Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Kim Bình Mai (có tranh)

THÔNG TIN EBOOK • Nguồn text: vnthuquan.net • Soát chính tả, thêm chú thích, gắn tranh: Bình An *** VỀ TÊN SÁCH “Kim Bình Mai” được ghép lại từ tên của 3 nhân vật nữ chính: Kim Liên (sen vàng), Bình Nhi (cô Bình/Lọ), Xuân Mai (hoa mai mùa xuân). Bản thân cụm từ “Kim Bình Mai” cũng có nghĩa là “Nhành mai trong lọ vàng”, do đó, bản tiếng Anh của David Tod Roy đã dịch nhan đề là “The plum in the golden vase”. Mặt khác, theo David Tod Roy, nhan đề này cũng là một sự chơi chữ với cụm từ đồng âm có nghĩa là “Khoái cảm thâm nhập âm đạo”. CÁC HỆ VĂN BẢN Theo các nhà nghiên cứu, các văn bản Kim Bình Mai đang được lưu truyền có thể quy thành 3 hệ: • Hệ bản A: bản sớm nhất và gần với tác phẩm gốc nhất. Bản tiếng Anh của David Tod Roy được dịch từ hệ này. Theo dịch giả, ông đã dịch mọi thứ có trong hệ văn bản này. Cũng theo ông, bản dịch đầy đủ đầu tiên từ hệ A sang ngôn ngữ châu Âu là bản tiếng Pháp của André Lévy năm 1985. Các bản dịch trước đó đều từ hệ B hoặc C. • Hệ bản B và C: văn bản đã được sửa chữa, rút gọn; có thể có thêm lời bình. Bản dịch tiếng Việt của Nguyễn Quốc Hùng được dịch từ hệ này. SỰ KHÁC BIỆT GIỮA HỆ A VÀ B,C Cũng như nhiều bạn đọc, ban đầu tôi lầm tưởng bản B-C là bản A cắt bỏ vài chi tiết nhạy cảm, nhưng khi so sánh bản tiếng Anh của David Tod Roy và bản tiếng Việt của Nguyễn Quốc Hùng, tôi thấy nội dung khác nhau rất xa. – Bản lược (B-C) không phải là cắt bỏ vài cảnh, mà là đã được viết lại theo kiểu tóm lược bản A; có những cảnh trong bản A dài vài trang thì trong bản lược chỉ tóm lại vài dòng. – Bản A có rất nhiều thơ và lời hát; bản lược gần như bỏ hết, chỉ giữ lại vài bài. – Trong bản lược, có những chỗ người viết bịa ra những tình tiết mới không có trong bản A. Điển hình như các chương 2, 3, 4 trong bản lược được viết mới hoàn toàn. – Các chi tiết mô tả tính dục ở bản A đều được cắt bỏ hoàn toàn ở bản lược. Do sự khác biệt quá xa này nên không thể căn cứ vào bản lược để đánh giá giá trị văn chương của bản A. *** Trong phiên bản ebook này, tôi căn cứ vào bản dịch tiếng Anh của David Tod Roy (1993) để bổ sung thêm các chú thích so sánh sự khác nhau về chi tiết giữa bản lược và bản A, tuy nhiên cũng không thể truyền tải được không khí và mức độ táo bạo của bản gốc. Hy vọng một ngày gần đây, Việt Nam sẽ có bản dịch đầy đủ của Kim Bình Mai. Chúc các bạn đọc sách vui vẻ. (Chú thích hệ * là của nhà xuất bản, chú thích hệ số [1], [2]... là của người làm ebook.) Người làm ebook 09/2022 *** DỊCH GIẢ Nhà Hán học Nguyễn Quốc Hùng sinh năm 1938 trong một gia đình danh giáo, có thân phụ từng giữ chức Đốc học tỉnh Hải Dương. Năm 1969, khi chỉ mới 31 tuổi, ông đã công bố cùng một lúc bản dịch hai bộ tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc là Hồng Lâu Mộng và Kim Bình Mai. Sau đó, ông tiếp tục cho ra đời nhiều tác phẩm biên khảo và dịch thuật quý giá khác như Trung Quốc toàn sử, Lịch sử Văn hóa Trung Hoa, Lịch sử tiểu thuyết Trung Hoa, Hán Việt tân từ điển… Năm 2003, Nguyễn Quốc Hùng qua đời tại Canada, để lại một số tác phẩm vẫn chưa kịp xuất bản. Bản Việt dịch Kim Bình Mai của Nguyễn Quốc Hùng ra đời ở Sài Gòn từ tháng 8 năm 1969, do Chiêu Dương xuất bản xã phát hành, được in thành 12 tập, mỗi tháng in từ 1 đến 2 tập. Đến đầu năm 1970, sách đã được in trọn bộ với tổng cộng hơn 2.700 trang. *** LỜI GIỚI THIỆU Bạn đọc đang tiếp xúc với bộ tiểu thuyết trường thiên, một pho “kì thư” rất đặc sắc của nền văn học cổ điển Trung Hoa. Đó thực sự là lịch sử cuộc đời đầy tội ác và sinh hoạt gia đình nhơ bẩn của Tây Môn Khánh, một kẻ hãnh tiến xuất thân từ một chủ hiệu sinh dược, nhưng do những mánh khóe bóc lột và hành vi ác bá, kéo bè kéo cánh, thông lưng với quan lại một bước nhảy tót lên địa vị một thổ hào thân sĩ giàu tiền của, đầy quyền thế. Từ cái bàn đạp đó, ngoi lên vin vào quan hệ nghĩa phụ nghĩa tử với Thái Kinh, một viên đại thần hiển hách ở triều đình lúc bấy giờ, Tây Môn Khánh đã trở thành Đề hình Thiên hộ ở bản huyện, tham lam tàn ác, bẻ cong phép nước, ăn tiền hối lộ, hại người lương thiện, và sống cuộc đời dâm ô cực kỳ bỉ ổi. Kim Bình Mai quả đã phơi bày bộ mặt thật của xã hội đương thời qua những trang sách tràn đầy hơi thở hiện thực. Qua mối quan hệ chằng chịt của nhân vật chính Tây Môn Khánh với mọi lớp người trong xã hội, tác giả đã khắc họa chân dung sinh động cùng trạng thái tinh thần muôn vẻ của hàng loạt nhân vật, từ những viên hoạn quan làm mưa làm gió trong cung đình ngay bên nách hoàng đế, đến những tên lưu manh du thủ du thực, những tay dao búa chuyên nghiệp, những tên côn đồ bịp bợm lừa đảo đầy rẫy ngoài phố chợ. Qua những hành vi đê tiện và những mánh khóe tội lỗi của chúng, tác giả đã vẽ lên khá tỉ mỉ mà khái quát một bức tranh xã hội đen tối tàn khốc, trên thực tế đó cũng chính là xã hội mà tác giả đang sống, xã hội phong kiến Trung Quốc thời Minh từ sau Chính Đức đến giữa Vạn Lịch. Nhân vật chính Tây Môn Khánh trước hết là một con quỷ dâm dục hiện hình, một mình y đã có một thê và năm thiếp nhưng còn sẵn sàng cưỡng dâm từ con gái nhà lành đến đàn bà góa bụa, giết chồng đoạt vợ, kể cả vợ bạn, em dâu y cũng không tha. Dâm dục đi đôi với tàn bạo là nét bản chất xuyên suốt cuộc đời y cho đến kết thúc bằng cái chết vì bệnh dâm dục. Bên cạnh Tây Môn Khánh là Phan Kim Liên được xây dựng như một nhân vật điển hình của hạng phụ nữ tà dâm, xảo quyệt. Thông dâm với Tây Môn Khánh, thị đã nhẫn tâm và quỷ quyệt đầu độc chồng là Võ Đại, rồi khi chồng đã ngấm thuốc chết hẳn “hai hàm răng nghiến chặt vào nhau, cắn cả vào môi chảy máu, tai mũi và cả mắt đều ứa máu ròng ròng” thì thị cùng Vương bà “kéo xác Võ Đại ra sau nhà, lau sạch vết máu, đội mũ đi giày cho tử tế, lấy khăn phủ lên mặt cho Võ Đại rồi cả hai cùng ngồi khóc”. Thị lập bàn thờ chồng với bài vị “Vong phu Võ Đại lang chi linh”, nhưng sẵn sàng hú hí với Tây Môn Khánh ngay trước bàn thờ ấy. Xoay quanh các nhân vật chính đó, thôi thì đủ hạng vô lại cặn bã của xã hội: Ứng Bá Tước và Tạ Hi Đại bợ đỡ nịnh hót, Trương Thắng và Lưu Nhị du thủ du thực, thằng quýt con sen Lai Vượng, Thu Cúc, con hát Lưu Quế Thư, kép hề Vương Kinh, cho đến thái giám, môn quan, tăng lữ, ni cô, đạo sĩ, bà mối... tất cả đám người kí sinh trong xã hội đô thị. Trên phương diện xây dựng hình tượng nhân vật cụ thể, tác phẩm đã sáng tạo khá thành công một loạt tính cách điển hình có xương có thịt. Trên tiến trình văn học của dân tộc Trung Hoa, Kim Bình Mai có một vị trí quan trọng. Thời Minh, nhất là từ Gia Tĩnh (1522-l566), xã hội tương đối ổn định, kinh tế có chiều phát triển, xu thế đô thị hóa tăng dần, đã tạo điều kiện cho sự ra đời và phát triển của thể loại văn học mới: trường thiên tiểu thuyết. Song hành với điều kiện xã hội đó là sự tiến bộ của kỹ thuật in khắc. Đến thời Vạn Lịch (1573-1620) đã xuất hiện một cục diện phồn vinh của thể loại này với hàng loạt tác phẩm ngày nay còn được biết. Tiểu thuyết Trung Quốc thời này có thể chia làm bốn loại: Thứ nhất, chiếm số lượng áp đảo là tiểu thuyết lịch sử diễn nghĩa, đại thể phỏng theo Tam quốc chí diễn nghĩa, kể chuyện lịch sử bằng ngôn ngữ thông thường dễ hiểu. Có thể nói, suốt từ Xuân Thu Chiến Quốc đến Minh sơ, tiểu thuyết lịch sử diễn nghĩa thời này đã phủ kín cả chiều dài lịch sử Trung Quốc. Trong đó tiêu biểu nhất là Bắc Tống chí truyện của Hùng Đại Mộc. Nhìn chung loại tiểu thuyết lịch sử diễn nghĩa này miêu tả tính cách nhân vật còn tương đối ít, kết cấu không chặt, tình tiết nhiều lúc thiếu gắn bó, còn câu nệ quá nhiều vào sự thật lịch sử, nghệ thuật còn sơ lược, thường còn nằm trên ranh giới giữa lịch sử với văn học. Thứ hai, là tiểu thuyết phong thần, tiêu biểu nhất là Phong thần diễn nghĩa. Loại này phần nhiều kể lại những chuyện li kỳ hoang đường, thiếu ý nghĩa xã hội sâu sắc. Thứ ba là tiểu thuyết “công án”, nổi tiếng nhất là Hải Cương Phong tiên sinh cư quan công án truyện của Lí Xuân Phương, 71 hồi, mỗi hồi kể một chuyện với nhân vật xuyên suốt là người thẩm án Hải Thụy. Về thể tài có thể xem là tổng tập tiểu thuyết bút kí, tựa như tập truyện vụ án. Thứ tư là tiểu thuyết “thế tình” (tình đời). Loại này lúc đó còn hiếm, ngày nay được biết chỉ có Kim Bình Mai và Ngọc Kiều Lí, nhưng Ngọc Kiều Lí thì đã thất truyền. (Thẩm Đức Phù trong Dã hoạch biên nói ông từng xem Ngọc Kiều Lí). Loại này ngày nay thường được gọi là tiểu thuyết xã hội. Trước Hồng lâu mộng hơn một trăm năm, Kim Bình Mai được coi là tác phẩm mở đường cho tiểu thuyết xã hội Trung Quốc. Từ năm 1940, đề tựa cho Bình ngoại chi ngôn của Diêu Linh Tê, Giang Đông Tễ Nguyệt gọi là “tiểu thuyết của tiểu thuyết”, còn Ngụy Bệnh Hiệp thì so sánh với tác phẩm của Dickens ở Anh, Sêkhov ở Nga, đồng thời cho rằng Thủy hử kể nhiều võ hiệp, Hồng lâu chuyên nói tình yêu, Nho lâm ngoại sử miêu tả tình thái xã hội – nhưng hạn chế trong đám hủ nho, ý nghĩa xã hội đều không rộng lớn bằng Kim Bình Mai. Trong bài Bàn về Hồng lâu mộng, Hà Kì Phương có nhắc đến mối quan hệ giữa Hồng lâu mộng với Kim Bình Mai: Hồng lâu mộng quả là cái bóng soi ngược hình của Kim Bình Mai. Dĩ nhiên Hồng lâu mộng sinh sau nhưng vượt trội nhiều mặt, đặc biệt là ngôn ngữ văn học đạt tới đỉnh cao của tiểu thuyết cổ điển, rõ ràng Kim Bình Mai không sánh được. Ngay cả sau khi Kim Bình Mai bị liệt vào hạng “sách cấm” thì giới văn học vẫn xếp nó vào một trong “tứ đại kì thư” (bốn cuốn sách lớn kì thú) của tiểu thuyết trường thiên Minh Thanh: Tam quốc diễn nghĩa, Thủy hử truyện, Tây du ký và Kim Bình Mai. Tất cả các giáo trình văn học sử ở các trường Đại học Trung Quốc đều giảng Kim Bình Mai và đều công nhận đó là con chim én báo mùa xuân của thể loại truyện dài do cá nhân sáng tác ở Trung Quốc. Lỗ Tấn nói trong Trung Quốc tiểu thuyết sử lược: “Tiểu thuyết (Kim Bình Mai) lấy chuyện Võ Tòng đánh cọp tìm anh trong Thủy hử truyệnlàm ngòi dẫn, mượn danh thời Tống để tả thực thời Minh, phản ánh hiện thực xã hội thời Minh”. Kim Bình Mai đã được dịch ra nhiều thứ tiếng. Bản dịch sớm nhất là bản Mãn văn khắc in năm Khang Hi 47 (1708), không ghi tên dịch giả, dịch theo bản “Trương Phúc Pha đệ nhất kì thư”. Ở phương Tây, sớm nhất là bản dịch hồi thứ nhất của Kim Bình Mai, thực hiện bởi A.P. Bazin: Histoire de Wou Song et de Kim Lien trong Chine moderne (Trung Quốc hiện đại) xuất bản năm 1853. (tiếng Pháp). Năm 1927 có bản tiếng Anh Chin Ping Mei, the adventurous of His Menching ở New York. Năm 1928 có bản tiếng Đức Djin Ping Me của Oto Kibat. Tiếng Hungari, tiếng Thụy Điển, tiếng Phần Lan đều đã có bản dịch. Ở Nhật Bản đã có nhiều bản dịch khác nhau. Bản dịch đầy đủ 100 hồi sớm nhất là của Cương Nam Nhân Kiều in thành 4 tập, hoàn thành đầu thế kỉ này. Năm 1951, có bản dịch của Tiểu Dã Nhẫn và Thiên Điền Cửu Nhất theo nguyên bản Kim Bình Mai từ thoại. Ở Việt Nam lâu nay lưu hành khá rộng rãi bản in của Nhà xuất bản Khoa học xã hội năm 1989 loại trọn bộ 4 tập, in 20.000 bản và loại trọn bộ 8 tập, cũng in 20.000 bản, nội dung hoàn toàn như nhau kể cả lời giới thiệu và ghi chú ở đầu sách: “In theo bản của nhà xuất bản Chiêu Dương – 1969, có đối chiếu bản gốc và tham khảo các bản khác”, song không cho biết tên dịch giả và bản gốc cũng như các bản tham khảo khác là bản nào. Căn cứ vào nội dung truyện và tiêu đề ngắn gọn của từng hồi trong bản dịch, chúng tôi đoán rằng dịch giả đã dùng một nguyên bản thuộc hệ văn bản thứ ba mà chúng tôi sẽ phân tích ở dưới trong phần khảo về văn bản, mà theo nhận định chung của giới nghiên cứu Kim Bình Mai ở Trung Quốc thì hệ văn bản thứ hai mang tên Kim Bình Mai từ thoại mới là văn bản tiêu biểu. Thử so sánh tiêu đề hồi đầu và hồi cuối của hai loại văn bản đó (tạm dịch):   Hệ văn bản 3 Hệ văn bản 2 Hồi 1 Bạn bè kết nghĩa vui thú ăn chơi Đồi Cảnh Dương, Võ Tòng đánh hổ; Phan Kim Liên chê chồng, bán trăng hoa. Hồi 100 Dòng Tây Môn tuyệt tự Hàn Ái Thư đến hồ tìm bố mẹ; Phổ Tĩnh sư tiến bạt quần oan. Có thể thấy hai loại văn bản này khác nhau khá xa. *** Dưới đây, đặc biệt giới thiệu hai vấn đề mà giới nghiên cứu Kim Bình Mai ở Trung Quốc cũng như trên thế giới hết sức quan tâm, hai vấn đề đã gây tranh cãi hàng trăm năm, cùng với những kết quả nghiên cứu mới nhất trong hai thập kỉ qua (sau “cải cách mở cửa”). Một là vấn đề “văn bản Kim Bình Mai”. Bộ tiểu thuyết này đã từng mang nhiều tên gọi khác nhau, số tên gọi không kém gì Thủy hử hay Hồng lâu mộng. Mà sự khác nhau trong tên gọi thường kèm theo sự xê dịch về nội dung. Theo trình tự thời gian có thể sơ lược giới thiệu như sau: Ở thời kỳ chép tay, thì tên gọi rất đơn giản, chỉ gọi là, được ghép từ tên ba nhân vật quan trọng: Phan Kim Liên, Lý Bình Nhi, Bàng Xuân Mai – mỗi tên lấy một chữ đại diện. Sau khi đưa khắc in, có người gọi là Kim Bình Mai truyện thì tên sách đề là Tân khắc Kim Bình Mai từ thoại.Đó là tên gọi ở thời kỳ đầu mới khắc in. Về sau, những người xuất bản thường chụp lên đầu tên sách một số mũ nào đó, thế là thành các tên như Túc bản Kim Bình Mai từ thoại (bản đầy đủ), Hội đồ cổ bản Kim Bình Mai từ thoại (bản cổ có tranh vẽ) v.v... Cuối đời Minh, do chỗ Kim Bình Mai từ thoại có tăng thêm, tỉa bớt hoặc sửa chữa khá nhiều, hoặc có vẽ tranh, bình luận, hình thành một hệ văn bản mới nên tên sách cũng thay đổi theo, gọi là Tân khắc tú tượng phê bình Kim Bình Mai (bản khắc mới có tranh thêu và lời bình) hoặc Tân thuyên tú tượng phê bình nguyên bản Kim Bình Mai (thêm chữ “nguyên bản”). Người ta quen gọi loại này là “bản Sùng Trinh”*. Tú khắc cổ bản bát tài tử từ thoại cũng thuộc loại này. Dưới thời Khang Hi nhà Thanh, Trương Trúc Pha, tức Trương Đạo Thâm, người Bành Thành, rất tán thưởng sách này, mệnh danh nó là Thiên hạ “đệ nhất kì thư”. Lấy Tân khắc tú tượng phê bình Kim Bình Mai làm bản nền, họ Trương đã tiến hành phê bình một cách toàn diện và có hệ thống, đến mức thành một hệ văn bản mới, lưu truyền khá rộng rãi, ảnh hưởng tương đối sâu sắc, đầu quyển thường ghi là Cao Hạc đường phê bình Đệ nhất kì thư Kim Bình Mai và ở trang bìa giả, thôi thì đủ: nào là Đệ nhất kì thư, nào là Đệ nhất kì thư Kim Bình Mai, Đệ nhất kì thư tú tượng Kim Bình Mai, Tú tượng Kim Bình Mai đệ nhất kì thư.Tứ đại kì thư đệ tứ chủng, Tăng đồ tượng túc bản Kim Bình Mai, Tăng đồ tượng Cao Hạc thảo đường kì thư toàn tập, nào là Hội đồ đệ nhất kì thư, Hiệu chính gia phê Đa thê giám toàn tập, Tân thuyên hội đồ Đệ nhất kì thư Chung tình truyện v.v... Thời Gia Khánh (Thanh), trên cơ sở bản nền Kim Bình Mai có lời bình của họ Trương, đã ra đời một bản rút gọn gọi là Tân khắc Kim Bình Mai kì thư. Thời Dân Quốc, có người gia giảm cắt gọt “Kim Bình Mai có lời bình của họ Trương”, xào xáo lại, bôi râu vẽ mặt thêm, cho ra đời cái gọi là “Kim Bình Mai chân chính”, đặt tên là Hội đồ chân bản Kim Bình Mai. Từ đó về sau lại có thêm những là Cổ bản Kim Bình Mai, Tiêu điểm cô bản cổ bản Kim Bình Mai, Cảnh thế kì thư Kim Bình Mai v.v và v.v... Chúng là hàng rởm vỗ ngực tự xưng là “chân” (thật), “cô” (hiếm), cổ (xưa), nhưng là thứ hàng rởm đã thành công trong công cuộc mập mờ đánh lận con đen, và đã từng lưu hành rộng rãi một thời. Cho đến nay tính ra Kim Bình Mai lưu truyền có đến mấy chục bản khác nhau, có thể quy nạp thành ba hệ văn bản: 1 – Hệ văn bản “từ thoại”: Hệ này, Tôn Khải Đệ gọi là Kim Bình Mai từ thoại, học giả Nhật Bản gọi là “bản từ thoại”, học giả Mỹ gọi là “hệ bản A”. Bản sớm nhất của hệ này là bản khắc năm Vạn Lịch 45, cũng là bản sớm nhất trong các truyền bản Kim Bình Mai đã biết. Hệ này nay còn lại tương đối hoàn chỉnh chỉ có ba bộ: một hiện ở Đài Loan (trước lưu giữ ở Thư viện Bắc Kinh), hai bộ ở Nhật Bản. Đặc điểm tương đối nổi bật của hệ văn bản này là ở hai chữ “từ thoại”. Từ thoại vốn là một hình thức nghệ thuật “thuyết xướng” (kết hợp hát với nói lời bạch, xen kẽ văn xuôi với văn vần), hình thức này có từ thời Tống, thịnh hành thời Nguyên – Minh. Kim Bình Mai từ thoạituy mang tên như vậy song không thể coi là “từ thoại” chính cống nữa mà nó rõ ràng là một pho trường thiên tiểu thuyết mang màu sắc “từ thoại” mà thôi. 2 – Hệ văn bản “tú tượng phê cải” (có tranh thêu và có sửa chữa). Hệ văn bản này gồm hai loại nhỏ: loại “bản Sùng Trinh” và loại “bản Trương Bình”. Hệ văn bản này có hai đặc điểm mà các hệ văn bản khác không có: 1 / lời phê lời bình; 2 / tranh thêu. So với hệ văn bản “từ thoại” nói trên, hệ này chặt chẽ, trong sáng, hợp lí thông đạt hơn, văn bản “từ thoại” vì đưa vào quá nhiều thơ ca từ phú không liên quan gì mấy với phát triển của tình tiết nên làm yếu chất tiểu thuyết. a. Loại văn bản Sùng Trinh: bản khắc sớm nhất được coi là khắc dưới thời Sùng Trinh nhà Minh. Hiện còn tám bộ lưu giữ ở tám nơi khác nhau: Thư viện Nước Thư viện Thủ đô (Bắc Kinh) Trung Quốc Thư viện Thượng Hải Thư viện Đại học Bắc Kinh Thư viện Thiên Tân Thư viện Trung ương Đài Loan Nội các văn khố Nhật Bản Trường Đại học Tôkiô Trường Đại học Thiên Lý b. Loại văn bản Trương Bình (khởi đầu từ Trương Trúc Pha như đã nói ở trên). 3 – Hệ văn bản rút gọn: Các văn bản này, nhất là những văn bản mang danh “chân bản”, “cổ bản” phần nhiều là “đồ rởm”, xưa nay không được giới học thuật coi trọng. Sở dĩ như vậy trước hết là do những kẻ làm sách giả đã tùy tiện thêm bớt rất nhiều, đã thế lại dám rêu rao là “chân”, là “cổ”. Loại văn bản này ra đời muộn, đến nay chỉ khoảng bảy tám chục năm, từng có thời gian lưu truyền rộng rãi, cho đến nay vẫn chưa phải đã hết ảnh hưởng. *** Hai là vấn đề “tác giả Kim Bình Mai”. Tác giả Kim Bình Mai là ai? Vấn đề này đã làm đau đầu nhiều nhà nghiên cứu. Bản Kim Bình Mai từ thoại khắc in ở thời Vạn Lịch nhà Minh ghi là Tiếu Tiếu Sinh sinh tác. Tiếu Tiếu Sinh rõ ràng là một bút danh có nghĩa là “chàng cười”, “chàng hay đùa” (“Tiếu” là cười, còn “sinh” là tiếng tự xưng hoặc tiếng gọi người trẻ tuổi). Bài Tựa đầu sách Tiếu Tiếu Sinh từ thoại kí tên Hân Hân Tử, đặt trước tên tác giả một địa danh là Lan Lăng. Lan Lăng là một ấp của nước Sở thời Chiến Quốc, thời Hán đặt thành huyện, thời Tấn kiêm cả quận, thời Tùy bỏ cả quận lẫn huyện, thuộc địa phận huyện Dịch tỉnh Sơn Đông ngày nay. Thời Đường lại đặt huyện, thời Nguyên bỏ. Ngoài ra, thời Tấn có lần gửi huyện Lan Lăng ở huyện Vũ Tiến tỉnh Giang Tô, và đặt thành quận Nam Lan Lăng, đến thời Tùy cũng bỏ. Nhiều người nghĩ rằng Hân Hân Tử, (nghĩa rộng là “ông vui vui”) cũng chỉ là một biến dạng của Tiếu Tiếu Sinh mà thôi. Ngoài Kim Bình Mai ra, tác phẩm của Tiếu Tiếu Sinh chỉ thấy có một bài từ Ngư du xuân thủy bảo tồn được trong tập tranh đời Minh là Hoa doanh cẩm trận (nghĩa là “trại hoa trận gấm”). Từng có người đoán là Triệu Nam Trinh (1551-1627) hoặc Tiết Ứng Kỳ (khoảng 1550-?) nhưng đều không đưa ra được chứng cứ trực tiếp. Giáo sư Chu Tinh sau mấy chục năm chuyên nghiên cứu ở khoa Trung văn trường Đại học sư phạm Thiên Tân, trong cuốn Kim Bình Mai khảo chứng của mình xuất bản tháng 10-1980 cho rằng tác giả Kim Bình Mai là Vương Thế Trinh (1526-1590) đỗ Tiến sĩ dưới triều Gia Tĩnh, làm quan đến Hình bộ Thượng thư, tác giả của Gia Tĩnh dĩ lai thủ phụ truyện, Yêm Châu sơn nhân tứ bộ cảo, Độc thư hậu, Vương thị thư uyển, Hoa uyển... Thật ra từ cuối thời Minh đã có người cho rằng được Vương Thế Trinh viết ra để trả thù cho bố. Ngụy Tử Vân trong Kim Bình Mai đích vấn thế dữ diễn biến (Nxb Đài Loan thời báo, 1981) cho rằng ngôn ngữ Sơn Đông ở trong truyện thật ra là thứ ngôn ngữ lưu hành ở các tỉnh phía Bắc, đồng thời chỉ rõ từ Đông Tấn về sau Giang Nam cũng có Lan Lăng, từ đó phủ đinh lập luận nói rằng tác giả phải là người Sơn Đông. Căn cứ vào tập quán sinh hoạt của nhà Tây Môn Khánh miêu tả trong truyện, Ngụy Tử Vân cho rằng Tiếu Tiếu Sinh phải là một người Giang Nam đã sống lâu trên đất Bắc. Năm 1981, giáo sư Từ Sóc Phương trường Đại học Hàng Châu đăng bài nói rằng tác giả Kim Bình Mai là Lí Khai Tiên (1501-1568). Đầu năm 1984, Kim Bình Mai tân chứng của Trương Viễn Phần được Tề Lỗ thư xã xuất bản, trong đó tác giả khẳng định rằng Lan Lăng Tiếu Tiếu Sinh chính là Giả Tam Cận, nhà văn huyện Dịch thời Minh. Thật ra ý kiến này đã được Trương Viễn Phần đề cập trong một bài đăng tạp chí Bão độc năm 1981. Phúc Đán học báo tháng 7-1984 đăng bài của Lý Thời Nhân “Thuyết Giả Tam Cận viết Kim Bình Mai không thể đứng được” kèm theo phụ đề “Chúng ta nên chú ý thái độ và phương pháp khảo chứng”, đồng thời công bố liền hai bài “Kim Bình Mai tác giả Đồ Long khảo” và “Kim Bình Mai tác giả Đồ Long khảo tục” của Hoàng Lâm. Đi theo hướng tìm kiếm của Ngụy Tử Vân, Hoàng Lâm đã phát hiện được Đồ Long, một người nguyên quán ở huyện Ngân tỉnh Chiết Giang từng làm quan ở Bắc Kinh, từng ký tên là Tiếu Tiếu tiên sinh ở hai cuốn sách đời Minh là Sơn trung nhất tịch thoại (Một buổi chuyện trò trong núi) và Biến địa kim (Vàng khắp nơi). Đồ Long (1542-1605) tự là Trường Khanh, lại có một tự nữa là Vĩ Chân, hiệu là Xích Thủy, đỗ Tiến sĩ dưới thời Vạn Lịch, từng làm tri huyện Thanh Phố, tri huyện Dĩnh Thượng, và Chủ sự bộ Lễ. Khảo trong Kim Bình Mai từ thoại hồi thứ 48 có việc Hoàng Mỹ ở phủ Khai Phong gửi thư cho Tuần án sử Sơn Đông là Tăng Hiếu Tự, gọi Tăng mỗ đang giữ chức Tuần án Ngự sử Đô sát viện bằng chức danh “Đại trụ sử”, chức danh này trước chưa từng nghe nói, người đọc cũng thường không để ý. Tra trong Cổ kim quan chế diên cách do Đồ Long soạn thì dưới phần khảo chứng của mục Đô sát viện có tìm thấy câu “Tại Chu vi Trụ hạ sử, Lão Đam thường vi chi” (Thời Chu là Trụ hạ Sử, Lão Đam từng làm chức ấy) v.v., chứng tỏ cách xưng hô hiếm hoi ấy trong truyện quả có khả năng chính là do Đồ Long viết. Ngụy Tử Vân khảo sát kinh lịch của Đồ Long thấy rằng rất có khả năng Đồ Long viết sách ấy để phúng dụ hoàng đế lúc bấy giờ. Có hai lí do: một là Đồ Long từ năm Vạn Lịch 12 bị cách chức về sau không ngóc đầu lên được nữa, khốn nghèo cho đến chết, hoàn toàn là vì trong khi làm tri huyện Thanh Phố một lần dâng thư mừng sinh nhật Hoàng trưởng tử, đã phạm phải điều cấm kỵ của Hoàng đế, hẳn vì thế mà có lòng oán hận; hai là Đồ Long từ sau khi bị cách chức, thường được người bạn là Lưu Thủ Hữu ở Ma Thành tiếp tế, đến sau khi chết năm Vạn Lịch 33, người đời lại truyền rằng con Thủ Hữu là Lưu Thừa Hỉ có đủ trọn bộ sách này. Đối chiếu những điều nói trên, dường như Đồ Long viết Kim Bình Mai là điều có thể tin được. Năm 1985, Kim Bình Mai nguyên mạo thám sách (Tìm kiếm diện mạo ban đầu của Kim Bình Mai) của Ngụy Tử Vân được Học sinh thư cục Đài Loan xuất bản, ông Đồng Văn đề tựa có nhắc lại bài viết Kim Bình Mai dữ Vương Thế Trinh của Ngô Hàm cũng từng đề cập tới một “Đồ Xích Thủy nổi tiếng về tạp kịch và văn chương”, mà Xích Thủy chính là hiệu của Đồ Long. Ông Đồng Văn lấy đó để khẳng định thêm khả năng thừa nhận Đồ Long là tác giả Kim Bình Mai. Dĩ nhiên đối với một “câu đố” đặt ra đã bốn thế kỉ nay và trong thời gian đó đã lần lượt ra đời hơn chục đáp án khác nhau để rồi lần lượt bị bác bỏ thì chưa thể khẳng định ngay Đồ Long là đáp án chính xác. Tuy nhiên, chí ít thì đáp án này cũng đã đứng được ngót mười lăm năm nay. Những ai quan tâm đến văn học Trung Quốc nói chung và nói riêng hẳn là hứng thú theo dõi. Phan Văn Các 1-1999 Mời các bạn đón đọc Kim Bình Mai (có tranh) của tác giả Lan Lăng Tiếu Tiếu Sinh & Nguyễn Quốc Hùng (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Thiên Thần Tan Vỡ
Reece Gilmore, người duy nhất thoát chết sau vụ thảm sát diễn ra ở thành phố Boston đã phải bỏ đi trong tình trạng hoảng loạn, suy sụp về tinh thần, không tin vào chính mình. Cô đến với thị trấn Angel”s Fist thuộc bang Wyoming chỉ vì bị cuốn hút bởi cảnh đẹp nơi đây. Nhưng cũng chính ở nơi này, trong một buổi tình cờ đi bách bộ bên sông, cô nhìn thấy một vụ giết người. Với tinh thần trách nhiệm của một công dân cô thông báo với cơ quan thực thi pháp luật nhưng cũng chính vì thế mà cuộc sống của cô ở thị trấn nhỏ này trở nên phức tạp. Có lúc cô đã nghĩ đến việc lại phải ra đi. Liên tục có kẻ dấu mặt nào đó đột nhập vào nhà cô, đe doạ, gây hại cho cô, có lúc hắn ngụ ý muốn cô phải rời khỏi thị trấn. Kẻ đó là ai? Liệu đó có phải là tên giết người mà cô nhìn thấy bên sông? Làm sao hắn có thể đột nhập vào nhà cô đựơc trong khi cô đã lắp thêm khoá cửa? Làm sao hắn có thể nắm chắc được quy luật hoạt động của cô cũng như của thị trấn nhỏ bé kia với những con người rất tò mò mà lại không bị ai chú ý? Chính những hành động hèn nhát của tên giấu mặt kia làm cô tức giận và quyết định sẽ không ra đi. nhưng nếu không có sự tin tưởng, giúp đỡ của Brody thì cô cũnng không đủ nghị lực để ở lại. Và 2 người chung sức bên nhau. Brody không những giúp cô hồi phục mà còn cùng cô khám phá ra vụ giết người khi cơ quan công quyền của thị trấn không biết vì lý do gì mà tỏ ra bất lực. *** Reece Gilmore đi trên con đường đầy ổ gà của thị trấn Angel" Fist (Nắm tay thiên thần) trong khi chiếc Chevy Cavalier của cô đã nóng ran. Cô chỉ còn lại 243 $ lẻ nhưng dù sao cũng đủ để chăm sóc chiếc xe của cô, tiếp nhiên liệu cho nó và cho cả cô. Nếu chiếc xe không hỏng quá nặng thì cô còn đủ tiền để thuê tạm 1 phòng nghỉ qua đêm. Nhưng cho dù có tính toán lạc quan đến mấy thì cũng đến lúc cô bị khánh kiệt. Và rồi khi thấy hơi nước bốc lên từ thùng xe phía trước cô biết cần phải dừng lại ở đâu đó một thời gian để tìm việc làm. Không có gì để lo lắng, sẽ chả có vấn đề gì lớn cả, cô tự nhủ. Thị trấn nhỏ bé của bang Wyoming này nằm bao quanh một hồ nước xanh lạnh lẽo, khung cảnh cũng chẳng đến nỗi nào so với các nơi khác. Có thể còn đẹp hơn. Ở đây có sự thoáng đãng cần thiết đối với cô với những ngọn núi tuyết bao phủ từ phía xa pử vùng Tetons. Cô đã mất hàng giờ đi loanh quanh qua các ngọn núi và thung lũng này. Cô cũng không biết mình sẽ đi đến đâu khi bắt đầu lên đường vào sáng sớm hôm đó, chỉ biết là cô đã đi qua thị trấn Cody, thị trấn Dubois, và mặc dù cô dự định sẽ đến thị trấn Jackson nhưng cô lại rẽ xuống phía Nam. Có thể là sức hút nào đó đã dẫn cô đến nơi này. Đã tám tháng nay cô chuyên tâm tìm hiểu các chỉ dẫn và đi theo sự cuốn hút của bản thân. Những khúc cua nguy hiểm, trơn trượt khi ướt. Ai đó đã có ý tưởng rất hay khi đưa ra những lời cảnh báo đó. Ngoài ra còn có những chỉ dẫn khác có thể là một tia nắng mặt rời xiên nghiêng rất kì lạ ở phía cuối một con đường, hay chỉ là những chiếc chong chóng gió hướng về phía Nam. Nếu cô thích ngắm nhìn ánh nắng hoặc những chiếc chong chóng gió kia thì có thể cô đã đi theo tiếng gọi của nó cho đến khi cô tìm được đúng nơi cần đến, đúng thời điểm cần có mặt. Có thể cô sẽ ở lại đó một vài tuần hoặc thậm chí là một vài tháng như có lần cô đã ở lại South Dakota. Cô sẽ lại tìm việc làm, khám phá nơi đó và rồi lại đi khi tìm thấy những chỉ dẫn khác và những cuốn hút khác. Cô hoàn toàn tự do thực hiện chế độ mà cô tự lập ra cho mình, và thường thì nó sẽ làm giảm bớt nỗi lo lắng đang đè nặng trong đầu cô. Mấy tháng qua cô đã sống với chình mình, làm những việc để xoa dịu bản thân chư không đơn thuần là thực hiện chế độ điều trị kéo dài một năm của cô. Nói một cách công bằng, chế độ điều trị đó khiến cô phải đối mặt với mình mỗi khi ngày mới đến, mỗi lúc đêm về, thậm chí là hàng giờ. Và bây giờ cô lại bắt đầu một việc làm mới ở thị trấn Angel"s Fist này. Nếu không có gì thay đổi, cô sẽ ở lại đây vài ngày để thưởng thức hồ nước, ngọn núi kia và kiếm đủ tiền để tiếp tục lên đường. Thị trấn nhỏ bé như thế này- theo chỉ dẫn trên đường thì dân cư chỉ có 623 người- rất phù hợp cho hoạt động du lịch khi khai thác nguồn phong cảnh ở đây, thậm chí có thể biến nó thành một công viên quốc gia. Cô sẽ cần một khách sạn, ít nhất cũng là một khách sạn loại nhỏ, hoặc một nông trại trong vòng một vài dặm nữa. Làm việc ở một nông trại cũng không quá tẻ nhạt. Những nơi này sẽ cần người tiếp đón, khuôn vác và dọn dẹp nhất là khi mùa xuân đang đến và băng tuyết bắt đầu tan thế này. Nhưng trong khi khói trong xe đang bốc ra ngày cang nhiều như thế này thì việc cần làm đầu tiên có lẽ phải tìm một thợ cơ khí. Cô đi chậm lại trên con đường nhỏ bao quanh hồ. Tuyết tan tạo thành những vũng nước trắng tẻ nhạt. Cây cối vẫn giữ nguyên màu nâu đặc trưng của mùa đông nơi đây nhưng dưới hồ đã xuất hiện một vài chiếc thuyền. Một vài người đang mặc áo gió, đội mũ lưỡi trai đang theo hướng thuyền về phía ngọn núi soi bóng xuống mặt nước hồ. Phía bên kia hồ là khu sinh hoạt của cư dân, có cửa hàng đồ lưu niệm, gian triển lãm, ngân hàng, bưu điện và văn phòng cảnh sát trưởng. Cô rời khỏi khu vực mép hồ đi về hường nhà kho lớn của một cửa hàng bách hoá tổng hợp. Có hai người đàn ông mặc áo len ngồi ngắm mặt hồ. Họ gật đầu chào khi cô tắt mày và bước ra khỏi xe. Người đàn ông ngồi bên mé phải trên mũ có in tên- Cửa hàng rau quả và mậu dịch Mac- lên tiếng. " Hình như xe của cô đang bị trục trặc" " Vâng. Anh có thể chỉ cho tôi chỗ sửa được không?" Anh ta đứng dậy, vóc dáng khá vạm vỡ, vẻ mặt hồng hào. Trên khoé mắt đã xuất hiện vài nếp nhăn, giọng anh ta có vẻ hơi lè nhè. "Sao chúng ta không thử mở thùng xe xem thế nào?" "Thế thì tốt quá". Reece mở khoá thùng xe và anh ta lật nắp lên. Khói bên trong bốc lên mù mịt khiến anh ta giật mình lùi lại. Không hiểu tại sao nhưng cô cảm thấy rất bối rối. " Hình như nó mới chỉ bị như vậy cách đây khoảng mười dặm. Tôi không để ý nên bây giờ mới biết". "Không sao cả. Cô đang muốn đến chỗ công viên phải không?" "Vâng, có thể là như vậy. Nhưng tôi nghĩ chiếc xe không muốn làm theo ý định của tôi." Không chắc chắn như vậy, co không bao giờ biết chắc là mình sẽ đi đến đâu. Cô cố gắng tập trung vào chiếc xe thay vì quanh quẩn nghĩ không không biết sau đây mình sẽ đi đâu. Người đàn ông kia cùng đi ra xem xét chiếc với bạn mình. Cô cũng làm bộ nhìn ngó cùng với họ mặc dù cô biết mình không hề có chút kiến thức nào về cơ khí. Đối với phụ nữ thì những gì nằm dưới chiếc thùng xe kia chả khác nào miền đất xa xôi lạ lẫm trên sao Diêm Vương. "Hộp toả nhiệt bị vỡ rồi.Cô phải thay hộp mới thôi." "Có vẻ không tồi tệ quá, cô sẽ không mất quá nhiều tiền." "Có nới nào trong thị trấn này thay được không?" "Cô nên đến gara nhà Lynt. Tôi sẽ gọi điện cho họ giúp cô." "Vậy thì rất cảm ơn anh. Tên tôi là Reece, Reece Gilmore." Cô mừng rỡ và vội vàng giới thiệu. "Tôi là Mac Drubber. Còn đây là Carl Samsonp." Mac giới thiệu lại. "Cô đến từ miền Đông phải không?" Carl hỏi. Theo đánh giá bề ngoài của Reece thì Carl năm nay khoảng 50 tuổi và có vẻ là người gốc Mỹ. "Vâng, tôi đến từ Boston. Rất may được gặp các anh giúp đỡ." Mac nói ngay. "Có gì đâu. Chỉ là một cuộc điện thoại thôi mà. Cô có thể đi dạo quanh đâu đó một lát. Nhân viên gara sẽ đến đây trong vòng vài phút." "Tôi cũng muốn đi dạo một lát để thăm nơi này. Ở thị trấn có chỗ nào tốt để ở không anh?" "Cuối đường này có một khách sạn nhìn ra hồ. Phía bên kia có nhà nghỉ Teton ấm cúng hơn. Ngoài ra ven hồ còn có rất nhiều khách sạn và nhà trọ loại nhỏ có thể thuê theo tuần hoặc theo tháng." Cô không nghĩ mình sẽ ở đây đến cả tháng. Một ngày đã kà cả vấn đề đối với cô lúc này. Nhưng ở nhà trọ cùng với gia đình chủ nhà thì lại bất tiện. "Có lẽ là tôi sẽ tìm một khách sạn nào đó để ở tạm." "Đi bộ từ đây tới đó khác xa. Nếu cô không phiền thì tôi có thể cho cô đi nhờ xe tới đó." "Tôi đã lái xe cả ngày rồi và bây giờ cũng muốn đi lại một chút cho thư giãn. Dù sao thì cũng rất cảm ơn anh Drubber." "Không có gì. Quả là một việc hay đấy." Mac Drubber còn đứng nán lại một lát khi cô đi xuống con đường đi dạo hai bên đầy cây. Carl lắc đầu ngao ngán. "Chẳng có tí da thịt nào cả. Phụ nữ ngày nay dường như đánh mất hết đường cong của mình rồi". Thực ra không phải cô muốn có thân hình gầy còm như vậy mà cô đang cố gắng lấy lại phần trọng lượng cơ thể mà cô đã mất đi mấy năm nay.Trước đây cô rất béo nhưng rồi sau sự kiện đó, thân hình cô trở nên khẳng khiu và giờ đây cô lại tìm cách trở lại điểm xuất phát ban đầu ấy. Cô không thể tin vào mắt mình mỗi khi cởi quần áo và nhìn thấy những chỗ xương lộ hẳn ra. Hình như đây không phải là thân hình của cô. Cô không đông ý với nhận xét của Mac về việc làm đó của cô. Đã có thời cô rất tự hào về mình- một người phụ nữ xinh đẹp, biết ăn diện và rất hấp dẫn. Nhưng giờ đây khuôn mặt cô trở nên khô cứng, qua những đêm dài mất ngủ hơn nhưng mỗi khi mất ngủ ban đêm mắt cô lại thâm quầng, da dẻ xanh xao ốm yếu. Cô muốn trở lại thời kì đẹp đẽ đó. Reece lặng lẽ bước trên đường. Cô tự nhủ với mình là không được vội vàng, không được xô đẩy, chen lấn mà phải thản nhiên đón nhạn mọi thứ đến với mình cho dù thế nào đi nữa. Làn gió lạnh phả vào vào mặt cô làm bay lọn tóc nâu mà cô đã bện thành đuôi phía sau lưng. Cô rất thích cảm giác sạch sẽ tươi mát đó và cô thích cả thứ ánh sáng bao phủ khách sạn Teton toả xuống mặt hồ lung linh. Đúng như lời Mac nói,có vài căn nhà nhỏ nằm lấp sau mấy rặng liễu và cây dương trơ trụi. Cửa nhà chủ yếu làm bằng khung gỗ kính, phía trước có cổng vòm khá lớn nhìn ra khung cảnh quang đãng phía trước. Sẽ rất thoải mái nếu được ngồi trên những cổng vòm kia ngắm nhìn mặt hồ, núi non, hoặc thậm chí là đầm lầy với những bụi dương bồ mọc rải rác. Nhất định cô sẽ ở trong những ngôi nhà như vậy nhưng đó là chuyện sau này chứ không phải ngay ngày hôm nay. Cô nhận thấy có mấy khóm dương xỉ xanh mọc dưới những thùng rượu Whisky để ngay lối vào một nhà hàng. Cơn gió lạnh thổi qua làm rung rinh thân câynhưng dù ứao thù đó cũng là dấy hiệu báo mùa xuân đang về. Mọi vật đầy trở nên mới mẻ khi mà xuân đến, và có thể mùa xuân này chính cô cũng tươi mới trở lại. Cô dừng lại một thoáng để chiêm ngưỡng cảnh vật và không khí dễ chịu khi có dấu hiệu mùa xuân về. Và chẳng bao lâu nữa, cảnh sắc mùa xuân sẽ hiển hiện nơi đây. Sách hướng dẫn của cô phóng đại nơi đây có bạt ngàn các loài hoa dại mọc trên cánh đồng và rất nhiều loài khác mọc quanh hồ. Reece thầm nghĩ cô đang rất mong cây cối đâm chồi nụ hoa hé mở. Cô ngước mắt lên và thấy cảnh cửa sổ lớn của một nhà hàng. Có lẽ đây là nơi ăn tối thì đúng nghĩa hơn. Quầy phục vụ, những chiếc bàn vuông vắn và khi ăn uống khép kín, tất cả đều sơn màu đỏ nhạt và trắng. Bánh nhân táo và các loại bánh ngọt khác được trưng bày bên trên gian bếp quay cửa ra phía quầy phục vụ. Hai cô nhân viên phục vụ đi lại giữa các bàn, trên tay mang các khay đựng đồ ăn và bình café. Bây giờ đang là giờ ăn trưa. Cô dã quên không ăn trưa. Nhất định khi vào khách sạn cô sẽ. Thế rồi cô nhìn thấy ngay bên trên cửa sổ có tấm biển viết tay thông báo: CẦN TUYỂN ĐẦU BẾP HỎI BÊN TRONG Đúng là tấm biển báo. Mặc dù đã lùi lại một bước để nhìn cho kỹ nhưng dường như cô vẫn chưa tin vào mắt mình. Cô đứng đó một lúc nhìn bên trong. Gian bếp vẫn đang mở, đó là điều quan trọng nhất đối với cô. Nấu các món ăn tối là việc làm hết sức đơn giản, ít nhất thì cô đã từng có khả năng làm như vậy. Đây chính là lúc để cô thử sức mình, là cơ hội để cô tiến thêm một bước. Cho dù cô không được chấp nhận thì mọi việc cũng sẽ không xấu đi chút nào so với hiện tại của lúc này. Có thể sẽ có,một khách sạn nào đó cần thuê cô để chuẩn bị đón khách mùa hè. Hoặc cũng có thể Drubber sẽ cần thuê cô. Nhưng dù sao thì tấm biển báo vẫn còn nằm kia, chiếc xe đã đưa cô đến thị trấn và chính đôi bàn chân cô đã đưa cô đến nơi này. Những cây dương xỉ đã lấy lại được màu xanh tươi ban đầu khi mùa xuân còn chưa đến. Cô bước đến chỗ cửa ra vào hít thở thật sâu để lấy lại sự tự tin sau đó mới mở cửa bước vào. Mùi hành phi, thịt nướng và mùi café bay ngào ngạt bên trong. Có cả tiếng nhạc phát ra từ phía chiếc máy hát. Nên nhà lát gạch đỏ và quầy phục vụ được lau sạch bóng. Một vài bàn chưa có khách ngồi cũng đã được đặt sẵn các món ăn trưa. Trên tường là những bức ảnh khá bắt mắt về hồ nước, cảnh núi non vào các mùa. Cô chưa kịp làm quen với môi trường bên trong, chưa kịp thu hết can đảm thì một cô nhân viên phục vụ đã bước đến. "Chào chị. Chị có thể chọn bàn ngồi hoặc ngồi trên quầy để ăn trưa." "Không tôi muốn gặp người quản lí hoặc chủ cửa hàng. Ừm, việc liên quan đến tấm biển thông báo trên cửa sổ ngoài kia. Tôi muốn được nhận vào làm nhận viên nấu ăn." Cô nhân viên phục vụ đứng hẳn lại, chiếc khay thức ăn vẫn trên tay. "Chị là đầu bếp phải không?" Đã có thời gian cô chẳng thềm để ý đến lòng tốt của người khác nhưng bấy giờ thì cô thấy việc làm đó là không nên. "Vâng". Cô trả lời gọn lỏn. "Công việc nặng nhọc đấy. Mới cách đây hai ngày cô Joanie đã sa thải một người." Cô phục vụ vừa nói vưà đưa tay lên lau miệng có vẻ muốn uống chút gì đó. "Ồ". Reece thốt lên có vẻ ngạc nhiên. " Hồi tháng hai anh ta đến đây tìm việc làm và nói rằng anh ta đã gặp Chúa Jesus và muốn truyền bà lời răn dạy của Chúa đến vùng đất này". Cô nhân viên nghếch mặt mỉm cười rất tươi với Reece và nói tiếp: "Anh ta cầu khẩn nhe một môn đồ chính thống, vì vậy chị chỉ cần kiếm một miếng giẻ nhét vào miệng anh ta là xong. Chị ngồi chỗ quầy đợi đi, tôi sẽ vào tìm Joanie xem cô ấy có thể rời khỏi bếp một lát không. Chị dùng một ly café chứ?" "Xin chị cho tô một tách trà" "Sẽ có ngày thôi". Reece tự nhủ cô sẽ không bắt buộc phải làm công việc đó. Cho dù cô có được chấp nhận vào làm việc thì cô vẫn có quyềb từ chối. Cô có thể làm việc dọn dẹp ở khách sạn hay tìm một nông trại vào đó. Chiếc máy hát nhảy bài và giọng ca sỹ Shania Twain vang lên rất vui vẻ. Cô nhân viên phục vụ bước vào trong vỗ vai một phụ nữ thấp béo mập. Sau một lát người phụ nữ đó ngó ra bắt gặp ánh mắt của Reece và gật đầu chào. Cô nhân viên quay lại quầy chỗ Reece ngồi trên tay cầm một ly Lipton nóng. "Cô Joanie sẽ ra gặp chị ngày. Chị có dùng bữa trưa luôn không? Hôm nay nhà hàng có món đặc biệt bánh mì thịt dùng với khoai tây nghiền, đậu xanh và bánh quy." Không cám ơn chị. Tôi dùng trà thôi." Reece chưa từng bao giờ phải kiềm chế như lúc này trong khi bụng cô đang đói cồn cào. Không những thế cô còn cảm thấy hồi hộp lo sợ.   Mời các bạn đón đọc Thiên Thần Tan Vỡ của tác giả Nora Roberts.
Từ Một Buổi Chiều
Uyên ngồi thu gọn trên giường, cằm chống lên cánh tay tì trên cửa sổ, nhìn trời đang mưa. Trận mưa dai dẳng kéo dài suốt hai tiếng đồng hồ vẫn chưa chịu dứt hẳn! Ý định ra phố của Uyên đành hoãn lại vì cho dù trời có quang tạnh, Uyên cũng rất ngại ngùng khi phải đặt chân xuống những vũng nước trống chẳng có thẩm mỹ tí nào. Trận mưa đầu mùa đối với Uyên thật dễ thương vì dù sao nó cũng xa vắng Uyên bẵng đi hàng mấy tháng trời. Những buổi chiều thanh thản như hôm nay, Uyên thích ngồi thu mình ở một góc giường nhìn những giọt nước mưa trắng xóa rớt đều trên mặt đường tạo thành một âm thanh nghe ray rứt, nhức buốt tim gan. Mặt đường bóng loáng như vừa được tắm gội sạch sẽ. Chỉ có từ đầu con hẻm vào đây - đoạn đường khoảng mười lăm thước - là trông bẩn thỉu, lụt lội một cách thảm hại. Người dễ tính đến đâu đi chăng nữa cũng phải bực mình. Cũng may nhà Uyên chỉ cách mặt đường có mười lăm thước. Giá mà ở tít trong cùng hẻm thì thật không còn gì khổ bằng. Tiếng lội nước bì bõm của vài người trong hẻm đi ra khiến Uyên liên tưởng đến âm thanh quái đản của một cuốn phim kinh dị mà đã có một lần Uyên được xem. Trẻ con trong xóm bắt đầu túa ra nghịch ngợm trên vũng nước đục ngầu bẩn thỉu mà Uyên vẫn thường gọi đùa la "piscine công cộng". Thế giới hồn nhiên của tuổi ấu thơ! Chúng chưa có đủ trí khôn để ý thức được rằng thế nào là vệ sinh. Mùi cống rãnh xông lên làm Uyên khó chịu. Uyên đưa tay hất nhẹ những sợi tóc phủ xòa trước mặt ra đằng sau; thật vô tình, Uyên nhìn thấy vẻ đẹp của mình trong gương chiếc tủ dựng sát tường, ngay đầu giường Uyên. Uyên nổi tiếng là đẹp nhất trường. Chức "hoa khôi" mà bạn bè đặt cho Uyên quả không ngoa chút nào. Uyên sung sướng và thầm hãnh diện mỗi khi được ai ca tụng vẻ đẹp của mình. Mái tóc cắt ngắn hợp với khuôn mặt trái xoan, đôi mắt bồ câu tròn đen láy, sống mũi cao, đôi môi xinh xắn, đỏ mịn, tất cả hợp lại tạo cho Uyên một nét đẹp tự nhiên, lộng lẫy. Có thể nói rằng Uyên là một đứa con gái sung sướng nhất, hạnh phúc nhất trên đời. Vừa đẹp, vừa học giỏi lại được sinh ra trong một gia đình khá giả. Duy chỉ có một điều khiến Uyên buồn và cảm thấy mình chưa hoàn toàn hạnh phúc đó là Uyên không có anh chị em chi cả. Bố mẹ chỉ có độc nhất một mình Uyên vì thế Uyên được chiều chuộng hết mực, muốn gì được nấy. Nhưng tất cả đối với Uyên đều trở nên vô nghĩa. Uyên không ham thích bất cứ một thứ gì ngoài một ước muốn duy nhất: Uyên cũng có đông em như tất cả những đứa bạn cùng lớp. Ước muốn thật tầm thường nhưng đối với gia đình Uyên đó là cả một vấn đề. Bố mẹ Uyên khổ tâm không ít mỗi khi Uyên nhắc đến chuyện này. Nhưng biết làm sao hơn khi số trời đã định cho gia đình Uyên như vậy. Căn nhà không lấy gì làm to tát nhưng Uyên có cảm tưởng nó rộng lớn vô cùng. Nhất là những buổi như hôm nay. Bố Uyên thì ngày nào cũng như ngày nấy, đi làm từ sáng sớm và mãi đến chiều tối mới về. Hàng ngày chỉ có hai mẹ con ở nhà, nếu buồn, Uyên lân la đến gần mẹ, gợi hết chuyện này sang chuyện khác để căn nhà bớt lặng lẽ hơn. Thỉnh thoảng có một hôm mẹ đi vắng - như hôm nay chẳng hạn - Uyên không biết làm gì hơn là ngồi ủ rũ, nghe cô đơn về vây hãm. Mẹ Uyên có việc phải về nhà bác Uyên ở Bảo lộc từ sáng sớm. Hình như hôm nay là ngày giỗ bà ngoại Uyên thì phải. Còn lại một mình ở nhà, Uyên cảm thấy buồn và lo sợ phập phồng bởi cái không khí vắng vẻ trong nhà. Uyên định khoác áo thả bộ ra phố, đi chơi cho khuây khỏa, định bụng đến giờ tan sở Uyên mới trở về. Nhưng chưa kịp thực hành ý định thì trời đổ mưa như trút nước, Uyên đành ngồi bó gối trên giường nhìn trời vu vơ. Trời tạnh hẳn sau một trận mưa dài gần ba tiếng. Uyên nhìn đồng hồ: đã bốn giờ hơn. Thế là sắp hết một buổi chiều. Uyên uể oải đứng dậy, quơ chân tìm đôi dép dưới gầm giường, bước xuống nhà. Uyên đứng ở chân thang gác, phân vân không biết phải làm gì để giết nốt thì giờ còn lại. Cuối cùng Uyên bước trở ra phòng khách, ôm cây đàn guitar vào lòng, vừa đàn vừa hát những bản nhạc sinh hoạt của phong trào du ca. "Hy vọng đã vươn lên.trong màn đêm." Tiếng hát của Uyên hòa nhịp với tiếng đàn thật hùng hồn, lôi cuốn như đang thúc bách mọi người cùng vùng dậy khai phá, xây dựng lại quê hương đổ nát, điêu tàn. Uyên hát thật hăng say như chính Uyên đang châm những ngọn lửa soi đường trong lòng dân chúng. Uyên hát quên mệt như chính Uyên đang tham dự công tác của đoàn thanh niên sinh viên học sinh Nguồn sống. Trẻ con trong xóm nghe Uyên hát, ngưng đùa nghịch, bu quanh cửa sổ cất tiếng hát theo. Uyên vui lây với cái không khí nhộn nhịp bất ngờ đó. Tiếng đàn vừa dứt cùng lúc có tiếng gõ cửa, Uyên hỏi vọng ra: - Ai đó? - Ngy đây! Nghe tiếng đáp, Uyên mừng quýnh, quăng vội cây đàn trên lòng salon, chạy ra mở cửa cho Ngy. - Hèn gì trời mưa to! Ngy ngạc nhiên: - Hử? Uyên cười: - Hôm nay mày đến nhà tao thành thử trời mưa to quá. Ngy đập vào vai bạn: - Con quỉ! Làm gì mà nhộn thế? - Buồn quá lôi đàn ra gãy chơi!… Vào nhà đã nào. Ngy theo Uyên bước vào: - Tao tưởng mày đang sinh hoạt chứ! Uyên thu dọn báo chí trên bàn: - Ừ mà cũng đang sinh hoạt thật. - Sinh hoạt với ai? - Lũ trẻ con trong xóm. Ngy mỉm cười, ngó dáo dác: - Bác gái đâu rồi? - Mẹ tao có việc về Bảo lộc từ sáng sớm. - Hèn gì mà nhà cửa vắng quá. - Tao "hãi" nhất cái không khí này. Định đi chơi thì trời mưa. - Cũng may! - May cái gì? - Nhờ trời mưa to tao mới gặp mày! Cả hai cùng cười. Ngy là bạn cùng lớp thân nhất của Uyên. Bạn bè gọi Ngy là "cây gạo" vì Ngy rất siêng học, ít đi chơi; khi nào có việc gì cần lắm mới thấy Ngy xách xe ra đường. Trong lớp Ngy, Uyên và Diễm Hương là ba đứa học trò giỏi nhất nên được thầy cô cưng không thể tưởng. Chỉ còn không đầy một tháng nữa là đến hè. Năm nay không phải là năm thi nên trông các cô có vẻ thảnh thơi chứ không bận rộn, hồi hộp như các đàn chị. Sang năm Ngy và Uyên thi Tú Tài I nên cả hai đang dự định xin phép gia đình cho đi chơi một chuyến thật xa trong dịp hè này cho thỏa chí. Mùa hè này là cơ hội đi chơi lần cuối đối với Uyên vì kể từ năm tới, cả hai sẽ thi cử liên miên, không có năm nào là năm không phải thi cả. Uyên đang dự định rủ Ngy lên Đà lạt vì thành phố này vẫn có tiếng là đẹp, mộng mơ và là nơi dừng chân lý tưởng nhất của du khách. Thành phố Đà lạt không có gì xa lạ đối với Uyên nhưng Uyên vẫn thích đặt chân đến vì Uyên yêu nó kinh khủng và hình như nó có một sức lôi cuốn Uyên mà Uyên không thể cưỡng lại được. - Nghĩ gì đấy Uyên? - Tao đang nghĩ đến thành phố Đà lạt. - Mày sốt ruột lắm hả? - Ừ! Ba tuần nữa đâu có là bao mày nhỉ! - Thoáng cái đến ngay. - Mày xin phép hai bác chưa? - Rồi!… Mày định bao giờ đỉ - Khoảng đầu tháng bảy. - Lãnh thưởng xong chuẩn bị đi liền? - Ừ! À mà Ngy này! Mày nhắc tao mới nhớ. Hôm nào phát thưởng? - Mười tám tháng sáu. - Chắc chắn không? - Chắc! - Ai bảo mày thế? - Cô Nguyệt. - Mày đến nhà cô Nguyệt? - Ừ! - Có xem điểm cho tao không? - Khỏi nói. Tao đến cộng điểm dùm cô mà! Uyên nôn nóng: - Toàn niên tao hạng mấy? Ngy trêu Uyên: - Từ từ! Đi đâu mà gấp vậy? Uyên nhăn nhó: - Con quỉ! Nói mau đi. Tao đang hồi hộp gần chết đây này. Ngy hắng giọng: - Khoan! Tao chưa nói vì mày chưa làm tròn bổn phận. Uyên cáu sườn hỏi gắt: - Bổn phận gì? - Bổn phận tiếp khách. Uyên suy nghĩ khoảng nửa phút: - À, ừ quên mất! Xin lỗi nghe! Nói xong Uyên chạy vào nhà pha nước, một lát sau Uyên trở ra với hai ly sirop cam trên tay. Uyên hỏi: - Mãi nói chuyện tao quên mất. Mày đến tao có việc gì không? Ngy cầm thìa khoắng ly nước: - Thiện chí! Uyên chăm chú: - Nói đi! - Ở nhà cô Nguyệt về, ghé qua mày báo tin vui. - Tin gì? - Năm nay tao với mày lại đồng hạng. Uyên mừng quá, vỗ tay đôm đốp: - Hạng nhất hả? - Ừ! Uyên nhìn Ngy, ánh mắt thật vui: - Tao vui quá Ngy ơi! Ngy đáp: - Tao cũng vậy! Điều mà Uyên vẫn hằng trông đợi đã đến như ý muốn của Uyên. Nếu kết quả không đúng như lời Ngy nói thì không còn gì để mà buồn hơn. Chẳng những một mình Uyên buồn mà cả bố mẹ cũng buồn không ít, vì từ lâu bố mẹ vẫn hằng mong muốn Uyên phải là một đứa học trò giỏi nhất lớp, không thua một ai cả. Có những tháng Uyên đứng thứ hai - sau Ngy - đem phiếu điểm về trình bố mẹ ký, Uyên buồn và lo kinh khủng! Nhưng bố không mắng Uyên và cũng chẳng tỏ vẻ buồn phiền gì mà bố chỉ khuyến khích Uyên tháng sau nên cố gắng hơn tí nữa thôi. Những lần như vậy Uyên buồn lắm nhưng biết sao hơn khi sức học của Uyên chỉ đến ngần ấy trong khi Ngy cũng là một học trò xuất sắc, thông minh không kém gì Uyên. Tuy vậy, chưa bao giờ Uyên và Ngy tỏ vẻ ganh ghét lẫn nhau. Những tháng Uyên đứng nhất, Ngy cũng buồn vô cùng nhưng không phải vì thế mà tình bạn hai đứa sứt mẻ. Uyên có cảm tưởng hình như có đôi lúc Uyên đã nhường Ngy và ngược lại Ngy cũng vậy. Trong lớp, ai cũng nghĩ rằng Uyên và Ngy chỉ đối với nhau bằng một tình bạn giả tạo ngoài mặt chứ thật ra trong lòng cả hai đang ganh ghét lẫn nhau. Uyên cũng không buồn lên tiếng cãi chính bởi vì có nói chắc cũng chẳng ai tin, cứ im lặng là hơn hết. Chính Ngy cũng đã có lần nói cho Uyên nghe như vậy và cả hai tự nhủ "ai muốn nói gì thì nói, miễn mình đối xử với nhau thành thật và thương mến nhau thật lòng thì thôi". Chuông đồng hồ điểm sáu tiếng. Ngy uống cạn ly nước, đứng dậy: - Thôi! Tao về. Uyên giữ bạn: - Ở chơi tí nữa đã. - Không được! Tao xin phép mẹ tao đi đến 6:15 thôi. - Bây giờ mới có 6:00 giờ. - Ừ! Mới có 6 giờ! Mười lăm phút từ đây về nhà là vừa đúng. - Con khỉ! Uyên tiễn bạn ra cửa. Ngy đùa: - Trời mưa đến nhà mày tao có cảm tưởng như là đi vào con đường lên "thiên thai". Uyên cười: - Ừ! Chỉ có mỗi con hẻm là kém thẩm mỹ. Ngy tiếp: - Người đẹp thường hay ngự trị ở những xóm bùn lầy nước đọng như thế này. Uyên bẽn lẽn: - Tao mà đẹp khỉ gì? Ngy nguýt: - Thôi đi cô. Ngy đạp máy xe, trước khi đi còn quay lại nói một câu: - Mai nhớ cài thêm cái nơ trên đầu cho nó nổi nghe. - Để làm gì vậy? - Lãnh bảng danh dự mà! Uyên cười, nhìn theo bóng bạn cho đến khi chiếc xe mất hút ngoài đường cái. Sau khi khóa cửa cẩn thận, Uyên quay vào thu dọn ly tách và xuống bếp lo cơm nước buổi chiều. Hôm nay chỉ có hai bố con ở nhà, bố đề nghị dắt Uyên vào Chợ Lớn ăn cơm Tàu nhưng Uyên từ chối vì Uyên muốn chính tay Uyên nấu cho bố ăn. Uyên để ý thấy bố thích ăn món canh chua cá lóc; vì thế hôm nay Uyên nhất định trổ tài nấu món này thật ngon để bố khen Uyên rối rít mới được. Lúi húi dưới bếp đến gần nửa tiếng, Uyên mới làm xong món cá, sau khi đặt nồi canh lên bếp, Uyên rửa tay sạch sẽ và bước trở lên nhà. Nhìn đồng hồ, Uyên giật mình thầm hỏi: "Sao hôm nay bố lại về trễ vậy kìa?" Thường thì mọi hôm bố về khoảng 6:20, hôm nào trễ lắm là 6:25. Bây giờ gần 7 giờ rồi mà vẫn chưa thấy bố về! "Hay là có chuyện gì?" Uyên vội vàng xua đuổi những ý nghĩ không hay ra khỏi đầu và mở TV xem để quên đi những nỗi lo sợ đang ám ảnh Uyên. Thời gian vẫn nặng nề trôi. Kim đồng hồ càng di chuyển thì nỗi lo sợ càng đến với Uyên thật dồn dập. Nóng lòng không chịu được, Uyên tắt TV ra đứng tựa cửa ngóng bố. Uyên sống trong sự hồi hộp đó đến hai mươi phút mới thấy bóng bố xuất hiện ở đầu hẻm. Uyên mừng muốn khóc nhưng niềm vui chợt tắt khi Uyên thấy khuôn mặt bố buồn thật buồn và Uyên linh cảm hình như có chuyện gì không may đến với bố. Trống ngực Uyên đập thình thịch, bố nhìn Uyên, Uyên nhìn bố. Tự dưng Uyên câm nín, không thể nói hoặc hỏi bố được một lời. Bố dìu Uyên vào nhà, đặt Uyên ngồi trong lòng salon rồi bố ngồi xuống cạnh Uyên. Bố vẫn lặng thinh, ôm đầu Uyên áp vào ngực bố; nước mắt Uyên ứa ra, không hiểu Uyên khóc vì lo sợ hay khóc vì sung sướng khi được bố vuốt ve, thương yêu!? Mãi đến mấy phút sau, Uyên mới mở miệng hỏi bố được một câu: - Có chuyện gì vậy bố? Bố không trả lời câu hỏi của Uyên mà bố chỉ kêu lên: - Con! Uyên giật mình, đôi mắt mở tròn nhìn bố: - Bố! Chuyện gì vậy bố? Sao bố buồn vậy bố? Uyên nhìn thấy đôi mắt bố đỏ ngầu như sắp khóc. Phải nuốt nước bọt đến đôi ba lần, bố mới nói lên tiếng, giọng nghẹn ngào: - Mẹ con, chết rồi! - Mẹ!? Uyên chỉ kịp hét lên một tiếng ngắn ngủi rồi ngất đi trong lòng bố. Mời các bạn đón đọc Từ Một Buổi Chiều của tác giả Nguyễn Sỹ Nguyên.
Hầm Bí Mật Bên Sông En-Bơ
 Khoảng 10 giờ sáng, một chiếc xe lửa chạy tới nhà ga ngoại ô. Một ông già theo đám đông bước xuống sân ga.         Bề ngoài của người hành khách không có gì đặc biệt, râu ria đều bạc trắng và xén ngắn, đôi mắt đen dửng dưng và hơi có vẻ mệt mỏi, cái mũi nhỏ và cân đối. Ông ta mặc bộ áo quần bằng thứ vải rẻ tiền, đội mũ chụp bằng da cừu, thân hình khô đét, dáng điệu nhanh nhẹn, cứng rắn.         Sau khi ra tới quảng trường trước ga, ông ta đi về phía bể. Ở đây là những dãy nhà một tầng cũ kỹ xây bằng đá ong sù sì. Ông già đội mũ chụp lững thững dạo bước dọc theo dãy phố, liếc nhìn số nhà rồi cuối cùng đi đến một căn nhà lụp xụp đằng trước có mảnh vườn con.         Ông ta lượn hai lần trước căn nhà như để nghiên cứu. Sau đó tiến về phía cửa hàng thực phẩm gần đấy và đứng vào đuôi đoàn người đang xếp hàng dài trên vỉa hè cạnh lối ra vào.         Một giờ qua, ông già đã tới sát trước cửa ngôi hàng thì có một người từ trong căn nhà nhỏ đi ra. Nhác thấy người đó, ông già đằng hắng, nhấp nhổm đổi từ chân này sang chân nọ, rồi vội vàng móc trong túi ra một chiếc ví bằng da nai vàng. Ông ta mở ví, ngửng đầu lên, bắt gặp cái nhìn của người đàn bà có tuổi bế con đứng cạnh, liền lắc đầu ra vẻ bực tức. Bà kia hỏi:         - Có việc gì thế cụ?         Ồng lão ngán ngẩm nhếch mép cười, bối rối càu nhàu:         - Đứng chầu chực mất bao nhiêu là thời gian! Thế mà lại quên mất phiếu ở nhà!         - Thế thì cụ chạy về nhà đi, quàng lên, nếu không thì quá lượt mất.         Ồng già gật đầu ra vẻ cảm ơn rồi chạy lon ton trên hè phố.         Cái người vừa từ căn nhà nhỏ có vườn con đi ra đang bước đằng trước, cách chừng hai trăm bước. Đó là một người đàn ông cao gầy, mặc áo bờ-lu-dông bằng da hải ly và đội mũ bịt tai của bộ đội.         Chả mấy chốc hai người đã tới bến xe điện. Hành khách đang đợi đông nghịt. Hai mươi phút sau xe điện mới chạy đến. Mọi người đổ xô lên xe, rồi đoàn xe điện lao về phía trung tâm thành phố. Qua từng bến xe, người lên mỗi lúc một đông.         Ông già và người đội mũ quân phục đứng cạnh nhau.         Đột nhiên ông già vồ lấy túi áo và rú lên:         - Kẻ cắp!         Trong toa xôn xao. Ông ta thì vẫn sờ nắn trong mình, vỗ túi, thọc tay vào ngực áo rồi cả quyết nói:         - Mất cắp rồi! Nó cuỗm cái ví của tôi, trong đó lại có cả phiếu thực phẩm nữa chứ!         Bỗng ông già im bặt, suy nghĩ điều gì và quay phắt lại, mặt giáp với người đội mũ trùm tai.         - Đồ chó đẻ, chính mày xoáy của tao! Ví tao đâu? Giả đây hay là để tao gọi công an!         Lảng tránh ông già xấn xổ, gã kia bước giật lùi về phía cửa. Chợt khổ chủ kêu lên:         - Trông kìa! Trông đây này!         Ai nấy ngó xuống dưới. Chiếc ví da nai vàng đang nằm lăn lóc trên sàn xe bẩn thỉu, ẩm ướt. Ông già xông tới túm lấy ngực gã ăn cắp.         Xe điện đã đến bên đỗ. Ổng già vừa chửi mắng không ngớt miệng vừa lôi tên móc ví ra cửa. Khi họ đã xuống đến bậc vỉa hè chợt tên này ưỡn thẳng người lên thụi cho ông già một quả rất nhanh vào đúng giữa ngực ngã lăn ra, rồi ù té chạy.         Hắn lủi theo phố vắng, nghiêng đầu, giơ quả đấm lên đe dọa.         Chỉ còn mấy chục bước nữa là hắn rẽ vào một ngõ ngang, chạy qua đó cho tới đại lộ đông đúc và ở đây thì có mà giời tìm ra hắn trong dòng người cuồn cuộn.         Một đội tuần tra hiện ra trước mặt. Tên ăn cắp ngoái nhìn quanh. Đằng sau khoảng chừng mười người rượt theo, chạy tỏa ra khắp phố. do anh công an dẫn đầu. Khó mà lọt qua lưới bổ vây này. Nhưng thoát khỏi ba người lính có súng đang tiến đến đón đầu lại càng gay hơn. Trong giây phút quyết định tên thủ phạm thoáng thấy cái cổng trước sân nhà ai liền đâm bổ vào đó.         Khi những người đuổi bắt chạy được vào sân thì tên ăn cắp đang trèo thoăn thoắt trên chiếc thang cứu hỏa dựng vào tường một tòa nhà lớn. Hắn đã lên đến tầng thứ ba.         Hai chiên sĩ tuần tra đeo súng tiểu liên vào sau lưng rồi cùng trèo lên thang. Người lính thứ ba cùng với anh công an chạy vội vào cửa để trèo lên mái nhà bằng lối khác. Đám người hiếu kỳ xúm xít trong sân. Tên phạm tội trèo hết bậc thang và lẩn mất trước mắt họ...         Nhưng chỉ lát sau bóng người công an đã nhô lên trên mái nhà. Anh ta vẫy mũ để mọi người hiểu rằng tên ăn cắp đã bị bắt.         Anh công an trao hắn cho các đồng chí bộ đội giữ rồi chạy đi tìm khổ chủ. Nhưng lão già biến mất tăm... Mời các bạn đón đọc Hầm Bí Mật Bên Sông En-Bơ của tác giả Aleksandr Nasibov.
Người Đầu Tiên Trong Danh Sách
MagdalenaWitkiewicz- tác giả các cuốn sách đã in tại Nhà xuất bản Trẻ: Trường học dành cho các bà vợ, Lâu đài cát… hiện vẫn đang là tác giả có sách bán chạy nhất của văn học Ba Lan hiện đại. Tác phẩm mới của chị - Người Đầu Tiên Trong Danh Sách - là một tác phẩm ấm áp, xúc động về tình yêu, tình bạn. Thông điệp của tác phẩm: Không bao giờ là quá muộn để thay đổi một điều gì đó trong cuộc sống. Tình cảm thiêng liêng sẽ đưa con người vượt qua mọi lốc xoáy của số phận "Bạn không thể thay đổi quá khứ, nhưng bạn vẫn còn cơ hội để thay đổi tương lai…" *** Magdalena Witkewicz là nữ nhà văn Ba Lan đã có 9 cuốn sách được xuất bản, chuyên viết về những vấn đề quan trọng với văn phong nhẹ nhàng. Magdalena Witkiewicz hiện vẫn đang là tác giả có sách bán chạy nhất của văn học Ba Lan hiện đại. Magdalena Witkiewicz có một số tiểu thuyết rất hay về hôn nhân như: Trường Học Cho Các Bà Vợ Lâu Đài Cát Chuyện kể của người đàn bà không chung thủy, Người đầu tiên trong danh sách ... *** Nếu như hỏi một trong số những phụ nữ đang ngồi bên đống lửa trại kia, rằng tình bạn hay tình yêu quan trọng hơn, thì chỉ mới cách đây chưa lâu thôi, ai cũng sẽ trả lời rằng, tình yêu. Tình yêu, mà đôi khi thường là sự say mê, quyến rũ đã được đẩy lên vị trí số một. Nhiều khi phải trả giá bằng cả một tình bạn lớn. Song, gần đây có những sự kiện đã chỉ ra rằng, không một người đàn ông nào đáng giá cho hai mươi năm bị mất đi. Nhưng đôi khi phải cần đến hai mươi năm để có được một điều gì đó quan trọng nhất. - Thế thì cái gì ở vị trí số một? - người đàn bà cao đang quấn chiếc túi ngủ cho chặt hơn và hít điếu thuốc lá mỏng, hỏi. Chị ta với lấy chai rượu vang. - Đừng hút nữa! - Tất cả những người còn lại đồng thanh nói. Người trẻ nhất giữ chiếc cặp màu hồng. Những tờ giấy được cất trong đó một cách cẩu thả lộ cả ra, như thể bị ai đó vội vàng nhét vào cặp. Có thể thấy rõ là chúng đã được đọc nhiều lần. Cô gái ôm nó như ôm một tài sản quý giá nhất. Ngồi cạnh cô bên đống lửa là ba phụ nữ. Một người ngồi co chân, quấn chiếc chăn len, hai người kia quấn chung một chiếc túi ngủ, nhìn nhau hoài nghi. Giống như những người quen biết nhau trước đây, đã lâu không gặp và giờ bỗng nhiên tìm thấy nhau trong đám đông. Hay là đúng như vậy? - Đây sẽ là điếu cuối cùng - người đàn bà tóc vàng cười và e dè nói. - Cần phải khép lại chương này. - Chị ta lại hít sâu một hơi thuốc và kéo chiếc túi ngủ mạnh hơn. - Tôi quên mất là vào tháng Tám, buổi tối trời đã lạnh, và có lẽ phải đến cả trăm năm rồi tôi không nằm trong lều trại. - Ờ, một trăm năm thì chưa - người phụ nữ ngồi cạnh cười vang. - Chắc chắn là phải trên hai mươi - người đàn bà tóc vàng trầm ngâm. - Có thể thế... Khi ấy trăng cũng chiếu sáng như thế này, bà nhớ chứ? - Piotr chơi guitare... - Ina! - những người đàn bà lại đồng thanh lên tiếng. - Ok! Sẽ lần lượt. Ai đầu tiên nào? - Ina nhắc lại câu hỏi. - Bà. - Tại sao lại là tôi? - Người phụ nữ dập điếu thuốc, vẻ tức giận. - Tại sao à? Vì bà là người đầu tiên trong danh sách. Mời các bạn đón đọc Người Đầu Tiên Trong Danh Sách của tác giả Magdalena Witkiewicz.