Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Thiên Thần Tan Vỡ

Reece Gilmore, người duy nhất thoát chết sau vụ thảm sát diễn ra ở thành phố Boston đã phải bỏ đi trong tình trạng hoảng loạn, suy sụp về tinh thần, không tin vào chính mình. Cô đến với thị trấn Angel”s Fist thuộc bang Wyoming chỉ vì bị cuốn hút bởi cảnh đẹp nơi đây. Nhưng cũng chính ở nơi này, trong một buổi tình cờ đi bách bộ bên sông, cô nhìn thấy một vụ giết người. Với tinh thần trách nhiệm của một công dân cô thông báo với cơ quan thực thi pháp luật nhưng cũng chính vì thế mà cuộc sống của cô ở thị trấn nhỏ này trở nên phức tạp. Có lúc cô đã nghĩ đến việc lại phải ra đi. Liên tục có kẻ dấu mặt nào đó đột nhập vào nhà cô, đe doạ, gây hại cho cô, có lúc hắn ngụ ý muốn cô phải rời khỏi thị trấn. Kẻ đó là ai? Liệu đó có phải là tên giết người mà cô nhìn thấy bên sông? Làm sao hắn có thể đột nhập vào nhà cô đựơc trong khi cô đã lắp thêm khoá cửa? Làm sao hắn có thể nắm chắc được quy luật hoạt động của cô cũng như của thị trấn nhỏ bé kia với những con người rất tò mò mà lại không bị ai chú ý? Chính những hành động hèn nhát của tên giấu mặt kia làm cô tức giận và quyết định sẽ không ra đi. nhưng nếu không có sự tin tưởng, giúp đỡ của Brody thì cô cũnng không đủ nghị lực để ở lại. Và 2 người chung sức bên nhau. Brody không những giúp cô hồi phục mà còn cùng cô khám phá ra vụ giết người khi cơ quan công quyền của thị trấn không biết vì lý do gì mà tỏ ra bất lực. *** Reece Gilmore đi trên con đường đầy ổ gà của thị trấn Angel" Fist (Nắm tay thiên thần) trong khi chiếc Chevy Cavalier của cô đã nóng ran. Cô chỉ còn lại 243 $ lẻ nhưng dù sao cũng đủ để chăm sóc chiếc xe của cô, tiếp nhiên liệu cho nó và cho cả cô. Nếu chiếc xe không hỏng quá nặng thì cô còn đủ tiền để thuê tạm 1 phòng nghỉ qua đêm. Nhưng cho dù có tính toán lạc quan đến mấy thì cũng đến lúc cô bị khánh kiệt. Và rồi khi thấy hơi nước bốc lên từ thùng xe phía trước cô biết cần phải dừng lại ở đâu đó một thời gian để tìm việc làm. Không có gì để lo lắng, sẽ chả có vấn đề gì lớn cả, cô tự nhủ. Thị trấn nhỏ bé của bang Wyoming này nằm bao quanh một hồ nước xanh lạnh lẽo, khung cảnh cũng chẳng đến nỗi nào so với các nơi khác. Có thể còn đẹp hơn. Ở đây có sự thoáng đãng cần thiết đối với cô với những ngọn núi tuyết bao phủ từ phía xa pử vùng Tetons. Cô đã mất hàng giờ đi loanh quanh qua các ngọn núi và thung lũng này. Cô cũng không biết mình sẽ đi đến đâu khi bắt đầu lên đường vào sáng sớm hôm đó, chỉ biết là cô đã đi qua thị trấn Cody, thị trấn Dubois, và mặc dù cô dự định sẽ đến thị trấn Jackson nhưng cô lại rẽ xuống phía Nam. Có thể là sức hút nào đó đã dẫn cô đến nơi này. Đã tám tháng nay cô chuyên tâm tìm hiểu các chỉ dẫn và đi theo sự cuốn hút của bản thân. Những khúc cua nguy hiểm, trơn trượt khi ướt. Ai đó đã có ý tưởng rất hay khi đưa ra những lời cảnh báo đó. Ngoài ra còn có những chỉ dẫn khác có thể là một tia nắng mặt rời xiên nghiêng rất kì lạ ở phía cuối một con đường, hay chỉ là những chiếc chong chóng gió hướng về phía Nam. Nếu cô thích ngắm nhìn ánh nắng hoặc những chiếc chong chóng gió kia thì có thể cô đã đi theo tiếng gọi của nó cho đến khi cô tìm được đúng nơi cần đến, đúng thời điểm cần có mặt. Có thể cô sẽ ở lại đó một vài tuần hoặc thậm chí là một vài tháng như có lần cô đã ở lại South Dakota. Cô sẽ lại tìm việc làm, khám phá nơi đó và rồi lại đi khi tìm thấy những chỉ dẫn khác và những cuốn hút khác. Cô hoàn toàn tự do thực hiện chế độ mà cô tự lập ra cho mình, và thường thì nó sẽ làm giảm bớt nỗi lo lắng đang đè nặng trong đầu cô. Mấy tháng qua cô đã sống với chình mình, làm những việc để xoa dịu bản thân chư không đơn thuần là thực hiện chế độ điều trị kéo dài một năm của cô. Nói một cách công bằng, chế độ điều trị đó khiến cô phải đối mặt với mình mỗi khi ngày mới đến, mỗi lúc đêm về, thậm chí là hàng giờ. Và bây giờ cô lại bắt đầu một việc làm mới ở thị trấn Angel"s Fist này. Nếu không có gì thay đổi, cô sẽ ở lại đây vài ngày để thưởng thức hồ nước, ngọn núi kia và kiếm đủ tiền để tiếp tục lên đường. Thị trấn nhỏ bé như thế này- theo chỉ dẫn trên đường thì dân cư chỉ có 623 người- rất phù hợp cho hoạt động du lịch khi khai thác nguồn phong cảnh ở đây, thậm chí có thể biến nó thành một công viên quốc gia. Cô sẽ cần một khách sạn, ít nhất cũng là một khách sạn loại nhỏ, hoặc một nông trại trong vòng một vài dặm nữa. Làm việc ở một nông trại cũng không quá tẻ nhạt. Những nơi này sẽ cần người tiếp đón, khuôn vác và dọn dẹp nhất là khi mùa xuân đang đến và băng tuyết bắt đầu tan thế này. Nhưng trong khi khói trong xe đang bốc ra ngày cang nhiều như thế này thì việc cần làm đầu tiên có lẽ phải tìm một thợ cơ khí. Cô đi chậm lại trên con đường nhỏ bao quanh hồ. Tuyết tan tạo thành những vũng nước trắng tẻ nhạt. Cây cối vẫn giữ nguyên màu nâu đặc trưng của mùa đông nơi đây nhưng dưới hồ đã xuất hiện một vài chiếc thuyền. Một vài người đang mặc áo gió, đội mũ lưỡi trai đang theo hướng thuyền về phía ngọn núi soi bóng xuống mặt nước hồ. Phía bên kia hồ là khu sinh hoạt của cư dân, có cửa hàng đồ lưu niệm, gian triển lãm, ngân hàng, bưu điện và văn phòng cảnh sát trưởng. Cô rời khỏi khu vực mép hồ đi về hường nhà kho lớn của một cửa hàng bách hoá tổng hợp. Có hai người đàn ông mặc áo len ngồi ngắm mặt hồ. Họ gật đầu chào khi cô tắt mày và bước ra khỏi xe. Người đàn ông ngồi bên mé phải trên mũ có in tên- Cửa hàng rau quả và mậu dịch Mac- lên tiếng. " Hình như xe của cô đang bị trục trặc" " Vâng. Anh có thể chỉ cho tôi chỗ sửa được không?" Anh ta đứng dậy, vóc dáng khá vạm vỡ, vẻ mặt hồng hào. Trên khoé mắt đã xuất hiện vài nếp nhăn, giọng anh ta có vẻ hơi lè nhè. "Sao chúng ta không thử mở thùng xe xem thế nào?" "Thế thì tốt quá". Reece mở khoá thùng xe và anh ta lật nắp lên. Khói bên trong bốc lên mù mịt khiến anh ta giật mình lùi lại. Không hiểu tại sao nhưng cô cảm thấy rất bối rối. " Hình như nó mới chỉ bị như vậy cách đây khoảng mười dặm. Tôi không để ý nên bây giờ mới biết". "Không sao cả. Cô đang muốn đến chỗ công viên phải không?" "Vâng, có thể là như vậy. Nhưng tôi nghĩ chiếc xe không muốn làm theo ý định của tôi." Không chắc chắn như vậy, co không bao giờ biết chắc là mình sẽ đi đến đâu. Cô cố gắng tập trung vào chiếc xe thay vì quanh quẩn nghĩ không không biết sau đây mình sẽ đi đâu. Người đàn ông kia cùng đi ra xem xét chiếc với bạn mình. Cô cũng làm bộ nhìn ngó cùng với họ mặc dù cô biết mình không hề có chút kiến thức nào về cơ khí. Đối với phụ nữ thì những gì nằm dưới chiếc thùng xe kia chả khác nào miền đất xa xôi lạ lẫm trên sao Diêm Vương. "Hộp toả nhiệt bị vỡ rồi.Cô phải thay hộp mới thôi." "Có vẻ không tồi tệ quá, cô sẽ không mất quá nhiều tiền." "Có nới nào trong thị trấn này thay được không?" "Cô nên đến gara nhà Lynt. Tôi sẽ gọi điện cho họ giúp cô." "Vậy thì rất cảm ơn anh. Tên tôi là Reece, Reece Gilmore." Cô mừng rỡ và vội vàng giới thiệu. "Tôi là Mac Drubber. Còn đây là Carl Samsonp." Mac giới thiệu lại. "Cô đến từ miền Đông phải không?" Carl hỏi. Theo đánh giá bề ngoài của Reece thì Carl năm nay khoảng 50 tuổi và có vẻ là người gốc Mỹ. "Vâng, tôi đến từ Boston. Rất may được gặp các anh giúp đỡ." Mac nói ngay. "Có gì đâu. Chỉ là một cuộc điện thoại thôi mà. Cô có thể đi dạo quanh đâu đó một lát. Nhân viên gara sẽ đến đây trong vòng vài phút." "Tôi cũng muốn đi dạo một lát để thăm nơi này. Ở thị trấn có chỗ nào tốt để ở không anh?" "Cuối đường này có một khách sạn nhìn ra hồ. Phía bên kia có nhà nghỉ Teton ấm cúng hơn. Ngoài ra ven hồ còn có rất nhiều khách sạn và nhà trọ loại nhỏ có thể thuê theo tuần hoặc theo tháng." Cô không nghĩ mình sẽ ở đây đến cả tháng. Một ngày đã kà cả vấn đề đối với cô lúc này. Nhưng ở nhà trọ cùng với gia đình chủ nhà thì lại bất tiện. "Có lẽ là tôi sẽ tìm một khách sạn nào đó để ở tạm." "Đi bộ từ đây tới đó khác xa. Nếu cô không phiền thì tôi có thể cho cô đi nhờ xe tới đó." "Tôi đã lái xe cả ngày rồi và bây giờ cũng muốn đi lại một chút cho thư giãn. Dù sao thì cũng rất cảm ơn anh Drubber." "Không có gì. Quả là một việc hay đấy." Mac Drubber còn đứng nán lại một lát khi cô đi xuống con đường đi dạo hai bên đầy cây. Carl lắc đầu ngao ngán. "Chẳng có tí da thịt nào cả. Phụ nữ ngày nay dường như đánh mất hết đường cong của mình rồi". Thực ra không phải cô muốn có thân hình gầy còm như vậy mà cô đang cố gắng lấy lại phần trọng lượng cơ thể mà cô đã mất đi mấy năm nay.Trước đây cô rất béo nhưng rồi sau sự kiện đó, thân hình cô trở nên khẳng khiu và giờ đây cô lại tìm cách trở lại điểm xuất phát ban đầu ấy. Cô không thể tin vào mắt mình mỗi khi cởi quần áo và nhìn thấy những chỗ xương lộ hẳn ra. Hình như đây không phải là thân hình của cô. Cô không đông ý với nhận xét của Mac về việc làm đó của cô. Đã có thời cô rất tự hào về mình- một người phụ nữ xinh đẹp, biết ăn diện và rất hấp dẫn. Nhưng giờ đây khuôn mặt cô trở nên khô cứng, qua những đêm dài mất ngủ hơn nhưng mỗi khi mất ngủ ban đêm mắt cô lại thâm quầng, da dẻ xanh xao ốm yếu. Cô muốn trở lại thời kì đẹp đẽ đó. Reece lặng lẽ bước trên đường. Cô tự nhủ với mình là không được vội vàng, không được xô đẩy, chen lấn mà phải thản nhiên đón nhạn mọi thứ đến với mình cho dù thế nào đi nữa. Làn gió lạnh phả vào vào mặt cô làm bay lọn tóc nâu mà cô đã bện thành đuôi phía sau lưng. Cô rất thích cảm giác sạch sẽ tươi mát đó và cô thích cả thứ ánh sáng bao phủ khách sạn Teton toả xuống mặt hồ lung linh. Đúng như lời Mac nói,có vài căn nhà nhỏ nằm lấp sau mấy rặng liễu và cây dương trơ trụi. Cửa nhà chủ yếu làm bằng khung gỗ kính, phía trước có cổng vòm khá lớn nhìn ra khung cảnh quang đãng phía trước. Sẽ rất thoải mái nếu được ngồi trên những cổng vòm kia ngắm nhìn mặt hồ, núi non, hoặc thậm chí là đầm lầy với những bụi dương bồ mọc rải rác. Nhất định cô sẽ ở trong những ngôi nhà như vậy nhưng đó là chuyện sau này chứ không phải ngay ngày hôm nay. Cô nhận thấy có mấy khóm dương xỉ xanh mọc dưới những thùng rượu Whisky để ngay lối vào một nhà hàng. Cơn gió lạnh thổi qua làm rung rinh thân câynhưng dù ứao thù đó cũng là dấy hiệu báo mùa xuân đang về. Mọi vật đầy trở nên mới mẻ khi mà xuân đến, và có thể mùa xuân này chính cô cũng tươi mới trở lại. Cô dừng lại một thoáng để chiêm ngưỡng cảnh vật và không khí dễ chịu khi có dấu hiệu mùa xuân về. Và chẳng bao lâu nữa, cảnh sắc mùa xuân sẽ hiển hiện nơi đây. Sách hướng dẫn của cô phóng đại nơi đây có bạt ngàn các loài hoa dại mọc trên cánh đồng và rất nhiều loài khác mọc quanh hồ. Reece thầm nghĩ cô đang rất mong cây cối đâm chồi nụ hoa hé mở. Cô ngước mắt lên và thấy cảnh cửa sổ lớn của một nhà hàng. Có lẽ đây là nơi ăn tối thì đúng nghĩa hơn. Quầy phục vụ, những chiếc bàn vuông vắn và khi ăn uống khép kín, tất cả đều sơn màu đỏ nhạt và trắng. Bánh nhân táo và các loại bánh ngọt khác được trưng bày bên trên gian bếp quay cửa ra phía quầy phục vụ. Hai cô nhân viên phục vụ đi lại giữa các bàn, trên tay mang các khay đựng đồ ăn và bình café. Bây giờ đang là giờ ăn trưa. Cô dã quên không ăn trưa. Nhất định khi vào khách sạn cô sẽ. Thế rồi cô nhìn thấy ngay bên trên cửa sổ có tấm biển viết tay thông báo: CẦN TUYỂN ĐẦU BẾP HỎI BÊN TRONG Đúng là tấm biển báo. Mặc dù đã lùi lại một bước để nhìn cho kỹ nhưng dường như cô vẫn chưa tin vào mắt mình. Cô đứng đó một lúc nhìn bên trong. Gian bếp vẫn đang mở, đó là điều quan trọng nhất đối với cô. Nấu các món ăn tối là việc làm hết sức đơn giản, ít nhất thì cô đã từng có khả năng làm như vậy. Đây chính là lúc để cô thử sức mình, là cơ hội để cô tiến thêm một bước. Cho dù cô không được chấp nhận thì mọi việc cũng sẽ không xấu đi chút nào so với hiện tại của lúc này. Có thể sẽ có,một khách sạn nào đó cần thuê cô để chuẩn bị đón khách mùa hè. Hoặc cũng có thể Drubber sẽ cần thuê cô. Nhưng dù sao thì tấm biển báo vẫn còn nằm kia, chiếc xe đã đưa cô đến thị trấn và chính đôi bàn chân cô đã đưa cô đến nơi này. Những cây dương xỉ đã lấy lại được màu xanh tươi ban đầu khi mùa xuân còn chưa đến. Cô bước đến chỗ cửa ra vào hít thở thật sâu để lấy lại sự tự tin sau đó mới mở cửa bước vào. Mùi hành phi, thịt nướng và mùi café bay ngào ngạt bên trong. Có cả tiếng nhạc phát ra từ phía chiếc máy hát. Nên nhà lát gạch đỏ và quầy phục vụ được lau sạch bóng. Một vài bàn chưa có khách ngồi cũng đã được đặt sẵn các món ăn trưa. Trên tường là những bức ảnh khá bắt mắt về hồ nước, cảnh núi non vào các mùa. Cô chưa kịp làm quen với môi trường bên trong, chưa kịp thu hết can đảm thì một cô nhân viên phục vụ đã bước đến. "Chào chị. Chị có thể chọn bàn ngồi hoặc ngồi trên quầy để ăn trưa." "Không tôi muốn gặp người quản lí hoặc chủ cửa hàng. Ừm, việc liên quan đến tấm biển thông báo trên cửa sổ ngoài kia. Tôi muốn được nhận vào làm nhận viên nấu ăn." Cô nhân viên phục vụ đứng hẳn lại, chiếc khay thức ăn vẫn trên tay. "Chị là đầu bếp phải không?" Đã có thời gian cô chẳng thềm để ý đến lòng tốt của người khác nhưng bấy giờ thì cô thấy việc làm đó là không nên. "Vâng". Cô trả lời gọn lỏn. "Công việc nặng nhọc đấy. Mới cách đây hai ngày cô Joanie đã sa thải một người." Cô phục vụ vừa nói vưà đưa tay lên lau miệng có vẻ muốn uống chút gì đó. "Ồ". Reece thốt lên có vẻ ngạc nhiên. " Hồi tháng hai anh ta đến đây tìm việc làm và nói rằng anh ta đã gặp Chúa Jesus và muốn truyền bà lời răn dạy của Chúa đến vùng đất này". Cô nhân viên nghếch mặt mỉm cười rất tươi với Reece và nói tiếp: "Anh ta cầu khẩn nhe một môn đồ chính thống, vì vậy chị chỉ cần kiếm một miếng giẻ nhét vào miệng anh ta là xong. Chị ngồi chỗ quầy đợi đi, tôi sẽ vào tìm Joanie xem cô ấy có thể rời khỏi bếp một lát không. Chị dùng một ly café chứ?" "Xin chị cho tô một tách trà" "Sẽ có ngày thôi". Reece tự nhủ cô sẽ không bắt buộc phải làm công việc đó. Cho dù cô có được chấp nhận vào làm việc thì cô vẫn có quyềb từ chối. Cô có thể làm việc dọn dẹp ở khách sạn hay tìm một nông trại vào đó. Chiếc máy hát nhảy bài và giọng ca sỹ Shania Twain vang lên rất vui vẻ. Cô nhân viên phục vụ bước vào trong vỗ vai một phụ nữ thấp béo mập. Sau một lát người phụ nữ đó ngó ra bắt gặp ánh mắt của Reece và gật đầu chào. Cô nhân viên quay lại quầy chỗ Reece ngồi trên tay cầm một ly Lipton nóng. "Cô Joanie sẽ ra gặp chị ngày. Chị có dùng bữa trưa luôn không? Hôm nay nhà hàng có món đặc biệt bánh mì thịt dùng với khoai tây nghiền, đậu xanh và bánh quy." Không cám ơn chị. Tôi dùng trà thôi." Reece chưa từng bao giờ phải kiềm chế như lúc này trong khi bụng cô đang đói cồn cào. Không những thế cô còn cảm thấy hồi hộp lo sợ.   Mời các bạn đón đọc Thiên Thần Tan Vỡ của tác giả Nora Roberts.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Mười Rưỡi Đêm Hè - Marguerite Duras
Một anh chồng đã bắn chết cô vợ trẻ, tình nhân của cô ta và đang lẩn trốn trong thị trấn. Mười giờ rưỡi đêm hè ấy, Maria phát hiện ra chỗ trốn của kẻ sát nhân, rồi cứu hắn thoát khỏi vòng vây cảnh sát. Nhưng sau đó hắn lại tự sát. Tại sao Maria lại cứu hắn? Maria, Pierre, một cặp vợ chồng cùng đứa con gái nhỏ và Claire cùng đi du lịch trên chiếc xe ô tô nhỏ của riêng họ. Trên đường đi họ gặp một cơn mưa bão lớn, họ đành phải dừng nghỉ lại ở một thị trấn nhỏ. Ở đây, ngày hôm ấy xảy ra một vụ án mạng. Mười giờ rưỡi đêm, mùa hè, Pierre- chồng Maria và cô bạn Claire ôm hôn nhau say đắm trên ban công khách sạn. Cách đó vài mét là Rodrigo Paestra, kẻ bị truy nã vì vừa giết vợ hắn và người tình giữa lúc họ đang ăn nằm với nhau, đang trốn trên ống khói nóc nhà. Những cơn mưa tầm tã của đêm hè kéo đến hết đợt này sang đợt khác, như che giấu sự dan díu của cặp tình nhân, hủy hoại hình thù bất động của Rodrigo Paestra, tất cả những điều này đều diễn ra trong mắt Maria. Như sự xui khiến của số phận, Maria lẻn ra ngoài đưa Rodrigo Paestra đi trốn. Cô để lại hắn ở đồng lúa mì trên đường đi Madrid và hứa với hắn sẽ quay lại vào giữa trưa rồi trở lại khách sạn. Đêm hôm ấy, trong khách sạn, Pierre và Claire vẫn chưa đến với nhau. Maria kể lại kế hoạch cứu Rodrigo Paestra cho chồng và bạn, việc mà cô cho rằng sẽ cắt ngang chuyến nghỉ mát ở Madrid, nơi chắc sẽ diễn ra cuộc ái ân vụng trộm. Tuy nhiên, khi họ trở lại cánh đồng lúa mì, Rodrigo Paestra đã tự sát. Vậy là hành trình đến Madrid vẫn phải tiếp tục. Tại khách sạn họ dừng lại nghỉ trưa, Maria nói muốn ngủ. Claire đợi cô ngủ rồi sấn sổ ve vãn Pierre và họ ăn nằm chớp nhoáng với nhau. Maria biết điều này, cô biết họ sẽ đến với nhau và đã kiên nhẫn chờ đợi nó suốt cả chuyến đi. Trong mơ hay là thức, cô nghĩ đến Rodrigo Paestra tự sát trong đồng lúa mì, cô tưởng mình cũng đã chết giữa cánh đồng cô đơn ấy. Họ vẫn đến Madrid. Nơi thành phố đẹp rực rỡ ấy, Pierre, trong nỗi ăn năn dày vò, trong sự giãy giụa của mối tình đã chết đột nhiên thèm muốn Maria da diết. Anh gõ cửa phòng cô và điên cuồng ôm hôn cô… Marguerite Duras viết "Mười giờ rưỡi đêm hè" năm 1960, khi bà đã ở độ chín của đời người phụ nữ cũng như độ chín của sự nghiệp. Cuốn sách, vì vậy, phô diễn sự thăng hoa của một tài năng phóng khoáng và đa dạng. Chủ chương xóa nhòa các ranh giới trong văn chương, Marguerite Duras trong "Mười giờ rưỡi đêm hè" đã pha trộn tinh tế thể loại tiểu thuyết trinh thám và tiểu thuyết tâm lý tạo ra một thế giới hỗn loạn và ám gợi: vụ giết người của Rodrigo Paestra, cuộc lùng bắt kẻ sát nhân, việc Maria phát hiện kẻ tội phạm và sự dan díu giữa chồng cô với người đàn bà khác cùng lúc như một định mệnh... Tẩt cả thù hận - đam mê, tội ác - tình yêu, ý thức - vô thức xâm nhập lẫn nhau, càng cố che đậy càng bùng cháy đã dẫn dắt cốt truyện một cách khôn lường trước sự ngạc nhiên và căng thẳng chờ đợi của độc gỉa. Đặc biệt, Marguerite Duras bộc lộ khả năng đi sâu vào những ẩn ức của con người, năng lực khám phá những dòng mạch của vô thức qua tình cảm của Maria dành cho kẻ trừng phạt Rodrigo Paestra. Việc Maria mê mệt trong rượu, sắc đẹp của Claire, đôi bàn tay ve vuốt của Pierre,…là những biểu tượng của tình yêu ở tất cả sự ngọt ngào và man trá, gắn liền với vấn đề tình dục - nỗi ảm ảnh trong các tiểu thuyết hiện đại. Tác giả đã để lại nhiều khoảng trắng câm lặng ở những nơi đứt gãy mạch tâm trạng suốt tác phẩm, và cuối cùng là một kết cục dở dang cho số phận của các nhân vật làm cho tiểu thuyết đọng lại ở dư vị buồn thấm thía của bi kịch tình yêu. Cái kết để ngỏ đặt ra cho độc giả biết bao câu hỏi về sự sống, sự chết, ý nghĩa của cuộc đời, sự chung thủy và phản bội trong tình yêu, hạnh phúc và khổ đau… Một lát cắt trong cuộc đời của các nhân vật chính mà dung lượng tưởng như chỉ đủ cho một truyện ngắn, nhưng dưới ngòi bút tài tình của Marguerite Duras nó trở thành một tiểu thuyết mini với giọng văn hình sự đầy hấp dẫn. Giọng văn đặc trưng của Marguerite Duras khó chịu đến mức cuốn hút buộc người đọc phải đọc liền một hơi cho kỳ hết mới thôi. "Mười giờ rưỡi đêm hè" với những mâu thuẫn nghịch lý giữa tình yêu và tình dục đã biểu hiện tính chất phức tạp, tính hai mặt của cuộc sống con người vì thế mà thấm đượm tinh thần nhân văn của Marguerite Duras. *** - Pasestra, tên là thế. Rodrigo Paestra. - Rodrigo Paestra. - Phải. Và anh chàng bị hắn giết là Perez. - Toni Perez. Trên quảng trường, hai viên cảnh sát đi ngang dưới trời mưa. - Hắn giết Perez vào lúc mấy giờ? Người khách hàng không biết thật chính xác, khoảng quá trưa về chiều mà lúc này thì trời sắp tối. Đồng thời với Perez, Rodrigo Paestra giết luôn cả vợ mình. Hai nạn nhân được tìm thấy cách đây hai tiếng đồng hồ, mãi trong cùng một cái nhà xe, nhà để xe của Perez. Trong tiệm rượu, bóng tối đã lan dần. Tận cuối phòng, trên chiếc quầy ướt át, những cây nến được thắp lên và ánh sáng của chúng, vàng vọt, hoà lẫn với ánh sáng phơn phớt xanh của ngày tàn. Trận mưa rào bỗng tạnh đột nhiên như nó đã đột nhiên ầm ầm trút xuống. - Bao nhiêu tuổi, cô vợ của Rodrigo Paestra? – Maria hỏi. - Trẻ măng. Mười chín tuổi. Maria bĩu môi luyến tiếc. - Tôi muốn một ly rượu manzanilla nữa – chị bảo. Người khách hàng gọi cho chị một ly. Ông ta cũng uống rượu manzanilla. - Tôi băn khoăn sao họ vẫn chưa bắt được hắn ta nhỉ - chị nói tiếp – thành phố bé tí tẹo thế này. - Hắn thông thuộc thành phố còn hơn cả cảnh sát. Rodrigo, một tay cừ khôi đấy. Quầy rượu đông nghịt. Người ta bàn tán về tội giết người của Rodrigo Paestra. Ai nấy nhất trí về Perez, nhưng về cô nàng thì không. Một cô bé oắt con. Maria uống ly manzanilla. Người khách hàng ngạc nhiên nhìn chị. - Bà vẫn uống như thế này à? - Cùng tùy – chị nói – đại khái, vâng, gần gần như thế này. - Một mình? - Vâng, vào lúc này. Tiệm rượu không nhìn trực tiếp ra đường, nhưng ra một dãy nhà cầu hình vuông mà đại lộ chính của thành phố chia cắt, xuyên qua cả bên này lẫn bên kia. Dãy nhà cầu ấy có hàng lan can bằng đá vây quanh, mặt lan can đủ rộng và đủ vững chắc để chịu đựng sức nặng của bọn trẻ con nhảy lên trên hoặc nằm dài ra đấy nhìn những trận mưa rào ập đến và các cảnh sát đi qua. Trong số bọn trẻ ấy có Judith, con gái của Maria. Đứng tì tay lên một chiếc lan can cao đến ngang vai, nó nhìn ra quảng trường. Lúc này có lẽ vào khoảng sáu, bảy giờ tối. Một trận mưa rào nữa kéo đến và ngoài quảng trường chẳng còn ai. Những cây cọ lùn thành khóm, ở giữa quảng trường ấy, quằn quại trước gió. Các bông hoa, trong khóm cây, bị dập nát. Judith từ nhà cầu chạy tới và nép vào mẹ. Nhưng nỗi sợ hãi của nó đã bay biến. Những tia chớp loé liên tiếp đến nỗi chúng móc xích lại với nhau và sấm sét ầm ầm không dứt. Đôi khi chúng phá lên như tiếng gang tiếng thép, nhưng liền ngay đó lại chuyển sang tiếng ì ầm cứ nghẹt đi dần theo với trận mưa dịu ngớt. Trong nhà cầu trở nên yên lặng. Judith rời mẹ và chạy ra nhìn mưa cho gần hơn. Rồi nó nhìn quảng trường nhảy múa trong những sọc mưa rơi. - Mưa đến suốt đêm mất – người khách hàng nói. Mưa bỗng tạnh đột ngột. Người khách hàng rời quầy rượu và trỏ bầu trời xanh xẫm, nhiều vùng viền quanh bằng màu xám xịt như chì và sà xuống đến tận các mái nhà, vì trời rất thấp. Maria lại muốn uống nữa. Người khách gọi những ly manzanilla mà chẳng phê bình gì. Ông ta cũng sẽ làm thêm một ly. - Chính là chồng tôi muốn chọn Tây Ban Nha để đi nghỉ hè đấy. Chứ như tôi thì chắc đã ưng đi nơi khác hơn. - Đi đâu? - Tôi chưa nghĩ đến. Cùng một lúc đi khắp nơi. Và cả Tây Ban Nha nữa. Ông đừng để ý đến những điều tôi nói. Thực ra, tôi rất hài lòng được sang Tây Ban Nha mùa hè này. Ông ta cầm chiếc ly manzanilla của mình và đưa cho chị. Ông trả tiền cho bồi bàn. - Ông bà tới đây vào khoảng năm giờ phải không? – Người khách hàng hỏi – Hình như ông bà đi trong một chiếc Rover nhỏ màu đen, nó đã dừng lại trên quảng trường chứ gì? - Vâng – Maria nói. - Lúc ấy còn rất sáng – ông ta nói tiếp – Trời không mưa. Cả thảy có bốn người trong chiếc Rover màu đen ấy. Có ông chồng bà lái xe. Bà ngồi cạnh ông ta? Đúng không? Và phía sau có một cô bé – ông chỉ nó – cô bé này. Và một phụ nữ nữa. - Vâng. Chúng tôi gặp cơn dông từ lúc ba giờ chiều, giữa đồng không mông quạnh và con bé của tôi đâm sợ. Vì vậy, chúng tôi đã quyết định dừng lại ở đây chứ không đến Madrid tối nay. Người khách vừa nói vừa ngóng ra ngoài quảng trường, nhìn những viên cảnh sát do trời tạnh mưa, đã lại thấy đi qua đi lại và ông ta cố lắng nghe những tiếng còi rít lên từ mọi góc phố, lẫn trong tiếng sấm rì rầm. - Cô bạn tôi cũng sợ cơn dông lắm – Maria nói thêm. Phía mặt trời lặn là ở đầu đại lộ chính của thành phố. Đó là hướng đi tới khách sạn. Kể ra cũng chưa đến nỗi muộn lắm như người ta tưởng. Cơn dông đã làm rối tung cả giờ giấc, đã thúc đẩy chúng ta nhanh lên, nhưng nay mặt trời đã lại hiện ra, ửng hồng, qua bầu trời sâu thẳm. - Họ đang ở đâu? – Người khách hỏi. - Ở khách sạn Principal. Tôi phải về với họ đây. - Tôi vẫn nhớ. Một người đàn ông, chồng bà, bước một chân ra khỏi chiếc Rover màu đen và ông ấy đã hỏi tốp thanh niên là trong thành phố có bao nhiêu khách sạn. Và ông bà đã đi về hướng khách sạn Principal. - Chẳng còn phòng nào, tất nhiên. Lúc ấy cũng đã chẳng còn phòng nào. Bầu trời lại vần vũ đầy mây. Lại chuẩn bị một cơn dông nữa. Cái khối màu xanh sẫm của buổi chiều hôm ùn ùn như đại dương kia tiến lừ lừ phía trên thành phố. Nó từ phương đông kéo tới. Trời chỉ còn đủ ánh sáng lờ mờ để người ta nhìn thấy màu sắc đáng lo ngại của nó. Chắc là họ vẫn đứng ở rìa ban công. Đàng kia ở đầu đại lộ. Nhưng kìa đôi mắt em xanh, Pierre nói, lúc này là do bầu trời. - Tôi vẫn chưa thể về được. Ông nhìn mà xem, trời lại muốn đổ mưa. Lần này Judith chẳng vào nữa. Nó nhìn lũ trẻ chân đi đất chơi nghịch trong những rãnh nước ngoài quảng trường. Nước chảy nhớp nháp ở dưới chân chúng. Đó là một thứ nước màu đỏ quạch, đỏ như đá của thành phố và như đất quanh vùng. Tất cả đám thanh niên đều ở bên ngoài, trên quảng trường ấy, dưới bầu trời sấm vang chớp loé liên hồi. Người ta nghe thấy tiếng thanh niên huýt sáo du dương nổi lên giữa tiếng sấm rền. Mưa ập đến đây rồi. Đại dương trút xuống thành phố. Quảng trường biến mất. Dãy nhà cầu đầy những người. Trong tiệm rượu người ta nói to hơn để nghe cho rõ. Đôi khi người ta hét lên. Với những cái tên của Rodrigo Paestra và Perez. ... Mời các bạn đón đọc Mười Rưỡi Đêm Hè của tác giả Marguerite Duras.
Một Mảnh Trò Đời - Steve Toltz
"Một mảnh trò đời" được đánh giá là tác phẩm nặng ký của một nhà văn trẻ từng gây xôn xao văn đàn thế giới và sau đó được lọt vào danh sách shortlist của giải Man Booker 2008.  Các nhà phê bình đã từng có những lời khen tặng dành cho cuốn tiểu thuyết như: “hài hước vô biên,” "một quyển sách có thể chứa đựng bí mật cuộc đời,” “một chiếc tàu lượn nhào lộn điên loạn,” "Nghìn lẻ một đêm thời hiện đại”… Đó là những đánh giá dành cho cây bút người Úc sinh năm 1972, Steve Toltz. Chuyện sống không giống ai "Một mảnh trò đời" là câu chuyện về những nhân vật bất bình thường sở hữu những ý tưởng ngỡ như điên rồ sống một cuộc đời không giống ai. Câu chuyện diễn ra qua lời kể của hai cha con Martin Dean và Jasper Dean. Người cha Martin luôn có những suy nghĩ khác người, từng vào viện tâm thần và sau đó sống cuộc đời ẩn dật tại một căn nhà giấu trong một mê cung.  Các dự án kì lạ của ông đã giúp ông được nước Úc tung hô như anh hùng, nhưng cũng chính các dự án đó đã đẩy ông xuống vực sâu, phải trốn chạy khỏi nước Úc. Cậu con trai Jasper, chịu sự dạy dỗ khác người của bố từ bé, phải vật lộn chứng tỏ bản thân để thoát khỏi cái bóng của bố mình, chỉ để rồi sau đó nhận ra ông thật đáng thương và cậu yêu ông xiết bao.  Người gắn kết hai cha con là Terry Dean, em trai của Martin, một tên tội phạm khét tiếng của Úc, phạm tội với mục đích duy nhất là... làm trong sạch ngành thể thao! Cuốn sách đưa người đọc vào một chuyến phiêu lưu trên một phạm vi rộng lớn, và nhiều hoàn cảnh lạ lùng. Từ một vùng đất hoang xơ của xứ sở chuột túi đến thủ đô Paris phóng túng, tới những cánh rừng tại đất nước Thái Lan, đặt chân tới một mê cung kỳ quái, nhà thương điên, thâm nhập vào hang ổ tội phạm, cho tới chuyến vượt biên khủng khiếp lênh đênh trên biển...  Toàn bộ tạo ra một cơn lốc xoáy của các sự kiện, người đọc bị hút sâu vào một thế giới đầy rẫy những điều lập dị, kỳ quái. Gia đình nhà Dean bị cười chê bởi họ không suy nghĩ như đám đông, không hành động như đám đông.  Các nhân vật rất khác với số đông. Song có vẻ như chính cái số đông cho mình là bình thường mới là những kẻ đầu óc có vấn đề. Đó là số đông mù quáng khi tung hô những tên tội phạm lên thành anh hùng.  Đó là số đông vô cảm hau háu trước các tin tức giật gân, được đáp ứng bằng một bộ phận truyền thông sẵn sàng vào cuộc moi móc chuyện đời tư của người khác. Và khi giá trị giải trí không còn, số đông đó sẽ không ngần ngại tống những kẻ suy nghĩ ngược lại với họ vào tù, hoặc nhà thương điên. Truyện đặt ra nhiều câu hỏi như xã hội có thể chấp nhận sự khác biệt của các cá thể trong nó đến mức độ nào? Và mỗi con người có cần gò mình vào khuôn khổ để được chấp nhận, nếu không muốn đứng ngoài cuộc chơi? Câu hỏi đó đeo đẳng hai cha con Martin và Jasper suốt cuộc đời.  Những triết lý thấm thía Trong khi người bố quyết định sẽ làm kẻ khác người đến phút chót, thì cậu con trai, trước khi bước vào cuộc phiêu lưu của đời mình, lại lưỡng lự: “…khi bạn là đứa trẻ, để ngăn bạn làm theo số đông, bạn sẽ bị phủ đầu với câu: “Nếu mọi người nhảy khỏi cầu, con cũng làm thế ư?” nhưng khi bạn là người lớn và sự khác người bỗng dưng trở thành một cái tội, thì người ta hình như hay nói: “Này. Mọi người đang nhảy khỏi cầu. Sao cậu không làm đi?”” Tác giả Steve Toltz đã đặt những vấn đề đó vào một tác phẩm có thể ví như bữa tiệc thịnh soạn của ý tưởng và ngôn từ. Viết về những điều khác thường, người viết phải có một trí tưởng tượng cực kì phong phú.  Những ý tưởng sáng tạo và cách kể chuyện hài hước khiến câu chuyện lôi cuốn ngay từ đầu. Toltz gây tò mò với những sáng kiến kì dị: lập ra liên minh dân chủ tội ác, xuất bản cẩm nang tội ác cho tội phạm, xây nhà trong mê cung, biến tất cả những người Úc thành triệu phú…  Những suy nghĩ quái chiêu sẽ làm bạn đọc không nhịn được cười: “Anh sẽ ngạc nhiên khi biết nhiều tên trộm đã cởi găng tay ra để ngoáy mũi. Tôi muốn nhấn thật mạnh điều này: Đừng để dấu vân tay lại bất kì đâu! Ngay cả trong mũi của anh!” "Một mảnh trò đời" mang đầy hài hước, tốc độ ngôn từ nhanh khiến cho người tiếp nhận trước nhiều điều lạ lẫm ngày từ những gì ngỡ bình thường và thấy không thể tưởng tượng được mình đã buồn cười thế nào. Dịch giả Thi Trúc là dịch giả của hai tác phẩm văn học nổi tiếng là "Cọp trắng" (Aravind Adiga – giải Man Booker 2008) và "Bà Mụ" (Chris Bohjalian) chia sẻ rằng chị đã cố gắng chuyển thể tác phẩm thật sát với cách thể hiện trong nguyên tác với hy vọng bạn đọc cảm nhận được văn phong của tác giả và sự thú vị trong lối hành văn độc đáo. *** Cuốn tiểu thuyết từng lọt vào chung khảo giải Man Booker của nhà văn Úc Steve Toltz. Một ký ức tuổi thơ khác thường đầy chấn động của Jasper Dean. Ở đó, có sự thất bại triền miên của người cha, sự vắng mặt bí ẩn của người mẹ và người chú là kẻ phạm tội khét tiếng. Một tiểu thuyết nhiều cung bậc, tràn trề trải nghiệm, từ các xó xỉnh tận cùng đến những đỉnh cao thăng hoa, từ bần cùng tuyệt vọng đến sự thanh thoát cao cả. Tất cả trộn lẫn trong một giọng văn hài hước đến chua chát. Gia đình tỉnh táo nào cũng giống nhau - nhưng mỗi gia đình điên rồ lại điên rồ theo một cách khác nhau. Khi hồi tưởng những sự kiện bất thường dẫn đến cái chết ngoạn mục của người bố tên Martin, Jasper Dean đã kể lại chính tuổi thơ đầy rẫy những kế hoạch điên khùng và phát hiện chấn động - về ông chú tội phạm đầy tai tiếng Terry Dean, người mẹ vắng mặt một cách bí ẩn của anh ta, và thất bại triền miên của Martin trong nỗ lực để lại dấu ấn trên cõi đời. Từ rừng rú nước Úc đến Paris phóng túng, từ những cánh rừng của Thái Lan đến các mê cung, nhà thương điên, và hang ổ tội phạm, và từ đỉnh cao của mối tình đầu đến vực sâu của tham vọng bất thành, “Một mảnh trò đời” là một cuộc phiêu lưu khó quên. *** Steve Toltz là một tiểu thuyết gia người Úc. Anh sinh năm 1972 ở Sydney. Tiểu thuyết đầu tay của Toltz là A fraction of the whole (xuất bản ở Việt Nam dưới tên Một mảnh trò đời) đã đoạt giải Man Booker năm 2008. Toltz đã từng học tại trường Knox Grammar School, Killara High School và tốt nghiệp trường đại học Newcastle, ở New South Wales vào năm 1994. Vì sự nghiệp văn chương của mình, anh đã từng chuyển đến sống ở Montreal, Vancouver, New York, Barcelona và Paris, với nhiều công việc khác nhau như: quay phim, tiếp thị viễn thông, bảo vệ, thám tử tư, giáo viên tiếng Anh và biên kịch phim. Toltz đã cưới nữ họa sĩ đầy triển vọng mang trong mình hai dòng máu Pháp-Úc Marie Peter Toltz vào năm 2005. Họ sinh được một người con trai vào năm 2012. Trong một lần trả lời phỏng vấn cho trang The Book Depository, Toltz cho biết với anh, việc khó khăn nhất trong quá trình viết một cuốn sách chính là: chờ đợi cho đến khi khả năng bản thân bắt kịp được tham vọng của mình. Anh đã mất 5 năm để viết tiểu thuyết đầu tay A fraction of the whole. Khi sáng tác, Steve viết tay liên tục trong hai tiếng đồng hồ và mục tiêu của anh là cố gắng hết mức để mỗi ngày có thể viết càng nhiều những lần hai tiếng càng tốt. Vào buổi tối, nếu như có tinh thần kỉ luật, Toltz sẽ đánh máy lại tất cả những gì mình đã viết vào buổi sáng. Nếu như không có được tinh thần tự giác kỉ luật ấy, mà tình trạng này thường xuyên xảy ra nhiều hơn là có, những bản viết tay sẽ chất chồng, sau đó Toltz phải dành toàn bộ những ngày riêng rẽ chỉ để chuyển thứ mình đã viết lên máy tính. Thường thì chữ viết tay của anh rất khó đọc và anh phải cố gắng để đoán xem mình đã viết gì. Những lúc không viết, sở thích của Toltz khi rảnh rỗi là: đọc sách, chơi guitar, đi bộ, xem phim… Những tác giả mà anh yêu thích là: Knut Hamsun, Dostoyevsky, E.M. Cioran, Henry Miller, Raymond Chandler, Roberto Bolano, Celine, Thomas Bernhard. Những tác phẩm mà anh yêu thích phần lớn cũng là những tác phẩm do các tác giả kể trên viết. Tuy nhiên, có một số tác phẩm khác anh yêu thích như: Winsberg, Ohio của Sherwood Anderson; A hero of our time của Lermontov; Revolutionary Road của Richard Yates; Moravagine của Blaise Cendrars.   Mời các bạn đón đọc Một Mảnh Trò Đời của tác giả Steve Toltz.
Đêm Trắng - Fyodor Mikhailovich Dostoevsky
Đêm Trắng là cuốn tiểu thuyết của nhà văn Fyodor Mikhailovich Dostoyevsky (một cây đại thụ trong văn học Nga thế kỷ thứ 19) viết về một mối tình lãng mạn cao thượng và trong trắng đến nao lòng, diễn ra trong những đêm trắng thơ mộng bên bờ sông Neva ở thành phố Sankt Peterburg. Đêm Trắng kể về sự gặp gỡ giữa một người đàn ông 26 tuổi, là người mơ mộng và cô gái Naxtenca 17 tuổi mộng mơ hơn hẳn người mơ mộng kia. Họ vô tình gặp nhau và cùng nhau thoát ra khỏi những vỏ bọc, thế giới cô độc của riêng mình, cùng được chia sẻ và thương yêu. Lần đầu tiên người đàn ông nhìn thấy Naxtenca là khi cô đang đứng bên đường và khóc một mình vì nỗi buồn nào đó khi trời đã về khuya. Có điều gì đó đặc biệt ở cô gái này khiến ông rất tò mò. Ông giải thoát cô khỏi một kẻ quấy rối. Họ quen nhau và cùng chuyện trò trong 4 đêm trắng... *** Fyodor Mikhailovich Dostoyevsky (thường phiên âm là "Đốt-xtôi-ép-xki") là nhà văn nổi tiếng người Nga, sinh ngày 11 tháng 11, 1821 và mất ngày 9 tháng 2 (lịch cũ: 28 tháng 1), 1881. Cùng với Lev Tolstoy, Dostoevsky được xem là một trong hai nhà văn Nga vĩ đại thế kỷ 19. Các tác phẩm của ông, như Anh em nhà Karamazov hay Tội ác và hình phạt đã khai thác tâm lý con người trong bối cảnh chính trị, xã hội và tinh thần của xã hội Nga thế kỷ 19. Ông được giới phê bình đánh giá rất cao, phần lớn xem ông là người sáng lập hay là người báo trước cho chủ nghĩa hiện sinh thế kỷ 20, chẳng hạn, Walter Kaufman xem Bút ký dưới hầm là "tác phẩm về chủ nghĩa hiện sinh tuyệt vời nhất từng được viết". Tuy nhiên ở Liên Xô, sau Cách mạng tháng Mười, người ta hầu như phủ nhận toàn bộ các sáng tác của Dostoevsky. Từ 1972, tác phẩm của Dostoevsky mới được nhìn nhận lại và đánh giá đúng mức ở quê hương của mình. Tại Việt nam, các tác phẩm của ông được xuất bản với tên Fyodor Mikhailovich Dostoevsky, một số như: Tội Ác Và Sự Trừng Phạt Đêm Trắng Là Bóng hay Là Hình Bút Ký Dưới Hầm Anh em nhà Karamazov Lũ Người Quỷ Ám Gã Khờ ... *** Đó là một đêm kì diệu, một đêm mà có lẽ chỉ có thể có được khi chúng ta còn trẻ, hỡi bạn đọc thân mến. Bầu trời đầy sao, một bầu trời lộng lẫy đến mức ngước nhìn lên nó ta phải bất giác tự hỏi mình: chẳng lẽ những con người cau có, trái tính trái nết đủ loại lại có thể sống dưới một bầu trời như thế? Đây cũng là một câu hỏi của tuổi trẻ, hỡi bạn đọc thân mến, một câu hỏi rất trẻ, nhưng cầu xin Đức Chúa Trời ban cho bạn thường xuyên hơn câu hỏi ấy!.. Còn nói về những quý ngài trái tính trái nết và cau có đủ loại thì tôi không thể không nhớ lại cách xử sự hợp lẽ của tôi trong cả ngày hôm đó. Ngay từ sáng sớm tôi đã bị một nỗi buồn kì lạ hành hạ. Tôi bỗng nhiên có cảm giác rằng tôi, một kẻ cô đơn, đang bị tất cả bỏ rơi, xa lánh. Tất nhiên, bất kì ai cũng có quyền hỏi: tất cả là ai? Bởi vì tôi sống ở Peterburg 1 đã tám năm nay mà hầu như chưa hề làm quen được với một người nào. Nhưng tôi phải làm quen để làm gì? Không có việc đó thì cả thành phố Peterburg cũng đã quen thuộc với tôi rồi; mà chính vì thế nên tôi mới cảm thấy tất cả đều bỏ rơi tôi khi toàn bộ thành Peterburg bỗng đột ngột kéo nhau ra các nhà nghỉ ngoại thành. Ở lại một mình tôi rất sợ, và suốt ba ngày dài tôi lang thang khắp thành phố trong nỗi buồn nặng nề và tuyệt nhiên không hiểu cái gì đang xẩy ra với mình. Dù xuôi đại lộ Nevxki, dù vào công viên hay lang thang dọc con đường bờ sông - không một khuôn mặt nào tôi vẫn quen gặp ở những nơi đó vào một giờ nhất định trong suốt cả năm qua. Tất nhiên mọi người không biết tôi, nhưng thôi lại biết họ. Tôi biết họ khá rõ; tôi gần như đã nghiên cứu từng khuôn mặt họ - tôi thích thú ngắm nhìn họ khi họ vui vẻ, và tôi buồn khi họ rầu rĩ u ám. Tôi gần như đã kết bạn với một ông mà tôi vẫn gặp hàng ngày vào một giờ nhất định ở Đài Phun Nước. Ông ta có vẻ mặt trang trọng, trầm tư, lúc nào cũng lẩm bẩm nói chuyện một mình và vung vẩy tay trái, còn trong tay phải là cây gậy dài có nhiều mấu, tay cầm bịt vàng. Ông ta thậm chí đã nhận ra tôi và tỏ vẻ thân thiện đối với tôi. Nếu như vào cái giờ nhất định đó mà tôi không có mặt ở cạnh Đài Phun Nước thì chắc là ông ta cảm thấy buồn. Chính vì vậy mà có khi chúng tôi đã gần như nghiêng người chào nhau, nhất là vào những hôm cả hai thấy trong lòng sảng khoái. Một lần cách đây không lâu, suốt hai ngày chúng tôi không gặp nhau, đến ngày thứ ba vừa trông thấy nhau chúng tôi đã suýt túm lấy vành mũ, nhưng kịp nhớ lại và hạ tay xuống, đi ngang qua nhau với mối đồng cảm trong lòng. Cả những ngôi nhà cũng quen biết tôi. Khi tôi đi ngang qua, chúng dường như chạy ra đón gặp, nhìn tôi bằng tất cả các cửa sổ và hình như nói với tôi: "Chào anh, sức khoẻ anh thế nào? Còn tôi, nhờ trời vẫn khoẻ, đến tháng Năm này tôi sẽ có thêm một tầng nữa". Hay là: "Anh có khoẻ không? Còn tôi ngày mai sẽ được sửa chữa". Hoặc: "Hôm rồi tôi suýt cháy rụi, làm tôi sợ quá", và vân vân... Trong số đó có những ngôi nhà tôi yêu thích, có những ngôi nhà là bạn thân thiết của tôi; có một ngôi nhà mùa hạ này sẽ nhờ kiến trúc sư chạy chữa. Tôi sẽ cố hàng ngày ghé qua thăm để người ta, cầu chúa ban ơn, chạy chữa cho nó đến nơi đến chốn... Và không bao giờ tôi quên câu chuyện xảy ra với ngôi nhà nhỏ màu hồng tươi cực xinh xắn. Đó là một ngôi nhà bằng đá dễ thương, đối với tôi hết sức niềm nở và nhìn những hàng xóm xấu xí của mình kiêu hãnh đến mức mỗi khi đi qua nó tôi thấy tim mình rộn lên vui sướng. Bỗng nhiên tuần trước khi đi trên phố, vừa nhìn thấy người bạn quen thì tôi chợt nghe một tiếng kêu não ruột: "Mà người ta sắp quét sơn vàng lên tôi đấy!" Quân độc ác! Lũ người man rợ! Họ không thương tiếc một cái gì hết: cả những dãy cột tròn, cả những mái đua, và người bạn của tôi vàng ệch ra như một con chim hoàng yến. Tôi suýt lộn ruột lên vì chuyện ấy và đến giờ không dám đến nhìn lại mặt người bạn đáng thương dị dạng của tôi đã bị trét lên cái màu của các hoàng đế Trung Hoa. ... Mời các bạn đón đọc Đêm Trắng của tác giả Fyodor Mikhailovich Dostoevsky.
Chim - Daphne Du Maurier
Nhờ óc tưởng-tượng phong-phú, bà thành công dễ dàng với loại truyện ly-kỳ, rùng rợn. Tuy ưa viết truyện quái-dị, bà không phiêu lưu đến lãnh-vực thần-kỳ, hoang-đường mà chỉ căn cứ trên nhận xét và thực-nghiệm. Bút pháp giản-dị nhưng đôi khi hơi cẩu-thả. Truyện “Chim” (“The Birds”) sau đây cũng được Hitchcock đem quay thành một cuốn phim nổi tiếng. *** Nữ văn sĩ người Anh Daphné du Maurier (1907 - 1985) sinh ở Luân Đôn trong một gia đình giàu truyền thống về nghệ thuật và văn chương. Bà là con gái một tài-tử trứ danh, Sir Gerald du Maurier, cháu nội một cây bút hí-họa rất được độc-giả tờ Punch mến chuộng, George du Maurier. Thuở nhỏ bà học ở nhà, sau sang Paris học thêm . Năm 1932, bà lấy chồng là trung tá F.A.Browning, người sáng lập và tổ chức các đội quân nhảy dù. Họ có ba người con : Tessa, Flavia và Christia. Cả gia đình sống hạnh phúc ở Menabilly. Sự nghiệp văn học của bà bắt đầu lừ năm 1931 với cuốn tiểu thuyết đầu tay “The Loving Spirit ” (Sợi dây tình). Nhờ trí tưởng tượng phong phú, bà thành công dễ dàng với loại truyện ly kỳ, rùng rợn. Daphne bắt đầu nổi tiếng từ cuốn Jamaica Inn (1936), đến cuốn Rebecca (1938) thì tiếng tăm bà lừng lẫy, truyện được dịch ra trên hai mươi ngoại ngữ và được Hitchcock đem quay thành phim, Sir Laurence Olivier thủ vai chính. Với cuốn My Cousin Rachel bà nỗi tiếng là Jane Eyre của thế-kỷ thứ XX. Những tác phẩm nổi tiếng khác của bà phải kể đến: Jeanesse perđue (Tuổi thanh xuân đã mất), “Le général du roi” (Viên tướng nhà vua - Thiếu nữ tật nguyền thời ly loạn), Ma cousine Rachel (Người em họ Rachel của tôi)... Năm 1969, bà được Nữ Hoàng Elisabeth II sắc phong vào hàng quý tộc với tước "Dame Commander of the Order of the British Empire" (DBE), được vinh-dự đặt chữ "Dame" trước bút hiệu (ngang với chữ "Sir" dành cho nam phái). *** Mồng ba tháng chạp, trời đổi gió nội trong một đêm, mùa đông đã đến. Trước đấy, trời còn giữ tiết thu ngọt ngào, êm dịu. Lá vàng úa đỏ còn vương vấn trên cây và hàng dậu vẫn xanh tốt. Cầy đất lên còn thấy màu mỡ. Là một thương binh, Nat Hocken được trợ cấp, không phải làm việc cả tuần. Anh chỉ đến trại làm có ba ngày một tuần, lại được phó thác những công việc nhẹ nhàng : làm hàng rào, lợp mái ra., sửa chữa lặt vặt nhà cửa. Tuy có gia đình, vợ con đông đủ, nhưng tính anh ưa cô tịch, chỉ thích làm việc một mình. Anh khoan khoái khi được giao cho việc xây đắp bờ lạch hay sửa sang một cái cổng ở mãi tận cuối bán đảo, nơi biển bao bọc quanh trại. Anh cắm cúi làm việc đến trưa thì nghỉ tay ăn chiếc bánh nướng nhân thịt do vợ làm, ngồi trên mép ghềnh đá, vừa ngắm chim bay vừa nhấm nháp. Mùa thu là mùa tuyệt nhất, tuyệt hơn cả mùa xuân. Mùa xuân, chim bay vào lục địa có mục đích, xăm xăm, chúng biết chúng phải tới đâu đúng hạn kỳ, không được chậm trễ. Mùa thu, những con nào không thiên di cũng vẫn bị bản năng thôi thúc và vì không được di chuyển nên tự bầy đặt ra một đường hướng sinh hoạt riêng. Từng đoàn lũ đông đúc chúng bay đến bán đảo thoăn thoắt, bồn chồn, tiêu hao sức lực, lúc thì lượn vòng trên trời, lúc thì là là kiếm mồi trên những mảnh đất mới cầy xới, nhưng ngay cả khi chúng rỉa mồi ta có cảm tưởng chúng ăn không phải vì đói, vì thèm. Rồi trạng thái bồn chồn lại thúc bách chúng phải cất cánh bay vụt lên trời. Trắng và đen, quạ khoang và mòng biển bay chung hỗn độn, kỳ quái, như tìm kiếm một lối giải thoát, không bao giờ vừa ý, không bao giờ đứng im một chỗ. Từng đoàn sáo sậu bay phần phật, như tiếng áo lụa, tới đồng cỏ tươi, cũng bị tiềm năng thúc đẩy sinh hiếu độn, và những loài chim nhỏ hơn, sẻ và chiền chiện, như cũng bị một ma lực bắt phải đậu rải rác trên cây hay trên bờ dậu. Nat ngắm chúng chán lại quay ra nhìn lũ chim biển. Đàn mòng đang đợi nước triều dưới bãi. Chúng kiên nhẫn hơn. Chim bói sò, chim đỏ chân, chim thọc trùn, chim dẽ cùng đứng rình bên bờ nước ; khi biển từ từ hút bờ rồi rút xuống bỏ lại rong rêu và cuội đá, những con chim biển đua chạy trên bãi; Rồi sự thôi thúc của bản năng cũng khiến chúng phải cất cánh. Chúng kêu quang quác, chí chóe, réo nhau, lướt trên mặt bể bình thản rồi bay đi xa. vội vã, gia tăng tốc độ, bay đi mất dạng. Nhưng bay đi đâu và để làm gì ? Sự thôi thúc liên miên của mùa thu không được thỏa mãn đã khiến chúng không cưỡng được phải họp thành đàn lũ, cùng nhau bay lượn, kêu réo. Chúng cần phát tiết những tiềm năng ứ đọng bằng hành động trước khi mùa đông đến. Ngồi trên mép ghềnh đá nhai bánh, Nat nghĩ hẳn vào thu loài chim đã nhận được một mật hiệu báo trước mùa đông sắp đến. Một số lớn sẽ lìa đời. Và củng giống như loài người sợ chết yểu khiến họ hùng hục cắm đầu làm việc hay hóa thành điên khùng, loài chim cũng thế. Mùa thu năm nay lũ chim xao xác tệ, sự xao xác càng dễ nhận vì ngày như đứng lại. Trong khi máy cầy xuôi ngược rẽ những luống đất trên khu đồi phía tây, hình bóng người nông dân cầm lái và cả cái máy đôi khi bị một đám mây lớn toàn chim bay lượn, kêu chí chóe, nhất thời che khuất. Nat chắc chắn năm nay chúng đông hơn mọi năm. Mùa thu nào chúng cũng bay theo máy cầy nhưng chưa bao giờ đông nghịt và om sòm như năm nay. ... Mời các bạn đón đọc Chim của tác giả Daphne Du Maurier.