Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Trên Đường

Cuốn tiểu thuyết từng nằm trong danh sách 100 tiểu thuyết tiếng Anh vĩ đại nhất giai đoạn 1923- 2005 của tờ Time này gần như một cuốn tự truyện tiêu biểu cho làn sóng tự do tiên phong thời kỳ hậu Thế chiến II. Được xếp vào các tác phẩm văn học cổ điển Mỹ cùng Huckleberry Finn của Mark Twain, tác phẩm đã khai thác chủ đề tự do cá nhân và những thử thách từ cái gọi là “Giấc mơ Mỹ”. Qua những chuyến đi và trải nghiệm của nhân vật chính và những mối quan hệ đan xen trong truyện, Trên đường là một bằng chứng của một giai đoạn trong lịch sử nước Mỹ và của một phong trào trí thức mà nếu không có nó có lẽ sẽ không ai lý giải. Cuộc phiêu lưu xuyên Mỹ của Sal Paradise và Dean Moriarty trong truyện được dựa trên chuyến đi có thật của Jack Kerouac và Neal Cassady. Về thực chất, đó chính là hành trình tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống và sự trải nghiệm đích thực. Được viết bằng sự pha trộn giữa cái nhìn buồn bã ngây thơ với sự phóng túng cuồng nhiệt, giữa tình yêu sâu sắc của Kerouac với nước Mỹ, lòng trắc ẩn của ông với con người và cảm thức về ngôn ngữ, coi nó như nhạc jazz, Trên đường là một điển hình cho cách nhìn Mỹ về tự do và hy vọng, đặc biệt trong bối cảnh “Giấc mơ Mỹ” bắt đầu tan vỡ. Với Trên đường, Jack Kerouac đã bắt đầu phát triển một cách viết mà ông gọi là “Văn xuôi bột phát” (Spontaneuos Prose) với đặc điểm gồm rất nhiều các câu dài, kết cấu hình thức phóng khoáng, được viết ra ngay khi ý tưởng ập đến trong đầu, mang tính cá nhân rất cao. Ngay từ khi ra đời, cuốn sách đã gây ra không ít tranh cãi, nhưng bất chấp những tranh cãi đó, Trên đường vẫn được đa số công nhận là một trong những tiểu thuyết vĩ đại nhất thế kỷ hai mươi của nền văn học Mỹ nói riêng và thế giới nói chung.   Nhận định   “Nếu như Mặt trời vẫn mọc của Hemingway trong thế kỷ hai mươi được coi như cuốn Kinh thánh của Thế hệ bỏ đi thì Trên đường của Jack Kerouac cũng đóng một vai trò như vậy với Thế hệ Beat. (…) Thế hệ beat sinh ra đã vỡ mộng. Họ coi những nguy cơ xảy ra chiến tranh, sự trì trệ của hệ thống chính trị, thái độ thù địch của cộng đồng là hiển nhiên. Sự giàu có không làm họ ấn tượng. Họ không biết mình đang tìm kiếm nơi nào để nương tựa, nhưng họ vẫn không ngừng tìm kiếm.” - Gilbert Millstein, New York Times Book Review   “(…) Văn phong xuất sắc. (...) Phong cách độc đáo, mãnh liệt mà giản đơn, sắc sảo đến dị thường. - The Atlantic Monthly. “Trên đường là một tiểu thuyết sẽ khiến độc giả của nó muốn ngay lập tức lên đường, chộp lấy tháng ngày hiện tại và sống, sống, sống đến tận cùng!” -  Anna Hassaghi, Đại học Hiram *** Nếu bạn ở trên đường, đi qua bụi mù và đơn độc, thì Jack Kerouac sẽ ở bên bạn. Không buồn đâu, không cô độc, chỉ có những con đường ngoài kia, trẻ mãi, vui mãi và yêu đương khôn xiết. Lần đầu tiên tôi đọc “Trên đường” là lúc tôi ngồi một mình trong Angkor Wat. Tới bây giờ với tôi, cảm giác ấy vẫn là một sự rung rinh dịu dàng. Tôi nghĩ mình đã yêu, yêu đền đài trước mặt và yêu bàn chân mà Sal Paradise đã đi. Cuốn sách này đơn giản lắm, nó là hằng hà sa số những cuộc đi tới đi lui của anh nhà văn trẻ Sal Paradise – sau khi “khám phá” ra trên đời này có một gã tên là Dean Moriarty. Sal viết: “Dean Moriarty đến là bắt đầu một chương mới trong đời tôi, có thể đặt tên cho nó là “đời tôi trên những con đường”, hay “Về chuyện ngao du trên đường thì Dean là típ người hoàn hảo, bởi vì hắn được đẻ ra ngay trên đường, trong một cái ôtô xập xệ, khi bố mẹ hắn đi ngang qua Salt Lake City để về Los Angeles năm 1926.” Rồi từ ấy trở đi, cuộc đời họ trở thành các vì sao, lao nhanh vào vũ trụ của các con đường, không quỹ đạo, không ngần ngại, không cả những toan lo vớ vẩn mà bất cứ ai trên đời này. Những trang viết là dòng chảy khấp khởi của các ý nghĩa, sự hưng phấn không chịu nổi của tình yêu, vẻ đẹp các quãng đường, những cơn mê cuồng dại trong vẻ đẹp của một cánh đồng, của mùa đông, của một quãng đường dài khủng khiếp đầy gió bụi. Phong cách viết của Jack Kerouac là điển hình cho thế hệ Beat. Với đầy đủ những đặc trưng của dòng chảy này: Coi những tự sự trần trụi, tươi mới là hạt mầm của sáng tạo. Ở bất cứ đâu trong “Trên Đường”, bạn đều có thể bắt gặp những câu viết nhanh, hưng phấn tột cùng trong ý nghĩ, xúc cảm tươi rói, không bó buộc chút gì trong các quy tắc ngôn ngữ thông thường: “Trong một thoáng, tôi đã đạt tới cực điểm cảm xúc mà bấy lâu nay tôi hằng ao ước, hoàn toàn bước qua ranh giới của thời gian vật chất sang vùng bóng tối phi thời gian, kinh ngạc trước sự lạnh lẽo của cõi hữu hạn, cảm giác như cái chết đang đuổi theo sát gót buộc mình tiến về phía trước, theo sát nó lại là một bóng ma khác, và chính tôi đang vội vàng chạy về nơi các thiên thần vỗ cánh bay vào khoảng không thiêng liêng vô cùng tận, nơi ánh sáng giác ngộ phi thường không sao lý giải nổi trong Bản thể Nhận thức chói loà, biết bao cõi bình an mở ra trong ánh sáng diệu kỳ từ thiên đường rọi xuống. Tôi có thể nghe thấy tiếng gầm gào náo động không sao miêu tả nổi không những trong tai tôi mà còn ở khắp nơi và cứ mặc kệ những âm thanh đó. Tôi nhận ra là mình đã chết đi và sống lại đến ngàn lần nhưng không sao nhớ nổi chính xác bởi lẽ bước nối tiếp từ sự sống sang cái chết thật quá dễ dàng, chỉ là một phép thần của hư vô, chỉ như thiếp đi rồi lại đứng dậy đi lại hàng triệu lần, hoàn toàn  bình thường và chẳng ai hay biết. Tôi nhận ra rằng nhờ tính ổn định của Nhận thức thực chất mà sự sống và cái chết mới diễn ra như làn sóng, như cơn gió lay động mặt nước hồ trong vắt, yên ả, phẳng lặng như gương. Tôi cảm thá6y hạnh phúc ngọt ngào, ngây ngất như vừa tiêm vào động mạch chủ một mũi heroin; như một chầu rượu cuối chiều và bỗng thấy mình run rẩy. Chân tôi như có kiến đốt. Tôi nghĩ bụng có lẽ mình chết đến nơi rồi. Nhưng tôi không chết và lại cuốc bộ bốn dặm đường, nhặt được mười đầu mẩu thuốc lá mang về phòng của Marylou, nhét số thuốc còn lại trong đó vào tẩu rồi châm lửa hút…” Cũng ở đoạn văn trên, người đọc có thể thấy thêm một đặc trưng nữa của trào lưu Beat: “Ý thức của nghệ sĩ được mở rộng ra vô hạn trong những hỗn loạn của giác quan” – và cách hầu hết những nhà văn như JackKerouac sử dụng để tạo ra cảm xúc bất thần là nương nhờ vào cơn say ma tuý. “Trên đường” chứa hàng trăm đoạn văn mà khi đọc bạn cảm thấy mình ở trong đó, phân vân vì từng đồng bạc lẻ trước khi lên đường, hú hét điên dại trong cơn hứng chí giữa con đường ngập tuyết, điên lên vì yêu đương, ghen tuông, rủa xả rồi lại lao vào nhau giữa những cuộc làm tình không bờ bến. Đọc quyển này, cứ như ta uống hoài, uống hoài, uống cho đã cái hơi men tuổi trẻ mà Jack Kerouac đã vắt vào, ném lên trời, hệt như các vì sao tả tơi trong đêm tối hoang dại. Các chàng trai cô gái trong sách cứ dâng lên trong ngày tháng không bờ bến của họ, làm tất cả những gì mình muốn, bất chấp thế giới đổi thay, và thỉnh thoảng có người gục ngã không chút ngần ngại. Dean yêu Marylou, rồi Dean đi lấy Camille, còn Marylou đi lấy một gã thuỷ thủ, rồi họ lại lao vào nhau trên đường. Sal yêu Terry trên nông trại, rồi rời bỏ nàng vì con đường vẫy gọi. Họ đến, rời đi, bỏ lại những mái nhà để kiếm tìm khoái cảm vô tận của tuổi trẻ… Tôi không phải người nghe nhạc Jazz nên không rành lắm. Nhưng cũng trong quyển này, có một “nhân vật” quan trọng là: nhạc Jazz, hiện hữu đầy rẫy trong các quán bar, trong căn phòng tối cả đám phê thuốc, trong cuộc nhảy múa điên cuồng với tay chơi kèn thần sầu. Có những đoạn viết kiểu như vầy: “Tay saxo đội mũ đang trong trạng thái ứng tác kỳ thú, lặp lại điệp khúc trầm bổng từ “II –ya!” dến âm điệu phá cách hơn “II-đe-li-ya!”, cứ thế hoà điệu cùng tiếng trống dồn dập của một tay trống da đen có cái cổ to như cổ bò, gã này bất cần mlọi thứ, chỉ quan tâm đến mỗi cái dàn trống của gã, đập, gõ , đập. Âm nhạc cuồng nhiệt, tay saxo đã tạo nên điều đó và mọi người đều biết chính gã đã tạo nên điều đó. Dean ôm lấy đầu, chen chúc trong đám đông như đang phát điên. Tất cả mọi người đang cổ vũ tay saxo cữ giữ mãi đoạn đó, họ la hét với những đôi mắt như điên dại, gã lại đứng thẳng lên sau cú gập người lấy hơi rồi lại chùng người xuống, tiếp tục khúc nhạc trong tiếng hò hét thán phục. Một phụ nữ da đen gầy nhẳng cao lêny khênh đang lắc lưu chạm đống xương của cô ta vào cây kèn của gã, gã chẳng quan tâm, cứ thế thúc cây kèn vào cô ta, “Ii! Ii! Ii!” …. “Hắn xoa ngực xoa bụng, mồ hôi chảy ròng ròng trên mặt. Gã đánh trống đẩy tiếng trống xuống thật thấp rồi dồn dập tăng nhịp và cường độ lên bằng đôi dùi hay chết người của gã. Một gã to béo nhảy lên bục biểu diễn, làm cái bục lún xuống và kêu cót két. “Yo!” Tay piano lướt trên phím đàn bằng cả mười ngón tay xoè rộng, tạo ra những hợp âm nhanh trong lúc gã saxo vĩ đại đó lấy hơi cho một cao trào mới – những hợp âm kiểu kinh kịch Trung Quốc khiến từng đường dây thớ gỗ của cây piano rung chuyển. Rồi từ trên bục, tay saxo nhảy xuống, đứng giữa đám đông, vung kèn ra cho bốn hướng thổi, mũ sụp xuống mắt; ai đó đội lại mũ cho gã, Gã ngả người ra sau, lại nghỉ lấy hơi, giậm chân xuống sàn và tung ra những nốt trầm khàn, rồi lại lấy hơi, nâng kèn lên thổi những giai điệu thanh thoát, mênh mông, xé tan bầu không khí. Dean đang đứng ngay trước mặt gã, mặt nghiên xuống gần sát bàn kèn, tay vỗ nhịp, mồ hôi rỏ tong tong lên phím kèn, gã nhìn thấy, thế là gã thổi vào tiếng kèn một tràng cười dài như điên dại, và mọi người cũng cười theo, lắc lư người liên tục. Cuối cùng tay saxo quyết định lên đến đỉnh điểm, gã quỳ mọp xuống, ngận dài mãi một nốt đô chói tai trong khi mọi thứ như vỡ toác hết và khán giả gào thét mỗi lúc một to thêm.” Trong cách viết này, câu từ lặp đi lặp lại để thể hiện cái chết bên trong của một thứ khác, vượt qua giới hạn của giác quan, chiêm ngưỡng khoái lạc, về sự sung mãn lạ thường của cuộc sống. Và ở giữa các đoạn văn, người đọc có thể thấy được những âu lo, nỗi buồn thầm kín, những đổ vỡ của con người của “Thế hệ đã mất” sau chiến tranh thời Kerouac: đôi lúc chán ghét cuộc sống đến thù hằn, rồi lại đau đớn yêu thương nó vì sự rực rỡ quá đỗi của các cung bậc bay bổng ngoài kia. Linh hồn của Dean Moriarty có lẽ là linh hồn của một con đường. Gã đi như mây gió, gã kéo theo Sal, kéo theo cô tình nhân Marylou xinh xẻo ngu ngốc, rồi gã sẵn sàng vứt bỏ họ bên đường, vứt bỏ mái nhà, vứt bỏ Sal, vứt bỏ tất cả, để chạy theo con đường. Dean không có lỗi. Chỉ là Dean không dừng lại được. Có lẽ, nếu l1uc Dean ngừng lại, gã sẽ chết vì u buồn và đơn điệu, sẽ chết giống như một người đang cần khí thở liền bị ai đó bóp cổ vậy. Trong một chặng đường ở Mexico, Dean đã bỏ lại Sal khi đang bị kiết lị. Hắn nói: “Sal tội nghiệp, Sal tội nghiệp, ông bị ốm rồi. Stan sẽ chăm sóc ông. Cố nghe tôi nói đây, dù ông đang bệnh: tôi vừa nhận được ở đây giấy tờ ly hôn với Camille, tối nay tôi về New York với Inex, nếu cái xe còn đủ sức.” “Lại từ đầu à?” tôi kêu lên, … Sal đã nghĩ về điều đó như một sự phản bội, nhưng cũng ngay lúc đó Sal hiểu ra rằng Dean phải chạy đua với cuộc đời ngột ngạt này, vứt bỏ mọi thứ để lại được ở trên đường, lái xe và đi khắp thế gian của hắn. Hắn là tuổi trẻ, là sự huy hoàng duy nhất còn lại trong bóng tối già nua bủa vây và nỗi buồn rũ rượi…. Jack Kerouac “Trên đường” là một tuổi trẻ ngây ngất cho những ai đang đeo balô và đi xa, đang du hý đâu đó, đang đơn độc tận hưởng cõi đời này, hãy nhai bánh mì nhạt, uống cà phê và đọc một đoạn. Đó là một niềm vui lộng lẫy bé xíu xiu thôi…. và mình không thể nào cưỡng lại. Khải Đơn Review *** Sal Paradise là một nhà văn trẻ mới ly dị vợ và thấy mọi thứ đang tan nát hết cả. Anh đã vô tình gặp Dean Moriarty – một con ngựa hoang với những đam mê bản năng nhất, một thiên thần với tâm hồn thánh thiện, nhưng cũng là một ác quỷ điên cuồng có khả năng làm xáo trộn mọi nơi hắn đi qua – người đã mở ra chương mới trong cuộc đời của Sal, “cuộc đời trên những con đường”. Họ gặp nhau vào mùa đông năm 1947 và chia tay vào mùa xuân cùng năm đó để chuẩn bị cho những chuyến lên đường riêng.  Để kiếm tìm trải nghiệm cho những áng văn chương của mình, Sal lên kế hoạch đi về Bờ Tây bằng cách xin đi quá giang mọi phương tiện xe cộ trên đường. Sal được tụ hội với Dean cùng những chiến hữu, cũng là những nhà văn, nhà thơ trẻ nổi loạn, Carlo Marx, Chad King, Tom Snark, Tim Gray…tại thành phố Denver cổ kính và đã có những “cuộc vui quên tháng ngày”, tưởng chết đi được trong những quán bar đặc mùi khói thuốc và ồn ĩ tiếng nhạc jazz phóng khoáng, hay những buổi đàm đạo sôi nổi xuyên đêm tới sáng mà bản thân người tham gia không hiểu  mình đang nói gì… Cứ thế, cả tiểu thuyết là những lần gặp rồi chia tay, chia tay rồi gặp lại của Sal và Dean trong vài năm sau đó. Hai con người ấy đã cùng nhau lang thang, rong ruổi trên những con đường khắp chiều dài nước Mỹ, từ Đông sang Tây, và ngược lại, không biết bao nhiêu lần. Một tình bạn bền chặt kì lạ dần được xây đắp nên giữa hai gã đàn ông này, nối kết với nhau bằng những sợi dây ý thức rối rắm mà người ngoài không thể hiểu nổi. Họ cùng nhau tận hưởng cảm giác lang bạt, gặp gỡ và kết bạn mới, chìm đắm trong những cuộc tình mới, say khướt với những bữa rượu túy lúy bất kể giờ giấc, tiếp thu những kinh nghiệm sống phi vật chất với thái độ bất cần đời. Dean có thể phóng xe bạt mạng vượt mấy nghìn dặm chỉ để gặp Sal, cũng như Sal sẵn sàng từ bỏ mọi thứ, xách vali và nhảy lên xe để đi cùng Dean đến bất cứ phương trời bất định nào.  Nhân vật Sal cứ liên tục hỏi những cô gái anh ta gặp “Em chờ đợi gì ở cuộc đời này?” nhưng chính bản thân anh cũng chẳng rõ “Đi đâu? Làm gì? Nhằm mục đích gì?..” và những “cái bọn khùng này lại cứ muốn lao về phía trước”, suy ngẫm và tìm kiếm ĐIỀU ĐÓ, thứ gì đó thần thánh mà họ không cắt nghĩa rõ được. Họ đơn thuần là những nhà văn trẻ đầy nhiệt huyết, muốn tự giải phóng mọi ràng buộc, thoát khỏi sự gò bó bởi lý trí, logic, đạo đức, tôn giáo… để tìm về với bản ngã sơ khai. Chúng ta có thể thấy rõ điều đó khi Sal, Dean và người vợ đầu tiên của hắn, Marylou, “trút bỏ hết gánh nặng quần áo”, khỏa thân lái xe dưới cái nắng gió của miền Tây nước Mỹ, tận hưởng khoảng trời tự do đã cho họ trải qua những trạng thái vui sướng, tuyệt vọng, trống rỗng và bi đát – nỗi buồn đặc thù trên đất Mỹ mênh mông. “Trên đường” được dựa trên câu chuyện có thật của Jack Kerouac cùng người bạn Neal Cassady, hai trong số những nhân vật quan trọng của thế hệ Beat (Beat Generation) của nước Mỹ những năm 50, là cánh chim đầu đàn khởi xướng ra phong trào Hippy và tạo cảm hứng cho những người theo chủ nghĩa Bohemian. Tiểu thuyết này được viết ra trong vòng chưa đến ba tuần lễ trong năm 1951, theo lối viết sáng tác bột phát trên một cuộn giấy teletype, thể hiện một phong cách tươi mới với câu văn dài lan man dựa trên kết cấu rời rạc của nhạc jazz mà theo J.Kerouac đã nhấn mạnh “Không có ‘sự chọn lọc’ trong diễn đạt mà cứ đi theo sự liên tưởng của tâm trí, chìm vào những biển suy tư vô bờ bến với chủ đề triền miên.”.  Tác phẩm đề cao sự tự do trong tâm hồn, hoài bão sống trần trụi, niềm đam mê với những chuyến đi phiêu bạt và coi “con đường đó chính là cuộc đời họ”. Khẩu hiệu nổi tiếng “Make love, not war” cũng được ra đời trong thời kỳ này. Và từ một nhóm nhỏ những người bạn say mê văn chương, thế hệ Beat đã bất tử trở thành một huyền thoại văn hóa của nước Mỹ. Hình ảnh nhân vật trong tiểu thuyết mang ba lô và vẫy tay xin quá giang dọc đường đã tạo cảm hứng cho rất nhiều thanh niên thời kỳ đó cũng như bây giờ bắt chước theo.  Hãy lên xe cùng Sal và Dean, biết đâu bạn sẽ tìm thấy mình ở đâu đó trên con đường dài ấy! Thi Nga Review   Mời các bạn đón đọc Trên Đường của tác giả Jack Kerouac.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ame và Yuki - Những Đứa con của Sói - Hosoda Mamoru
Câu chuyện này nghe qua như cổ tích, vì nó mở đầu thật đẹp, và cũng thật ly kỳ. Người đẹp và quái vật, công chúa và con ếch… Tiếp nối bao nhiêu câu chuyện tình yêu nổi tiếng với mối duyên nhân - thú, Ame và Yuki - những đứa con của sói, cũng đã mở ra bằng tình cảm đẹp đẽ và bất chấp lẽ thường giữa hoa (Hana) và sói, để tạo ra tuyết (Yuki) và mưa (Ame).  Nhưng câu chuyện này, nếu là cổ tích thì cũng chỉ có một nửa thôi, còn một nửa nữa lại hiện thực đến bùi ngùi. Chẳng bao lâu con sói vì lao lực nuôi gia đình, đã chết trôi dưới gầm cầu, phơi ra khung xương sườn gầy giơ dưới những con mắt bàng quan của người đời. Hana từ đó một tay nuôi nấng hai đứa con lai giống khác thường với những vấn đề oái oăm. Chẳng hạn, khi chúng ốm thì nên đưa đi thú y hay đưa đi nhi khoa? Nên nuôi dạy chúng theo kiểu của sói hay như con người? Cố gắng che giấu thân phận thật sự của các con, cũng như cho chúng có cơ hội tự tìm lấy đường đi của chính mình, cuối cùng Hana đã ôm chúng lên một ngôi nhà trên núi, sống ở ranh giới giữa xã hội và thiên nhiên. Ame và Yuki - những đứa con của sói, là lăng kính về khó khăn của cha mẹ trong suốt quá trình sinh thành dưỡng dục cho đến khi gạt nước mắt thấu hiểu nhìn chúng lựa chọn đường đời của mình. Bởi thế, đây cũng là tụng ca đầy chất nhân văn về công lao và tấm lòng cha mẹ. *** Tác giả: Hosoda Mamoru Sinh năm 1967 tại tỉnh Toyama. Nhà sản xuất, đạo diễn phim hoạt hình nổi tiếng của Nhật Bản. "Nếu có nhà riêng thì thật là tốt. Sẽ được nói tôi về rồi đây, tháo giày, rửa mặt rửa tay rồi ngả người trên ghế. Cảm giác chắc hẳn rất dễ chịu. Tôi sẽ đóng một cái giá sách. Khi nó đầy tôi lại đóng giá mới. Làm gì cũng được vì đó là nhà của mình mà." Mở đầu theo phong cách cổ tích thơ mộng... Kế thừa mô típ tình yêu kỳ ảo giữa người và thú... Câu chuyện khởi nguồn bằng nhân duyên đẹp đẽ giữa sói và một cô gái tên hoa (Hana), từ đó sinh ra mưa và tuyết. Nhưng không gian cổ tích ấy mau chóng chấm dứt khi sói phải oằn mình xuống dưới gánh nặng mưu sinh, rồi chết, không trăng trối, không kịp gặp mặt lần cuối, và hơn hết thảy là để lại cho người vợ mong manh nhiều rắc rối khó lường trong việc nuôi dạy hai đứa con lai khác biệt. Lọc lấy những gian khó và băn khoăn điển hình nhất trong cuộc sống của một người mẹ đơn thân, rồi tái hiện chúng trong một không gian truyện mênh mang kỳ ảo, Ame và Yuki còn là khúc ca đẹp đẽ về công lao và tấm lòng của những người làm cha làm mẹ. *** Mưa vẫn tiếp tục rơi. Trên những mái nhà, những cánh đồng, những ruộng rau, những ngọn núi... Gia đình Hana trải qua mùa hè năm thứ bảy. Mưa lớn kỷ lục đã nhiều lần tấn công vùng đất này. Đây vốn dĩ là khu vực có nhiều mưa. Luồng không khí hút một lượng lớn hơi ẩm từ ngoài biển Nhật Bản vào, va chạm với dãy núi và tạo ra mưa. Vào mùa đông thì lạnh giá, có tuyết. Một lượng lớn nước được lưu trữ trong núi dưới dạng tuyết phủ và sang xuân thì tan chảy để tưới tiêu cho ruộng đồng. Vào mùa hè, nhờ dãy núi chắn ngang nên bão không tràn tới. Nơi đây trở thành vựa gạo hàng đầu, do đáp ứng được yếu tố địa hình phù hợp cho việc trồng lúa. Nhưng cứ vài năm lại có một lần hơi ẩm từ ngoài biển Nhật Bản tràn vào quá nhiều, đông đến tuyết rơi ồ ạt bao phủ trắng xóa khiến khu vực này trở thành một ốc đảo. Khi hè về, frông mưa kéo dài gây ảnh hưởng xấu đến khí hậu. Lượng ánh sáng ban ngày không đủ đã kìm hãm sự sinh trưởng của cây cối. Không chỉ có vậy, nhiều nông gia đã chuyển đổi từ ruộng đồng thành ruộng vườn theo chính sách cắt giảm, hệ thống tưới tiêu trên những mảnh đất nhiều sét vốn dành để trồng lúa bởi vậy không được chăm sóc nữa. Và khi mưa xối xả đổ xuống, nước thoát không kịp, dâng lên khắp ruộng đồng và gây úng ngập cho cây trồng. ... Mời các bạn đón đọc Ame và Yuki - Những Đứa con của Sói của tác giả Hosoda Mamoru.
Bồ Câu Cô Đơn - Larry Mcmurtry
"Hôm nay, không biềt bao nhiêu lần cổ xe mắc kẹt trong đất bùn nhão nhoét, và không biềt bao nhiêu lần nàng tự hỏi nàng đang làm gì một mình đơn cô trên cổ xe này với một nhóm người tim đường vô danh trong mưa gió lần theo bước chân những người tiên phong đã mất dấu. Những giọt mưa thấm từ vải mui xe dường như biết đích xác những chỗ áo mưa nàng bị rách. Chúng chảy dọc theo sống lưng nàng..." Một câu chuyện tình yêu và thiên anh hùng ca của vùng biên giới, Bồ câu cô đơn là cuốn tiểu thuyết vĩ đại nhất từng được viết về những vùng hoang dã cuối cùng, thách thức của Mỹ. Đẹp mắt trong từng câu chữ, câu chuyện sẽ làm cho độc giả cười, khóc, ước mơ và nhớ mãi. Tác phẩm cũng đã  được chuyển thể thành một bộ phim điện ảnh "bom tấn". Nhận định "Bồ câu cô đơn có đủ mọi thứ, trừ cái điều không thể đoán trước được. những nhân vật được khắc họa khéo léo hiện ra ở mỗi chỗ choặt. McMurtry biết rõ tình bằng hữu giữa các cao bồi trên đường chăn lùa bò. Ông biết lòng trung thành mà đàn ông ở vùng này của đất nước có đối với đàn bà. Trong tay ông, chuyến chăn lùa bò trở thành một cách xem xét mộtvấn đề cơ bản. Cách chúng ta sống là quan trọng hay cái mà chúng ta làm được mới thật sự là cần thiết?... Tuyệt tác. " (Wall Street Journal) *** Bồ Câu Cô Đơn (Lonesome dove) của Larry McMurtry là câu chuyện về một chuyến lùa bò đường trường, một khát vọng trong đó tình yêu và tình bạn là hai tuyến luôn làm chúng ta xúc động vì những biến diễn gập ghềnh không ai lường trước nhưng rút cục vẫn chỉ xoay quanh cái trục thủy chung hay bội bạc… Và nữa, anh hùng không trông ở thành hay bại mà trông ở tính cách người. Cho nên, một nhân vật chính chết, một nhân vật chính nữa vì giữ lời hứa đem xác bạn về mà vứt bỏ sự nghiệp lại sau lưng… Rất nhiều đường đất, rất nhiều gian nan, rất nhiều số phận, rất nhiều mừng tủi và chẳng ai giống ai… đó là những điều báo chí danh tiếng ở Mỹ nhất tề khen ngợi. Chúng ta đọc và sẽ thấy cả đến con vật trong truyện cũng rất Miền Tây: kiên cường, quật khởi, chuộng tự do đến lạ lùng. Lịch sử mỏng, nước Mỹ mượn dã sử thay vào. Mà nước Mỹ thì đầy dã sử, song có lẽ Miền Tây với những chặng đường chất ngất máu xương thì mang nhiều dã sử hơn bất kỳ nơi nào khác. *** Larry McMurtry sinh ra ở Archer City, Texas, cách Wichita Falls hai mươi lăm dặm, là con trai của Hazel Ruth (nhũ danh McIver) và William Jefferson McMurtry, một chủ nông trại. Ông lớn lên ở một nông trang bên ngoài Archer City, là mẫu hình của thị trấn Thalia xuất hiện trong nhiều tiểu thuyết của mình. Ông tốt nghiệp Đại học North Texas (B.A. 1958) và Đại học Rice (M.A. 1960). Ông được biết đến với tiểu thuyết Terms of Endearment năm 1975, Lonesome Dove năm 1985, giành giải Pulitzer năm 1986 và được chuyển thể thành phim truyền hình. Tiếp đó, ông cùng Diana Ossana viết kịch bản phim Brokeback Mountain (2005) và nhận giải Oscar. Mời các bạn đón đọc Bồ Câu Cô Đơn của tác giả Larry Mcmurtry.
Bên Phía Nhà Swann - Marcel Proust
"Rồi đột nhiên ký ức đó hiện ra. Mùi vị ấy chính là mùi vị mẩu bánh madeleine mà mỗi sáng chủ nhật ở Combray (vì ngày hôm ấy tôi không ra khỏi nhà trước giờ lễ mi xa), cô Léonie lại cho tôi sau khi đã chấm vào trà hoặc nước lá bồ đề, mỗi lần tôi đến chào cô trong phòng cô ở. Trước đây, khi chưa nếm vị của nó, tôi chẳng nhớ gì mỗi lần nhìn thấy cái bánh madeleine nhỏ[...] Nhưng khi, của một thời quá vãng đã chẳng còn lại một chút gì, khi người đã chết, sự vật đã bị hủy diệt, thì duy nhất vẫn còn lại đó, mỏng manh nhưng dai dẳng, không hình hài nhưng bền vững thủy chung, hương và vị vẫn còn ở đó rất lâu, như những linh hồn, để tưởng nhớ, chờ đợi và hy vọng, giữa cái hoang tàn của tất cả, và không hề nao núng, để mang trên cái giọt mong manh của chúng, cả dinh thự mênh mông của hoài niệm." Bên phía nhà Swann là tập đầu tiên trong bộ tiểu thuyết đồ sộ Đi tìm thời gian đã mất của một trong những văn hào lớn nhất của nước Pháp và của thế giới, Marcel Proust. Cách đây một trăm năm, trong lần xuất bản đầu tiên, nó từng là chủ đề tranh luận của mọi diễn đàn văn học. Một trăm năm sau, người ta vẫn không ngừng viết, nói, tranh luận về nó. Đi tìm thời gian đã mất thực sự là một khởi thuỷ cho nền tiểu thuyết hiện đại, với bút pháp mới lạ, với những chủ đề được bàn luận sâu rộng và đầy chất thơ về nghệ thuật và triết học, về hồi ức và thời gian... Tác phẩm từ lâu đã là niềm kiêu hãnh của văn chương Pháp, là một cuốn Kinh thánh văn chương cho mọi tác gia cũng như người đọc văn học. Trọn bộ Đi tìm thời gian đã mất của Marcel Proust: - Bên phía nhà Swann - Dưới bóng những cô gái đương hoa - Về phía nhà Guermantes - Sodome và Gomorrhe - Cô gái bị cầm tù - Albertine biến mất - Thời gian tìm lại được *** Trong lịch sử văn học thế giới, có những cuốn sách mà ngay từ khi mới ra đời, tự bản thân nó đã tạo nên những nghịch lí, gây nhiều tranh cãi, cho đến tận hôm nay: một mặt nó được xếp vào hàng những kiệt tác, được ca ngợi, tán dương, người ta “hỉ hả” với nó, coi việc xuất bản nó là một việc làm rất kịp thời, nhờ nó mà thế giới văn học được vinh danh; mặt khác, cuốn sách và tác giả của nó nó lại từng chịu nhiều “xỉ vả”, từng bị gắn cho những “mĩ từ” không mấy hay ho: bệnh hoạn, suy đồi, điên rồ, rỗi hơi… Đó là các trường hợp “Ulysses” của James Joyce, “Lolita” của Nabokov, “Vụ án”, “Lâu đài”, “Nước Mĩ” của France Kafka. “Bên phía nhà Swann” (trong bộ tiểu thuyết Đi tìm thời gian đã mất của M. Proust) cũng nằm trong số những “kiệt tác điên rồ” như thế…   Tuy đã rất cố gắng, nhưng như một dịch giả trong nhóm vẫn đã nói: “Tiếc rằng chúng ta không dịch được hay hơn”. Để lại một đôi chỗ sai sót là điều đáng trách, nhưng quan trọng hơn, họ cảm thấy ít có bản dịch đầu tiên nào lại có thể chuyển tải được hết “hồn” của tác phẩm và “giọng” của Marcel Proust. Một nhà văn lớn của Pháp, đồng thời cũng là một dịch giả “có hạng” (Yourcena) thì cho rằng: “Sự thực là vẫn có những cái mà bản dịch không thể hiện hết được, trong khi nghệ thuật dịch phải là không để mất một cái gì. Như vậy không bao giờ chúng ta vừa lòng được". Việc này giải thích tại sao các tác phẩm lớn như của Proust được dịch nhiều lần ở các nước trên thế giới. Vậy nên cánh cửa vẫn mở rộng đối với tất cả ai yêu thích và có lòng muốn dịch lại một tác giả mà toàn bộ 7 tập sách của ông được gọi là “Tiểu thuyết - Mẹ của văn học Pháp thế kỉ XX”. Đó là công việc rất đáng nên làm.  *** Marcel Proust sinh ngày 10 tháng Bảy năm 1871 tại khu phố Auteuil, nay thuộc quận XVI, Paris. Cha ông là bác sĩ, người mẹ thông minh, có học thức, mà ông vô cùng yêu quý, thuộc một gia đình doanh nhân Do Thái giàu có. Một cơn hen nguy kịch khi Proust chín tuổi sẽ ảnh hưởng đến ông suốt đời. Với sức khỏe mong manh, Proust vẫn đạt những kết quả xuất sắc ở trường trung học và đỗ tú tài năm 1889, sau đó tình nguyện đăng lính một năm, nhưng không phải sống trong quân ngũ. Năm 1893, ông đỗ cử nhân Luật, năm 1895, đỗ cử nhân văn chương. Thời gian này, ông bắt đầu lui tới các thính phòng văn chương, tham gia cuộc sống thượng lưu, đi du lịch nhiều nơi. Ông cũng bắt đầu viết, dịch, cộng tác với một vài tời báo, tạp chí. Năm 1903, cha Proust qua đời, năm 1905, đến lượt bà mẹ. Đơn độc, buồn đau, ốm yếu, Proust rời ngôi nhà sang trọng nơi ông sống cùng bố mẹ từ năm 1900, chuyển đến căn hộ cũ của người cậu đã mất, tại phố Haussmann, và lưu lại đó mười hai năm, từ cuối 1906 đến cuối 1918, khi căn hộ bị bán đi. Cho tới khi qua đời, ông còn đổi chỗ ở hai lần nữa. Từ đầu mùa hạ 1909, Proust sống ẩn dật, giam mình trong phòng riêng cửa đóng kín, sàn nhà, các bức tường và trần rất cao đều được lót những lớp bần, không để lọt một tiếng động. Ông muốn từ nay chỉ sống cho tác phẩm lớn, duy nhất, của đời mình. Ban đêm, đôi khi ông còn ra khỏi nhà, chỉ vì cần gặp lại một số người mà ông nói tới, trong quá trình tái tạo “tòa dinh thự mênh mông của hoài niệm”. Năm 1912, Proust gửi bản thảo Bên phía nhà Swann đến một số nhà xuất bản (trong đó có La Nouvelle Revue Française – mà André Gide là một trong những người sáng lập – sau này là nhà Gallimard), nhưng đều bị từ chối. Trả lời một trong những người bạn của Proust, đã vận động giúp ông, đại diện nhà xuất bản Ollendorff viết: “Chắc tôi phải hết sức ù lì, nhưng tôi không sao hiểu nổi một quý ông có thể sử dụng ba chục trang để miêu tả ông ta trăn trở trên giường như thế nào, trước khi ngủ được.” Cuối cùng, tháng Mười một năm 1913, Bên phía nhà Swann được in bằng tiền của tác giả, ở nhà xuất bản Grasset. Tháng Giêng 1914, André Gide viết thư cho Proust, nói rằng ông yêu thích tác phẩm biết mấy và “việc từ chối cuốn sách là sai lầm nghiêm trọng nhất của Nouvelle Revue Française và (…) một trong những ăn năn hối tiếc chua xót nhất của đời tôi”. Nhà xuất bản cũng đề nghị ra những tập tiếp theo của Proust, nhưng đại chiến thế giới khiến mọi việc phải ngừng lại. Tháng Sáu 1919, Dưới bóng những thiếu nữ đương hoa được Gallimard xuất bản, và cuối năm đoạt giải Goncourt, Proust thành nhà văn nổi tiếng trong giới trí thức. Về phía nhà Guermantes I ra đời năm 1920. Năm sau, 1921, là Về phía nhà Guermantes II, rồi Sodome và Gomorrhe I. Giữa năm ấy, Proust ốm nặng và lo mình không thể viết xong phần cuối của Cô gái bị cầm tù. Tháng Tư 1922, Sodome và Gomorrhe II được in. Ngày 19 tháng Mười, ra khỏi nhà chốc lát để đến một dạ tiệc, nhà văn bị nhiễm lạnh, rồi viêm phổi. Những người túc trực bên ông, bác sĩ Robert Proust người em trai, Odilon tài xế trung thành thân tín, Céleste vợ anh, cô thư ký thông minh tận tụy, đều sợ hãi nghĩ rằng ông “đã bước chân vào phòng chờ của cái chết”. Trong khi đó, nhà văn chỉ lưu tâm đến những trang bản thảo ngổn ngang quanh giường, mỗi khi đỡ bệnh lại sửa chữa một số câu, chữ, có đêm còn đọc cho Céleste viết cả một đoạn để đưa thêm vào tập sách sắp in. Ngày 18 tháng Mười một năm 1922, Proust qua đời. Năm 1923, Cô gái bị cầm tù được xuất bản, năm 1925 là Albertine mất tích – thoạt tiên được Proust đặt nhan đề Cô gái chạy trốn – và tập cuối cùng, Thời gian tìm lại được, ra mắt năm 1927.   Mời các bạn đón đọc Bên Phía Nhà Swann của tác giả Marcel Proust.
Một Chuyến Đi Xa - Đào Hiếu
Những năm kháng chiến chống Mỹ đã để lại cho dân tộc Việt Nam nỗi đau khôn xiết, dân chúng cơ cực lầm than, biết bao cảnh chia ly đầy nước mắt, biết bao nỗi đau mất đi người ruột thịt đã diễn ra… Mẫn, một cậu bé mồ côi quê ở Bình Định đã phải tự lăn lộn kiêm sống từng ngày trong hoàn cảnh chiến tranh tàn khốc, trải qua bao đắng cay tủi nhục, cộng với niềm căm phẫn bè lũ tay sai Mỹ tàn bạo, bất nhân, em đã tham gia cách mạng theo anh Tuấn. Truyện là bài ca về lòng yêu nước của một thế hệ trẻ những năm chống Mỹ, một thông điệp đầy ý nghĩa mà câu chuyện truyền tải đến các bạn nhỏ, các em hãy nhớ rằng: dù trong thời đại nào thì lòng yêu nước vẫn luôn là một thứ vũ khí mạnh, và nó luôn cần được gìn giữ, phát huy. *** Đào Hiếu (sinh năm 1946), tên khai sinh: Đào Chí Hiếu. Các bút danh khác: Biển Hồ, Đào Duy. Hiện ông là hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Đào Hiếu, sinh ngày 10 tháng 2 năm 1946 tại Tây Sơn, tỉnh Bình Định. Ông sớm gia nhập phong trào sinh viên cách mạng tại Quy Nhơn. Năm 1968 ông gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Năm 1970 ông bị bắt quân dịch và trở thành binh nhì sư đoàn 22 Quân lực Việt Nam Cộng hoà. Sau sáu tháng, ông trốn vào Sài Gòn bắt liên lạc với Tổng hội sinh viên hoc sinh để tiếp tục hoạt động chống Mỹ đến ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ông tốt nghiệp cử nhân văn chương trước 1975 tại Sài Gòn. Từng làm phóng viên báo Tuổi Trẻ và Nhà xuất bản Trẻ. Hiện Đào Hiếu sống và viết tại TP. Hồ Chí Minh. Truyện dài Giữa cơn lốc, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1978. Một chuyến đi xa, Nhà xuất bản Măng Non, 1984, nxb Trẻ 1994. Qua sông, Nhà xuất bản Văn Nghệ, 1986. Vùng biển mất tích, Nhà xuất bản Đồng Nai 1987. Vượt biển, Nhà xuất bản Trẻ 1988, 1995. Vua Mèo, Nhà xuất bản Trẻ 1989. Người tình cũ, Nhà xuất bản Văn Nghệ 1989. Kẻ tử đạo cuối cùng, Nhà xuất bản Trẻ 1989. Thung lũng ảo vọng, Nhà xuất bản Trẻ 1989. Hoa dại lang thang, Nhà xuất bản Văn Học 1990. Trong vòng tay người khác, Nhà xuất bản Tác phẩm Mới 1990. Kỷ niệm đàn bà, Nhà xuất bản Văn Nghệ 1990. Nổi loạn, Nhà xuất bản Hội Nhà Văn 1993. Lạc Đường (tự truyện), Nhà xuất bản Giấy Vụn 2008, Nhà xuất bản Kim Thư Production USA 2008. Tuyển tập Đào Hiếu (tập 1 và tập 2) Nhà xuất bản Kim Thư Production USA 12. 2009. Mạt lộ, Nhà xuất bản Lề Bên Trái (tự xuất bản)[1], 03. 2009. Người Đàn Bà Trên Đồi Cỏ Vua Mèo Nữ Quái ... Truyện ngắn và tạp văn Bầy chim sẻ, Nhà xuất bản Văn Nghệ 1982. Những bông hồng muộn, Nhà xuất bản Trẻ 1999. Tình địch, Nhà xuất bản Trẻ 2003. Thơ Đường phố và thềm nhà, Nhà xuất bản Trẻ 2004. *** M ẫn ngồi xếp các giấy bạc, vừa bạc một trăm, vừa bạc năm chục, bạc hai chục vào một gói lớn, hai mươi bảy ngàn. Số tiền nó dành dụm hơn một năm nay. Số tiền vắt ra từ mồ hôi nước mắt. Bao nhiêu ấy nếu xây một ngôi mộ cho mẹ nó cũng không phải là thiếu, nhưng biết làm sao bây giờ? Mẫn chưa thể trở về quê để thực hiện điều mong ước ngay được. Sự căm thù đã choán cả tâm hồn nó. Mẫn sẽ về xây cho mẹ ngôi mộ đẹp sau này, khi mà không còn một thằng giặc Mỹ nào trên đất nước thân yêu. Mẫn ngồi nhìn gói bạc rất lâu rồi quyết định viết một bức thư để lại. Nó cầm bút lên tay, suy nghĩ. Nó có nhiều điều muốn nói, muốn dặn dò gởi gắm lại. Nó muốn viết những lời cám ơn dì Tư, muốn diễn tả tình cảm của mình với Lý. Nó muốn giải thích tại sao nó ra đi nhưng không biết mở đầu thế nào, diễn ý ra sao. Nó bỏ bút xuống bàn, suy nghĩ giây lát rồi cầm bút lên hí hoáy viết: Con nhờ dì trao lại số tiền này cho chị Hợi đề chị ấy trả nợ, lo chôn cất anh Hợi và tìm cách buôn bán lặt vặt chi đó mà nuôi thằng Hà, nếu không nó sẽ trở thành một kẻ trộm cắp vì không có tiền để sống. Con xin cám ơn dì và em Lý Mẫn ký tên nguệch ngoạc rồi xếp thư lại, cột chung trong gói bạc và đem nhét vào vali dì Tư. Xong, nó trở ra chái nhà lấy trái lựu đạn nhét vô túi quần rồi bước ra cửa. Khi ra đến đường cái tự nhiên nó muốn ghé lại đằng chỗ Lý một lát. Nó đứng tần ngần chỗ trạm xe buýt khá lâu. Xế chiều, trời oi bức lạ lùng và cơn mưa giông ở đâu ập tới đột ngột trên mái nhà, trên những trần xe chạy ngang qua phố. Mẫn chạy vô núp dưới mái hiên. Cơn mưa kéo dài, sấm chớp giăng ngang khung trời đục ngầu, gió mạnh tạt qua mặt đường cuốn hơi nước thành từng mảng sương trắng như bông. Đường phố lấp lánh muôn ngàn vết đèn màu. Chiếc xe buýt dài thoòng ghé lại, hành khách đội mưa chạy ra, hấp tấp leo lên xe nhưng Mẫn vẫn đứng im. Có nên gặp Lý một lần trước khi đi không? Nếu biết mình ra đi chắc Lý buồn lắm. Nó sẽ khóc… Mẫn ngửa mặt nhìn vòm trời sáng như bạc. Một chiếc xe buýt nữa lại ghé vào trạm, lần này Mẫn chạy ra và lên xe. Lý ơi! Tạm biệt em, tạm biệt những kỷ niệm êm đềm giữa chúng ta. Chuyến xe đi thật nhanh qua thành phố. Khi cánh cửa căn nhà quen thuộc mở ra, Mẫn chậm rãi bước vào nhà, quần áo ướt sũng, nước chảy ròng ròng xuống sàn gỗ. ... Mời các bạn đón đọc Một Chuyến Đi Xa của tác giả Đào Hiếu.