chịu Nổi Rigoletta Một Cái Hôn Anh Yêu Cuộc Hẹn Hò Ở Florence Những Vì Sao Ma Thuật Đôi Mắt Lụa Nàng Đi Mất Rồi! Mảnh Thu Trả Thù Lily Khoảnh Khắc Chóng Mặt Người Đàn Bà Cầm Chiếc Dù Chúc Anh Vui Người Chồng Lý Tưởng Emma Sun Kẻ Chia Rẽ Chăm Sóc Chồng Thế Nào? Trong Vườn Tình Yêu Và Môn Lôgic Gạt Bỏ Mối Tình Qua Những Bức Thư Ruđenxơ Nhút Nhát Sau Buổi Chiếu Chiếc Thang Máy Xuống Địa Ngục Cứu Rỗi Thiên Thần Yêu Mơ Ước Tình Yêu Chị Em Đám Cháy Căn Phòng Kín *** Vợ chồng Vacherot đang ăn tối ở phòng ăn trong căn nhà của họ trên phố Vaugirard tại Paris. Ở tuổi 28, Gaston Vacherot là một người đàn ông điển trai: mái tóc và chòm râu màu nâu, cái nhìn nồng cháy, bộ ria thanh mảnh, người cao lớn và tư thế lịch sự. Anh ăn mặc cũng sang trọng. Gaston mau chóng quen với những bộ quần áo thượng hạng từ khi kết hôn với Augustine. Anh đã sống rất thoải mái cả một thời trẻ trung nhờ có tài sản của vợ. Nhưng lúc này, vẻ mặt không vui, anh lấy chiếc đồng hồ bỏ túi ra xem giờ. - Em yêu, anh buộc phải tạm xa em trong nửa tiếng đồng hồ. Anh cần ra ga Orsay đón một khách hàng ở tỉnh lẻ lên. Augustine Vacherot ngạc nhiên: - Một khách hàng! Thế là thế nào? Ông Constat không tự đi đón được sao? Gaston mỉm cười: - Đây là một chứng cớ của lòng tin cậy, em ạ. Anh là thư ký thứ nhất. Anh phải đi thay ông ấy chứ. Augustine thở dài: - Em biết thế, Gaston. Nhưng dù sao… chúng mình bị mất một buổi tối cùng nhau… Sau khi chồng đi, Augustine ngồi thêu cho quên tâm trạng nóng ruột. Thời gian cứ trôi… cô cảm thấy trống trải khi Gaston vắng nhà. Đã 11 giờ! Tiếng chuông cửa xiết bao chờ đợi không thấy reo lên. Cô ra cửa sổ để rình đón xem có chiếc xe nào đang chạy tới không. Nhưng đường phố vắng tanh. Năm phút rồi mười phút, một tiếng đồng hồ rồi hai tiếng nối tiếp nhau trôi qua. Augustine khốn khổ mỗi lúc thêm sợ hãi, thoạt tiên, tự nhủ chắc chồng mình chỉ về trễ thôi. Đến sáng, cô chạy lên đồn cảnh sát… Thanh tra Cournet chăm chú nghe cô kể. Rồi ông nói: - Nếu chồng bà gặp tai nạn, chúng tôi sẽ được thông báo rất nhanh… Và Augustine ngồi đối diện, ông nói tiếp: - Nhưng theo tôi, nhiều khả năng đây là một vụ bỏ nhà ra đi. Một tiếng kêu phẫn nộ đáp lại lời ông: - Gaston của tôi không bao giờ làm một điều như thế! Anh ấy là một người chồng mẫu mực. Thanh tra Cournet tiễn khách ra cửa: - Vai trò của tôi là xem xét tất cả các giả thiết, thưa bà. Tạm thời, tôi muốn nghĩ tới giả thiết nào ít bi thảm nhất. Bà cứ về nhà đi, nếu có tin gì mới, tôi sẽ đến gặp bà… Sự việc mới xảy ra vào buổi chiều. Một người đem tới nộp cảnh sát một chiếc ví anh ta nhặt được trên quãng bờ sông ở gần cầu cạn Auteuil. Trong ví có các giấy tờ của Gaston. Trên đường tới phố Taugirard, thanh tra Cournet cảm thấy bối rối! Ông ít khi đoán nhầm. Ông đã nghĩ ngay Augustine thuộc kiểu người vợ thường bị bỏ rơi. Nhưng bây giờ, ông phải thừa nhận vụ này đã chuyển sang hướng khác. Augustine suy sụp hẳn khi thấy ông thanh tra đem chiếc ví của chồng tới. Sau giây phút tuyệt vọng, cô cố trả lời các câu hỏi của ông. - Thưa bà, hai ông bà có chuyện bất hoà gì không? - Hoàn toàn không. Gaston rất hiền lành và tốt nết. - Bà có nhận thấy ở chồng bà một sự thay đổi tâm trạng gì không, một chút sầu muộn chẳng hạn? Augustine sửng sốt trước câu hỏi ấy. Gaston không thể tự tử. Hôm qua, anh ấy vẫn như mọi khi: vui vẻ, vô tư. Thanh tra Cournet ghi câu trả lời vào sổ, vẻ thản nhiên. Ông cũng không tin là có chuyện tự tử. Khi nhảy xuống nước, ít ai lại bỏ ví ra. Quá lắm, người ta cũng chỉ cởi quần áo. Thêm nữa, còn một điều khác… - Bà nói ông ấy ra ga Orsay đón một khách hàng của bà Constat? - Vâng, thưa ông thanh tra. - Tôi rất lấy làm tiếc, thưa bà, nhưng trước khi tới đây tôi đã cho điều tra và được biết tối qua bà Constat không chờ một khách hàng nào cả. Augustine cảm thấy hụt hơi. Trong một tình trạng giống như chóng mặt, cô lờ mờ thấy một Gaston bí mật mà chưa bao giờ cô lại nghĩ là có tồn tại, bèn kêu lên: - Thế thì anh ấy nói dối tôi! Nhưng tại sao mới được chứ? Ông thanh tra buông một tiếng thở dài: - Đó cũng là điều mà tôi hy vọng sẽ mau chóng biết được. Bà cho phép tôi tìm trong các giấy tờ riêng của chồng bà chứ? Augustine buồn bã gật đầu và dẫn viên thanh tra vào một văn phòng bày biện lộng lẫy. Sau khi nhanh nhẹn xem xét, ông thanh tra lấy ra một bó thư buộc bằng dãy lụa, rồi ông đọc lướt qua các bức thư. - Bà có nghe nói tới một cô Hortense Lemoine nào đó không? Augustine buông phịch người xuống một chiếc ghế: - Không, chưa bao giờ. Đó là… người tình của anh ấy? - Vâng, nhưng bà yên tâm. Những bức thư này được viết từ trước khi bà lấy ông Gaston. Thêm nữa, chính vì ông ấy lấy bà mà ông ấy đã cắt đứt với cô gái. Đôi mắt Augustine như cầu khẩn: - Và ông cho rằng cô gái đó có thể liên quan tới việc Gaston biến mất? Thanh tra Cournet làm một cử chỉ bất lực. - Tôi không biết, thưa bà. Nhưng tất cả mọi hướng đều được chúng tôi theo dõi. Tôi hy vọng chẳng bao lâu sẽ báo cho bà những tin tức tốt lành. Xin bà cho phép tôi giữ bó thư này… Mời các bạn đón đọc Tập Truyện Tình Yêu.