Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Trở Về Nơi Hoang Dã

"Có lẽ cũng như những đứa trẻ khao khát được khám phá thế giới hoang dã, tôi đã từng tưởng tượng mình đang ăn mặc như những nhà thám hiểm thường thấy trên TV, đầu đội mũ cứng, mặc quần áo kaki trắng ngà và đôi giày chuyên dụng. Tôi tưởng tượng ra mình đang đứng trước cây baobab, sờ vào vỏ cây thô cứng, áp tay vào thân cây mát rượi và ngước mắt lên nhìn ánh mặt trời chói chang của vùng đất châu Phi. Đối với tôi lúc bấy giờ, đó chỉ là ước mơ, và tôi chưa bao giờ nghĩ rằng mình có thể thực hiện được ước mơ ấy. Vậy mà chỉ còn khoảng 20 tiếng nữa là tôi sẽ thực sự đến vùng đất đó, thực sự thực hiện ước mơ thưở nhỏ." Cuốn sách này ghi lại hành trình năm năm theo đuổi đam mê của nhà bảo tồn động vật hoang dã Trang Nguyễn. Từ lời hứa năm nào với chú gấu tội nghiệp bị nhốt lấy mật, cô gái 9x nhỏ bé quả cảm đã thực hiện những những chuyến đi xuyên địa cầu, đương đầu với những khó khăn cả về vật chất và tinh thần, thậm chí cả căn bệnh ung thư khi đơn độc ở đất khách quê người. Đầy ắp thông tin về môi trường và tình cảm dành cho mẹ thiên nhiên, Trở về nơi hoang dã còn là một cẩm nang thiết thực về việc bảo vệ Trái đất thân yêu cho mỗi người. Cuốn sách được minh họa bởi họa sĩ Đào Văn Hoàng, một người tâm huyết và gắn bó sự nghiệp nghệ thuật với công tác bảo tồn động vật hoang dã. "Cách viết, lối kể chuyện giản dị nhưng vẫn đầy màu sắc, đôi khi lại rất dí dỏm, và đôi khi ngập tràn cảm xúc mãnh liệt, làm cho người đọc cứ bị cuốn hút để lật tiếp hết trang này tới trang khác, chắc chắn không phải là một kỹ năng mà nhà khoa học, nhà bảo tồn nào cũng có được." - Hồng Hoàng, Giám đốc Trung tâm Hành động và Liên kết vì Môi trường và Phát triển (CHANGE) ***   Trang Nguyễn sinh năm 1990, là một nhà bảo tồn động vật hoang dã. Bắt đầu tham gia các hoạt động về bảo tồn động vật hoang dã vào năm 16 tuổi, Trang Nguyễn là người sáng lập và điều hành tổ chức WildAct tại Việt Nam. Hiện nay cô đang thực hiện các dự án bảo tồn động vật hoang dã ở Nam Phi, Campuchia và Việt Nam. Trang Nguyễn là đại sứ cho quỹ United for Wildlife của hoàng gia Anh. Năm 2018, cô nhận được giải thưởng Future for Nature cho các nhà bảo tồn động vật hoang dã quốc tế, lọt vào top 30 Under 30 Forbes Vietnam và Women of the Future – South East Asia. *** Điều phi thường làm nên một cuộc đời ý nghĩa Việc bảo tồn động vật hoang dã, việc nghiên cứu thực địa ở trong rừng đòi hỏi rất nhiều yếu tố về sức khỏe, sự kiên trì và lòng nhiệt huyết,… vượt qua mọi mặc cảm “Bọn con gái ở thành phố thì biết gì về rừng?”, “Con gái vào rừng thì làm được gì?”, “Có lội được sông không?” , “Nhìn gầy gò thế này thì làm được gì?” cơ hội được sống an nhàn như bao cô gái khác, Trang Nguyễn đã thực hiện lời hứa năm nào với chú gấu bị hành hạ, cô gái nhỏ quyết tâm bảo vệ động vật hoang dã. Những chuyến đi vô cùng khắc nghiệt, sự yêu thương động vật hoang dã được thể hiện qua từng câu chữ khiến người đọc vô cùng xúc động và khâm phục khả năng phi thường của tác giả. Đồng cảm hơn với thế giới tự nhiên Có thể với chúng ta, những màn xiếc thú, biểu diễn điêu luyện của những con vật ở sở thứ hay rạp xiếc đem lại sự thích thú thế nhưng bạn không biết đằng sau những màn biểu diễn ấy là những nỗi đau không ai thấu. Những con vật bị xiềng xích, đánh đập và thậm chí là bị bỏ đói trong quá trình luyện tập. Con người có cảm xúc và động vật cũng vậy. Thế tại sao chúng ta lại thờ ơ với những cảm xúc của động vật chỉ để có được giây phút vui vẻ cho chính mình? “Liệu chúng ta có sẵn sàng đánh đổi điều tuyệt vời mà thiên nhiên đang mang lại chỉ để mua vui bằng vài tiếng cười độc ác không?” Điều ý nghĩa mà cô gái nhỏ góp phần làm cho Thế giới thêm tốt đẹp “Chỉ có cuộc sống vì người khác mới là cuộc sống đáng quý” (Albert Einstein) Thay vì chọn cuộc sống an nhàn như bao cô gái khác ở thành phố, những chuyến đi thực địa ở rừng, Trang Nguyễn hết sức đau lòng trước vấn nạn săn bắn động vật hoang dã trái phép, nạn chặt phá rừng, làm tổn hại nghiêm trọng đến mẹ thiên nhiên. Không chỉ những động vật hoang dã đứng trước nguy cơ diệt vong mà con người cũng sẽ phải trả giá cho những hành động làm tổn hại đến thiên nhiên. Những câu chữ mà Trang Nguyễn viết như truyền đến nguồn động lực cho chúng ta sống đúng đắn với thế giới tự nhiên. Cảm nhận của độc giả “Trang cũng quý hiếm như thiên nhiên hoang dã mà cô yêu, không chỉ bởi cô là một người Việt Nam với bộ hồ sơ đáng ngưỡng mộ với nền tảng giáo dục quốc tế và kinh nghiệm thực tế, mà còn bởi cô là phụ nữ. Không chịu khuất phục trước những định kiến xã hội, những gì Trang làm được có tính tiên phong và lan tỏa. Để nghành bảo tồn tiến xa hơn ở Việt Nam trong việc bảo vệ những loài quý hiếm đang bị đe dọa, không thể thiếu được những người như Trang.” - Josh Kempinski(Giám đốc Chương trình Việt Nam. Fauna & Folra International) “Cách viết, lối kể chuyện giản dị nhưng vẫn đầy màu sắc, đôi khi lại rất dí dỏm và đôi khi ngập tràn cảm xúc mãnh liệt, làm cho người đọc cứ bị cuốn hút để lật tiếp trang này tới trang khác, chắc chắn không phải là một kỹ năng mà nhà khoa học, nhà bảo tồn nào cũng có được” - Hồng Hoàng (Giám đốc Trung tâm Hành động và Liên kết vì Môi trường và Phát triển (CHANGE) Điều ý nghĩa mà cô gái nhỏ góp phần làm cho Thế giới thêm tốt đẹp Trích dẫn hay từ sách Hãy nhìn sâu vào thiên nhiên, bạn sẽ thấu hiểu mọi thứ rõ ràng hơn. (Albert Einstein) Tôi không muốn bảo vệ thiên nhiên, tôi muốn tạo ra một thế giới mà thiên nhiên không cần phải bảo vệ. (Khuyết Danh) Thiên nhiên lặng thầm mà tràn đầy tình yêu thương và khát vọng Tất cả đều biết nói, nếu lắng nghe bằng cả trái tim. Sự thật là những cánh rừng chẳng quan tâm tôi là nam hay nữ, béo hay gầy, da sạm hay da trắng. Thiên nhiên không đánh giá tôi là người thế nào qua vẻ bề ngoài của tôi, nó nhìn tôi bằng đôi mắt xanh thẳm, và đánh giá tôi bằng hành động của tôi, bằng cách tôi sống và điều tôi làm. Lời kết Không chỉ là tinh thần dũng cảm theo đuổi đam mê mà chính sự phấn đấu để bảo vệ động vật hoang dã đã làm cho cuộc đời của Trang Nguyễn đáng sống hơn bao giờ hết. Hy vọng bạn sẽ không bỏ qua một cuốn sách ý nghĩa như thế này, hãy dừng một chút, lắng nghe thiên nhiên nhiều hơn để góp phần làm những điều tốt đẹp cho thế giới tự nhiên nhé. *** Mình thật sự có cảm tình với những người “tay ngang” viết sách, như là chị Trang – nhà bảo tồn, Dương Minh Tuấn – bác sĩ, hay nhiều người viết tự truyện về cuộc đời mình. Mình thấy ngôn ngữ nó giản dị, chân thành, không cầu kỳ hoa mỹ. Từ trái tim đến với trái tim. Văn phong của chị Trang đúng là không có gì quá đặc biệt, nhưng chính những câu chuyện, những trải nghiệm, chính sự chân thành của chị đã đủ để thu hút người đọc rồi. Cuốn sách này kể về hành trình của chị Trang trong vòng 5 năm, từ lúc bắt đầu là một cô bé sinh viên thạc sĩ mới chỉ 21 tuổi, đến khi cuốn sách kết thúc là một “người lớn” trưởng thành hơn, và chững chạc hơn ở tuổi 26. Bên cạnh đó cũng có những câu chuyện về đời tư của chị như lúc điều trị ung thư và mối tình đáng yêu của chị và Brian. Đọc những câu chuyện của chị, mình cảm nhận được tâm huyết với ngành bảo tồn, tình yêu tha thiết của chị với thiên nhiên, với động vật hoang dã. Không cần những từ đao to búa lớn, không cần phải nói suốt mình yêu thiên nhiên như thế nào. Đọc những điều chị viết, thấy những việc chị làm, là tình yêu đó truyền được cả sang mình, tình yêu mãnh liệt với thiên nhiên ngập tràn trong những trang sách của chị. Đọc mà rạo rực, mà muốn làm ngay cái gì đó tốt cho môi trường, thiên nhiên. “Trở về nơi hoang dã” được viết bằng nỗi khát khao được trải lòng, được truyền lửa, được sẻ chia. Không chỉ truyền tình yêu, đam mê mà chị còn chia sẻ nhiều kiến thức bổ ích mà thú thật là nhiều điều trước giờ mình cũng không biết. Chính chị cũng viết rằng mình sợ nếu cuốn sách trở nên phổ biến lại có nhiều bạn trẻ vào rừng để ‘thử’ cảm giác đi rừng, mà không hề trang bị đủ kiến thức để sinh tồn cũng như hiểu biết để không làm hại môi trường hoang dã. “Bạn chỉ muốn bảo vệ những gì bạn yêu, và bạn sẽ chỉ yêu những thứ mà bạn có thể hiểu.” Đọc sách mình hiểu hơn về thực tế nạn săn bắn động vật hoang dã. Những con số đáng sợ về nạn săn trộm và buôn bán động vật hoang dã, cả những câu chuyện buồn về những con thú non mất mẹ hay những con thú bị nuôi nhốt, hành hạ… Đọc thấy rất ‘thật’, mà thật rồi lại xót xa, lại thấy con người tham lam đến nhường nào, lại thấy mình thờ ơ ra sao. Mình buồn thay những con người tự cho mình cái quyền chà đạp giống loài khác, cho mình cái quyền tàn phá thiên nhiên. Một cuốn sách non-fiction hiếm hoi làm mình khóc. Khóc vì nghị lực của chị Trang, khóc vì những nỗi đau mà con người gây ra cho thiên nhiên, cho động vật hoang dã. Khóc vì đến cuối cùng chị vẫn theo đuổi, và còn tìm được một người đồng hành trên chặng đường dài phía trước. Thế giới cần thêm những người phụ nữ như chị. Cảm ơn chị vì đã không từ bỏ, và cảm ơn chị vì đã kể câu chuyện của mình. Cuốn sách còn là định hướng cho những người muốn dấn thân vào ngành bảo tồn. Trong suốt những câu chuyện của chị, chị đã chia sẻ rất thật về những khó khăn khi làm bảo tồn, đặc biệt là với phụ nữ làm ngành này. Một con đường không dễ để đi, nhưng nếu bạn có tâm huyết và tình yêu đủ lớn, thì cứ vững vàng bước tới. Nếu như bạn là một người có quan tâm đến động vật hay thiên nhiên nói chung, đây là cuốn sách hoàn hảo dành cho bạn. Nhưng dù cho bạn không hứng thú lắm thì mình nghĩ cũng nên thử đọc xem sao, bởi vì chắc chắn nó sẽ làm cho bạn quan tâm thôi. Tin mình đi! “ Có lẽ chúng ta không thể cứu được tất cả các muôn loài, nhưng nếu không cố gắng, chúng ta sẽ mất đi tất cả.” (Sir Peter Scott) Trích dẫn nổi bật của sách Trở về nơi hoang dã 1, “Sự thực là những cánh rừng chẳng quan tâm tôi là nam hay nữ, béo hay gầy, da sạm nắng hay da trắng. Thiên nhiên không đánh giá tôi là người thế nào qua vẻ bề ngoài của tôi, nó nhìn tôi bằng đôi mắt xanh thẳm, và đánh giá tôi bằng hành động của tôi, bằng cách tôi sống và điều tôi làm.” 2, “Chiều tà ở Châu Phi quả thực rất đẹp. Con nắng gay gắt đã tắt, chỉ còn lại màu đỏ cam, vàng rực cả góc trời. Không khí dịu xuống, cũng là lúc những loài động vật bắt đầu hoạt động nhiều hơn: những loài hoạt động về đêm ‘khởi động’ để chuẩn bị cho những chuyến đi săn, những loài hoạt động vào ban ngày cố vớt vát những tia sáng cuối cùng để uống nước, tắm bùn, rồi í ới gọi nhau trốn vào những bụi cây lớn để tránh thú săn mồi.” 3, “Liệu chúng đã nghĩ gì khi giương cung tẩm chất độc chết người để bắn chú voi già tội nghiệp? Cảnh Satao phải vật lộn với sự đau đớn, tiếng kêu cứu thống thiết của Satao liệu chúng có nghe thấy? Có lẽ khi ấy, những kẻ săn trộm chỉ nhìn thấy cặp ngà to khỏe của Satao…Lòng tham cuối cùng cũng chiến thắng tình người.” 4, “Những chú voi con nghịch ngợm đang chạy quanh voi mẹ với đôi tai dang rộng vì phấn khích. Thế rồi, tôi nhận ra Jumbo, chú voi khoảng 3 năm tuổi từng bị những người khách du lịch vô trách nhiệm phóng xe quá tốc độ trong khu bảo tàng đâm phải. Chú voi tội nghiệp tự lết đi đằng sau cả đàn, thỉnh thoảng lại dừng lại để nghỉ chân rồi lại vội vã lết đi. Tôi có thể thấy cả đàn đều rất nhẫn nại chờ chú: thỉnh thoảng chúng dừng lại, ngoái về phía sau để chắc chắn rằng Jumbo vẫn đang theo kịp đàn. Những chú voi khác lúc lắc đầu, rướn vòi về phía sau như kêu gọi, động viên Jumbo cố lên. Cả đàn cứ di chuyển chậm như thế, cho đến khi Jumbo dường như đã mệt lắm rồi, chú đi chậm hẳn lại, vung vẩy chiếc vòi với vẻ cáu kỉnh. Những thành viên khác trong đoàn đều dừng cả lại, ngoái nhìn, có cô tỏ vẻ sốt ruột, dùng chân đá đất khô ở dưới tạo thành những đám bụi nhỏ. Tôi thắc mắc liệu chúng có bỏ mặc Jumbo không nhỉ? Thế rồi, điều kỳ diệu xảy đến: một bạn voi khác trong đàn, có lẽ chỉ hơn Jumbo vài tuổi, đi từ từ về phía Jumbo. Cô bé ấy nhẹ nhàng đặt trán mình đối diện với trán Jumbo, như để tỏ vẻ thông cảm, rồi dùng vòi của mình quấn lấy vòi của Jumbo, và dắt Jumbo tập tễnh từng bước một, từ từ, chậm rãi đi về phía cả đàn. Đó, là tình cảm gia đình. Đó là thứ tình cảm thiêng liêng, mạnh mẽ nhất mà nhiều khi thế giới loài người, vì bận rộn mà bỏ quên.” *** Và thế là tôi ngồi đó, cùng với nào ba lô, túi xách, võng, lều, nồi niêu, xong chảo và ti tỉ những vật dụng khác nữa, trong khi dân làng, từ đám trẻ nhỏ, đến phụ nữ, thanh niên, nam giới và người già lần lượt kéo đến, cùng với một đám gà qué thả rông của ai đó, tạo thành vòng tròn lớn, không ngại ngần nhìn tôi chằm chằm. Khỉ thật, tại sao tôi lại tự làm khổ mình như thế này cơ chứ? Tôi có thể như đám bạn cùng lứa ở nhà, đi làm ở một nơi nào đó ổn định, có mức lương kha khá, thỉnh thoảng đi du lịch đây đó, chụp vài bức ảnh selfie, có một cậu bạn trai cao ráo, yêu thương mình hết mực, có lẽ là chuẩn bị tính đến chuyện lập gia đình, lấy chồng và sinh con. Tại sao tôi lại không nghe theo lời khuyên của bố mẹ, đi một con đường bằng phẳng và sống đơn giản hơn… Thay vào đó tôi bị tắc ở đây, một cái làng bé nhỏ ở nơi khỉ ho cò gáy mà tôi còn chả biết là ở đâu nữa, với một đám người hiếu kỳ lạ mặt đang kéo đến ngày một đông, với đám quần áo và ba lô bẩn thỉu dính đầy bùn đất, với những vết gai cào đầy trên tay và chân, với vết bầm tím do bị ngã trên đùi. Vừa tức, vừa bực, vừa tuyệt vọng và căng thẳng, nước mắt tôi bắt đầu ứa ra, chảy thành dòng trên khuôn mặt. Và ngay lập tức tôi hối hận vì đã khóc - đám người bắt đầu chỉ trỏ, cười ngạo nghễ nhìn tôi như thể họ đang xem xiếc thú! * * * Bốn tháng trước đó… Tháng Tư năm 2012 là khoảng thời gian ban nhạc người Ireland - Westlife có những liveshow cuối cùng để chia tay khán giả ngay sau khi công bố về chuyện tan rã của nhóm. Vốn là một fan ruột của ban nhạc này từ năm 1998, dĩ nhiên tôi cũng đã tự mua cho mình một vé xem liveshow ở London vào đầu tháng năm. Thế nhưng, nếu muốn xem buổi diễn này thì tôi sẽ phải trì hoãn chuyến đi thực địa gần hai tuần. Một điều mà những nhà bảo tồn nghiêm túc sẽ không bao giờ làm! Thầy Giuseppe đã nhìn tôi một cách rất nghiêm khắc, khi tôi cầm cái vé xem ca nhạc một cách đau khổ, cố gắng trình bày với thầy rằng thì là mà, tôi đã phải canh chừng giờ bán vé như thế nào để mua được vé chỗ đẹp, đã phải tiết kiệm tiền ra sao, và trên tất cả - đây là buổi hòa nhạc cuối cùng của Westlife! Nhưng dĩ nhiên ông thầy người Ý vốn dĩ chỉ yêu chuộng cà phê thượng hạng, nhạc thính phòng và dành cả đời để nghiên cứu về vượn cáo của tôi không thể nào hiểu được vì sao tôi lại nhiệt tình với một ban nhạc “vớ vẩn” sắp tan rã đến như thế! Cuối cùng thì sau ngày hôm ấy, tôi đã suýt khóc khi phải nhượng lại cái vé này cho một fan khác ở tận Manchester. Mấy đứa bạn tôi đã cười phớ lớ và an ủi tôi rằng đó là “sự hy sinh cao cả cho khoa học”. Còn thầy Giuseppe thì nói đó là “sự lựa chọn đúng đắn” để “sử dụng thời gian cho việc có ích hơn”. Điều cần làm ngay sau đó là phải đi tiêm chủng để phòng bệnh. Đây là một trong những điều bắt buộc dành cho những sinh viên nghiên cứu tại Anh để đảm bảo về sức khỏe khi đi thực địa. Đến Madagascar thì không cần phải tiêm phòng bệnh vàng da, nhưng vẫn phải tiêm chủng chống uốn ván, viêm gan A, viêm gan B và phòng dại. Bên cạnh đó tôi cũng phải đến phòng y tế của trường để xin thuốc uống chống sốt rét. Loại thuốc này thật rắc rối, vì mỗi ngày tôi đều phải uống vào một giờ nhất định. Và vì tôi đi ba tháng nên phải uống đủ lượng thuốc của bốn tháng (uống 2 tuần trước khi đi và 2 tuần sau khi về). Vì là con gái, nên chúng tôi cũng được khuyên rằng nên uống thuốc tránh thai. Một là nếu uống liên tục không nghỉ, thì chúng tôi có thể làm tạm mất kỳ nguyệt san trong vòng hai hoặc ba tháng khi đang ở trong rừng, mặc dù vậy tôi cũng phải nhấn mạnh rằng đây là do bất khả kháng vì nó không có lợi cho sức khỏe. Khỏi phải nói có tháng bất tiện như thế nào trong điều kiện không có nhà vệ sinh và nước sạch. Hai nữa là nếu có chuyện không hay xảy ra trong rừng, thì ít ra chúng tôi cũng vẫn được “bảo vệ” bằng cách này. Mời các bạn đón đọc Trở Về Nơi Hoang Dã của tác giả Trang Nguyễn.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Chuyện Những Người An Nam Ở Paris Hay Sự Thật Về Đông Dương
Trong cuốn hồi ký "Chuyện những người An Nam ở Paris hay sự thật về Đông Dương", tác giả Phan Văn Trường với vai trò tự nhận mình là một người quan sát, đã nhanh chóng thấy được những bất công mà người Pháp đem lại cho người An Nam. Chuyện những người An Nam ở Paris hay sự thật về Đông Dương (tên gốc: Une Histoire de Conspirateurs Annamites à Paris ou la Vérité sur L’Indo-chine) mới ra mắt tại Việt Nam là một trong hai tác phẩm nổi bật nhất của luật sư – Tiến sĩ Luật Phan Văn Trường. Cuốn hồi ký này từng được xuất bản nhiều kỳ trên tạp chí La Cloche Fêlée (Chuông rè hay Chuông nứt) từ số ra ngày 30/11/1925 đến số ra ngày 15/3/1926. Năm 1928, tác phẩm được tổng hợp và xuất bản thành sách bởi nhà in Đông Pháp – Ng. kim-Dinh, Gia Định, sau đó được Nhà xuất bản L'insomniaque của Pháp in lại năm 2003. Bản tiếng Việt được dịch dựa trên bản in năm 1928 của nhà in Đông Pháp và cũng là cuốn sách tiếp theo trong Tủ sách Pháp ngữ – Góc nhìn sử Việt của Omega+. Phan Văn Trường là một trong những người có ảnh hưởng nhất trong số những trí thức An Nam từng có cơ hội sang Pháp, khi nhắc đến Phan Văn Trường, tầm ảnh hưởng của ông không kém những chí sĩ yêu nước như Phan Châu Trinh, Nguyễn An Ninh, Nguyễn Tất Thành. Tuy ít được nhắc đến, nhưng ông là người sớm nhìn ra tình cảnh khốn khổ của nhân dân An Nam khi là thuộc địa của Pháp, và chính ông cũng trải qua tình cảnh khổ đau, khốn khó và bị áp bức ngay trên đất Pháp. Khi ta đọc về tiểu sử của Phan Văn Trường sẽ thấy ông là một người con của đất Việt, một người được thừa hưởng truyền thống nho học của gia đình nhưng đã sớm tiếp thu tinh thần cách mạng dân chủ. Hay câu chuyện rằng Phan Châu Trinh, người bạn đồng chí đã cùng ông sát cánh vượt qua những khổ ải tù đày khi đấu tranh cho quyền lợi của nhân dân An Nam. {keywords}   Vào cuối thế kỷ thứ 19, khi sự phát triển của chủ nghĩa đế quốc và chế độ thuộc địa đã kéo dài một thời gian, các nước thực dân liên tiếp dùng chiêu bài "civiliser" (khai hoá văn minh) để thực hiện các cuộc xâm lược và bóc lột thuộc địa. Lúc này những người tự cho mình là khai hoá văn minh sử dụng các chính sách thuộc địa để dựng lên những vở bi hài kịch về chính trị. Trong cuốn hồi ký của mình, Phan Văn Trường với vai trò tự nhận mình là người quan sát, đã nhanh chóng thấy được những bất công mà người Pháp đem lại cho người An Nam, họ tự nói và viết về những khuyết điểm của người An Nam, còn mang đến những thứ văn minh phương Tây theo cung cách của những kẻ ban ơn.  Thế nhưng bản thân Phan Văn Trường là một người chính trực, và ông đã thẳng tay vạch mặt âm mưu nhồi sọ của thực dân Pháp qua chương VI và chương VII của cuốn sách Chuyện những người An Nam ở Paris hay sự thật về Đông Dương. Cuốn sách được ra đời nhằm mục tiêu chống lại thực dân Pháp và đòi quyền lợi cho dân An Nam ngay trên đất Pháp, mà cụ thể là Paris. Trong cuốn sách, tác giả Phan Văn Trường có nhắc tới nhiều vấn đề khiến bản thân ông và những người đồng chí hết lần này tới lần khác bị cản trở trong sự nghiệp, hoặc bị rơi vào vòng lao lý. Thế nhưng tính cách Phan Văn Trường là người hướng nội và thật khó cho ông để thực hiện những ý tưởng cách mạng của mình. Không tham gia vào các đảng phái, các cuộc bạo động, Phan Văn Trường dành hầu hết thời gian trong sự nghiệp của mình để làm trợ giảng cho môn tiếng An Nam tại ĐH Đông Phương của Pháp và theo học bằng Tiến sĩ Luật. Ông sống tại Paris để tiếp xúc nhiều hơn và thấu hiểu chính quyền thuộc địa và cũng là cơ hội để ông gặp gỡ những chí sĩ khác như nhóm người Việt Nam yêu nước tại Pháp cùng Phan Châu Trinh, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn Tất Thành. Ông là một trong bốn người ký tên bản "Revendications du peuple annamite" ("Thỉnh nguyện thư của dân tộc An Nam" hay còn gọi là "Yêu sách của nhân dân Việt Nam") năm 1919  và được coi là "kiến trúc sư" của văn bản này.. Dù khi ấy ông đã tìm thấy được những người cùng chí hướng, thực hiện một vài phong trào ngay trong chính lòng của thực dân Pháp. Thế nhưng Phan Văn Trường không thực sự thành công với điều ấy, thời gian ở Paris ông thường xuyên bị bắt bớ, tra hỏi vô cớ và bị mật thám theo dõi. Đỉnh điểm là năm 1914 cho tới 1915, ông bị bắt giam vì tội "phá hoại an ninh nước Pháp", nhưng do không đủ bằng chứng để kết tội, thực dân Pháp phải thả và buộc ông phải về làm thông ngôn tại Toulouse. Cả một đời Phan Văn Trường sống trong sự liêm khiết và tinh thần bất khuất, dù mang quốc tịch Pháp nhưng lòng ông vẫn hướng về quê hương mình. Ông tin tưởng và theo đuổi cách mạng dân chủ mà bị chế độ thực dân vô cùng căm ghét. Ông dám mạnh dạn tuyên bố rằng ngay ở nước Pháp, xứ sở của tự do dân chủ mà ông còn bị bắt oan, vậy thì ở những vùng đất thuộc địa như An Nam, nằm dưới vòng sinh sát của nước Pháp thì tiếng kêu khóc lầm than của người dân oan nơi đó còn tới mức nào. Trong phần cuối cùng của cuốn sách, Phan Văn Trường thẳng tay tuyên bố, chính quyền thực dân sợ những bài báo tuyên truyền chống chủ nghĩa thực dân chứ không phải chống lại người Pháp, bởi vì xuyên suốt cả cuốn sách, chính ông cũng nhận ra rằng, ngay cả ở An Nam cũng có những người Pháp tốt, và ngay ở Paris, thủ đô của nước Pháp không phải ai cũng là thực dân. Vũ Vương *** Cuốn hồi ký từng được xuất hiện nhiều kỳ trên tạp chí La Cloche Fêlée (Chuông rè) từ số ra ngày 30.11.1925 đến số ra ngày 15.3.1926. Năm 1928, tác phẩm được tổng hợp và xuất bản thành sách bởi nhà in Đông Pháp - Ng.kim-Dinh, Gia Định; sau đó được một NXB của Pháp in lại năm 2003. Bản tiếng Việt này được dịch dựa trên bản in năm 1928 của nhà in Đông Pháp và cũng là cuốn sách tiếp theo trong Tủ sách Pháp ngữ - Góc nhìn sử Việt của OMEGA+. Tác giả Phan Văn Trường (1876 - 1933) được xem là một trong những luật sư đầu tiên của Việt Nam. Ông là một trong những người tiên phong kết hợp nghề luật và nghề báo. Một trong những tác phẩm nổi tiếng của ông là Pháp luật lược luận (nhà in Xưa - Nay, Sài Gòn, 1926). Trong tác phẩm Chuyện những người An Nam ở Paris hay sự thật về Đông Dương, tiến sĩ luật Phan Văn Trường thuật lại tỉ mỉ câu chuyện về những trí thức Việt Nam từng bôn ba ở “mẫu quốc” Pháp để tìm đường hướng mới cho công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc những năm đầu thế kỷ 20. Đi theo mạch nhiều câu chuyện của luật sư Phan Văn Trường - người chí sĩ đã sát cánh cùng nhiều nhân vật cách mạng hoạt động đấu tranh qua báo chí, độc giả thời hiện đại sẽ hiểu rõ hơn hành trạng của một số nhân vật lịch sử đầu thế kỷ 20, cũng như phần nào thấu suốt được lý do vì sao công cuộc đấu tranh giành độc lập cho dân tộc phải chuyển sang một giai đoạn mới, qua các tư liệu chân thật và sinh động nhất. *** LỜI NGỎ Lịch sử Việt Nam đầu thế kỷ XX đứng trước một bước ngoặt then chốt: Lựa chọn con đường giải phóng dân tộc nào cho phù hợp với xứ sở và bối cảnh lịch sử thế giới lúc bấy giờ. Để phần nào hiểu được những gì đã xảy ra trong quá khứ, để có thể lý giải những lựa chọn mà tiền nhân của đất nước đã phải thực hiện, chúng ta cần truy lại dấu chân của người đương thời, mà cụ thể là những trí thức Việt Nam từng bôn ba ở ngay chính mẫu quốc Pháp để tìm tòi những đường hướng đấu tranh giải phóng dân tộc. Bởi lẽ, bối cảnh của buổi đầu thế kỷ XX đó chính là sự lụi tàn của phong trào Cần Vương, cùng với đó là sự lỗi thời không thể chối cãi của đường hướng đấu tranh chống ngoại xâm như cha ông từng thực hiện chống lại các thế lực phương Bắc. Thực dân phương Tây không phải là các triều đình Trung Hoa quân chủ khi xưa, và do vậy phương hướng đấu tranh của người Việt cũng phải có sự điều chỉnh cho bắt kịp với thời đại, để thích nghi với đối thủ mới có trong tay sự vượt trội về khoa học-kỹ thuật-vũ khí. Phương hướng mới đó khởi từ lớp thanh niên trẻ sẵn sàng dấn thân chu du, học hỏi ở ngay chính quốc Pháp. Và một trong những tài liệu hữu ích để tìm hiểu hành trình này của thế hệ trẻ Việt Nam thời bấy giờ chính là Chuyện những người An Nam ở Paris hay sự thật về Đông Dương, hồi ký của Luật sư-Tiến sĩ Luật Phan Văn Trường, người được xem như luật sư đầu tiên của Việt Nam. Phan Văn Trường (1878-1933) sinh ra trong một gia đình có truyền thống Nho học ở Đông Ngạc, Hà Nội. Kể từ khi sang Pháp học Luật năm 1908 cho đến năm 1923 khi trở về Tổ quốc, ông đã không ngừng trau dồi học hỏi nhằm tự trang bị cho mình hai “vũ khí” quan trọng là kiến thức về luật pháp và quốc tịch Pháp; có thể nói, đó chính là những công cụ hữu ích để ông tiến hành cuộc đấu tranh dài lâu bên những người đồng chí như Phan Châu Trinh, Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn Thế Truyền... hòng vận động, đòi hỏi quyền lợi cho người dân An Nam và các xứ thuộc địa, đấu tranh đòi quyền lợi giáo dục cho người dân bản xứ, cũng như chống lại những sách nhiễu của mật thám Pháp và trò vu khống của chính quyền thuộc địa... Hiểu được tầm quan trọng về mặt tư liệu của Chuyện những người An Nam ở Paris hay sự thật về Đông Dương, OMEGA+ trân trọng giới thiệu đến quý độc giả cuốn hồi ký của Luật sư Phan Văn Trường, cũng là cuốn sách tiếp theo trong “Tủ sách Pháp ngữ - Góc nhìn sử Việt”. Tuy nhiên, hiểu rõ được khoảng cách thời đại lên đến gần một thế kỷ có thể ít nhiều gây khó khăn cho chúng ta trong việc thấu hiểu một số quan điểm và cách nhìn nhận của cha ông khi xưa, OMEGA+ đã có những chú thích kỹ lưỡng ở những chi tiết này. Mong rằng tác phẩm sẽ góp phần giúp quý độc giả khám phá những chi tiết và sự kiện quan trọng của một thời, cũng như quan điểm của người trong cuộc, để ta có thể thấu suốt hơn những gì đã xảy ra, và cũng để hiểu cho người xưa. Trân trọng, CÔNG TY CỔ PHẦN SÁCH OMEGA VIỆT NAM Mời các bạn mượn đọc sách Chuyện Những Người An Nam Ở Paris Hay Sự Thật Về Đông Dương của tác giả Phan Văn Trường & Sity Maria Cotika (dịch) & Huỳnh Mai (dịch).
Salam! Chào xứ Ba Tư
Salam! Salam là câu chào cả khi gặp mặt lẫn khi chia tay. Rất ngắn gọn thì chỉ cần chào Salam. Câu đầy đủ và trịnh trọng thì phải là Salam Alaykum, có nghĩa là chúc cho bạn được bình yên. Đáp lễ, cũng đầy đủ và trịnh trọng như vậy, người kia sẽ đáp lại, đổi ngược trật tự câu chào: Alaykum Salam. Salam đã trở thành lời chào phổ biến của người Hồi giáo trên khắp thế giới. Cách phát âm và phiên âm có phần hơi khác ở các nước khác nhau, nhưng về cơ bản, ta có thể coi như một câu chào thông thường, và chỉ cần ngắn gọn: Salam! Kèm theo câu chào, giống như phần nhiều người Hồi giáo ở các nước, người Iran cũng bắt tay và ôm hôn nhau ba lần vào hai bên má, nhưng không thực hiện với người khác giới. Có khi chỉ bắt tay và ôm lưng nhau. Với người mới gặp, chỉ cần chào Salam và bắt tay là đủ, nhưng người đàn ông lưu ý không chủ động bắt tay phụ nữ. *** Cùng với Namaska! Xin chào Ấn Độ, Salam! Chào xứ Ba Tư làm thành một bộ sách về hai nền văn hóa lâu đời nhất của nhân loại. “Salam! Chào Ba Tư” giới thiệu với bạn đọc xứ sở Ba Tư xưa - nơi được biết đến từ những câu chuyện trong Nghìn lẻ một đêm và Nghìn lẻ một ngày. Chỉ là qua những dòng chữ thôi, nhưng bạn sẽ hiểu được tại sao xứ này lại nổi tiếng như thế, biết về ý nghĩa những hình ảnh, hoa văn dệt trên những bức thảm len từ lông cừu tuyệt mỹ, sẽ đắm chìm trong kiến trúc đền đài cung điện giáo đường khảm gốm sứ trên mái vòm và trang trí tường nhà tuyệt hảo, đặc biệt ghi dấu là nghệ thuật tranh tiểu họa, nghệ thuật thư pháp tinh xảo trong những bức tranh hoành tráng. “Tất cả đều nhằm đem lại cho người đọc một ấn tượng gợi mở về Iran.” Cuốn sách phù hợp với đông đảo bạn đọc, đặc biệt là những người thích du lịch và làm về văn hóa. *** Lời mở đầu  Xứ Ba Tư, khắc đi khắc đến Đến được xứ Ba Tư không dễ, vào được nhà một người Ba Tư càng không dễ. Hãy tranh thủ cơ hội nếu được người Iran mời đến chơi nhà - với khách, đấy là một dịp may, một đặc ân, một niềm hãnh diện. Người Iran mến khách, nhưng phải đặc biệt quý mến người ta mới mời đến nhà. Thì ở nhiều nước khác cũng vậy thôi, trong thế giới hiện đại này, mọi việc làm ăn đã có văn phòng trụ sở, mọi cuộc chuyện trò riêng tư đã có quán cà phê tiệm ăn, ít ai mời ai đến nhà. Gọi là niềm hãnh diện thì tôi đã có được niềm hãnh diện bước chân vào nhà của nhiều bạn bè Iran. Năm 1994, tôi đến Iran lần đầu tiên, trong vòng một năm hai lần tháp tùng hai đại sứ ta sang làm việc. Đại sứ cũ sang chào tạm biệt kết thúc nhiệm kỳ. Đại sứ mới sang trình quốc thư. Tôi còn sang làm việc với Bộ Ngoại giao bạn như một hình thức đi tiền trạm, chuẩn bị cho đoàn chủ tịch nước sang thăm Iran. Lần ấy, ông đại sứ cũ được ông vụ trưởng phụ trách khu vực châu Á - Thái Bình Dương mời đến nhà. Chúng tôi ngồi ăn tối theo kiểu Ba Tư trên tấm thảm Ba Tư lộng lẫy, hoa văn tỉ mỉ tinh xảo trên nền đỏ rực. Tôi tưởng mình chỉ có một dịp may ấy thôi với đất nước Iran, khó có dịp trở lại lần nữa. Nhưng rồi dường như là duyên nợ, mười bảy năm sau, tôi đang hướng đến một chuyến trở về với Ấn Độ thì được điều sang Iran. Đang nghiên cứu về Ấn Độ mà chuyển sang Ba Tư thì cũng không quá mất công đổi chiều tiếp cận. Giữa hai nước có những điểm chung về văn hóa, lịch sử, thậm chí cả về chủng tộc. Trở lại Iran lần này, một chuyến đi lâu hơn nhiều so với gần hai chục năm trước, cũng hơn trước rất nhiều lần, tôi được bước chân vào nhà những người bạn Iran. Cảm nhận được nếp nhà gia phong truyền thống của người Ba Tư. Trong chuyện trò thường ngày, khi đang làm việc trên đất nước Iran, chúng tôi vẫn thường đùa nhau rằng người Việt nào ham du lịch, giờ đây có thể dễ dàng theo một tua sang Mỹ, sang châu Âu, thậm chí sang Nam Phi, nhưng có tiền cũng khó mà du lịch được sang Iran. Nói thế để thấy mình đã làm được một việc khó. Mà cũng không hẳn là đùa. Vẫn chưa thiết lập được hai đầu cầu của các công ty du lịch đưa người sang thăm viếng xứ sở của nhau. Thiếu sự quảng bá, Việt Nam chưa được người Iran coi là điểm đến hấp dẫn, mặc dù lượng người Iran đi du lịch sang Thái Lan, Malaysia, Indonesia không phải là ít. Chỉ vì nghe thông tin sai lệch trên hệ thống thông tin đại chúng, người Việt lại nghĩ rằng Iran luôn ở trong tình trạng có chiến tranh, đã chiến tranh thì du lịch thăm thú cái nỗi gì. Chúng tôi, những người sống đời sống hàng ngày ở xứ Ba Tư phải nói lại rằng Iran vẫn thanh bình, an ninh xã hội đảm bảo, người dân thân thiện mến khách. Nhưng tiếng nói của mình vẫn là nhỏ bé giữa một dàn đồng ca thông tin đại chúng ồn ào từ nguồn Âu - Mỹ. Vậy xin hãy đi cùng tôi trong cuốn sách này, chúng ta sẽ đến với xứ Ba Tư xưa, Iran nay. Chưa có được cơ hội thực sự đặt chân lên xứ sở Ba Tư, bạn hãy tạm du ngoạn qua những dòng chữ. Cũng chung một thiện ý như khi viết cuốn Namaskar! Xin chào Ấn Độ là đưa bạn đọc cùng bơi trên đại dương văn hóa Ấn Độ, ở cuốn sách này, tôi muốn đưa người đọc ngoạn du qua miền đất Tây Á bao la, cũng là một cái nôi văn minh nhân loại, xứ sở gợi cảm hứng cho nhiều câu chuyện trong Nghìn lẻ một đêm, đặc biệt là trong cuốn Nghìn lẻ một ngày. Ba Tư xưa (tên gọi là Persia, Pars, Fars…) với truyền thống dệt thảm mấy nghìn năm, chăn nuôi du mục mấy nghìn năm - từ chăn nuôi ấy mới ra lông cừu làm len để dệt thảm, ra nghề đồ da, ra ẩm thực thịt nướng kebab vang danh khắp gầm trời. Mấy nghìn năm luyện kim chế tác công cụ. Mấy nghìn năm tiếng Ba Tư phát triển rực rỡ, sinh ra những nhà khoa học, những triết gia, những nhà thơ lớn của nhân loại như Omar Khayyam, Saadi, Ferdosi, Rumi, Hafez… Đây cũng là nơi ra đời của tôn giáo lâu đời bậc nhất của nhân loại, Hỏa giáo, mà ảnh hưởng còn sâu đậm trong lễ tết và đời sống hàng ngày của người Iran. Zarathustra, triết gia sáng lập ra Hỏa giáo từng được triết gia người Đức Nietzsche ghi lại đầy cảm hứng trong cuốn Zarathustra đã nói như thế. Nếu là người yêu mỹ thuật và kiến trúc, thì Ba Tư chính là nơi bạn sẽ sa vào, đắm chìm trong ấy mà ngẩn ngơ không muốn chia tay. Kiến trúc đền đài cung điện giáo đường với việc sử dụng nghệ thuật gốm sứ để khảm lên các mái vòm và gốm sứ trang trí tường nhà đã đạt đến độ tuyệt hảo. Nghệ thuật tranh tiểu họa, được chăm chút đến từng chi tiết nhỏ li ti trong những bức tranh hoành tráng. Nghệ thuật thư pháp được phô diễn trên khắp những bức tường giáo đường hoặc cung điện đã đến độ như không còn là chữ nữa mà tưởng nhầm là những bức tranh lộng lẫy tinh xảo. Trong cuốn sách này về xứ Ba Tư, tôi sử dụng cả hình thức khảo luận, cung cấp tài liệu, cả du ký về những chuyến đi qua các miền đất, cả những bài tổng hợp và bình luận về đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa…Tất cả đều nhằm đem lại cho người đọc một ấn tượng gợi mở về Iran. Giống như ngày xưa, Ba Tư gần như là điểm cực tây trên con đường tơ lụa, Iran hôm nay cũng là một điểm đến với một nền văn minh cổ chưa được khám phá cho cùng. Con đường tơ lụa xưa đo bằng bước chân ngựa và lạc đà. Con đường nay đo bằng những chuyến bay và các phương tiện giao thông của một thế giới phẳng. Khó khăn vẫn còn đó, nhưng một khi đã quyết tâm lên đường thì khắc đi khắc đến. Đã đi là phải đến. Và bây giờ, ta đã bắt đầu bước chân đến xứ Ba Tư. Tehran, tháng 6-2013 Mời các bạn mượn đọc sách Salam! Chào xứ Ba Tư của tác giả Hồ Anh Thái.
Lời Bộc Bạch Của Một Thị Dân
Lời Bộc Bạch Của Một Thị Dân, cũng như cuốn hồi ký nổi tiếng Thế giới những ngày qua của Stefan Zweig, mang đến bầu khí quyển của không gian văn hóa Áo-Hung vô cùng đặc thù vào thời điểm bước ngoặt đầu thế kỷ 20. Và nếu Zweig tự nhìn nhận như một “người châu Âu” thì Márai Sándor khẳng định mình là một đại diện cho tầng lớp thị dân đang hình thành; ông đã đi vào ngóc ngách đời sống tinh thần của một giai tầng, ca ngợi những phẩm chất nhưng không quên chế giễu những điều nực cười của môi trường sống xung quanh. Stefan Zweig cũng xuất hiện thoáng qua trong cuốn hồi ký sâu sắc và đặc biệt của Márai Sándor. Không chỉ có thành phố nhỏ Kassa quê hương và thủ đô Budapest, Márai Sándor còn dẫn dắt chúng ta đi qua những đất nước ông từng có thời gian gắn bó: Đức, Pháp, Ý và Anh, với những nhận xét đằm thắm, sâu sắc nhưng cũng có lúc tinh quái đến gây sửng sốt. Chặng đời của ông cũng gắn liền với con đường trở thành một trong những nhà văn vĩ đại nhất của Hungary. Đọc cuốn hồi ký này, ta càng hiểu rõ con đường ấy nhiều chông gai đến mức nào. Lời Bộc Bạch Của Một Thị Dân đặc biệt hơn cả chính ở sự phô bày đầy chân thực và can đảm một tâm hồn phức tạp, không một chút toan tính giấu giếm hay “tô hồng” nào. Tính trung thực này khiến cuốn sách trở thành một hậu duệ xứng đáng của một dòng “bộc bạch” hay “tự thú” lừng danh trong lịch sử văn chương phương Tây, từ Thánh Augustin cho tới Jean-Jacques Rousseau, rồi Lev Tolstoy. Về Tác Giả: Márai Sándor họ Grosschmid, sinh ngày 11.4.1900, tại Kassa, Hungary, nay là Kocise thuộc nước Cộng hòa Slovakia. Năm 1923, Márai sang Paris, lưu lại năm năm. Năm 1926 ông bắt đầu hành trình dài ngày tìm hiểu vùng Cận Đông và viết cuốn Theo dấu chân các bậc thánh (Istenek nyomában), xuất bản năm 1927. Thời kỳ sáng tác sung sức nhất của Márai là khoảng từ năm 1928 đến năm 1948, khi ông trở về sinh sống tại Hungary cùng vợ. Ông làm thơ, viết tiểu thuyết, dịch thuật, viết kịch bản và để lại gần một trăm đầu sách, trong đó có những tiểu thuyết nổi tiếng như Casanova ở Bolzano, Di sản của Eszte, Những ngọn nến cháy tàn, Nhật ký, Lời bộc bạch của một công dân… Márai cũng là bậc thầy của thể đoản văn, những suy niệm của ông bao giờ cũng mang âm hưởng triết lý, cô đọng. Márai được bầu là Viện sĩ Thông tấn năm 1942 và Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Hungary năm 1945. Từ 1948, ông sống lưu vong tại Ý và Mỹ. Tác phẩm của Márai đã được dịch ra nhiều thứ tiếng và ông được xếp trong số những nhà văn lớn nhất của châu Âu thế kỷ XX. “Và đến giây phút cuối cùng, cho tới khi còn được cầm bút viết nên con chữ, tôi muốn làm chứng rằng: đã có một thời và vài thế hệ mà ở đó trí tuệ đã ca khúc khải hoàn trước bản năng, và tin vào khả năng phản kháng của tinh thần… tôi đã thấy và đã nghe châu Âu, đã nghiệm sinh một nền văn hóa… liệu tôi có thể nhận được gì hơn từ cuộc đời?” - Márai Sándor Lời khen tặng dành cho tác phẩm: “Đây là cuốn tiểu thuyết về thế giới thị dân, nhưng cũng là tiểu thuyết gia đình. Nó là khúc tưởng niệm về một gia đình, gia đình nhà văn, và cũng là về giai tầng xã hội của gia đình ông. Nhưng đồng thời nó là tấm gương của sự trăn trở sâu sắc ở nhà văn […] để biến cải quá khứ và truyền thống gia đình theo “hình ảnh” của riêng mình. Vì thế nó cũng là một tiểu thuyết tâm lý, vì nó cho cảm nhận một cách trung thực quá trình đau đớn vật vã để đi tìm bản ngã, những cột mốc của sự khổ ải tâm hồn có vẻ như không thể giải thích nổi liên quan tới quá trình này. Nó cũng là sự thay đổi nội tâm liên quan tới sự tách rời khỏi gia đình, tới sự nổi loạn, sự phát triển cá tính…” - Dober Valéria “Cuốn tiểu thuyết của Márai Sándor đơn giả là hoàn hảo. Nó đưa ra những lý thuyết, những quan điểm để có thể mô hình hóa đúng thế giới, hơn nữa chúng có thể hiểu được, chấp nhận được đối với những người bình thường, cả đến hôm nay, tám mươi năm sau khi nó ra đời.” - Oláh Tibor *** Tiếp nối dòng “bộc bạch” hay “tự thú” lừng danh trong lịch sử văn chương phương Tây, cuốn tiểu thuyết “Lời bộc bạch của một thị dân” là một trong những tác phẩm được đánh giá là quan trọng nhất của nhà văn Hungary vĩ đại thế kỷ XX - Márai Sándor. Cuốn tiểu thuyết khắc họa thế giới thị dân giai đoạn mới hình thành với những chệch choạc ban đầu cùng không ít điều nực cười. “Lời bộc bạch của một thị dân “vừa là tiểu thuyết vừa có thể coi là một cuốn hồi ký của Márai Sándor. Ông viết về cuộc sống ở thành phố nhỏ Kassa của Hungary vào giai đoạn giai cấp tư sản thị dân bắt đầu hình thành và phát triển một cách mạnh mẽ, với cả những chệch choạc của những bước tiến ban đầu và không ít điều lố lăng, nực cười. Nói như nhà phê bình văn học Hungary Oláh Tibor thì tác phẩm đã “đưa ra những lý thuyết, những quan điểm để có thể mô hình hóa đúng thế giới”. Cuốn sách dành một dung lượng lớn cho thời thơ ấu của nhân vật “tôi”, với những miêu tả cặn kẽ, sát thực; ẩn trong đó còn là cả những câu chuyện về các trạng thái tâm lý. Márai Sándor không bỏ qua cả những gì sâu kín, thậm chí là những suy nghĩ xấu xa. Cậu bé trong truyện lớn lên trong một gia đình tư sản gốc gác Saxon (Đức), có bố làm ngân hàng, khá sung túc. Gia đình cậu sống trong khu nhà xây để cho thuê đầu tiên tại thành phố, nơi cậu gắn bó máu thịt, trong tâm trí cậu chỉ có tòa nhà cho thuê này mới là “nhà mình”. Cậu bé có một tinh thần không yên ổn, có lúc bùng phát khiến cậu bỏ nhà đi không nguyên cớ. Sau đó, gia đình gửi cậu bé lên học nội trú ở thủ đô Budapest. Từ đây mở ra những miêu tả vô cùng chân thực về cuộc sống trong các trường học thời kỳ Áo-Hung, vừa nghiêm túc trang trọng vừa hà khắc và che giấu rất nhiều bí mật giữa thầy giáo và học trò, giữa người thế tục và các tu sĩ. Nhân vật trong cuốn sách lớn lên rồi ra nước ngoài, bắt đầu cuộc phiêu lưu đầy hoang mang của anh tại Đức rồi Pháp. Anh viết báo, đi làm phóng sự, giao tiếp với giới thượng lưu nhiều nước, quen biết nhiều nhân vật quan trọng, từng lâm vào cảnh túng bấn, khó khăn cùng cực, vợ anh từng lâm bệnh hiểm nghèo ở Paris trong cảnh quẫn bách. Sau những tháng ngày lênh đênh ở Ý và Anh, đến một ngày anh bỗng cảm thấy thôi thúc trở về cố hương, sống tại quê nhà, và khi ấy không điều gì có thể ngăn cản anh trở về. Dù vẫn vật lộn trong mớ bòng bong đầy hoang mang, nhưng giờ đây trong lòng anh đã dần hình thành một hướng đi, anh đã lờ mờ cảm thấy mình sẽ làm gì và sống ra sao tại quê hương. Márai miêu tả quá cụ thể nhiều con người, nhất là lại đưa ra nhiều nhận xét và chi tiết liên quan đến tôn giáo, chính trị nên Lời bộc bạch của một thị dân từng bị kiện, ấn bản chính thức sau này bị cắt đi không ít đoạn so với các ấn bản trước. Nhận định về tác phẩm này, nhà ngôn ngữ học Hungary Dober Valéria cho rằng: “Đây là cuốn tiểu thuyết về thế giới thị dân, nhưng cũng là tiểu thuyết gia đình. Nó là khúc tưởng niệm về một gia đình, gia đình nhà văn, và cũng là về giai tầng xã hội của gia đình ông. Nhưng đồng thời nó là tấm gương của sự trăn trở sâu sắc ở nhà văn để biến cải quá khứ và truyền thống gia đình theo “hình ảnh” của riêng mình. Vì thế nó cũng là một tiểu thuyết tâm lý, vì nó cho ta cảm nhận một cách trung thực quá trình đau đớn vật vã để đi tìm bản ngã, những cột mốc của sự khổ ải tâm hồn có vẻ như không thể giải thích nổi liên quan tới quá trình này. Nó cũng là sự thay đổi nội tâm liên quan tới sự tách rời khỏi gia đình, tới sự nổi loạn, sự phát triển cá tính…”/. *** Đây được coi là một cuốn sách kinh điển, theo lẽ dĩ nhiên mình sẽ đánh giá nó là một quyển sách kinh điển. Những giá trị to lớn của nó sẽ không được mình nói ra, vì mình đâu có đủ trình độ thâm sâu đó. Sau đây là vài ý kiến cá nhân về tác giả, nhắc lại là cá nhân. Mà xét cho cùng, đâu ai đọc ngoài mình. Mình thích cách tác giả nhìn nhận về quá khứ thời niên thiếu, tức là quyển I, với những hồi ức, sự quan sát tỉ mỉ, toàn diện và vô cùng chân thực về thời đại và tầng lớp của ông. Mình thích mọi thứ ở chương I, con người, số phận, những câu chuyện, ngôi nhà, những lời thú nhận phũ phàng. Và óc quan sát ấy làm mình khâm phục. Mình không thể nhớ được mình ăn cái gì hồi bé, nó chỉ như những mảnh ghép chắp vá của kỷ niệm. Thế nên khi Marai Sandor vẽ ra một thời kỳ chi tiết đến kinh ngạc về những con người xung quanh ông, thậm chí từ việc đi vệ sinh cho đến những quyển sách họ vẫn hay đọc, rồi ngôi nhà ngày bé, cha mẹ ông, gia phả nhà ông, rồi câu chuyện bỏ nhà trốn đi khi mới lớn,... mình đã rất vui khi được đọc nó. Nhưng chương II là một câu chuyện khác, đó là khi tác giả đã bắt đầu lớn hơn với một thế giới rộng lớn hơn các thành phố nhỏ thơ ấu, những quan sát, vốn sống, những nhận xét sắc sảo về các thành phố, con người, dân tộc khác ở châu Âu vẫn rất đáng để đọc. Cái mà mình không thích chính là tác giả, tính cách, con người, nội tâm tác giả (nếu đây được coi là một quyển hồi ký), mình không thích con người đó. Mình chưa thấy ai lại vô lý như vậy. Anh ta thà ăn ở một nhà tế bần với những người nghèo khổ khác (cho dù gia đình anh ta cũng thuộc dạng trung lưu có tiền) còn hơn ăn chung với những người lao động ở khách sạn nơi ông bác làm việc. Anh ta không chịu đựng được việc mình bị phân chia cùng hạng với những người làm thuê, coi đó như một sự xúc phạm. Và anh ta đổ lỗi cho giai tầng của mình. Anh ta nói ghét những người người suốt ngày la cà ở những quán café, trong khi chính bản thân cũng là một người như thế. Trong quyển II, phân nửa những gì tác giả làm là đi vào một quán café văn chương, đốt tiền bạc, đọc báo và chẳng làm gì hết. Anh ta không bao giờ thừa nhận sự quan trọng của tiền bạc, đúng là suy nghĩ của những người sung túc và không chịu cúi mình mà thực tế lấy một ngày. Thậm chí khi đói kém, anh ta đi ăn ở một nhà tế bần, anh ta nhờ vả gia đình, thậm chí là để vợ nuôi. Mình không thích kiểu người đó. Với mình, tác giả chỉ cố gắng làm ra vẻ thoát tục, anh ta không chịu tầm thường bản thân bằng việc chịu sự chi phối của tiền bạc. Nghệ thuật và tài năng quan trọng hơn. Anh ta còn là một kẻ vô trách nhiệm hiếm thấy. Mình không thấy anh này mảy may hối hận về tuổi trẻ bồng bột khi anh ngủ với nhiều cô gái, thậm chí là dắt họ trốn khỏi chồng rồi bỏ rơi họ. Rồi anh ta lấy vợ, một người cùng giai tầng với mình, anh ta có lẽ cũng chẳng yêu cô ta. Những gì mình thấy khi họ miêu tả cuộc hôn nhân là sau một vài nỗ lực làm người chồng có trách nhiệm trong một thời gian ngắn, anh này tiếp tục bỏ đi café, bỏ đi nơi khác vài tháng, vài năm, bỏ về nhà trong khi vợ vẫn đang ở Paris. Khi cuộc hôn nhân ở bên bờ vực phá sản, anh ta để vợ về nhà và cho cô tự quyết định lấy, không thèm níu kéo, không hỏi thăm, không một lời nào hết, anh để cô đi, kết quả ra sao cũng được. Anh ta đi khắp nơi, từ châu Âu đến Trung Đông, nói là vì trách nhiệm của người chồng là viết văn kiếm tiền. Tất cả chỉ là ngụy biện, anh ta chỉ quan tâm đến sở thích, đến mơ ước của bản thân, còn cuộc sống nghèo khổ của vợ, mong muốn của cô ta, nó đâu có ý nghĩa như mong muốn của anh. Mình thấy tội cho cô vợ, nhưng cô này tự chọn lựa việc gắn bó với tác giả đến cuối đời nên mình không dám ý kiến nữa. Mỗi khi tác giả làm một việc gì sai, anh ta thường đổ lỗi cho bệnh tâm thần và sự cô đơn cần thiết của một nhà văn. Rõ ràng anh ta nhận thức được mình là một người chồng không ra gì nhưng anh ta không đủ dũng cảm để nhận trách nhiệm. Là một người Việt Nam, mình thấy khó thông cảm cho những con người phương Tây cố gắng đổ lỗi cho mọi thất bại của họ cho những bệnh tâm lý nào đó mà chỉ có Sigmund Freud mới hiểu được. Nào đó tâm thần, nào là những vết thương thời thơ ấu, họ đốt cả đống tiền cho bác sỹ tâm lý và chẳng làm điều gì để thay đổi nó hết. Tác giả viết rất nhiều về trách nhiệm của nghề báo, về người cầm bút và trách nhiệm của bản thân, điều này làm mình khá nực cười. Mình đoán là tác giả là một nhà văn có đạo đức, dù gì ông cũng là người nổi tiếng và những tác phẩm của ông đều chỉn chu và phô diễn một tài năng không thể phủ nhận. Nhưng cái cách tác giả bỏ nhà đi mà không thăm hỏi những người anh bỏ lại, cách anh ta bỏ rơi những cô gái, những bạn bè của anh, anh đi xa vợ, anh ta thích cô đơn, anh ta là kẻ không có quyền nói về trách nhiệm của con người. Với mình, quyển I là vàng, quyển II là sự thất vọng. Cá nhân mình thích những con người tài năng và kiêu ngạo chút cũng không sao, như Mourinho chẳng hạn. Nhưng tài năng của Marai Sandor không thể che lấp một cá nhân yếu đuối, ích kỷ, hoang tưởng và thậm chí nhẫn tâm của ông.  Nhưng ít nhất đây là một "lời bộc bach", mình đoán tác giả không cần một đứa như mình nhận xét tiêu cực và cách làm người của ông, người ta đã là một tác giả tầm vóc thế giới. Cái ông ta đưa ra là một góc nhìn từ cuộc sống và cho dù góc nhìn ấy đúng hay sai, nó cũng đặc biệt. Chỉ là mình không thích những người như vậy và mình chưa đủ chín chắn để giữ nó trong lòng. Và còn cả tính khoe mẽ từ những từ nước ngoài chen vào một câu văn nữa.   Mời các bạn đón đọc Lời Bộc Bạch Của Một Thị Dân của tác giả Márai Sándor & Giáp Văn Chung (dịch).
Cô Gái Lai Da Trắng
Là kết quả mối tình giữa một thiếu nữ Việt và một quân nhân người Pháp, lại bị cha đẻ bỏ rơi từ khi còn nằm trong bụng mẹ, cuộc đời của cô bé Kim trở thành một chuỗi những ngày tháng phiêu bạt không dứt từ vòng tay mẹ đến trại trẻ mồ côi đến trường nội trú, từ Bắc chí Nam... Trong bối cảnh Việt Nam vẫn còn nằm dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, thân phận vừa là con lai vừa là con hoang đã đặt trước Kim biết bao trở ngại, nhưng vẫn không thể khuất phục được ý chí cô vẫn nung nấu quyết tâm thay đổi vận mệnh mình, bằng con đường học vấn... Với lối viết dung dị mà lôi cuốn, cộng thêm sức thuyết phục từ nhiều tình tiết chân thực và cảm động, Cô gái lai da trắng đã nhận được sự đồng cảm của độc giả qua nhiều thế hệ. ***  Đôi nét về tác giả Kim Lefèvre chào đời ít lâu trước khi Thế chiến thứ hai bùng nổ, cha người Pháp, mẹ người Việt Nam. Sống trọn thời thơ ấu tại Việt Nam, năm 1961 bà sang Pháp làm luận văn tiến sĩ và bắt đầu giảng dạy văn chương tại nhiều trường trung học tại Paris. Cuốn tự truyện Cô gái lai da trắng là tác phẩm đầu tay của bà, ra mắt năm 1982 với lượng tiêu thụ khá ấn tượng tại Pháp. Ngoài viết văn, Kim Lefèvre còn dịch một số tác phẩm của các tác giả Việt Nam, đặc biệt là Nguyễn Huy Thiệp. Bà cũng thể hiện tài năng diễn xuất trong lĩnh vực sân khấu. *** Hết thảy những câu văn trên đều đã vẽ ra được một góc cuộc sống của những người dân Việt Nam đương thời, từ việc chịu đựng sự bóc lột, sự phân biệt nặng nề đến việc chịu cảnh tha hương khắp chốn hay phải sống chung với những định kiến mang nặng tính cổ hủ đối với đàn bà phụ nữ… Từ đó mà ta có thể mường tượng ra được một số phận nhỏ bé, lầm lũi và đầy sự cay nghiệt của “lũ dân đen Annamite” xưa kia. Nếu ai đó nhắc đến chiến tranh, tôi liền nghĩ ngay đến những tháng ngày chết chóc đau thương, phải đi bôn ba khắp nơi để tìm một nơi để ngã lưng của những người dân, của những người lính và đặc biệt là của những đứa trẻ được sinh ra vào thời kì đó. Nhưng có lẽ, những đứa trẻ lai mới là những người thiệt thòi nhất. Còn gì đau khổ hơn khi biết mình là một con lai giữa Pháp và Việt ngay trong một bối cảnh chiến tranh chống Pháp còn đang dai dẳng tại Việt Nam, còn gì đau khổ hơn khi biết người cha Pháp của mình đã ruồng bỏ mình như ruồng bỏ một người xa lạ. Kim Lefèvre đã khắc họa được phần nào số phận và cuộc đời của những đứa con lai tại Việt Nam thông qua “Cô gái lai da trắng”, thông qua chính câu chuyện của cuộc đời bà. “Tôi được sinh ra, hình như ở Hà Nội, vào một ngày mùa xuân, ít lâu trước cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai, kết quả của một cuộc hôn phối chốc lát giữa một cô gái An Nam và một người Pháp. Về chuyện này, tôi chẳng có bằng chứng gì xác thực, mà cũng chẳng ai làm giấy khai sinh cho mãi đến năm tôi mười lăm tuổi. […] Tôi nung nấu mối hận thù mãnh liệt với người cha không hề biết mặt ấy, dường như chỉ có những đứa con bị tổn thương đến cùng cực mới có thể hận thù được đến như vậy.” Ở những dòng đầu, Kim đã kể lại với người đọc nơi mình sinh ra đồng thời cũng nói đến gia cảnh của chính bản thân mình. Bà là một người con lai mang trong mình dòng máu giữa Pháp và Việt. Trong cuộc đời của chính mình, bà có nhiều cái tên và họ khác nhau, chúng gắn liền với những sự kiện, những biến động trong dòng chảy số phận của bà. Từ lúc sinh ra cho đến lúc sang Pháp du học, bà đã trải qua rất nhiều biến cố từ việc bị quấy rối tình dục bởi người anh họ của mình “thấy bàn tay to tướng mềm nhũn của ông anh họ nắm lấy bàn tay nhỏ xíu của mình mà gí vào chỗ kín của anh ta” cho đến việc bị đưa vào trại trẻ mồ côi bởi chính người mẹ của mình, phải chạy trốn nay đây mai đó vì chiến tranh rồi đến việc bị bắt quả tang khi bà hò hẹn với người thầy giáo, tất cả đều lột tả được số phận bi thảm của bà. Tuy nhiên bà vẫn vượt qua những bi thương đau khổ ấy và rồi cuối cùng giành được học bổng sang Pháp. Song song với chuyện cuộc đời mình, Kim còn phần nào tái hiện được một góc xã hội Việt Nam thời bấy giờ thông qua những chi tiết như: “[…] mẹ tôi là dân Bắc Kỳ. Bà vẫn nói giọng Bắc, đầu chít khăn chứ không búi tóc, đấy là bấy nhiêu bất lợi trong bối cảnh những mâu thuẫn địa phương rất khốc liệt. Tại Nam Kỳ, tức là ở phía Nam, người ta cho rằng dân Bắc Kỳ là những kẻ hà tiện và chỉ sĩ diện vẻ ngoài.” hay “Người ta nhớ lại hình ảnh những phu xe đã sức cùng lực kiệt mà vẫn phải chở những tên thực dân to lớn gấp ba mình và chỉ nhận được những cú đá thay cho tiền công.” Hết thảy những câu văn trên đều đã vẽ ra được một góc cuộc sống của những người dân Việt Nam đương thời, từ việc chịu đựng sự bóc lột, sự phân biệt nặng nề đến việc chịu cảnh tha hương khắp chốn hay phải sống chung với những định kiến mang nặng tính cổ hủ đối với đàn bà phụ nữ… Từ đó mà ta có thể mường tượng ra được một số phận nhỏ bé, lầm lũi và đầy sự cay nghiệt của “lũ dân đen Annamite” xưa kia. Khác với giọng văn đầy chất thơ của những nhà văn Pháp khác, giọng văn của Kim Lefèvre mang một nét gần gũi và bình dị, gần giống với giọng văn của các nhà văn Việt Nam. Trong “Cô gái lai da trắng”, Kim đã kể lại cuộc đời bà một cách vô cùng thân thuộc, hệt như cái cách mà những người bạn quen thân tâm sự với nhau. Khi tôi đọc, dường như có một cái gì đó cuốn hút tôi vào từng câu chữ, từng chương truyện trong tác phẩm. Và theo như tôi nghĩ, phải chăng chính sự bi thương, sầu thảm của số phận bà đã hấp dẫn tôi, lôi kéo tôi vào trong những trang sách, để tôi chiêm ngưỡng được một phần nào số phận người phụ nữ Việt Nam trong thời chiến tranh loạn lạc? Ấn tượng nhất của tôi về “Cô gái lai da trắng” chính là nét độc đáo trong việc bà kể lại các biến cố trong cuộc đời mình, từ đó mà đưa ra những bài học để đời và những quan niệm nhân sinh rất đặc sắc. Ví dụ như từ việc bà hẹn hò với chính người thầy của mình, dù biết việc làm này là sai trái, đi ngược lại với những luân thường đạo lý, nhưng bà vẫn kiên trì theo đuổi những cuộc đụng chạm da thịt chớp nhoáng này để rồi về sau bị bắt quả tang, phải chịu cảnh bị coi thường, khinh rẻ, ta rút ra được một bài học là đừng bao giờ để tình cảm che mờ đi lý trí của mình… Ngoài ra còn rất nhiều những bài học khác mà tôi sẽ đề cập đến trong bài viết sắp tới. Nguyễn Du từng viết: “Đau đớn thay phận đàn bà Lời này bạc mệnh cũng là lời chung.” Chắc có lẽ như giữa bà và Nguyễn Du cũng có một nét tương đồng, đó chính là sự thông cảm và thương tiếc cho những phận đàn bà, phụ nữ Việt Nam ở cái thời “đời người con gái là con đường nhỏ hẹp dẫn từ trinh tiết đến hôn nhân”, ở cái thời mà “người ta sợ Việt Minh như sợ cọp trong rừng xưa kia” vì “nghĩ rằng Việt Minh không phải là người mình”… Hầu hết các tác phẩm văn chương thời chiến đều nói đến những người lính, những người dân hay nói đến bọn thực dân tàn ác mà ít đề cập đến số phận của những người con lai. Chính quyển sách này sẽ giúp mọi người hình dung rõ nét hơn về những con người mang danh phận con lai ở Việt Nam thời bấy giờ. Song song với nội dung đặc sắc trên, giọng văn và cách đề cập đến các vấn đề của bà cũng rất khéo léo, không gây gãy mạch truyện hay gây mất tự nhiên. Chính vì những điều trên, tôi nghĩ đây là quyển sách cần phải có trong tủ sách chiến tranh của mỗi người và tôi cũng rất khuyến khích các bạn nên đọc thử. Nội dung: Đào Phụng - Bila Team *** Tôi được sinh ra, hình như ở Hà Nội, vào một ngày mùa xuân, ít lâu trước cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai, kết quả của cuộc hôn phối chốc lát giữa một cô gái An Nam và một người Pháp. Về chuyện này, tôi chẳng có bằng chứng gì xác thực, mà cũng chẳng ai làm giấy khai sinh cho mãi đến năm tôi mười lăm tuổi. Mà tôi cũng chẳng tìm hiểu làm gì. Điều đó có gì là quan trọng đối với tôi hay đối với ai khác. Chúng tôi sống trong một xã hội mà khái niệm thời gian định lượng không hề tồn tại. Cả đời người đàn bà chỉ cần chia làm mấy giai đoạn lớn: thời thơ ấu, rồi lúc thấy kinh - dấu hiệu có thể sinh con, và nghĩa là sắp lấy chồng được, rồi làm mẹ, mà nếu may mắn sinh được một đứa con trai thì sẽ làm mẹ chồng để có cái quyền áp chế một nàng dâu e lệ bước vào nhà mình… Cho nên có sớm muộn bốn hay năm năm cũng chẳng nghĩa lý gì. Tôi không biết cái ông sinh ra tôi trông giống ai. Mẹ tôi chẳng nhắc đến ông ta bao giờ. Trong những ngày buồn chán, tôi thích tưởng tượng, hình dung ông ta như một tay lính lê dương, không phải “chàng lê dương đẹp trai của em” như lời bài hát ở xứ Pháp này đâu, mà là một tay thực dân ngổ ngáo, đáng ghét, một kẻ thuộc phe kia. Tôi nung nấu mối hận thù mãnh liệt với người cha không hề biết mặt ấy, dường như chỉ những đứa con bị tổn thương đến cùng cực mới có thể hận thù được đến như vậy. Tôi đã mang nhiều họ nối tiếp nhau, chúng giống như những cái bản lề trong cuộc đời tôi. Đầu tiên là họ Trần của mẹ, khi bà một mình vò võ nuôi con. Nhưng rồi, hoảng hốt vì ngày càng chứng kiến thêm nhiều hậu quả do sự tồn tại của tôi đè nặng lên cuộc đời bà, bà liền giao tôi vào tay một bà vú trước khi trốn lủi vào tận Sài Gòn, mảnh đất lạ lẫm với bà nhưng lại chất chứa nhiều hy vọng cho bà xây dựng lại tương lai. Tiếp đến là cái họ Tiffon của người đàn ông sinh ra tôi, vào giai đoạn mà tất cả họ hàng nhất trí đòi mẹ tôi đưa tôi vào trại mồ côi để “quẳng lại cho dòng giống nhà nó”. Bởi vì, nói đúng ra, tôi đã trở thành một con quái vật giữa cái xã hội hết sức dân tộc chủ nghĩa. Ông cậu tôi tham gia Việt Minh từ năm 1941 và hội họp thường xuyên trong các khu rừng thuộc Tuyên Quang. Tất cả mọi cái trên người tôi đều tương phản với những người trong gia đình: từ hình hài đứa con lai đến tính khí thất thường khó hiểu, tóm lại là trong người tôi rất ít chất Việt Nam. Người ta chụp lên đầu tôi đủ thứ xấu xa chỉ vì dòng máu Pháp chảy trong huyết quản tôi. Điều đó ngăn cản mọi sự âu yếm dịu dàng dành cho tôi. Tôi thông cảm với họ. Tôi đồng tình với họ. Tôi cũng thế, cũng ghét cay ghét đắng cái thứ máu ấy trong người mình. Khi còn là một đứa con gái nhỏ, tôi đã khấn Trời khấn Phật xui khiến tôi gặp phải tai nạn gì đó cho cái thứ máu ấy, thứ máu đáng nguyền rủa ấy, chảy ra hết khỏi người tôi, để tôi được là đứa con gái Việt Nam thuần chủng, hòa hợp với những người xung quanh và ngay với chính bản thân mình. Vì tôi yêu đất nước này, yêu những cánh đồng lúa, những lũy tre xanh, những cái ao làng nơi tôi vẫn thường vùng vẫy với đám trẻ cùng lứa. Tôi không còn lưu giữ chút ký ức nào về những năm đầu của cuộc đời, ngoại trừ cái cảm giác rất sớm nhận ra rằng ở bất cứ chỗ nào mình cũng lạc lõng, xa lạ. Tôi rất đau lòng vì chuyện đó, không phải chỉ như chịu đựng một sự bất công, mà còn như phải mang trong mình một nét tật nguyền. Tuổi ấu thơ của tôi chỉ còn là bóng đêm trong ký ức. Đêm di cư. Tôi vẫn còn giữ từng mảnh ký ức về những cuộc dịch chuyển từ nơi này sang nơi khác, hệt như gói bưu kiện không người nhận. Bà vú già - từ lâu không được ai trả công, và cũng không còn nuôi nổi tôi nữa - cõng tôi trên lưng đi tìm một bà dì, ông cậu, hay bất cứ một người nào có dây mơ rễ má với tôi để trút sang họ cái gánh nặng này. Vào một đêm thu tại Hà Nội. Tôi nhớ tiết trời dịu mát vì trận mưa phùn - cái thứ mưa nhẹ hạt ở Bắc Kỳ - nhớ cảm giác dìu dịu trên tấm lưng trần của bà vú, da thịt vừa nhão vừa đàn hồi. Tôi bám vào thịt da bà như bám vào tấm võng ấm áp và mịn mượt, tôi nhấm nháp tận hưởng niềm thích thú trên con đường bất tận ấy. Phải chi cuộc hành trình vô định ấy kéo dài suốt cả đời tôi, và tôi cứ được bám lấy tấm lưng trần ấm áp của bà vú, còn da thịt mình thì phó mặc cho những hạt mưa phùn với lòng biết ơn, như vậy thì thích biết mấy. Trong ký ức xa xôi, tôi thấy Hồ Gươm hiện ra như một bức tranh Tàu mờ ảo trong sương. Vào năm nào? Tôi không thể nói chính xác. Bấy giờ các thiếu nữ đi dạo quanh bờ hồ, những mái tóc thề đen nhánh buông đến eo, và những tà áo mỏng phất phơ trước gió. Mấy đứa nhỏ chơi đùa trên bãi cỏ. Mấy bà hàng cốm bọc trong phiến lá sen những hạt cốm xanh rờn, mọng sữa, đượm hương lúa mới. Tôi thấy lại ngôi trường mẫu giáo, sáng sáng bầy trẻ nhỏ xếp hàng ngay ngắn trước ngọn cờ tam tài của Pháp, hét đến váng óc bài Maréchal, nous voila…* Người ta dạy lũ trẻ con chúng tôi sự ưu việt của trí tuệ so với bạo lực. Tôi còn nhớ bài hát kể chuyện Chú bé Tí Hon đã chiến thắng con quỷ ăn thịt người chỉ bằng mấy câu thế này: Hỡi con quỷ kia, hãy tránh lối ta đi! Bởi ta chẳng sợ gì mi Mi chẳng làm gì được ta Ta còn được học ở trường Chứ mi thì mãi là tên dốt đặc. Trí tuệ quả là thứ vũ khí kỳ diệu mà tôi mãi mãi tôn thờ. Hồi đó, tôi còn ở nhà bà cô của mẹ tôi. Bà đã có tuổi và tàn tật, nhưng nhan sắc thì tuyệt trần. Nghe nói bà bị ngã thang, giập xương hông, nên từ khi lâm nạn, bà phải ngồi lì trên chiếc ghế bành. Nhưng con mắt bà vẫn linh lợi, tâm trí bà vẫn hoạt bát cứ như một nữ thần vĩnh cửu và đáng sợ. Khi cuộc sống xô đẩy tôi trôi dạt đến nhà bà thì tuổi bà đã khoảng sáu lăm. Tuy nhiên, khuôn mặt trái xoan chưa lộ ra chút dấu hiệu nào của sự suy sụp, mà trái lại những nét đẹp của bà vẫn giữ được một sự trẻ trung lạ lùng. Bà kiêu kỳ với làn da mịn màng huyền diệu được tắm rửa bằng sữa. Bà bảo đó là bí quyết giữ gìn nhan sắc của bà. Khiếm khuyết duy nhất ở bà có lẽ là cái dáng vẻ èo uột, bệnh hoạn, bất thường như cái cây úa vàng vì cớm nắng. Bà không tỏ chút tình âu yếm nào đối với mẹ tôi cũng như đối với tôi. Bà gây cho tôi cảm giác kinh hãi, nên tôi thường phải núp vào một xó để ngắm nhìn bà mà tim vẫn đập loạn lên, chỉ lo bị bắt gặp. Trước khi bị nạn, bà cô của mẹ tôi sống phong lưu với một sĩ quan Pháp. Hai người sinh được một mụn con gái, tức là chị em con dì con già với mẹ tôi, hơn nhau vài tuổi. Dì Marcelle ở với bà cho đến khi có mang, sinh con trai xong là vội quẳng vào tay bà mẹ, tếch luôn sang Pháp. Dì đã sớm hiểu ra vận may của mình là không phải ở lại Việt Nam. Tôi ngờ ngợ rằng chính vào dạo ấy, mẹ tôi đã gặp cha tôi, nhưng không chắc lắm, vì không ai nói với tôi chuyện đó bao giờ. Bà cô mẹ tôi cưng cháu ngoại như ông thánh sống. Đó là một anh con trai bảnh bao khoảng mười lăm tuổi mà cả nhà phải gọi là “cậu Yves”. Được bà nuông chiều, anh càng làm vương làm tướng. Người béo bệu, da dẻ hồng hào nhưng nhẽo nhợt. Trong cái xã hội Á Đông chúng tôi, anh ta đại diện cho “bọn mũi lõ”, cách gọi dân dã để chỉ người Pháp thời bấy giờ. Cứ thấy anh ta ló mặt là chúng tôi đều phải cụp mắt xuống. Ra dáng cậu chủ, anh ta ngồi ăn bên bàn, còn chúng tôi thì ngồi trên manh chiếu trải dưới đất. Thỉnh thoảng anh ta quẳng xuống chiếu mấy miếng ăn thừa. Tôi rất hãi ông anh họ tôi, “cậu Yves”. Anh ta rất tai quái, xét nét từng li từng tí, chỉ rình xem tôi có sai sót gì là vin vào cớ đó mà bắt phạt. Tôi nhớ mãi những tiếng thét kinh hoàng của mình cái lần anh ta xốc tôi lên dứ dứ trên tổ kiến. Mà tội của tôi có đáng gì cho cam, chỉ là anh ta nghe người ta nói tôi không thật ngoan trên lớp. Dẫu gì thì anh ta cũng cứ muốn ra oai, thế là bắt tôi xắn quần qua đầu gối, quỳ ngay vào ổ kiến đang nháo nhác. Vì không bị trói nên tôi lẽ ra đã có thể trốn đi. Nhưng tôi vẫn cứ ở đó mà kêu la, gào khóc đến lạc giọng, như thể bị uy quyền của anh ta thôi miên vậy. Hai chục năm sau, tôi được mời đến gặp lại anh ta, khi đó đã là kỹ sư một công ty dầu lửa tại Sài Gòn. Còn tôi cũng đã là một cô giáo trẻ dạy Pháp văn tại một trường trung học Việt Nam trong thành phố. Đắn đo, do dự mãi, nhưng rồi tính hiếu kỳ đã át nỗi e ngại, tôi nhận lời. Xích lô đưa tôi đến trước cổng một ngôi biệt thự trong khu gia cư. Từ ngoài nhìn vào thấy thấp thoáng một lối đi giữa hai hàng me, một bãi cỏ điểm xuyết những bụi râm bụt. Tôi vội quay ngoắt. Những cánh cửa của quá khứ đời tôi, ẩn nấp đằng sau là các hung thần cho đến giờ vẫn tiếp tục gây khiếp đảm cho đứa con gái nhỏ khốn khổ ngày trước, đã khép lại như thế đó. Quan hệ giữa tôi với anh Yves hồi nhỏ là thứ quan hệ hết sức hỗn tạp. Ban ngày, tôi phải làm một phần việc của con sen con ở. Thế nhưng tối đến vẫn phải nằm cùng anh trên cái giường Tây cao lêu đêu. Với tôi, cái giường ấy luôn là giường lạ, không làm sao quen được. Leo lên cái giường ấy là leo vào một thế giới chất chồng sợ hãi và căm ghét. Thế mà tối nào tôi cũng phải nằm bên một con người suốt ngày hành hạ mình. Người tôi cứng đơ ra vì sợ hãi, hai mắt nhắm nghiền nhưng cứ phải nằm im thin thít, theo dõi nhất cử nhất động của ông anh họ, rình anh ta ngủ say rồi mới dám chợp mắt. Cả hai đứa rình lẫn nhau. Nhưng phần lớn thời gian, cái sợ của tôi tỉnh táo hơn cái ác của anh ta, nên anh ta luôn thiu thiu ngủ trước tôi. Bấy giờ tôi mới ngủ thiếp đi. Tôi căm ghét cái giường đôi ấy, và mỗi lần phải đòn là tôi lại thừa dịp vừa kêu gào khóc lóc vừa tè luôn một bãi ra tấm khăn trải giường trắng tinh. Tôi sung sướng đến phát dại khi thấy cái giường bị ố bẩn, còn ông anh họ tôi thì tức tối lồng lộn. Những chiến công hiếm hoi ấy đã trả hận cho tôi những nỗi kinh khiếp lúc đêm khuya giật mình thức giấc, thấy bàn tay to tướng mềm nhũn của ông anh họ nắm lấy bàn tay nhỏ xíu của mình mà gí vào chỗ kín của anh ta. Tôi trùm kín tấm chăn như trùm vải liệm, vừa ngạt thở vừa tê liệt vì ghê tởm. Một cơn lạnh buốt thấu ruột gan, chỉ muốn chết cho rồi. Lúc ấy tôi mới chừng bốn, năm tuổi. Sáng ra mới thấy lại cái thú muốn sống. Mùi rau thơm, mùi gừng chín ngào ngạt từ dưới bếp đưa lên mùi phở, thứ xúp ăn sáng ở Hà Nội, thêm tiếng bát đũa, tiếng thìa chén lanh canh chuẩn bị bữa điểm tâm, cả một thế giới thân thuộc khiến ta yên dạ. Nhà bà cô của mẹ tôi gồm một gian chính trông ra sân, giữa sân có giếng nước, bên kia giếng là một dãy những phòng nhỏ y hệt nhau, dành cho các cô gái được gọi là “con nuôi” của bà thuê lại. Họ đều là gái mới lớn, từ đồng ruộng ra thẳng đây để được tuyển làm vợ bé cho các sĩ quan Pháp là khách quen của nhà này. Các cô rời bỏ quê nhà để bố mẹ khỏi phải nuôi thêm một miệng ăn. Ngoài tuổi trẻ và nhan sắc ra, họ chẳng có của nả gì khác. Còn gì giản đơn hơn việc bán mình? Dẫu thế, họ vẫn không phải là gái điếm. Các cô không có cả cái ưu lẫn cái khuyết của gái điếm. Với bản tính cả thẹn và sự trong trắng cả thể xác lẫn tâm hồn, các cô co rúm người lại như phải nuốt chén thuốc đắng khi hiến thân cho gã đàn ông không quen biết. Đó là cái thời điểm khó chịu nhất buộc phải trải qua. Các cô không ý thức được bao nhiêu về nhân cách để cảm thấy bị xúc phạm. Huống hồ, họ cho rằng đã là đàn bà thì người đoan chính nhất cũng không thoát được việc đó trong ngày cưới của mình kia mà. Chẳng qua thân phận đàn bà là thế. Còn việc yêu đương, các cô chẳng bao giờ nghĩ đến, hay ít nhất cũng không nghĩ đến việc yêu đương những gã đàn ông cao lớn, lông lá, đang làm chủ cái đất nước vốn đã đầy rẫy những nỗi e sợ chồng chất lên đầu họ. Các cô chỉ cố không để những gã đàn ông ấy phật lòng và xin ngoan ngoãn làm vợ bé nàng hầu, miễn là được giữ kín, không để lọt tai tiếng về làng. Trong số đó, tôi đặc biệt có cảm tình với một cô gái trẻ tuổi, mảnh mai, mái tóc óng ả trời ban mỗi lần ngồi xuống là quét tận mặt đất. Tình cảm âu yếm của cô đã bù đắp cho tôi. Tôi bắt chước dáng đi, dáng ngồi của cô, tôi cũng lấy khăn vấn tóc lên cho giống cô. Đôi khi tôi đi theo cô vào tận căn phòng nhỏ bề bộn những quần áo đàn ông. Một lần, cô bỗng chui xuống gầm giường lấy ra một cái tráp đựng mấy chiếc trâm cài đầu có hình chim đang bay, một chiếc mùi soa thêu, vài đồng tiền nhét trong ruột tượng. Số tiền chẳng là bao, nhưng cô vẫn phải trông vào nó phòng lúc ốm đau. Lo dành dụm kín đáo một ít tiền riêng là việc thường tình của người phụ nữ Á Đông đã hấp thụ nền giáo dục dựa trên đạo lý tam tòng. Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử. Người đàn bà nào cũng phải tuân theo đạo tam tòng ấy. Cô cũng vậy, cô thấy trước rằng khi bị xử tệ hay bị xua đuổi, sẽ chẳng ai che chở cho mình, số phận cô lúc này hoàn toàn nằm trong tay ông chủ nhất thời kia. Gặp được người tốt bụng thì cô tạ ơn Trời Phật, chẳng may gặp phải người xấu thì cô đem chỗ tiền dành dụm mua chút lễ vật cúng Trời Phật cầu được phù hộ độ trì. Tôi thường thấy mẹ tôi chôn giấu chút ít tiền bạc để đảm bảo cho mình khi gặp chuyện chẳng lành. Mẹ ơi, con đã từng được kề cận bên mẹ trong những đêm tối đen như mực ấy. Hai mẹ con mình rón rén bước chân với ngọn đèn dầu lạc che khuất dưới chiếc nón lá. Ánh đèn chỉ đủ rọi xuống bốn bàn chân trần và khoảng sáng hẹp bao quanh. Mẹ lo không tìm ra chỗ bờ bụi nơi chôn giấu kho báu của mẹ. Mấy con chão chuộc thấy động kêu toáng lên làm con giật bắn người. Thỉnh thoảng một con đom đóm xé màn đêm bằng ánh sáng lập lòe trốn chạy, tưởng như những bóng ma trơi đang than khóc bằng ánh lập lòe ấy. Con mong sao cho cái hũ tiền của mẹ được chôn nơi tận cùng thế giới để mẹ con ta đi đến đó mà tìm, từ bỏ mãi mãi những gì ở lại phía sau. Tôi sống ở Hà Nội với bà trẻ và anh họ tôi chỉ được một thời gian ngắn. Họ nhanh chóng chán ngán tôi. Từ lâu tôi cũng đã cảm thấy tự trong bản chất tôi có cái gì đó không những không gây thiện cảm mà còn gây ác cảm nữa, nó làm cho người có thiện ý nhất cũng dễ nản lòng, và làm cho sự vồ vập dành cho tôi không bao giờ biết đến ngày mai. Tôi không hề biết rằng mỗi lần người ta ngỏ ý muốn tống khứ tôi đi, chính là do mẹ tôi lần đó không gửi số tiền cần có để nuôi tôi. Bằng chứng là người ta lại tống tôi vào Sài Gòn với mẹ. Tôi không nhớ được là vào năm nào và tôi đã đi như thế nào tới thủ phủ của miền Nam Việt Nam. Có lẽ lúc ấy tôi mới lên bốn lên năm gì đó. Mẹ tôi sống với một ông chồng trong một ngôi nhà đâu đó tại vùng ngoại ô. Một mảnh sân nhỏ ngăn cách gian bếp với nhà trên là nơi có đặt bàn thờ tiên tổ. Đấy là nơi mẹ tôi mỗi khi có điều gì buồn bực lại chìm đắm vào việc đèn nhang khấn vái. Bà có mang và khấn vái suốt. Mời các bạn đón đọc Cô Gái Lai Da Trắng của tác giả Kim Lefèvre.