Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ngang Trái Phủ Tây Hồ

Ngô Văn Phú sinh ngày 8 tháng 4 năm 1937, quê quán xã Nam Viêm, huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc. Ông là Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, Tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Hà Nội (ngành ngữ văn), là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1970). Nhà thơ Ngô Văn Phú vào đời văn khá sớm, ngay từ khi còn là học sinh Trường trung học Hùng Vương, ông đã có thơ in báo. Ông có sở trường về đề tài nông thôn và lịch sử. Ngoài sáng tác ông còn dịch sách. Sau khi tốt nghiệp đại học, ông về làm biên tập viên báo Văn học, (1961-1963); báo Văn nghệ (1963-1966); biên tập viên tạp chí Văn nghệ Quân đội. Năm 1972 ông giải ngũ; Từ 1972 đến 1976 phụ trách tổ thơ và tổ văn xuôi, tuần báo Văn nghệ. Từ 1976 đến 1989 là Trưởng ban thơ, Phó giám đốc Nhà xuất bản Tác phẩm mới. Hiện là Tổng biên tập Nhà xuất bản Hội Nhà văn. Nhà thơ đã nhận Giải thưởng thơ tạp chí Văn nghệ năm 1961, Giải thưởng văn xuôi báo Văn học, Giải thưởng ca dao của báo Văn học 1962, Giải thưởng văn học 5 năm của Hội Văn nghệ Hà Nội (1980-1985), Giải thưởng 5 năm Văn học Hùng Vương của Hội Văn nghệ Vĩnh Phú (1975-1980). • Tác phẩm đã xuất bản: - Về thơ: Tháng năm mùa gặt (1978); Ngọn giáp búp đa (1978); Đi ngang đồi cọ (1986); Cỏ bùa mê (1988); Đừng khóc (1991); Âm thầm (1992); Mặt trái xoan (1986); Mắt mùa thu (1994);.Hoa trắng tình yêu (1995). - Về văn xuôi: Ngõ trúc (1986); Bụi và lốc (1988); Ngôi vua và những chuyện tình (1990); Người đẹp ngậm oan (1990); Nợ đời phải trả (1990); Gươm thần Vạn kiếp (1991); Trần Hoàng làng (1993); Quán trọ giữa đời (1992); Dạo chơi núi Dục Thúy (1993); Ngang trái Phủ Tây Hồ (1993); Giấc mơ hoàng hậu (1994); Đêm rừng (1994); Quá trời (1994); Tuyên Phi họ Đặng (1996); Sao không là tình yêu? (1996). *** Nguyễn Trãi lại được triệu về kinh đô. Vua Lê vừa mất. Ngài mất đúng năm tuổi bốn chín, còn minh mẫn lắm. Nghe nói, sau khi triệu Lê Sát, Lê Ngân vào, ở bên giường, Lê Thái Tổ dặn dò: - Ta cùng các ông dấy nghĩa ở Lam Sơn. Ta thương mình thương người mà được làm vua, các ông theo ta mà được làm tướng. Lộc trời cho mà không biết… Vua mệt, nghỉ một lúc, nói tiếp: - Nay đất nước đã sạch bóng thù, muôn dân vất vả chưa được hưởng cảnh thái bình là bao nhiêu. Các ông nên giúp rập Vua trẻ mà làm rạng rỡ huân nghiệp của mình… Lê Sát, Lê Ngân dập đầu, lạy tạ lui ra… Vua mệt thiêm thiếp ngủ. Thái giám Đinh Thắng hầu hạ bên cạnh. Ánh đèn chập chờn để Vua ngủ, càng làm cho những người gần vua, phút chót, đều lo sợ… Vua khó qua khỏi được. Đức Vua trở mình. Đinh Thắng vội đến bên giường, vua hỏi: - Nguyễn Trãi đã đến chưa? - Dạ, hình như sắp đến! - Sao lại hình như? - Tâu, quân kỵ đi từ sớm tinh mơ, chắc đến Côn Sơn đã lâu, cũng sắp về rồi… - Lê Sát, Lê Ngân có còn ngồi chờ ngoài ấy không? - Dạ quan đại tư đồ, tư khấu đều về cả rồi… Chợt có người hầu ở phòng ngoài vào báo: - Hàn lâm viện thừa chỉ đã đến! Đinh Thắng thưa: - Tâu Hoàng thượng, Nguyễn Trãi đã về. - Vời vào ngay! [Chúc bạn đọc sách vui vẻ tại www.gacsach.com - gác nhỏ cho người yêu sách.] Nguyễn Trãi vừa từ Côn Sơn đến, đường xa rong ruổi, ông rất mệt. Song biết vua cho gọi trong lúc bệnh nặng, không phải chuyện thường, nên vừa đến hoàng thành, chưa kịp tắm gội, liền sửa khăn mũ, vào hầu ngay. Vua quay mặt ra, hơi thở khó khăn, mắt lờ đờ, ngước nhìn lên, thân mật hỏi: - Ông Trãi đấy à, ta chờ ông mãi! - Tâu Hoàng thượng, thần được triệu, sửng sốt lên đường ngay, không được biết thánh thể bất an nhường này, thật là đắc tội. Vua lấy sức, khẽ nói: - Ngồi lại gần đây với ta, ông Trãi. Nguyễn Trãi ngồi xích lại. Vua giơ tay ra, cầm lấy tay Nguyễn: - Ông Trãi, ông có nhớ hồi ông về Lam Sơn, ta hồi hộp chờ ông thế nào không? - Dạ, thần nhớ! - Hôm nay, ta chờ ông cũng như thế! Trãi cảm động lắm, giọng líu ríu: - Thần không bao giờ quên đặc ân mà Hoàng thượng ban cho thần. - Ông Trãi, ta được ông ở Lam Sơn như được người bạn lớn… Ta có những lúc sai sót, nghe quyền thần, xa người ngay thẳng thực bụng. Thông hiểu trời đất, lòng người, không ai bằng ông. Ta mong ông giúp rập con ta, nối chí lớn của ta ngày trước. Vua mệt, trở mình, nằm nghỉ, Đinh Thắng, đưa nhân sâm vua dùng, vua gạt tay ra, rồi thiêm thiếp trong phút phiêu du nhất của đời người. Người lẩm bẩm: - Con ta… làm vua… còn nhỏ quá! Vua thiếp dần đi. Nguyễn Trãi ràn rụa nước mắt, lui ra… * Tin Nguyễn Trãi được vua vời đến bên màn trướng, trút những lời tâm huyết cuối cùng, khiến quan đại thần Lê Sát bực bội lắm, ông ngồi đứng vào ra, không yên. Đêm ấy, cho người hầu lui, uống rượu một mình, lại cho gọi con gái nuôi đến bảo: - Con vào Hoàng cung, ngay bây giờ, được không? - Chẳng hay có việc gì gấp vậy, thưa cha? - Con hãy gặp Hoàng hậu và hỏi cho ta, khi Nguyễn Trãi gào gặp Hoàng thượng, ngài dặn dò ông ta những điều gì. - Con biết hỏi ai được! - Hỏi chị con, xem ai có mặt với Nguyễn Trãi trong lúc vua sắp mất ấy! - Dạ, con xin đi ngay… Đêm ấy, Lê sát hầu như mất ngủ. Ông cáu gắt, thất thường. Bọn hầu cận đưa mắt nhìn nhau, len lét sợ hãi, mờ sáng Lê Ngân đến, Lê Sát mời ngay vào phủ đệ, đến tận chỗ xét việc cơ mật, pha trà Long tỉnh, nói: - Ông có biết chuyện hệ trọng tối qua không? - Tôi chưa được biết! - Hoàng thượng đã cho vời Nguyễn Trãi về, dặn dò gì không biết. Làm quan tể tướng, lúc vua chết, không được nghe lời dặn dò, ủy thác, tôi và ông phải cẩn thận đấy! Lê Ngân ngồi thừ ra không nói! Lê Sát, bỏ chén trà, đứng dậy, đi đi lại lại, thổ lộ: - Vua là người từ đất hoang dã, làm nên nghiệp lớn, về kinh thành, rất sợ sự tráo trở. Do đó bọn võ biền chúng ta mới được dùng. Trần Nguyên Hãn bị sơ rồi bức tử mà chết. Phạm Văn Xảo, chỉ là người kinh kỳ cũng bị loại trừ… Đức vua là người lõi đời, biết được việc xa, việc gần. Nguyễn Trãi là một danh sĩ của Bắc Hà, mọi người đều kính nể. Bọn nho sĩ, văn thần ở kinh đô rất nể phục, vây cánh triền miên, không sao lục tìm diệt hết được. Lúc Trần Nguyên Hãn bị hạch tội, Nguyễn Trãi từng bị hạ ngục, ta muốn giết, nhưng Hoàng thượng sợ chấn động lòng người mà không giết, tha cho về, hưởng những ngày tàn ở Côn Sơn… Bây giờ, hắn lại mò về đây. Kinh đô là đất dụng võ của hắn. Vua mới nay mai còn nhỏ quá, lòng người lại càng phân tán thêm, ta và ông không biết có giữ được ngôi tể tướng nữa không. Mời các bạn đón đọc Ngang Trái Phủ Tây Hồ của tác giả Ngô Văn Phú.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Giã Từ Vũ Khí - Ernest Hemingway
Giã từ vũ khí  là một tiểu thuyết bán tự truyện của nhà văn Ernest Hemingway viết vào năm 1929. Nhiều nhà phê bình xem là một trong những tiểu thuyết chiến tranh vĩ đại nhất mọi thời đại, câu chuyện được thuật lại thông qua lời kể của trung úy Frederic Henry, một người Mỹ nhưng lái xe cứu thương trong quân đội Ý vào thời đệ nhất thế chiến. Toàn bộ nội dung cuốn tiểu thuyết là một câu chuyện của hai người nam nữ gặp nhau tại một nơi xa lạ, nhưng đây không hẳn là một câu chuyện tình và các chủ đề của tác phẩm gồm tình yêu, chiến tranh, các giá trị con người và sự tỉnh ngộ. “Vào cuối hạ nǎm ấy chúng tôi đóng quân trong một ngôi nhà ở làng trông sang sông và trông sang cánh đồng chạy dài đến chân núi. Lòng sông trong vắt, nhiều sỏi, đá cuội, long lanh ngời sáng dưới ánh nắng mặt trời và nước thì ngả màu xanh cuồn cuộn chảy...” Đoạn vǎn mở đầu cho cuốn tiểu thuyết là hình ảnh về làng quê yên bình đằng sau những đoàn quân vừa tiến qua làm tung lên những lớp bụi mờ mịt. từng tham gia chiến tranh, E.Hemingway thấu hiểu sự tàn bạo của chiến tranh phi nghĩa, ông đã giành cả cuộc đời của mình để chống lại những cuộc chiến tranh như vậy: điều đó được thể hiện rất nhiều trong các tác phẩm của ông, mà "Giã từ vũ khí" là một cuốn sách như thế. *** Ernest Hemingway (1899 - 1961) là nhà văn, nhà báo người Mỹ. Ông từng tham gia chiến đấu trong Chiến tranh thế giới lần thứ Nhất, sau đó ông được biết đến qua "Thế hệ đã mất", nhận được giải thưởng báo chí Pulitzer năm 1953 với tiểu thuyết Ông già và biển cả, và giải Nobel văn học năm 1954. Hemingway để lại ấn tượng sâu sắc đối với bạn đọc qua nguyên lý tảng băng trôi, văn phong của ông được mô tả bởi sự kiệm lời nhưng có nhiều tầng ý nghĩa, phải suy nghĩ thật sâu mới có thể hiểu hết được những gì tác giả gửi gắm. Nhiều tác phẩm của ông hiện nay được coi là những tác phẩm kinh điển của nền văn học Mỹ. Từ nhỏ Hemingway đã không thích học đàn mà thích đấu võ quyền Anh, bản tính chuộng chủ nghĩa cá nhân đã thể hiện nơi con người Hemingway bằng các phản kháng nhỏ nhặt, để rồi trong cuộc đời sau này, đã hiện ra bằng các hành động trên tầm vóc lớn hơn. Năm 1950, Hemingway xuất bản cuốn sách "Qua sông và vào trong rừng" nhưng không gây dấu ấn với độc giả. Năm 1952, cuốn tiểu thuyết "Ông già và biển cả" đã mang lại ngôi vị cho ông trên văn đàn, giúp ông nhận được giải thưởng báo chí danh giá Pulitzer năm 1953. Năm 1954 ông được viện Hàn lâm Thụy Điển trao tặng giải Nobel văn học vì thể văn mạnh mẽ dùng trong nghệ thuật kể chuyện mới lạ và thể hiện gần đây nhất qua tác phẩm "Ông Già và Biển Cả". Thời gian này người ta vẫn thấy ông đầy sức sống nhưng thực tế ông không hạnh phúc. Hemingway đã phải dưỡng bệnh dài hạn tại bệnh viện Mayo, ông bị ám ảnh vì cao huyết áp và suy sụp tinh thần. Tháng 7 năm 1961, ông thức dậy sớm và tự sát bằng một khẩu súng săn tại một nơi vắng vẻ của thị trấn Ketchum, Idaho. Ông ra đi mà không để lại lời trăn trối nào ngoài hình ảnh của các nhân vật trong nhiều cuốn tiểu thuyết mà ông đã sáng tạo ra. • Các Tác Phẩm Đã Xuất Bản Tại Việt Nam Ông già và biển cả (2000) Chuông nguyện hồn ai (Chuông gọi hồn ai) (2001) Giã từ vũ khí (2001) Hạnh phúc ngắn ngủi của Mác Cômbơ (2003) Truyện ngắn - Ernest Hemingway (2004) Truyện cực ngắn của Ernest Hemingway (2004) Hội hè miên man (2004)  *** Một đêm tôi thức giấc quãng ba giờ và nghe Catherine trở mình trên giường. - Em có bị ốm không, Catherine? - Em thấy hơi đau, anh ạ. - Đau liền liền hả em? - Không, đau từng chập. - Nếu đau liền liền thì phải đi bệnh viện. Tôi buồn ngủ quá nên nằm ngủ lại. Một lát sau tôi lại thức giấc: - Anh nên gọi bác sĩ thì hơn. Em nghĩ chắc là đúng rồi. Tôi quay số gọi điện thoại cho bác sĩ. - Có đau liên tục không Cat? - Hình như độ mười lăm phút. Vị bác sĩ nói: - Vậy thì ông phải đưa bà đến bệnh viện ngay. Tôi sẽ mặc quần áo và đến đó bây giờ. ... Mời các bạn đón đọc Giã Từ Vũ Khí của tác giả Ernest Hemingway.
Buồn Ơi Chào Mi - Françoise Sagan
“Mùa hè năm ấy, tôi mười bảy tuổi và hết sức hạnh phúc.”    Elsa bước vào một mùa hè ngập nắng cùng với cha và người tình của cha tại một biệt thự bên bờ Địa Trung Hải. Kỳ nghỉ tưởng chừng như êm dịu đó lại ẩn chứa những đợt sóng ngầm khi có sự xuất hiện của Anne, một người phụ nữ thanh lịch, chỉn chu, ngược hẳn với cách sống dễ dãi, phóng túng của cha con Elsa. Kịch tích bắt đầu khi cha Elsa ngã vào lòng Anne với mong muốn cưới người phụ nữ sẽ đưa bố con ông vào khuôn khổ. Một kế hoạch hình thành trong đầu Elsa, cô gái đang say nồng trong mối tình tuổi trẻ, để rồi khi kết thúc… “Một cái gì đó dâng lên trong lòng tôi và tôi đón chào nó bằng chính tên của nó, mắt nhắm lại: Buồn ơi chào mi.”   Buồn ơi chào mi gây chấn động trên toàn thế giới ngay khi xuất hiện. Cho đến giờ, độc giả vẫn không ngừng bị cuốn hút bởi nhạc điệu u buồn trong lối viết uể oải đặc trưng của Françoise Sagan.  Cécile, nhân vật người kể chuyện trong Buồn ơi chào mi là một cô gái trẻ rất được cưng chiều. Buồn chán vì trượt thi, cô bé cùng bố về nghỉ hè tại một khu biệt thự ở miền Nam nước Pháp. Raymond, bố cô, là một người đàn ông ngoài 40, góa vợ và hào hoa. Những mối tình chớp nhoáng của ông với các cô nhân tình, mà người cuối cùng là Elsa, đang sắp sửa chấm dứt khi ông định làm đám cưới với Anne Larsen – một người bạn cũ của vợ. Vốn sống phóng khoáng, yêu tự do và thù ghét cuộc sống thanh bình, Cécile không chịu nổi lối sống mực thước, gò bó mà Anne định liệu, cô bé tìm cách chọc tức Anne. Nhờ sự giúp đỡ của Cyril – một chàng sinh viên luật say đắm mình – Cécile sắp đặt cho Anne nhìn thấy cảnh bố cô “thân mật” với Elsa. Kế hoạch thành công, Anne bực tức, lao xe điên loạn trên đường và tử nạn. Cécile cùng bố trở về Paris, bỏ lại sau lưng cát trắng, biển xanh, nỗi buồn và cả những tháng ngày nồng nàn với Cyril.  *** Nhận định “Tôi đã biết đến vinh quang khi 18 tuổi trong 188 trang giấy…”  - Françoise Sagan khi nói về Buồn ơi chào mi *** Françoise Sagan, tên thật là Françoise Quoirez, sinh năm 1935 tại Cajarc và mất năm 2004. Bà trải qua thời thơ ấu tại Paris trong một gia đình khá giả. Năm 18 tuổi, bà viết tiểu thuyết đầu tay, Buồn ơi chào mi, ngay lập tức gặt hái được thành công vang dội. Ngay trong năm đầu xuất bản tại Pháp, cuốn tiểu thuyết đã bán được 850.000 bản, được cả công chúng lẫn giới phê bình đánh giá cao. Kể từ đó, thế giới bắt đầu biết đến bút danh Sagan - được lấy theo tên một nhân vật của Proust - của bà. Sự nghiệp sáng tác của bà khá đồ sộ với khoảng hơn 50 tiểu thuyết, 30 triệu bản sách bán được riêng tại Pháp, và được chuyển ngữ ra nhiều thứ tiếng. Được coi là một trong những thành viên của Làn Sóng Mới, bà còn tham gia viết kịch và lời thoại phim. Tác phẩm đầu tay của bà được nhận giải Prix des Critiques do một hội đồng nổi tiếng trao tặng và năm 1985 bà nhậnđược giải Prix de la Fondation Prince Pierre của Monaco cho toàn bộ tác phẩm của mình. Françoise Sagan được coi như một huyền thoại mà danh tiếng đã vượt ra ngoài nước Pháp, là totem của một giai đoạn tự do và vô lo. *** Đám tang cử hành ở Paris một ngày đẹp trời. Vẫn là đám đông những người hiếu kỳ vận y phục đen. Cha tôi và tôi bắt tay các người bà con lớn tuổi của Anne. Tôi thú vị quan sát họ; lẽ ra họ sẽ đến nhà chúng tôi dùng trà mỗi năm một lần. Mọi người nhìn cha tôi với ánh mắt thương xót. Chắc Webb đã loan truyền cuộc hôn nhân bất thành của cha tôi. Tôi thấy Cyril tìm tôi sau buổi lễ, nhưng tôi lẫn tránh. Biết rằng oán hận anh là vô căn cứ, nhưng tôi không thể làm khác hơn. Mọi người đều thương tiếc tai nạn thảm khốc vô nghĩa ấy, và, vì tôi vẫn không chắc đó là một tai nạn, nên tôi thấy nhẹ lòng hơn. Trong xe trên đường lái về nhà, cha tôi cầm tay tôi và xiết chặt. Tôi nghĩ: "Bây giờ chỉ còn lại cha với mình. Chúng ta cô độc và không hạnh phúc." Lần thứ nhất tôi khóc. Nước mắt xoa dịu hồn tôi. Chúng không giống chút nào cõi hư vô kinh khủng mà tôi cảm nhận ở bệnh viện trước bức tranh Venice. Cha tôi lẳng lặng đưa khăn tay cho tôi. Gương mặt của ông tan nát thảm sầu. Trong một tháng chúng tôi sống như một ông góa và đứa con mồ côi, ăn chung tất cả bửa ăn và ngồi rịt trong nhà. Thỉnh thoảng chúng tôi nhắc tới Anne. "Có nhớ ngày mà ..." Chúng tôi cẩn thận lựa lời, và tránh nhìn vào mắt nhau, e rằng sẽ gợi lên những niềm đau, hay một thứ gì không thể sửa đổi sẽ chen vào giữa. Sự thận trọng và dè dặt của chúng tôi đưa đến một đền bù. Chẳng bao lâu chúng tôi đã có thể nhắc đến Anne như một người bạn yêu quý, người mà chúng tôi có thể chia sẻ hạnh phúc, nhưng Chúa đã sớm gọi về Trời. Tôi viết là Chúa, không phải định mệnh -- nhưng chúng tôi không tin Chúa. Trong những trường hợp này, chúng tôi lấy làm biết ơn là chúng tôi tin vào số phận. ... Mời các bạn đón đọc Buồn Ơi Chào Mi của tác giả Françoise Sagan.
Nơi Cuối Cầu Vồng - Cecelia Ahern
Đôi bạn thân thiết Alex và Rosie từ khi bảy tuổi đã bắt đầu trao nhau những bức thư chia sẻ  mọi điều buồn vui trong cuộc sống, từ chuyện con chó cưng của Alex cho tới cô Casey có cái mũi to xấu xí. Tuổi thơ láu lỉnh và nghịch ngợm trôi qua, cho tới thuở mười lăm, mười sáu ẩm ương với những xúc cảm hồi hộp và lãng mạn chớm nở… tất cả được gói gọn trong những lá thư dấu kín dưới hộc bàn lớp học. Rồi đột ngột, cha Alex được thăng chức, cậu đành phải miễn cưỡng theo gia đình chuyển tới Boston, rời xa Rosie và những ngày tháng ngọt ngào... Nơi cuối cầu vồng, cuốn tiểu thuyết viết lên từ những dòng thư, những cuộc chat và những tấm bưu thiếp qua năm tháng, đã tiếp tục đưa Cecelia Ahern trở thành một tác giả bestselling trên khắp thế giới. Nồng ấm tình bạn, tình yêu, đầy ắp những rung cảm mãnh liệt và những chi tiết bất ngờ, Nơi cuối cầu vồng không chỉ là một cuốn sách hấp dẫn, mà còn lời nhắn gửi dành riêng cho những tâm hồn tri kỷ phải vượt qua mọi thử thách để đến với nhau, và đủ dũng cảm nói lên những lời chân thật. *** Cecelia Ahern, sinh ngày 30-9-1981, là con gái của cựu Thủ tướng Bertie Ahern Ireland, bắt đầu viết tiểu thuyết từ năm 2004. Ngoài ra, cô còn có nhiều truyện ngắn in trong các tuyển tập, mà tất cả nhuận bút đều được dành để làm từ thiện. Năm 2000, cô từng tham gia một ban nhạc về thứ ba trong cuộc thi nhạc pop toàn quốc để chọn ứng viên tham dự cuộc thi Eurovision Song. Trước khi bắt đầu viết văn, cô đã tốt nghiệp đại học ngành báo chí và truyền thông đại chúng. Năm 2002, Cecelia Ahern viết tiểu thuyết đầu tay, PS, I Love You, được xuất bản năm 2004, và sau đó trở thành sách bán chạy số 1 ở Ireland, Vương quốc Anh, Mỹ, Đức và Hà Lan. Nó cũng được bán ở hơn 40 nước khác. Cuốn sách cũng đã được chuyển thể thành phim và ra rạp năm 2007. Tiểu thuyết thứ hai của cô, Where Rainbows End (Nơi cuối cầu vồng), cũng là sách bán chạy số 1 ở Ireland và Vương quốc Anh, và giành giải CORINE của Đức năm 2005. Tiểu thuyết mới nhất của cô là 'The Gift' và đã được xuất bản cuối năm 2008. *** Rosie đọc bức thư có đến lần thứ một triệu trong đời, gập lá thư lại thành những hình vuông gọn gàng và nhét trở vào phong bì. Mắt cô dõi theo từng chồng thư từ, bưu thiếp, email được in ra, những đoạn chat in ra, những tờ fax và cả những ghi chú nguệch ngoạc từ hồi đi học của cô. Có đến hàng trăm lá trải ra trên sàn nhà, mỗi lá lại kể câu chuyện riêng mình về niềm vui hay nỗi buồn, mỗi lá đại diện cho một giai đoạn trong đời cô. Cô đã giữ lại tất cả. Cô ngồi trên một tấm thảm da cừu phía trước lò sưởi trong phòng ngủ của mình ở Connemara, và tiếp tục xếp những dãy chữ đang trải ra trước cô. Cuộc đời cô viết bằng mực. Cô đã mất cả đêm đọc lại tất cả, và lưng cô đau nhức vì cúi khom xuống và mắt cô cay xè. Cay xè vì mệt mỏi và vì nước mắt. Những người cô yêu quý đã quay trở lại thật sống động trong tâm trí cô suốt những giờ ấy khi cô đọc thấy nỗi sợ hãi, cảm xúc và những suy nghĩ của họ, những thứ từng là thật nhưng bây giờ đã ra khỏi cuộc đời cô. Những người bạn đã đến rồi đi, đồng nghiệp, bạn học, người yêu và các thành viên gia đình. Cô đã ôn lại cả cuộc đời mình đêm đó chỉ trong chừng ấy giờ đồng hồ. ... Mời các bạn đón đọc Nơi Cuối Cầu Vồng của tác giả Cecelia Ahern.
Gia đình Buddenbrook
Tiểu thuyết kể câu chuyện về một gia đình đại tư sản ở miền Bắc nước Đức đã giúp tác giả Thomas Mann giành giải Nobel văn chương năm 1929. Gia đình Buddenbrook kể về sự suy tàn của hãng xuất nhập khẩu ngũ cốc Johann Buddenbrook, thực chất là kể về gia đình, tổ tiên của Thomas Mann ở thương cảng nổi tiếng Lubeck. Bốn thế hệ của dòng họ Buddenbrook - một dòng họ tư sản thương nghiệp cứ dần dần lụn bại trên thương trường, suy sụp trong đạo lý, văn hóa. Thomas Mann đã dựng lên một bức tranh toàn diện và chân thực về đời sống của tầng lớp trung lưu: kết hôn và ly hôn, sinh ra và chết đi, thành công và thất bại. Những sự kiện ấy lặp đi lặp lại qua nhiều thế hệ, trong khi gia đình Buddenbrook dần bị cuốn vào vòng xoáy hiện đại dẫn đến sự sụp đổ không thể tránh khỏi của cả dòng họ. Chủ nghĩa bi quan được thể hiện rõ trong tiểu thuyết. Trong tác phẩm, Thomas Mann miêu tả cảnh buôn bán tấp nập, đồng thời là cảnh suy tàn của thương nghiệp ở thành phố cảng nổi tiếng của Đức. Với hơn 400 nhân vật, câu chuyện giàu chi tiết và đầy tính nhân văn, Gia đình Buddenbrook vượt qua các tác phẩm văn chương viết về gia đình vốn thịnh hành ở châu Âu thời điểm đó, và trở thành một hình mẫu của thể loại này.  Gia đình Buddenbrook đứng thứ 7 trong top 100 cuốn tiểu thuyết Đức ngữ hay nhất thế kỷ 20. Cứ 10 người Đức thì có một người đọc tác phẩm này. Ở Trung Quốc, Gia đình Buddenbrook được coi là phiên bản Đức ngữ của Hồng lâu mộng. Cũng giống như độc giả Hồng lâu mộng, người đọc tác phẩm này của Thomas Mann thường vẽ cây phả hệ của gia tộc Buddenbrook nhớ quan hệ của các nhân vật và tiện theo dõi tác phẩm. *** Paul Thomas Mann (1875 - 1955) là nhà văn Đức đoạt giải Nobel Văn học năm 1929 và Giải Goethe năm 1949. Ông được coi là nhà văn lớn nhất của Đức thế kỷ 20. Thomas Mann là nhà văn có tư tưởng nhân đạo. Ông tập trung miêu tả quá trình suy sụp của giai cấp tư sản với một ngòi bút hiện thực, mỉa mai, chú trọng phân tích tâm lý. Văn của Thomas Mann chính xác, từ ngữ gọt giũa kỹ lưỡng, đòi hỏi người đọc phải tập trung suy nghĩ; ông sử dụng nhiều kiến thức về triết học, tôn giáo, lịch sử, văn hóa, nghệ thuật, y học, xã hội học, phân tâm học. Năm 1913, cuốn tiểu thuyết ngắn Der Tog in Venedig (Chết ở Venice) được xuất bản, cùng với Tonio Kroger được coi là những tác phẩm xuất sẳc nhất thuộc thể loại này. Thế chiến thứ nhất đã đẩy nhà văn vào một cuộc khủng hoảng tinh thần trầm trọng, ông viết tập ký 600 trang Betrachtungen eines Unpolitischen (Những suy ngẫm ngoài chính trị, 1918) trong thời gian này. Sau chiến tranh ông trở lại với văn học nghệ thuật, hoàn thành một trong những đỉnh cao sáng tác của minh là Der Zauberberg (Núi thần, 1924). Năm 1929, ông được nhận giải Nobel, chủ yếu vì bộ tiểu thuyết vĩ đại Buddenbrooks - Verfall einer Familie.  Từ những năm 1930, Thomas Mann tích cực tham gia các hoạt động chính tri chống chủ nghĩa phát xít; dưới thời Đức quốc xã sách của ông bị cấm và bị đốt ở Đức, ông bị tước quốc tịch Đức (1936), phải sống lưu vong. Năm 1938 ông sang Mỹ và trở thành công dân Mỹ (1944). Sau chiến tranh ông về thăm cả Đông và Tây Đức, được đón tiếp long trọng nhưng ông không ở lại Đức mà sang định cư ở Zurich (Thụy Sỹ) cho đến khi mất. Ngoài giải Nobel, ông được cả Đông và Tây Đức trao tặng giải thưởng Goethe năm 1949; ông cũng được Đại học Oxford và Đại học Cambridge trao bằng danh dự. ***  Thomas Mann đã muốn thông qua sự sụp đổ của gia đình Buddenbrook về các mặt kinh tế, đạo đức và địa vị xã hội để nói lên sự hủy diệt tất yếu của giai cấp tư sản ăn bám, tàn nhẫn và mục nát. Các nhà nghiên cứu cho biết rằng ông đã miêu tả chính gia đình ông trong cuốn truyện này. Ông nội Thomas Mann cũng là một thương gia kinh doanh lương thực, y như cụ Johann Buddenbrook trong truyện. Thân sinh ông cũng là một cổ đông trong công ty lương thực và cũng kiêm chức tham nghị như ông tham Buddenbrook. Tác giả còn dùng cả gia phả, thư tín, giấy tờ của gia đình mình, lấy những người họ hàng thân thích của mình làm mẫu để xây dựng các nhân vật trong truyện. Tòa nhà cũ của tác giả ở Lübeck cũng được đem vào truyện, cho nên khi cuốn tiểu thuyết này ra đời, tòa nhà đó đã được người đời mệnh danh là “nhà Buddenbrook”. Đọc tác phẩm này, chúng ta thấy ngòi bút của Thomas Mann rất sinh động, không chút giả tạo, hấp dẫn từ đầu chí cuối. Ông đã vẽ lên bức tranh xã hội Đức thời bấy giờ với đủ các mẫu người như thương gia, học giả, nghị viện, mục sư v.v... đặc biệt ông đã phản ánh đầy đủ những đặc điểm chung của tầng lớp thị dân đang trên bước đường suy sụp. Thế lực ngự trị trong xã hội là đồng tiền. Có thể nói khi đụng đến tiền, thì mọi thứ quan hệ trong xã hội đều rạn nứt, đổ vỡ, kể cả quan hệ ruột thịt. Gia đình Buddenbrook sống rất hòa thuận, êm đềm, nhưng đến khi đụng đến gia tài, tiền bạc thì tranh giành cãi cọ nhau, xung đột nhau rất kịch liệt. Tình cảm giữa ông tham Buddenbrook và bác Gotthold, người anh cùng cha khác mẹ; hay giữa Thomas và Christian, hai anh em ruột thịt đã sứt mẻ vì đồng tiền. Khi bà cụ tham lấy tiền cho con rể là mục sư Tiburtius, theo yêu cầu của con gái út lúc hấp hối, Thomas đã to tiếng cãi nhau với mẹ. Hay khi bà cụ tham vừa qua đời, chưa khâm liệm, anh em trong nhà này đã tranh giành của cải, không ai chịu ai, thậm chí còn chửi mắng nhau, đến nỗi Tony phải van xin: “Anh Tom... Anh Christian, me còn nằm đấy chưa khâm liệm...”. Sức mạnh của đồng tiền còn bộc lộ cả trong việc hôn nhân. Họ lấy vợ lấy chồng không phải vì thương yêu nhau mà là lấy tiền lấy của. Cụ Johann Buddenbrook lấy cụ bà thuộc dòng họ Duchamps ở Hamburg, ông tham Buddenbrook lấy bà Elisabeth Kröger hay Thomas lấy Gerda Arnoldsen đều vì được thu về những khoản hồi môn rất lớn. Antonie, con gái yêu quý của ông tham Buddenbrook yêu Morten, sinh viên trường thuốc, nhưng không lấy được vì anh chỉ là con một viên chức thường, ông tham không bằng lòng gả, trái lại cô phải lấy Grünlich, một tên bịp bợm, cuối cùng hạnh phúc tan vỡ. Bên cạnh đó có một số con gái lớn tuổi, không lấy chồng được cũng chỉ vì không có của hồi môn (như ba chị em con ông Gotthold Buddenbrook ở phố Breiten, hay Klothilde và một số người khác). ... Mời các bạn đón đọc Gia đình Buddenbrook của tác giả Thomas Mann.