Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Một Gánh Xiếc Qua

Đó là một câu chuyện có thể khiến độc giả đọc xong không nhớ được tên nhân vật. Cũng như, các tiểu thuyết của Patrick Modiano không bao giờ đòi hỏi người đọc quá nhiều, ngược lại, chúng mang lại cả một thế giới huyền hoặc và tinh tế của tuổi trẻ, với nỗi hoang mang, kèm theo đó là lòng can đảm, những nỗi đau, và cả niềm hân hoan tràn ngập. Đến cả nỗi buồn, trong văn chương của Modiano, lúc nào cũng như thể sắp nhẹ nhõm bay đi. Một gánh xiếc qua giống như một chương đặc biệt của bản nhạc dài bao gồm cả Ở quán cà phê của tuổi trẻ lạc lối và Từ thăm thẳm lãng quên. Một bản nhạc đặc biệt da diết, như để nói lên một điều: Dẫu ở độ tuổi nào, bao giờ người ta cũng quá trẻ khi sống ở Paris. *** Trước khi bắt đầu đọc Một gánh xiếc qua thì mình đã từng xem trước một số bài đánh giá và cảm nhận về tác phẩm này, vì “đọc sách Modiano để trở thành chúa tể” chứng tỏ những cuốn sách này sẽ rất khó nhai. Thật may trí nhớ hạn hẹp của mình đã không phá hỏng trải nghiệm với Một gánh xiếc qua, ngược lại những thông tin mà mình nhớ được từ các bài review đã giúp mình hiểu được một số chi tiết trong truyện, cũng như tự nghiệm thêm một số thứ mà có lẽ phải nhiều ngày sau mình mới nhận ra được. Bài viết này là những cảm nhận đầu tiên của mình nên sẽ còn thiếu sót. Một ngày nào đó mình sẽ viết một bài cảm nhận đầy đủ hơn, chắc vậy. Một gánh xiếc đã qua có một câu chuyện đơn giản đến mức làm người đọc cảm thấy khó hiểu vì sao nó có thể tối giản như thế. Cuốn sách là một bản thuật lại diễn biến một chuyện tình xảy ra trong năm ngày liên tục từ một ngày thứ 5 của tháng 11 năm 1963 ở thành phố Paris. Cực kỳ đơn giản, nhưng cũng cực kỳ khó hiểu. Ta hiểu đơn giản đây là một chuyện tình, nhưng khó hiểu vì sao chuyện tình xảy đến quá nhanh và kết thúc cũng rất nhanh. Ta biết đơn giản đây là mối tình chân thành Obligado và Gisele, nhưng rồi sẽ cảm thấy khó hiểu vì trong những lời nói dối liệu họ có thật sự yêu nhau không. Ta đọc cái kết đơn giản nhưng cũng đầy chóng vánh sau 162 trang giấy, và khi suy ngẫm hồi lâu, một loạt câu hỏi sẽ đổ ra vì cái kết quá đỗi đơn giản như thế. Chúng ta được nghe Obligado kể về mối tình năm ngày của anh với Gisele, một cô gái xinh đẹp với quá khứ bí ẩn và sự chuẩn bị cho cuộc đời mới ở Rome. Nàng sẽ dẫn Obligado và người đọc tới một loạt các câu hỏi về thân phận thực sự của nàng, rồi nàng đưa chúng ta gặp gỡ những con người bí ẩn và một loạt câu hỏi khác. Thoạt tiên, ta sẽ tưởng tác giả đang sử dụng cốt truyện đơn giản kia để che lấp hành trình truy tìm danh tính thật sự của Gisele, nhưng khi tất cả sự thật sắp hiện ra trước mắt, bạn nhận ra dòng chữ kết thúc cho mối tình và cả cuốn sách đã hiện lên trước mắt bạn rồi. Vậy mục đích của tác giả là gì? Patrick Modiano chỉ muốn hé lộ chút thông tin về quá khứ của Gisele, hay tìm cách làm độc giả bàng hoàng và bất ngờ khó tả, hay chỉ đang mượn tay Obligado để kể cho chúng ta nghe một câu chuyện vỏn vẹn 160 trang sách? Chẳng ai biết được ý đồ của tác giả, và có khi chính ông cũng không xác định được ý đồ thật sự của mình là gì. Tác giả bày ra một mê cung với điểm đầu là văn phòng cảnh sát nơi Obligado và Gisele lần đầu gặp nhau, đường đi là năm ngày diễn ra chuyện tình, và điểm cuối ở khách sạn khi cuốn sách kết thúc. Nhiệm vụ của người đọc là băng qua mê cung do Patrick Modiano bày ra kia bằng mọi con đường có trong mê cung. Con đường người đọc đã chọn chính là cách hiểu của họ về cuốn sách, hay chính là cách hiểu về năm ngày diễn ra chuyện tình kia. Năm ngày của Obligado và Gisele về cơ bản là năm ngày của tình yêu, nhưng người đọc chúng ta có thể nhìn ra đó là năm ngày thay đổi trong tâm hồn của hai nhân vật, hoặc năm ngày để Obligado tiếp tục sống ở thành phố anh từng có ý định rời đi, hoặc năm ngày một cô gái điếm như Gisele thực sự được biết hai chữ hạnh phúc. Một gánh xiếc qua hay ở chỗ đó. Sự đơn giản trong cốt truyện là yếu tố để độc giả “phức tạp hoá” mọi thứ theo cách hiểu của họ. Sẽ không có một motif chung để review cuốn sách này, vì mỗi người chúng ta có một con đường riêng để truy tìm ý nghĩa ẩn sâu trong cái mê cung mà Patrick Modiano đã bày ra. Nhưng mê cung của Patrick Modiano thật quá ngắn. Vào cái lúc cao trào và mọi dự định về một cuộc sống mới sắp được thực hiện thì bùm, câu chuyện kết thúc. Câu chuyện diễn ra quá nhanh và kết thúc cũng thật quá nhanh. Những dòng chữ cuối cùng khiến cho độc giả bị ứ nghẹn bởi thứ cảm xúc khó tả và sự ngạc nhiên vô cùng. Mình sẽ không viết dòng chữ đó ở đây vì đây là chi tiết làm bùng nổ cảm xúc nhất, ít nhất với mình là vậy. Mình chỉ dám tiết lộ đây là một kết thúc không có hậu, một bad ending. Gisele đã rời khỏi cuộc tình năm ngày, để lại trong Obligado tới cả chục năm sau những ký ức tươi đẹp và rõ ràng đến nỗi anh có thể kể lại toàn bộ diễn biến và nội tâm của anh như chuyện mới xảy ra ngày hôm qua. Còn với người đọc, ngay cả những người đa cảm nhất cũng không thể rơi được một giọt nước mắt ngay khi họ đọc đến cuối truyện, vì câu chuyện đã kết thúc trước khi họ được chứng kiến một chuyện tình viên mãn. Thật sự quá đột ngột, và ta sẽ liên tục hỏi Patrick Modiano “Ông có nhất thiết phải làm như vậy không?”. Patrick Modiano xây dựng một chuyện tình đẹp đẽ giữa hai con người xa lạ ở Paris, ông để kế hoạch trong sang Rome tiến triển thật thuận lợi, và chỉ một chút nữa thôi, Obligado và Gisele có thể cùng nhau lên đường tiến về cuộc sống mới ở thành Rome lộng lẫy. Và rồi Patrick Modiano bóp vụn nó, chỉ trước lúc khởi hành độ 10 phút. Nhưng đó chính là cái tài kể chuyện của Patrick Modiano. Rất nhiều lần trong cuốn sách này Obligado đã tự hỏi và lo lắng Gisele “sẽ biến mất và để lại tôi với cái xe vô tích sự này”. Tác giả dùng những ý nghĩ và cảm xúc của Obligado để người đọc chúng ta cũng cảm thấy tò mò về thân phận bí ẩn của Gisele, e ngại về những người bạn và khoản tiền kỳ lạ trong một căn nhà cũ, lo lắng mỗi khi nàng biến mất trong một góc phố hay một tòa nhà. Đặc biệt nhất là ông sử dụng Obligado của hàng chục năm sau để kể về mối tình năm ngày. Điều đó có ý nghĩa gì? Vì những lời bộc bạch của Obligado trưởng thành trong lúc xen kẽ với lúc Obligado 18 tuổi cho ta biết rằng Gisele bằng một cách nào đó sẽ rời khỏi cuộc tình và từ bỏ kế hoạch trốn thoát tới Rome, để lại một Obligado có thể “òa khóc nức nở một cách ngu xuẩn” khi có người vô tình hỏi “Thế anh vẫn còn gặp cô gái đấy chứ?”. Patrick Modiano nhá trước cho chúng ta một cái kết không mấy tốt đẹp, ông lại lồng thêm cảm giác nơm nớp và sợ sệt một lúc nào đó Gisele sẽ rời đi mất, và rồi tự hỏi nàng có thật sự yêu Obligado hay không. Để rồi khi chúng ta đọc đến những con chữ cuối cùng của cuốn sách, ta mới biết lý do cặp đôi chia lìa và câu trả lời cho nỗi băn khoăn khi nãy. Thế đấy, chúng ta đã sập vào cái bẫy của Patrick Modiano. Cái bẫy của ông tài tình tới mức người đọc cứ đi thẳng vào nó, và họ sẽ chẳng biết mình đang kẹt trong một cái bẫy nếu cuốn sách của họ nằm phủ bụi sau lần đầu đọc đầu tiên. Tuy thế, đây mới chỉ là bề nổi của Một gánh xiếc qua. Một gánh xiếc qua là một mê cung được tạo bởi kiến trúc xư tài ba Patrick Modiano. Ông tạo dựng một cốt truyện đơn giản đến khó tin bằng những con chữ đen cỡ 14, để khỏa lấp hàng tầng ý nghĩa ẩn sau cuộc tình ngắn ngủi kia. Đó là mối quan hệ giữa quá khứ, hiện tại và tương lai; là lý do để Obligado ở lại Paris thay vì trốn tránh quá khứ như cha mẹ; là cái tên thực sự của Obligado và Gisele. Nếu mình còn viết tiếp thì đây sẽ là một bài phân tích chứ không phải là một bài review nữa. Bề sâu của tác phẩm, tốt hơn hết các bạn hãy nên tự khám phá để tìm ra ý nghĩa thực sự mà tác phẩm dành cho bạn. Vả lại, tự tay cầm lên cuốn truyện và thưởng thức nó đến trang cuối cùng mà không biết trước điều gì đang chờ đợi vẫn là cách cảm thụ hay hơn cả. Bài review này chỉ đóng vai trò giúp các bạn xác định được phương hướng khi bước vào mê cung của Patrick Modiano, để các bạn không bị mắc vào cái bẫy vô hình ông đặt ra trước mắt. Và mình tin rằng, sau khi đọc hết 160 trang giấy kia, các bạn sẽ tự mình tìm được ý nghĩa riêng của tác phẩm với bản thân mình mà không phải theo một khuôn mẫu nào. Vì đó là cái tài của Patrick Modiano: tạo ra một cuốn sách giản đơn để độc giả tự bồi đắp cho chính cuốn sách bằng những suy nghĩ của họ. Đánh giá: 10/10. Tuyệt phẩm của nền văn học hiện đại. *** Cái tên ấy vô cùng lạ lẫm với đại đa số độc giả ngoài biên giới nước Pháp. Năm ấy, người ta hướng về Svetlana Alexievich, đợi cái tên Murakami Haruki được xướng lên, nhiều hơn là một nhà văn “ít tên tuổi”. Cứ như thể từ thinh không, Modiano xuất hiện, và ngay giây phút “ra đời” ấy, ông đã sừng sững bước lên bậc đá chỉ dành cho những người vĩ đại nhất. Tờ Telegraph trong một bài viết về ông thậm chí đã giật tít thế này: “Patrick Modiano - Chủ nhân giải Nobel Văn học, mà chúng ta chưa ai từng đọc tới”. Dĩ nhiên, đó chỉ là cách nói phóng đại mà nhà báo vui tính người Anh nào đã tạo nên. Nhưng quả thực, trước cái ngày định mệnh ấy, nhà văn của kinh đô ánh sáng Paris hầu như không để lại chút tiếng tăm nào vượt qua mảnh đất mình sinh ra. Ngay cả trong nước Pháp, ông cũng sống như một ẩn sĩ của làng văn, chẳng màng danh lợi, trốn tránh truyền thông. Dẫu vậy, không ai phải tranh cãi nhau về giải thưởng này, khác với những giải Nobel được trao cho Elfriede Jelinek hay Mạc Ngôn - những nhà văn nổi tiếng hơn ông rất nhiều. Văn chương của ông ngay lập tức được chú ý sau đó, và dĩ nhiên, dễ dàng hạ gục mọi người đọc còn đương nghi ngờ. Dù hiểu thế giới của ông hay không, dù yêu thích không khí Paris trong văn ông hay không thì tất cả đều đồng ý một điều, rằng: Ông xứng đáng là một cây bút ăn giải Nobel. Không cần phải được rọi sáng dưới ánh đa sắc lộng lẫy, bản thân những trang văn giản dị và ngắn ngọn của Modiano đã tiềm tàng sức hút ghê gớm đầy lạ kì. Những tác phẩm của ông là bài ca của nỗi buồn da diết, của những ẩn ức quá khứ bất tử, của những băn khoăn mông lung về bản thể thực sự của một con người. Khi lạc vào văn chương Modiano, ta sẽ bị cái khoảng không nhẹ bẫng, mơ hồ, tinh tế với những nhân dạng nhờ nhợ mắc kẹt trong những tình huống kì lạ - mà người ta gọi là Modianesque, cuốn lấy. Và khi ta gập trang sách cuối cùng và ngơ ngẩn ngước về thinh không, sẽ chỉ còn nỗi buồn ngân vang dừng lại trong tâm trí. Di sản của ông để lại phần lớn là những tác phẩm chỉ dài hai trăm trang sách trở lại. Thoạt đầu, ta ngỡ rằng rất nhiều cuốn giống nhau, là sự lặp lại nhau. Những suy nghĩ ấy thực ngây thơ, bởi văn của ông nói nhiều hơn độ dài của nó, những câu chuyện của ông đan xen lấy nhau, nhưng không hòa tan vào nhau mà mỗi câu chuyện là một mảnh ghép tạo nên vương quốc của kí ức. Giống như trò chơi Trí Uẩn, với bảy mảnh ghép mà thôi, ta có thể dệt nên cả thế giới. Trong ấy, có một bộ ba “na ná” nhau hơn cả, ba trường đoạn của một bản trường ca. Đó là cuốn “Một gánh xiếc qua”, “Từ thăm thẳm lãng quên” và “Ở quán cà phê của tuổi trẻ lạc lối”. Đó là những khúc ca Patrick Modiano dành cho Paris hoa lệ mà ông đã mắc kẹt trong nó như một tù nhân, dành cho những cuộc tình say đắm, và đặc biệt, dành cho những người trẻ đang sống mà chẳng thực sống. Nhưng hãy khoan đi đến hai tác phẩm phía sau, hôm nay, hãy chỉ khám phá và chia sẻ về chương đầu tiên của trường ca ấy: “Một gánh xiếc qua”. Đằng sau cuốn sách, dịch giả Trần Bạch Lan đã tóm lược một điều mà tác phẩm này muốn cất lên: “Dẫu ở độ tuổi nào, bao giờ người ta cũng quá trẻ khi sống ở Paris”. Đọc một cuốn sách không đơn thuần là tiếp nhận ngôn từ ở bề mặt, mà đó là một hoạt động tinh tế hơn thế rất nhiều. Ta phải bóc tách lớp chữ đen trên mặt giấy để giải mã những chi tiết tế vi, mà đôi khi chỉ thấy được khi ta trôi vào những khoảng không phía sau từ ngữ. Thiên chức của một nhà viết tiểu thuyết, chính Patrick Modiano đã nói trong Diễn từ nhận giải của mình: “...trước cái trang giấy trắng mênh mông của lãng quên để làm bật dậy vài lời đã nửa phần bị bôi xóa, như những tảng băng sơn lạc loài trôi dạt trên bề mặt của biển cả”. Ở tảng băng đó, phần nổi có khi chỉ mang vai trò của một chiếc mặt nạ, còn bề sâu, ấy mới là thứ người đọc phải xâm lấn. Nói dài đến vậy, để ta thấy rằng, tác phẩm của Modiano đích thực là một mê cung mà nếu chẳng tỉnh táo, ta sẽ bị cốt truyện đơn giản đến tối giản lừa lọc, bị lạc lối trong khu phố mà chẳng hề nhận ra, ở góc đường, khuất sau cột đèn vàng vọt thờ ơ, chính là lối thoát mong đợi. Và “Một gánh xiếc qua” là minh chứng rõ rệt hơn cả cho quan niệm ấy. Hãy mở trang đầu tiên để đi vào thế giới huyền hoặc bí ẩn của Modiano, trong “Một gánh xiếc qua” - một thiên truyện tình mê hoặc, một nỗ lực lần lại sợi dây kí ức để giải đáp về hiện tại, một khao khát hướng người trẻ đến sự sống cao hơn, một lời khuyên về cách ta đọc một cuốn sách. “Một gánh xiếc qua” ở bề mặt của nó, ắt hẳn là một câu chuyện về tình yêu. Tình yêu của hai người trẻ. Cậu trai mới mười tám, đã bỏ học, nói dối mình đã hăm mốt, bị cha mẹ bỏ rơi và phải sống cùng “cấp dưới” của cha trong một căn hộ sắp biến mất - Obligado. Nàng là một người đẹp bí ẩn như đứng giữa sương khói - Gisèle. Họ tìm thấy nhau tình cờ, trong một buổi chiều Paris, lần lượt bị tra khảo. Obligado là người đầu tiên, bị hỏi về những cái tên khác lạ lẫm, chỉ vì “tên cậu xuất hiện trong sổ agenda của một người”. Kế đến là Gisèle, với một cuộc thẩm vấn dài hơn rất nhiều. Và Obligado quyết định chờ nàng, chẳng vì lý do xác đáng nào. Có lẽ, anh đã mơ màng nhìn thấy tình yêu, qua cái chạm mắt trong khoảnh khắc đó, khi anh rời đi. Chờ nàng, để rồi nàng nhờ anh cầm chiếc va li nặng mà trong ấy anh nghĩ là có vàng. Và để rồi họ ngủ với nhau, trong căn phòng tạm bợ của Obligado. Đời họ cắt nhau lãng xẹt như thế. Chỉ trong năm ngày bên nhau, năm ngày yêu nhau, mà ngỡ là cả một đời người. Họ lên kế hoạch trốn thoát khỏi Paris, để sang Rome kiếm một cuộc đời khác. Và tình thì si. Chàng trai trẻ sẵn sàng bỏ lại tất cả, dù hầu như anh chẳng còn lại gì, để trốn chạy cùng người mình yêu. Trong những ngày ấy, Gisèle đưa anh gặp những người lạ kì, những kiểu người chỉ lướt qua đời ta như cơn gió tạt vào ta rồi vĩnh viễn chìm vào hư không. Nhưng những người ấy đều được bọc trong bầu không khí của sự bí ẩn. Họ gặp Jaques de Baviere, một người đàn ông có lẽ mang một tình cảm đặc biệt với Gisèle, sẵn sàng cho họ mượn chiếc xe ôtô của mình. Họ gặp Ansart, một gã trung niên luôn có chút nuối tiếc hoặc buồn bã mỗi khi nói về tuổi trẻ, nhưng đồng thời cũng là kẻ có hành tung đáng nghi. Rồi Ansart muốn họ chuyển lời tới một người đàn ông vô danh - người sẽ biến mất, cùng với cả Ansart lẫn Jacques, ngay sau đó. Rồi thì Guelin, cái gã đã nói cho Obligado về tên thật của nàng, Suzanne Kraay, về việc nàng từng đi tù, từng cưới chồng và có lẽ, làm điếm ở ngôi nhà số 34 phố Desaix. Nhưng những cái tên ấy thì có nghĩa gì? Họ thi thoảng sẽ quấy rầy Obligado của tuổi bốn mươi. Nhưng chẳng ai làm anh đau đớn như Gisèle (hay là Suzanne nhỉ?). Nhưng chẳng cái tên nào ngoài tên người anh yêu có thể khiến trái tim anh run rẩy, đầu óc anh quay cuồng, và làm bất chợt có cái gì ươn ướt lướt dài dưới hàng mi anh... Ngay sau phi vụ Ansart, ngay trước khi họ rời bỏ Paris sang Rome tươi đẹp, cô mất. “Bạn gái cậu. Tai nạn. Ngay sau cầu Suresnes” - những dòng kết lại cuốn sách, đầy gấp gáp, đầy đau đớn. Như có gì nghẹn lại trong họng ta, ta chỉ có thể thốt lên vài ba từ, về cái chết của người yêu. Obligado như thể đã đoán ra được cái kết tất yếu ấy, ngay sau phi vụ mà anh tưởng chính mình là tòng phạm, mà ngẩn ngơ: “... tôi đã hiểu hết trước cả khi kịp nghe”. Obligado đã cô đơn hầu như cả phần đời tươi trẻ của mình. Cha anh ắt hẳn là một tội phạm từng làm nhọc lòng nhiều thẩm phán, đã sang Thụy Sĩ. Mẹ anh là một nghệ sĩ, đâu đó ở Nam Tây Ban Nha, chẳng rõ sống chết. Họ rời bỏ anh, để anh lại với Grabley, người đàn ông chung thuyền với người cha đầy những bí mật. Có lẽ chỉ đến khi Gisèle giành một chỗ trong đời anh, Obligado mới không sống như một bóng ma. Bóng ma trong một căn phòng rỗng tuếch, của một khu nhà sắp dỡ. Bóng ma trong trường đại học mà anh chẳng hề là sinh viên, dẫu có bằng chứng giả cho việc anh học tại ấy. Bóng ma ở đời khi Obligado luôn thiếu động lực, mơ màng về tương lai và u uất khi nhìn về quá vãng, luôn nghĩ người khác đúng còn mình sai, thiếu bản sắc riêng của một con người. Chỉ đến khi gặp nàng, anh mới có dũng khí và sức sống, để sẵn sàng rủa vào mặt tên Guelin: “...thằng già đê tiện!”, và dám đưa tiền cho gã gác đêm của khách sạn mà trước đó anh còn ngại ngần đối đầu, để có phòng cho cả hai người họ. Thế mà rồi nàng ra đi. Lời hẹn lát gặp của họ mãi mãi ra đi. Chẳng có Rome, chẳng có đời sống nào khác. Chỉ còn ở lại nỗi tiếc nuối. Những người yêu nhau có lẽ sẽ hiểu cảm giác ấy hơn cả. Dẫu cho người yêu không mất đi, nhưng chỉ cần tưởng tượng nên viễn cảnh ta thả tay nàng một lát, ta khuất bóng nhau vài giây là tuột khỏi nhau cả đời, ta đã có thể nức nở. Còn gì đau hơn việc người ta yêu, sẽ biến mất khỏi đời ta, và chỉ còn lại những kí ức có thể chìm vào lãng quên bất cứ lúc nào. Cái nức nở của Obligado ở độ tuổi bốn mươi, khi được một người hỏi về việc có còn gặp lại nàng không, như một vết chích côn trùng, ta cứ ngỡ là chẳng sao, để rồi khi dấu chấm kết chương đến thì nó hóa thân thành viên đạn bạc, xoáy vào vết thương kia một cách thô bạo: “Tôi kinh ngạc trước câu hỏi đến nỗi phải ấp úng một câu trả lời mơ hồ. Khi chỉ còn lại một mình, ngoài đại lộ, tôi đã òa khóc một cách ngu xuẩn”. Nhưng nước mắt của người đàn ông đã đi qua câu chuyên kia hai mươi năm thì có thể làm gì để vực dậy hiện tại? Câu chuyện tình ấy chẳng thỏa mãn bất kì ai. Nó buồn và để ngỏ nhiều điều mãi không được hồi đáp: Nàng thực sự là ai? Có phải nàng làm điếm ở căn nhà số 34 phố Desaix? Có thực là nàng quen Jacques, Ansart, Martine mới ba tuần? Phi vụ đem cho họ một phong bì tiền để tới Rome, thực chất có phải một vụ bắt cóc? Cái chết của nàng có phải một sự sắp đặt, để bịt miệng một nhân chứng cho cuộc bắt cóc kia? Nếu thế thì sao Obligado lại sống sót? Hay nàng tự kết liễu cuộc đời khốn khổ của mình? Ôi, câu chuyện tình của những điều ta chẳng biết. Modiano đâu có nói cho ta hay? Ta chỉ biết họ đã yêu, đã say, đã cuồng nhiệt. Ta chỉ rõ họ đã mơ, rồi giấc mơ đã tan vỡ. Ta chỉ hay tình yêu tuổi trẻ thì luôn đầy hoang mang - như cái cách Obligado luôn sợ nàng sẽ bỏ anh đi, nhưng cũng đầy bản lĩnh. Ta, sau rốt, thấy nỗi đau của tình yêu có thể ám ảnh mình, dẫu có chạy khỏi nó xa đến cả hai mươi năm. Mời các bạn đón đọc Một Gánh Xiếc Qua của tác giả Patrick Modiano & Cao Việt Dũng (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Jude Kẻ Vô Danh
Một câu chuyện đời, cũng là một chuyện tình, rất đỗi đau thương. Jude làm tôi nhớ tới Kiếp người của Somerset Maugham. Nhưng Philip Carey rốt cuộc cũng tìm được hạnh phúc muộn màng, còn Jude cả đời phấn đấu, mà không vẫn hoàn không. Nada y pues Nada. Kính mừng hư vô toàn hư vô. Những nhà phê bình Anh Mỹ nói rất nhiều điều, nhiều khía cạnh về tác phẩm này, nhưng họ bỏ quên một điều: Ý nghĩa của Hư vô bàng bạc mênh mang trong Jude. *** [Review sách hay] Jude – Kẻ Vô Danh: Cơ hồ một tình yêu lý tưởng  ELLE Team Đăng ngày: 19/02/2020 15:00:54 Hiếm có một tình yêu nào vừa trong trẻo, vừa cuồng nhiệt, vừa đẫm bi kịch như mối tình của Jude Fawley và Sue Bridehead, hai nhân vật chính trong cuốn tiểu thuyết cuối cùng, “Jude – Kẻ vô danh” của tiểu thuyết gia kinh điển người Anh Thomas Hardy. Không trái ngang vì gia đình như Romeo và Juliet, không dữ dội đầy hoang dã như Heathcliff và Catherine trong Đồi gió hú, không hề được một chút kết thúc có hậu như Elizabeth và Darcy trong Kiêu hãnh và định kiến, chuyện tình yêu của Jude và Sue, gần chạm đến mức lý tưởng, kể về hạnh phúc thoáng qua trong một chuỗi những khổ đau và dằn vặt của cặp đôi chống lại định chế xã hội thủ cựu và gia trưởng, để rồi bị chính thời đại đè bẹp. Jude, một cậu bé mồ côi cha mẹ, được cô nuôi nấng lớn lên ở làng Marygreen, một làng cổ ở nước Anh thời Victoria. Tình cờ được một người thầy khai sáng về trường Đại học Christminter (mà nguyên mẫu vốn là Đại học Oxford), Jude đã mơ mộng dựng nên mục tiêu của đời mình là trở thành một vị giáo sư. Chính tại nơi mà từ bé đến lớn Jude vẫn luôn tự nhủ là nơi có cây tri thức mọc lên, Jude gặp Sue, cô em họ và tình yêu của đời mình. Dẫu đã bị bà cô can ngăn và gièm pha từ đầu, Jude gần như rơi vào lưới tình với Sue ngay từ cái nhìn đầu tiên. Jude không chỉ bị choáng ngợp bởi vẻ ngoài xinh đẹp của nàng mà còn bị mê mẩn bởi sự độc lập và phóng khoáng của kiểu phụ nữ mới. Sue tự lao động để trang trải chi phí cho mình. Nàng nhạy cảm, bốc đồng, thoát tục. Nàng đòi hỏi và ích kỷ. Và trên hết, Sue với những tư tưởng khai phóng về hôn nhân và tín ngưỡng, như một cơn bão ập tới cuốn phăng tinh thần của Jude. Mối tình tuyệt vọng mà Jude dành cho cô em họ sắc sảo và có phần tàn nhẫn trải qua muôn khúc thăng trầm. Nó hiện ra cực kỳ rõ nét dưới ngòi bút phân tích tâm lý bậc thầy của Hardy, mà đỉnh cao nhất có lẽ ở trường đoạn Jude với tình yêu thầm lặng, buộc phải chấp nhận lời yêu cầu của Sue: Đóng vai người cha của Sue trong hôn lễ để chúc phúc và trao tay nàng cho chồng nàng, chính là người thầy năm xưa đã khai sáng cho Jude về trường đại học, Richard Phillotson. Bền bỉ, tận tụy, không đòi hỏi, lý tưởng hóa người yêu nhưng đồng thời lại chấp nhận mọi mặt tốt xấu của nàng, tha thứ cho mọi lỗi lầm trong quá khứ, là cách mà Jude yêu Sue. Và có lẽ đấy cũng là lý do vì sao mối tình của Jude được so sánh với khái niệm tình yêu thuần khiết. Tình yêu của Jude và Sue tiến đến một bước ngoặt bất ngờ khi Sue nhận ra mình đã sai lầm thế nào khi đồng ý kết hôn, và xin phép chồng từ nay được sống với tình nhân là Jude. Công khai chống lại định kiến xã hội, chống lại mọi ràng buộc và nghĩa vụ về hôn nhân, đạo đức, tôn giáo, Sue muốn sống với tư cách nàng tự chọn, không phải tư cách mà xã hội hay bất cứ ai phân cho nàng. Hardy đã xây dựng một nhân vật nữ mang đầy cảm hứng nữ quyền, nơi người phụ nữ một mình chống lại cả xã hội nam quyền và không chịu bó buộc trong quy ước mà mọi người đều tuân thủ. Tình yêu của họ mạnh mẽ, lý tưởng là vậy, nhưng liệu họ có vượt qua được thực tế xã hội khắc nghiệt với những lời chỉ trích, những lần bị đuổi việc, bị đuổi khỏi nhà cho thuê chỉ vì lối sống quá khác? Sự chuyển mình từ xã hội Victoria đầy những quy tắc lỗi thời về đạo đức sang một xã hội hiện đại phóng khoáng hơn được ghi chép lại đầy tỉ mỉ trong Jude – Kẻ vô danh. Dẫu bị các nhà phê bình tấn công kịch liệt lúc mới ra đời, giờ đây, Jude – Kẻ vô danh luôn nằm trong danh sách các tác phẩm kinh điển bắt buộc phải đọc. Nó bao chứa không chỉ những chủ đề lớn của văn chương Anh thời Victoria mà còn nêu cao hình tượng người phụ nữ mới và phê phán những định kiến bóp nghẹt tình yêu và ước vọng. Nhóm thực hiện   Bài: Zét Nguyễn *** VỀ TÁC GIẢ Thomas Hardy (02/6/1840 - 11/01/1928) - tiểu thuyết gia, nhà thơ và nhà soạn kịch nổi tiếng người Anh - chào đời tại làng Higher Bockhampton, một trong những làng quê xa xôi hẻo lánh nhất của hạt Dorset, nước Anh. Ông là con cả trong số bốn người con của Thomas Hardy, một thợ xây, và Jemima, một thôn nữ có học thức. Ông lớn lên trong một ngôi nhà tranh nằm biệt lập ở rìa một cánh đồng thạch nam. Những trải nghiệm đầu đời của ông về đời sống nông thôn, với nhịp điệu theo mùa và nền văn hóa dân gian truyền khẩu, là nền tảng cho phần lớn các tác phẩm sau này của ông. Ông được mẹ dạy học tại nhà cho tới năm tám tuổi; sau một năm học ở trường làng, ông chuyển tới trường học ở Dorchester, một thị trấn gần đó. Tại đây ông đã tiếp thu được một nền tảng vững chắc về toán học và tiếng La-tinh. Năm 1856, ông trở thành người học việc của John Hicks, một kiến trúc sư địa phương; năm 1862, ông chuyển tới London và trở thành chuyên viên bản vẽ kỹ thuật trong văn phòng của Arthur Blomfield, một kiến trúc sư nổi tiếng. Do sức khỏe kém, năm 1867 ông trở về Dorset, lại làm việc cho Hicks và sau đó cho kiến trúc sư G.R. Crickmay ở thị trấn Weymouth. Dù nghề kiến trúc mang lại cho Hardy sự thăng tiến ở cả hai mặt kinh tế và xã hội, giữa những năm 1860, sự thiếu thốn tài chính và sự sụt giảm niềm tin tôn giáo buộc ông phải từ bỏ khát vọng học đại học và trở thành một linh mục. Ông bắt đầu tập trung vào sáng tác thơ, nhưng do các tác phẩm này bị từ chối xuất bản, ông miễn cưỡng quay sang sáng tác văn xuôi. Trong hai năm 1867-1868, ông viết tiểu thuyết đầu tay Gã nhà nghèo và nàng tiểu thư (The Poor Man and the Lady). Dù được ba nhà xuất bản ở London xem xét với sự cảm thông, tác phẩm này không bao giờ được xuất bản và thất lạc luôn. Sau đó, theo lời khuyên của George Meredith, một người điểm sách của nhà xuất bản, ông viết Các liệu pháp tuyệt vọng (Desperate Remedies - 1871), một tác phẩm chịu ảnh hưởng của dòng tiểu thuyết “cảm giác” của Wilkie Collins. Tuy nhiên, trong tác phẩm tiếp theo, Dưới tán cây xanh (Under the Greenwood Tree - 1872), Hardy đã tìm thấy giọng điệu riêng biệt của chính mình. Tháng 3/1870, Hardy được cử đến để trùng tu ngôi nhà thờ St. Juliot đổ nát ở Cornwall. Ông đã gặp Emma Lavinia Gifford, người trở thành vợ của ông bốn năm sau đó. Bà đã tích cực khuyến khích và hỗ trợ ông trong những nỗ lực văn chương, và cuốn tiểu thuyết kế tiếp của ông, Mắt biếc (A Pair of Blue Eyes - 1873), được viết dựa trên chính những trải nghiệm lãng mạn trong mối tình giữa ông và Emma. Mùa hè năm 1872, Hardy dứt khoát từ bỏ sự nghiệp kiến trúc và toàn tâm theo đuổi văn chương khi tạp chí Tinsley ký kết hợp đồng sử dụng Mắt biếc trong 11 kỳ đăng mỗi tháng. Sau đó, Cornhill, một tạp chí có uy tín hơn nhiều mời ông cung cấp một tác phẩm đăng nhiều kỳ. Kết quả là tác phẩm Xa đám đông điên loạn (Far From the Madding Crowd - 1874) ra đời, giới thiệu cái tên Wessex lần đầu. Và cũng từ đây trở đi, hầu hết các tác phẩm của ông đều có bối cảnh nền là Wessex, vốn là một vương quốc của người Anglo-Saxon ở miền nam đảo Great Britain từ năm 519 cho tới đầu thế kỷ 10, khi vua Æthelstan của người Anglo-Saxon thống nhất nước Anh; với Hardy, địa danh Wessex bao gồm các hạt ở vùng tây nam nước Anh hiện nay. Tháng 9/1874, Hardy kết hôn với Emma Gifford, bất chấp sự phản đối của gia đình cả hai bên. Trong thời gian đầu, họ liên tục di chuyển, khi sống ở London, khi ở Dorset. Trong thời gian này ông viết tiểu thuyết Bàn tay của Ethelberta (The Hand of Ethelberta - 1876); tác phẩm này được đón nhận khá thờ ơ và không phổ biến mấy. Bù lại, tiểu thuyết Trở lại cố hương (The Return of the Native -1878)[1] ngày càng được nhiều người hâm mộ do bối cảnh nổi bật của Egdon Heath, dựa trên vùng hoang địa ảm đạm và khắc nghiệt mà ông từng biết hồi thơ ấu. Cái chết của đột ngột của Emma vào năm 1912 kết thúc hai mươi năm sống chung với nhau trong tình trạng xa lạ, nhưng nó cũng khơi gợi lại những tháng ngày tươi đẹp trong mối tình của họ, và là nguồn cảm hứng để ông hoàn thành một số tác phẩm thơ xuất sắc. Năm 1914, Hardy kết hôn với Florence Emily Dugdale, trẻ hơn ông 38 tuổi. Dù đôi khi người vợ thứ hai này gặp khó khăn, vì Hardy quá nặng lòng với những hoài niệm về người vợ cũ, bà vẫn toàn tâm chăm sóc cho sức khỏe tuổi già của ông cho tới lúc ông qua đời vào tháng 11/1928. Tro cốt của ông được đặt trong “Góc của các nhà thơ” (Poets’ Corner) tại Tu viện Westminster, còn quả tim được chôn cất chung một nấm mộ với Emma tại nghĩa trang giáo xứ Stinsford. Trọn đời văn nghiệp, Thomas Hardy đã sáng tác tổng cộng 14 tiểu thuyết (các tác phẩm nổi bật nhất là Far From the Madding Crowd, The Return of the Native, The Major of Casterbridge, Tess of The d’Urbervilles, và Jude the Obcure), hàng trăm truyện ngắn, hai vở kịch và chín tập thơ. Ông được công nhận rộng rãi là một nhà văn lớn của thế kỷ 19 và nhà thơ lớn của thế kỷ 20. Năm 1910, ông được tặng thưởng Huân chương Công trạng (Order of Merit)[2]. Ngoài ra, ông được vinh hạnh đề cử cho giải Nobel Văn chương nhiều lần (1910 - 1914, 1920, 1923 - 1927). Nhiều tác phẩm của ông được chuyển thể thành phim như Tess of The d’Urbervilles (1913; 1979; 1998, 2008), The Return of the Native (1994), Jude the Obscure (1996), The Mayor of Casterbridge(2000, 2003), Under the Greenwood Tree (2005), Far From the Madding Crowd (2015). Nhiều nhà văn trẻ hơn, bao gồm D. H. Lawrence, John Cowper Powys và Virginia Woolf rất hâm mộ các tác phẩm của ông. Một số nhà soạn nhạc nổi tiếng, bao gồm Gerald Finzi, Benjamin Britten và Gustav Holst đã lấy thơ của ông để phổ nhạc. Holst cũng soạn bản giao hưởng dựa trên chủ đề của tiểu thuyết The Return of the Native nhan đề Egdon Heath; A Homage to Thomas Hardy vào năm 1927.   Mời các bạn đón đọc Jude Kẻ Vô Danh - Thomas Hardy & Nguyễn Thành Nhân (dịch).
Biệt Thự Longbourn
Những nhân vật chính trong Biệt thự Longbourn chỉ hiện diện về mặt tinh thần trong Kiêu hãnh và Định kiến. Họ tồn tại để phục vụ gia đình Bennet. Họ gửi thư và đánh xe ngựa; họ làm việc vặt khi không ai muốn ra khỏi nhà - họ là “những người được ủy thác” để đi lấy những bông hồng đính giày cho buổi dạ hội ở Netherfield dưới cơn mưa rào. Nhưng họ - ít nhất trong tâm trí tôi - cũng là con người.  Biệt thự Longbourn đào sâu vào quá khứ của các nhân vật này, và kéo dài sau cả cái kết hạnh phúc của Kiêu hãnh và Định kiến; nhưng ở những sự kiện trùng lặp trong cả hai cuốn sách, chúng được mô tả chính xác như trong cuốn sách của Jane Austen. Khi một bữa ăn được dọn ra trong Kiêu hãnh và Định kiến, nó đã được chuẩn bị ở gian bếp của Biệt thự Longbourn. Khi những tiểu thư nhà Bennet đến dự vũ hội trong cuốn sách của Austen, họ đã rời cỗ xe ngựa trong cuốn sách này. Tôi chỉ đặt tên cho những nhân vật vô danh - người hầu, người đánh xe, cô hầu gái - và dành vai trò nấu nướng kiêm quản gia cho bà Hill; sự sắp xếp như vậy là khá phổ biến trong những gia đình với quy mô và vị thế như vậy. Nhưng những gì xảy ra ở gian nhà dưới giữa các gia nhân, khi Elizabeth và Darcy còn bận rộn yêu đương trên nhà chính, thì tôi nghĩ hoàn toàn tùy thuộc vào họ. - Jo Baker - *** BIỆT THỰ LONGBOURN (JO BAKER) - NGOẠI TRUYỆN ĐẶC SẮC CỦA "KIÊU HÃNH VÀ ĐỊNH KIẾN" Không ai có thể nói trước được rằng cuộc đời chúng ta, những chọn lựa của chúng ta là sai hay đúng, và sai đúng ấy ở mức độ như thế nào... Nhưng cuộc tình giữa Elizabeth Bennet và Fitzwilliam Darcy trong Kiêu Hãnh và Định Kiến đã thành công, không chỉ nhờ sự vượt qua các rào cản từ phía họ, mà chính còn bởi những xung lực ngầm, những sự trợ giúp, những tác động rất nhỏ theo hiệu ứng cánh bướm, từ những người thân chung quanh. Trong đó, có các gia nhân của Biệt Thự Longbourn. Nhưng đồng thời, một người đọc không phải là độc giả của Jane Austen vẫn có thể đọc Biệt Thự Longbourn mà không cần quan tâm hay biết trước về cốt truyện của Kiêu Hãnh và Định Kiến. Đó chính là điểm độc đáo của một cuốn sách tiếp nối sự sáng tạo và thành công của một kiệt tác trước đó. *** Cuộc đời những nhân vật vô danh trong 'Kiêu hãnh và định kiến. Khi Elizabeth và Darcy trong "Kiêu hãnh và định kiến" đang mải tán tỉnh nhau trên lầu, những người hầu cận cũng đang bận rộn với chuyện tình cảm của riêng họ. Biệt thự Longbourn của tác giả Jo Baker đã đưa ra những góc nhìn khác về các sự kiện trong Kiêu hãnh và định kiến thông qua câu chuyện của hai người hầu vô danh.  Cuốn sách xoay quanh một phần cuộc đời của Sarah - cô hầu gái ở Longbourn, biệt thự của gia đình Bennet. Gia đình Bennet có 5 con gái và họ là nhân vật chính trong tiểu thuyết nổi tiếng Kiêu hãnh và định kiến của Jane Austen. Sarah đem lòng cảm mến chàng người hầu kỳ lạ có tên James. Cuộc tình của họ diễn ra song song với cuộc tình của Elizabeth và Darcy. Tuy nhiên, vì bí ẩn thân thế của James, cuộc tình của hai người hầu gặp nhiều sóng gió hơn. Quá khứ phức tạp của James dẫn anh đến nhiều rắc rối. Khi Wickham, một sĩ quan quân đội, người mà sau này trở thành chồng của Lydia (cô em út nhà Bennet) phát hiện ra quá khứ của James, anh phải lặng lẽ rời đi mà không để lại lời từ biệt cho Sarah.  Cô nàng Sarah, vì tình yêu của đời mình, đã từ bỏ công việc hầu gái cho cô chủ Elizabeth ở biệt thự của Ngài Darcy để bước vào cuộc hành trình đầy gian khổ đi tìm James.  Cuốn sách Biệt thự Longbourn được Jo Baker xuất bản năm 2013, bao gồm đủ cốt truyện của Kiêu hãnh và định kiến để một người dù từng đọc tác phẩm kinh điển này hay chưa đọc, đều không cảm thấy bị lạ lẫm. Thậm chí, một người say mê Jane Austen cũng có thể hài lòng với những gì được miêu tả trong cuốn sách này. Khi được hỏi về ý tưởng viết nên cuốn sách, tác giả Jo Baker đã chia sẻ: "Những nhân vật chính trong Biệt thự Longbourn chỉ hiện diện về mặt tinh thần trong Kiêu hãnh và định kiến. Họ tồn tại để phục vụ gia đình Bennet.  Họ gửi thư và đánh xe ngựa. Họ làm việc vặt khi không ai muốn ra khỏi nhà. Họ là "những người được ủy thác" để đi lấy những bông hồng đính giày cho buổi dạ hội ở Netherfield dưới cơn mưa rào. Nhưng họ - ít nhất trong tâm trí tôi - cũng là con người. Biệt thự Longbourn đào sâu quá khứ của các nhân vật này, và kéo dài sau cả cái kết hạnh phúc của Kiêu hãnh và định kiến. Nhưng ở những sự kiện trùng lặp trong cả hai cuốn sách, chúng được mô tả chính xác như trong cuốn sách của Jane Austen.  Khi một bữa ăn được dọn ra trong Kiêu hãnh và định kiến, nó đã được chuẩn bị ở gian bếp của Biệt thự Longbourn. Khi những tiểu thư nhà Bennet đến dự vũ hội trong cuốn sách của Austen, họ đã rời cỗ xe ngựa trong cuốn sách này.  "Tôi chỉ đặt tên cho những nhân vật vô danh - người hầu, người đánh xe, cô hầu gái - và dành vai trò nấu nướng kiêm quản gia cho bà Hill. Sự sắp xếp như vậy là khá phổ biến trong những gia đình với quy mô và vị thế như vậy. Nhưng những gì xảy ra ở gian nhà dưới giữa các gia nhân, khi Elizabeth và Darcy còn bận rộn yêu đương trên nhà chính, tôi nghĩ hoàn toàn tùy thuộc vào họ", tác giả cho biết. *** Người quản gia… Bà Hill và hai người giúp việc. Quần áo thì chắc chắn phải được giặt trước khi mặc, cũng như không thể ra ngoài đường mà không mặc đồ, ít nhất là ở Hertfordshire này, đặc biệt là vào tháng Chín. Ngày giặt giũ là không thể tránh khỏi, nhưng viễn cảnh gột rửa đống đồ vải của gia đình hằng tuần vẫn khá ảm đạm trong mắt Sarah. Trời vẫn lạnh buốt vào lúc bốn giờ ba mươi sáng, khi cô bắt đầu làm việc. Cần gạt nước bằng sắt lạnh như băng, mặc dù đã đeo găng nhưng những vết nẻ trên tay cô vẫn nhói đau khi cô bơm nước từ dưới lòng giếng tối om lên và đổ vào cái xô để sẵn bên cạnh. Còn cả một ngày dài phía trước, và công việc này mới chỉ là khởi đầu mà thôi. Mọi thứ xung quanh đều tĩnh lặng. Đàn cừu chậm rãi đi thành từng cụm trên sườn đồi; những con chim nấp trong bờ rào xù lông như những nùi bông kế; trong rừng, một con nhím bò qua đám lá vàng tạo nên tiếng kêu sột soạt; dòng suối phản chiếu ánh sáng lấp lánh lên những tảng đá. Dưới kia, trong khu chuồng gia súc, lũ bò đều đặn phả ra những làn hơi trắng mờ, còn ở chuồng bên, cô lợn nái nằm khụt khịt trong lúc đàn con tranh nhau bú mẹ. Bà Hill và chồng bà đang chìm trong giấc ngủ vì kiệt sức trên căn gác xép nhỏ bé; và ở dưới đó hai tầng, trong phòng ngủ chính, ông bà Bennet đang ngáy đều đều dưới tấm chăn thêu. Những tiểu thư trẻ, năm người cả thảy, đều đang ngủ trên giường, mơ về những gì mọi cô gái trẻ vẫn mơ. Và từ trên cao kia, ánh sao lạnh lùng chiếu xuống mái nhà lợp đá, khoảng sân lát đá, căn nhà phụ, bụi dâu và cả khu đất hoang nhỏ bên kia bãi cỏ, xuống bầy gà lôi đang túm tụm với nhau, và xuống Sarah, một trong hai gia nhân ở Longbourn, người đang kéo cần gạt nước, đổ đầy xô và vần nó sang một bên. Lòng bàn tay cô lúc này đã nhức nhối, nhưng cô vẫn kéo một cái xô khác sang để đổ đầy nó. Trên những ngọn đồi phía đông, bầu trời đã chuyển sang màu chàm trong trẻo. Sarah ngước nhìn lên, kẹp hai bàn tay vào nách, vừa thở ra khói vừa mơ về vùng đất hoang dã cuối chân trời kia, nơi mà mặt trời đã lên chiếu sáng rực rỡ, và khi ngày của cô kết thúc, nó vẫn tiếp tục chiếu sáng ở một nơi nào đó khác, như Barbados, Antigua và Jamaica, nơi những người đàn ông da đen cởi trần làm việc; chiếu lên toàn bộ châu Mỹ, nơi những người da đỏ hầu như không mặc quần áo, và do đó có rất ít đồ phải giặt; và một ngày nào đó, cô sẽ đến những vùng đất ấy và không bao giờ phải giặt đồ lót cho người khác nữa. Bởi vì, cô nghĩ trong khi đang móc những xô nước vào hai đầu đòn gánh, cúi xuống đỡ lấy nó rồi loạng choạng đứng thẳng lên, thực sự là không ai đáng phải giặt đống quần áo bẩn của người khác. Các tiểu thư có thể cư xử như những bức tượng thạch cao mịn màng và kín kẽ dưới lớp quần áo lượt là, nhưng khi họ vứt những bộ đồ lấm lem chờ được đem đi giặt xuống sàn phòng ngủ, bản chất yếu đuối, dơ dáy, cộc cằn của họ sẽ bị phơi bày. Có lẽ đó là lý do vì sao họ thường ra lệnh cho cô từ phía sau khung thêu hay khi đang cúi mặt đọc sách; cô là người đã vò sạch những mảng ố do mồ hôi, vết bẩn hay máu đến tháng của họ; cô biết họ không phải là những thiên thần tinh khôi như người ngoài vẫn nghĩ, và vì thế họ không dám nhìn thẳng vào mắt cô. Đống xô nước chao nghiêng khi Sarah loạng choạng đi qua sân; cô vừa bước tới bên cánh cửa phòng giặt thì trượt chân và mất thăng bằng. Khoảnh khắc ấy như được kéo dài, đủ để cô nhìn thấy đống xô nước vụt bay lên và văng ra, tuột khỏi đòn gánh, hất hết nước ra ngoài, khiến những gì cô làm nãy giờ bỗng chốc trở về số không, và cô còn kịp nhận ra khi sắp tiếp đất, cơn đau đang đón chờ cô. Rồi thì những cái xô rơi xuống đất và nảy lên, làm cho những con quạ đậu trên mấy cây dẻ gai giật mình kêu quang quác, còn Sarah thì đập mạnh người xuống nền sân lát đá. Cô đã đánh hơi ra thủ phạm làm cô trượt chân: bãi phân lợn phía dưới. Con lợn nái đã xổng ra ngày hôm qua, cả đàn lợn con đã chạy theo nó và chưa ai kịp dọn dẹp sau đó vì chẳng ai có thời gian. Công việc mỗi ngày đều bị dồn ứ đến ngày hôm sau, và không có việc nào được hoàn thành cả, vì vậy chẳng ai có thể nói câu: “Xem này, công việc hôm nay đã xong hết rồi.” Mọi việc cứ dồn ứ lại, uể oải và ngổn ngang để khiến bạn giẫm lên chúng và trượt chân vào buổi sáng. Sau bữa sáng, bên bếp lửa, Lydia vừa thu hai chân lên xếp bằng, vừa nhâm nhi ly sữa có đường và phàn nàn với bà Hill. “Bà không biết bà may mắn thế nào đâu, bà Hill. Được giấu mình ở nơi ấm áp và đẹp đẽ thế này.” “Đấy là cô nghĩ vậy thôi, cô Lyddie.” “Ồ, tôi nghĩ vậy thật đấy! Bà có thể làm gì tùy thích đúng không, mà không có ai lượn lờ xung quanh và chỉ trích bà. Chúa ơi! Nếu như tôi phải nghe thêm giọng điệu cảnh cáo của Jane một lần nữa - và đấy là tôi mới chỉ thử quậy một chút…” Ở phòng kế bên, cạnh những bậc thang dẫn lên phòng giặt đồ, Sarah đang còng lưng trên tấm ván giặt, vò sạch phần viền áo đã bị ố. Chiếc váy lót ngập sâu ba thước trong bùn mà cô nhặt lên từ sàn phòng ngủ của các cô gái đã được ngâm một đêm trong dung dịch kiềm. Xà phòng không lay chuyển được vết bẩn, nhưng lại gặm nhấm đôi bàn tay giờ đã nẻ và nứt toác của cô, khiến chúng nhức nhối. Sarah vẫn nghĩ, nếu Elizabeth phải tự giặt váy lót của mình, thì chắc chắn cô ấy sẽ cẩn thận hơn khi mặc chúng. Chiếc thùng hấp bốc hơi nghi ngút, một lô quần áo đang được ngâm trong đó, ngay cạnh khung cửa sổ mờ hơi nước trước mặt cô. Sarah cẩn thận bước từ ván giặt cạnh chậu rửa sang ván giặt cạnh nồi hấp, qua sàn đá trơn trượt và xỉn màu. Cô thả bộ váy lót vào thùng nước đang nổi bong bóng, nhấc cái gậy giặt lên và nhấn bộ đồ lót chìm xuống để những bóng khí thoát ra, rồi khuấy đều. Cô đã được dạy - và cô cũng phải tin như thế - rằng những bộ đồ lót cần phải được tẩy cho thật trắng trước khi chúng lại bị vấy bẩn trong lần mặc tiếp theo. Polly đang nhúng ngập khuỷu tay trong bồn rửa lạnh buốt, chà mạnh những cái nơ áo của Ngài Bennet trong nước, sau đó nhấc từng chiếc ra rồi lại nhúng vào nước lạnh lần nữa để giũ sạch chúng. “Ta còn bao nhiêu đồ phải giặt nữa nhỉ, chị Sarah?” Sarah nhìn quanh và ước lượng. Những cái chậu đang ngâm đầy đồ vải, những đống đồ sũng nước ở các công đoạn giặt giũ khác nhau. Ở một số nơi khác, người ta thuê thêm người phụ việc trong ngày giặt giũ. Nhưng ở đây thì không. Tại biệt thự Longbourn, họ luôn tự giặt đồ vải bẩn. “Vẫn còn ga trải giường, vỏ gối, và cả quần áo của chúng ta nữa…” Polly lau tay vào tạp dề và giơ tay lên đếm những đống đồ còn lại, nhưng khi thấy tay mình đã ửng đỏ, cô bé cau mày và xoay bàn tay lại, xem xét chúng như thể chúng rất thú vị và không hề liên quan đến cô. Hẳn là chúng đã tê dại rồi, ít nhất là vào lúc này. “Và còn cả đống khăn ăn nữa.” Sarah nói thêm. Giờ đang là khoảng thời gian khó khăn nhất của mỗi tháng, khi mọi người phụ nữ trong nhà đều trở nên nóng nảy, hậu đậu và dễ khóc hơn, chưa nói tới việc đến tháng. Những chiếc khăn ăn đang được ngâm trong chậu riêng, bốc lên thứ mùi đặc trưng không hề dễ chịu - cửa hàng bán thịt; chúng sẽ được đun sôi cuối cùng, lẫn với đống cặn trong thùng đồng trước khi bị đổ đi. “Chị nghĩ chúng ta còn năm chồng đồ nữa cần giặt.” Sarah thở dài rồi kéo kéo phần đường may dưới ống tay áo. Dưới lớp váy mà cô rất ghét, mồ hôi của cô đang tuôn ra như tắm. Đó là bộ váy vải thô mà bà Hill cho là có màu xanh của nước sông Nile, nhưng theo Sarah, nó có màu dịch mật thì đúng hơn; nhưng màu sắc khó chịu của bộ váy này không phải là vấn đề lớn, bởi sẽ chẳng có ai nhìn ngắm cô trong bộ đồ này cả, vấn đề nằm ở các đường may ấy. Nó vốn được may cho cô Mary, để quấn quanh cánh tay mềm mại, chuyên dùng để thêu thùa hoặc đánh đàn dương cầm. Nó không thoải mái và linh hoạt để phù hợp với những công việc đòi hỏi sức lực, và Sarah chỉ mặc bộ váy này bởi bộ đồ còn lại của cô, bộ bằng vải bông pha len xám xịt đã bị ngâm sũng nước và đang được treo trên dây phơi để chờ mùi phân lợn hôi thối bay đi. “Bỏ lượt tiếp theo vào đi.” Cô nói. “Em khuấy nhé, còn chị sẽ vò.” Như thế sẽ đỡ cho đôi bàn tay nhỏ của em, Sarah nghĩ bụng, mặc dù tay của cô cũng mất hết cảm giác rồi. Cô lùi lại khỏi thùng đồng, bước lên ván giặt cạnh bồn rửa để nhường lối cho Polly đi qua. Rồi cô dùng cái kẹp quần áo để lôi một chiếc nơ áo ra khỏi đống bột hồ và quan sát nước keo nhỏ giọt lại vào trong chậu. Polly vừa khuấy cây gậy trong thùng bằng đồng, vừa bóc da môi bằng phần móng tay đã bị cắt cụt lủn. Mắt cô bé vẫn còn sưng đỏ sau khi bị bà Hill mắng vì đã không dọn sân cẩn thận. Buổi sáng ấy, cô đã phải dậy nhóm lửa, xách nước, rồi thì chuẩn bị cho bữa tối ngày Chủ nhật; và khi mọi người ăn xong thì trời đã tối rồi, ai có thể dọn đống phân lợn dưới ánh sao mờ mịt được chứ? Mà chẳng phải lúc đó cô cũng đang phải ngồi cọ đống xoong chảo đấy thôi? Mười đầu ngón tay của cô đã xước hết sau khi cọ những vết cháy sém. Hơn nữa, nếu nghĩ lại thì chẳng phải đó là lỗi của người đã không khép cửa chuồng cẩn thận, khiến cho con lợn nái chỉ cần huých nhẹ là thoát được ra sân hay sao? Họ cũng không nên đổ lỗi cho Polly đáng thương việc Sarah bị ngã và công việc thì bị đình trệ - cô nhìn quanh rồi hạ giọng thì thầm để ông Hill không nghe thấy - mà nên trách chính ông ta, người chịu trách nhiệm trông coi chuồng lợn. Ông ta mới phải chịu trách nhiệm dọn dẹp sân sau chứ? Nhiệm vụ của ông già lôi thôi đó là gì? Tại sao khi cần thì chẳng thấy mặt ông ta đâu? Chẳng phải họ vẫn cứ càm ràm chuyện cần thêm người phụ giúp đấy thôi? Sarah gật đầu đồng tình và thở dài, mặc dù cô đã không còn lắng nghe nữa rồi. Lúc đồng hồ ở sảnh đánh lên tiếng chuông thứ tư, ông bà Hill đang phục vụ mọi người món ăn nhẹ vào ngày giặt giũ: thịt quay còn thừa từ Chủ nhật; hai cô hầu gái thì đang đứng ngoài bãi cỏ để phơi đồ, những tấm vải ướt vẫn còn bốc khói trong khí chiều mát mẻ. Một trong những vết nẻ của Sarah đã nứt toác và đang chảy mủ, khiến cô phải đưa lên miệng và liếm máu đi để không làm bẩn đồ vải. Cô đứng lặng người mất một giây để cảm nhận rõ cái nóng từ lưỡi mình chạm vào làn da lạnh tái, cái nhức nhối của vết nẻ, vị mặn của máu và hơi ấm của môi; vì vậy cô đã không thấy rõ, và có thể cô đã nhìn nhầm, nhưng trong thoáng chốc, cô nghĩ mình đã thấy thứ gì đó di chuyển trên con đường cắt ngang ngọn đồi đối diện, con đường nối giữa đường vận chuyển gia súc cũ tới London và làng Longbourn, và xa hơn nữa là trạm đóng quân Meryton mới. Mời các bạn đón đọc Biệt Thự Longbourn của tác giả Jo Baker & Phương Anh, Việt Anh (dịch).
Son Môi Trong Bóng Tối
Cô gái tóc vàng trần như nhộng nhảy qua cửa sổ bỏ trốn ấy là ai? Họ tên: Charlotte Malère Tuổi: Ba mươi, theo phong cách tuổi băm phơi phới. Nghề nghiệp: Phê bình điện ảnh Điểm đặc biệt: Là nạn nhân của mọi sự cố khó tin nhất trên đời. Một buổi sáng đẹp trời, Charlotte tỉnh dậy trơ trọi với cánh tay bị còng vào giường tại nhà người tình, đạo diễn nổi tiếng Richard Bouvier. Để trốn khỏi nanh vuốt của cô vợ người tình, nàng phá khóa, nhảy qua cửa sổ xuống phố trong tình trạng khỏa thân rồi chui tọt vào chiếc xe vừa xịch tới. Khi bị phát hiện, nàng vơ đại áo vest của anh chàng lạ mặt rồi biến mất… mà không thể ngờ rằng, năm tiếng sau, họ gặp lại nhau, thậm chí còn song ca cùng nhau trong buổi lễ bế giảng ở một trường tiểu học. Phải chăng dấu hiệu đầu tiên của một câu chuyện tình đang dần hé mở? Lạc quan, cuồng nhiệt và đầy ắp đam mê, mầm mống điên loạn mang tên Charlotte đó ập đến, khiến bạn phải sững sờ, xúc động và trên hết, bạn thấy rằng có lẽ cô nàng rất giống bạn!   Tác giả Sinh năm 1977,  là một nghệ sĩ đa tài. Cô là diễn viên, ca sĩ và nhà văn tài năng. Charlotte tham gia rất nhiều cuộc thi hát và kịch từ nhỏ, và sau này cô theo học diễn xuất tại trường điện ảnh. Cô đạt được thành tựu đáng kể với vai diễn trong các vở kịch của Obaldia, Molière, Camus... Cuộc gặp gỡ với Marion Michau mang tính quyết định tới sự nghiệp của Charlotte Marin. Hai người đã hợp tác trong nhiều dự án âm nhạc cũng như kịch ngắn. Son môi trong bóng tối chính là kết quả tuyệt vời của sự hợp tác đó, đánh dấu bước lấn sân sang văn học của Charlotte Marin. *** Khen tặng của báo chí “Sống động, tươi vui như một bộ phim hài lãng mạn.” - Elle “Một tiểu thuyết đầu tay xuất sắc, là sự pha trộn tài tình của hài hước đến phi lý và lãng mạn tuyệt đối!” - France Soir   ***   Một mớ tóc vàng thò ra khỏi chăn, là tôi: Charlotte Malère. Tôi tỉnh dậy, mỉm cười mãn nguyện như điệu cười trong quảng cáo cà phê Ricoré trên ti vi, vươn vai... Nói cho đúng thì tôi cố vươn vai: có cái gì đó ghìm bàn tay trái của tôi lại... Ơ... cái quái gì thế này? - Richard? Một tay tôi bị còng vào khung sắt rèn đầu giường! Nhớ lại buổi tối hôm qua, tôi bỗng cảm thấy cần một liều giảm đau quá. Tiếng cửa ra vào bật mở. Tôi bật phắt dậy. Tiếng phụ nữ hét lên “Ối giời ơi!” nghe chẳng khác gì trong một bộ phim hài sống sượng của Almodovar. Ối giời ơi? Thôi xong, chết bỏ xù rồi! Tôi luống cuống rút tay ra khỏi còng, không ăn thua. Tôi dùng đầu ngón chân quắp chiếc quần lót rồi oằn mình dùng một tay mặc nó vào như con giun bị xéo. Một phụ nữ thấp tè thò đầu vào phòng và trố mắt ra nhìn. Tôi chỉ kịp định thần tự nhủ trông bà ta chẳng khác gì hạ sĩ Garcia đeo hoa tai thì người đàn bà đã rống tướng lên như một con bò cái Tây Ban Nha. Lẽ ra tôi đã không nên trốn học như vậy. Cố che chắn ngực mình, tôi chỉ cho bà ta thấy cái còng số tám trên tay. - Tôi bị trói... ờ, xin mở cho tôi! Bà không... tưởng tượng được đâu. Đây là một trò đùa! - Một tròi đuồi* ? bà ta ngây ra hỏi lại. Xin chú thích, sau này tôi mới biết, trong tiếng Tây Ban Nha thì “tròi đuồi” có nghĩa là quần lót. - Đúng, đúng, đây là một trò đùa rất buồn cười! Bà có thể tìm tuốc nơ vít để mở cái khóa này được không? Tôi nói mà ngượng chín hết cả người. Bà ta bỏ đi sau khi sập cửa mạnh đến nỗi bung cả quả nắm cửa. Tôi nghe tiếng bà ta lục lọi ngăn tủ. Cầu mong là bà ta không đi tìm hắc in và lông vũ* . Người đàn bà mở cửa, nhưng lõi khóa cứ xoay tròn vô ích. Cơn ác mộng của Freddy* . Tôi trườn xuống sàn, cố rướn người móc lại quả nắm vào cửa. Bà ta bước vào phòng với hộp dụng cụ trên tay! Tôi cầu Chúa phù hộ cho bà ta bằng thứ tiếng Pháp pha tiếng Tây Ban Nha ngon nghẻ nhất của mình trong khi bà ta rút ra chiếc tuốc nơ vít nhỏ xíu rồi bắt đầu chọc ngoáy cái còng. Ngay khi bà ta giải phóng tôi khỏi món đồ kích dục kia, lại có tiếng cửa ra vào bật mở. Một phụ nữ cất tiếng gọi: - Richard à? Bà Rosa ơi? Rosa và tôi nhìn nhau bàng hoàng. Tiếng phụ nữ lại vang lên từ lối vào. Đột nhiên, mọi thứ xảy ra rất nhanh: tôi nhảy phóc lên quấn chân quanh mình như quấn nem trong khi Rosa thu dọn hiện trường. Bà ta nhặt túi xách và đôi giày cao gót của tôi, mở cửa sổ rồi quẳng chúng ra ngoài. Tôi nhảy tưng tưng ra đến lan can cửa sổ rồi ngay lập tức nhảy xuống dưới, ơn Chúa, đây chỉ là tầng hai. Tôi đã thôi không chơi thể thao từ năm 1987, nhưng vẫn nhảy qua được khoảng cách hai mét từ lan can xuống đến vỉa hè. Chiếc chăn mắc vào bản lề cửa sổ. Tôi đứng giữa phố, độc chiếc quần lót trên người, có thể coi là trần như nhộng. Rosa đóng cửa sổ. Tôi chộp lấy túi xách, cố dùng nó để che thân. Một chiếc taxi xẹt qua ngay bên cạnh. Tôi chạy đuổi theo như có tên lửa gắn đằng mông. Nhìn thấy tôi qua gương chiếu hậu, gã lái xe đê tiện vội tăng tốc. Tôi chỉ kịp đập vào cốp xe hắn mà chửi thề, trước khi ngồi thụp xuống nấp vào khoảng trống giữa hai chiếc ô tô. Tốt, tốt, tốt thôi... Vậy đấy, có những ngày địa, ngục mở toang cửa thế này ư? Vậy mà tôi chẳng biết đấy. Dù đang là tháng Sáu, nhiệt độ ngoài trời khá dịu mát. Đầu ngực tôi căng cứng. Thật phiền phức khi phải động não vào lúc này. Chết tiệt, tệ nhất là mình đã đánh mất một bên khuyên tai trong khi hoảng loạn. Bà chị gái sẽ giết mình mất thôi. Chiếc ô tô màu trắng làm bình phong cho tôi phát ra hai tiếng “tít tít”, báo hiệu có người vừa mở cửa từ xa! Theo phản xạ: tôi lao tới vặn tay nắm cửa sau rồi chui tọt vào trong xe. Một anh chàng tóc nâu cao lớn mở cửa chỗ người lái, vứt chiếc túi nhỏ lên ghế bên, cởi áo vest rồi quầng xuống ghế phía sau cạnh tôi. Khi đã yên vị sau tay lái, anh chàng cất giọng đùa cợt: - Cậu đúng là đồ hư hỏng. Tôi tưởng câu nói đó dành cho mình cho tới khi nhận ra anh ta đang đeo tai nghe điện thoại. Anh ta cười. Tôi lẳng lặng khoác chiếc áo vest của anh ta. - Kệ cậu thôi, Franck, tớ có hẹn với anh trai rồi... Không, chiều nay cơ, nhưng trước đó tớ sẽ tạt về nhà gửi chúng cho cậu. Cậu sẽ thấy thôi, hàng nặng đấy. OK... Cảm ơn nhé... Chào cưng. Ấn tượng đấy. Anh ta tắt điện thoại rồi nổ máy. Vào khoảnh khắc tôi mở cửa, ánh mắt chúng tôi giao nhau qua gương chiếu hậu. Anh ta hét lên một tiếng, tôi cũng hét. Tôi nhảy ra khỏi xe rồi nhanh chân tẩu thoát. *** Khi rốt cuộc cũng về được đến cổng vào chung cư, tôi chạm mặt ngay với lão đưa thư, tóc màu hung đỏ với gương mặt méo mó bởi một cái mụn đã lên mủ. Cạnh mũi lão ta mọc một cái mụn bọc to tổ chảng đủ khiến cho toàn thể hội nghị da liễu phải buồn nôn. Tôi kéo vạt áo của mình ra đê’ trông cho có vẻ tự nhiên (cũng là để tôi cảm thấy bớt căng thẳng hơn chút đỉnh). Im ắng quá. Lão ta hí hửng xóa tan bầu không khí im lặng... - Chầu êm bé! Ôi! Chết tiệt... Lão ta biết tôi làm trong ngành điện ảnh, kể từ cái lần tôi dại dột hỏi xem lão có thích phim của Dany Boon không, lão rất thích chêm vào vài từ theo thứ giọng của người miền Bắc. - Trang phục buồn cười quá, nhưng không nên đếnh giá quơ về bên ngoẩy đâu, êm nhỉ! Đúng đấy, chào mừng đến với thế giới mụn* , đồ đần. Tôi thậm chí không thể ép mình cười nổi. Lão ta khiến tôi thấy kiệt sức, nhất là hôm nay. Tôi có một mong muốn cháy bỏng là dúi cái đầu đỏ khè của lão vào hòm thư nhà tôi và, như Lý Tiểu Long, tôi sẽ dộng cửa liên hồi vào gáy lão cho tới khi cổ lão gãy ra thì thôi. - Xem nào, êm bé, ênh nghĩ là có một lá thư xíu xiu cho êm đây. Charlotte Malère... Charlotte Malère... A, đây rồi! Lão đưa tôi bức thư rồi bảo tôi chờ một lát: có một bưu kiện gửi cho tôi để trong xe tải. Giờ tôi chỉ mong biến khỏi đây ngay lập tức, nhưng không được, đó hẳn là món hàng gần đây nhất mà tôi mua vì không tự kiềm chế được: một chiếc đai lưng giảm eo. Cô gái trên ti vi vừa nói về nó vừa rơm rớm nước mắt. Lần này, tôi đã thề là cô ta sẽ không bao giờ làm đống đồ chất trong phòng tôi cao hơn được nữa: nào đai quấn nóng giảm mỡ bụng, nào xúp thảo mộc đóng gói, nào ống giấy hút ẩm để làm tóc xoăn, nào chân nhái đi bơi cho mông săn chắc và mấy thứ đồ linh tinh làm ngực căng chắc như bê tông. Tôi mở lá thư “xíu xiu” của mình ra thì thấy một tấm thiếp mời. Tối mai, tôi được mời đến dự lễ ra mắt bộ phim của người tình yêu dấu nhưng xấu xa của tôi, Richard Bouvier. Một quý ông đã kết hôn với hai đứa con... nói đúng ra là anh ta kết hôn với một người đàn bà. Lão đưa thư quay trở lại, đưa cho tôi bưu kiện và tờ giấy biên nhận. - Mời ký vào đây, êm bé... Cần phải chấm dứt ngay cái màn lố bịch này trước khi tôi xé lão ra thành trăm mảnh rồi gửi đến Valenciennes* qua chuyển phát nhanh. Tôi nhét thiếp mời vào túi áo vest, ký tên, chào lão rồi quay gót bỏ đi. Thật kỳ lạ, từ phía sau lưng, người ta lại càng cảm thấy mình trần trụi hơn. Mời các bạn đón đọc Son Môi Trong Bóng Tối của tác giả Charlotte Marin.