Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nói Vậy Mà Không Phải Vậy - Robert J. Samuelson

John Kenneth Galbraith, nhà kinh tế học và nhà văn, đã dùng cụm từ “quan niệm phổ biến”[1] (conventional wisdom) từ cách đây hơn bốn thập kỷ, trong cuốn sách bán chạy nhất của ông năm 1958 với tựa đề Xã hội Thịnh vượng (The Affluent Society). Theo định nghĩa của Galbraith thì các quan niệm phổ biến là tập hợp các niềm tin của đại bộ phận con người về một đề tài hay chủ thể nhất định. Những niềm tin đó không nhất thiết phải là đúng đắn, mà chỉ đơn giản là chúng được hiểu rộng rãi và được tôn trọng. Từ đó, cụm từ này dần dần xâm nhập vào ngôn ngữ của cuộc sống hàng ngày, và khi ý nghĩa ban đầu của Galbraith vẫn tồn tại thì nó đã khơi gợi cảm hứng cho những biến thể hiện đại khác của khái niệm trên. “Quan niệm phổ biến” của Galbraith là đồng nhất, vững chắc và lan tỏa rộng khắp, còn các phiên bản sau này lại cho rằng chúng là những điều hợp xu thế, hợp thời trang một cách khôn ngoan. Nhưng cho dù cũ hay mới thì quan niệm phổ biến (như Galbraith đề cập đến) lại thường là điều sai. Đôi khi quan niệm phổ biến còn đối lập với sự thật. Nó thường là sự sắp đặt các dữ kiện và nhận thức một cách nghệ thuật và có chọn lọc, để cho thấy một chân lý đáng tin cậy - mặc dù đó là sự dối trá. Nhưng các quan niệm phổ biến tồn tại được, bởi vì nó kể lại một câu chuyện khá hấp dẫn, xét theo một mức độ nhất định nào đó. Quan niệm phổ biến có được sức mạnh là nhờ vào khả năng đáp ứng được nhu cầu tâm lý hoặc chính trị. Sau đó hành vi của chúng ta lại giúp củng cố niềm tin. Chúng ta sẽ nhìn thấy những gì mình muốn thấy, sẽ nghe được những điều mình muốn nghe. Chúng ta tìm kiếm những người có uy tín để được lặp lại và củng cố lại các niềm tin và thành kiến của mình. Galbraith đã viết: “trong một chừng mực nào đó thì sự gắn kết của quan niệm phổ biến là một nghi thức tôn giáo, đó là hành động để xác nhận lại, như đọc Kinh Thánh hay đi lễ nhà thờ”. Sớm muộn gì thì quan niệm phổ biến cũng sẽ phải thay đổi hoặc sụp đổ. Nhưng các yếu tố phá hủy nó lại hiếm khi là các phân tích logic hay sự thuyết phục. Đó thường là các tình huống hoặc tác động của các sự kiện thực tế. Với bản chất của mình, quan niệm phổ biến sẽ “phòng vệ” bằng các ngôn từ hoặc lập luận. Người ta không muốn tỉnh ngộ từ các ý tưởng quen thuộc, vị kỷ, và làm vừa lòng họ. Người ta có xu hướng triệt tiêu sự hoài nghi, loại bỏ những bất đồng khó chịu hoặc chối bỏ sự mâu thuẫn. Những gì có thể làm thay đổi tâm trí con người thường là các trải nghiệm rõ ràng không thể phủ nhận và đôi khi khắc nghiệt, sau đó thường thì quan niệm phổ biến bị sụp đổ. Nhưng đây không phải là lý do dễ chấp nhận. Tôi trực tiếp biết điều này. Năm 1969, tôi là phóng viên của một tờ báo. Sự hấp dẫn chủ yếu của công việc này (ngoài việc được nhìn thấy cái tên của mình in trên báo chí) là các cơ hội học hỏi các điều mới mẻ và giải thích các khám phá này trước độc giả. Đó là cái cớ để đặt câu hỏi, thường là không giới hạn, đối với các công dân bình thường. Cái cần được tìm kiếm luôn luôn là “sự thật”, mặc dù “sự thật” đúng nghĩa - thường là rất phức tạp, không rõ ràng và gây nhiều tranh cãi - là khó hoặc không thể xác định được. Khi tôi trở thành người phụ trách một chuyên mục (columnist) của báo năm 1976, mục tiêu vẫn không đổi: đó là chuyển tải các hiểu biết đầy đủ hơn về một vấn đề hay hiện tượng nào đó. Càng làm việc này thì tôi càng “đụng đầu” với các quan niệm phổ biến, bởi vì đó là nơi mà nội dung bài viết dẫn tới. Các bài bình luận của tôi ngày càng đặt câu hỏi hoài nghi hoặc bác bỏ các quan niệm phổ biến. Một số bài bình luận của tôi đã được thu thập lại và trình bày trong cuốn sách này. Tôi không viết bất cứ điều gì để kết tội quan niệm phổ biến. Một số người có xu hướng “chạy theo thời thượng” mới nổi đã quay lại cáo buộc những điều đáng được lãng quên, chỉ vì các sự kiện đó đã làm họ mất uy tín. Vào những năm giữa thập niên 80, đã có những cảnh báo về việc “quá trình suy thoái công nghiệp của Hoa Kỳ” (deindustrialization) khiến chúng ta trở thành một đất nước mà tại đó những người làm hamburger và thợ giặt ủi được trả mức lương thấp (xem “Chúng ta không phải là đất nước của các tiệm giặt ủi”); khái niệm này đã không thể tồn tại sau sự bùng nổ kinh tế trong thập niên 90. Và cũng không có chuyện Nhật Bản sẽ qua mặt chúng ta về mặt kinh tế khi đất nước này vượt qua được sự đình trệ trong thập niên 90. Nhưng những hoài nghi vẫn tiếp diễn, có vẻ như không thay đổi chút nào trước những bằng chứng và lập luận logic bất lợi. Chúng ta được nghe rằng các nhóm lợi ích giàu có và bảo thủ đang thống trị Washington, nhưng thực tế không phải như vậy (xem “Các nhà môi giới quyền lực âm thầm”). Mới gần đây, internet đã được quảng bá là một trong những thành tựu công nghệ vĩ đại nhất từ sau khi ngành in ấn ra đời, sự so sánh này làm tổn thương lịch sử (xem “Internet và Gutenberg”). Đương nhiên, không phải tất cả các quan niệm phổ biến đều sai. Nếu tất cả chúng đều là sai thì xã hội đã tan rã. Những sai lầm của từng ngày, phát xuất từ các ý tưởng sai, sẽ nhân rộng ra và làm cho sự hỗn loạn lan tràn. Nhưng chúng ta không cưỡng lại được các xu hướng mơ hồ. Tại sao vậy? Galbraith đưa ra vài manh mối. Theo cách này hay cách khác, ông chỉ đơn giản là dán lên cái nhãn mới cho thứ đã xưa cũ: tính ỳ của lòng tin. Người ta bám chặt lấy những gì họ đã biết và những gì làm họ cảm thấy thoải mái. Galbraith đã quy cho hiện tượng này là việc không thích quá nhiều cái mới. Mà không chỉ có vậy. Đó là sự nhượng bộ thực dụng trong cuộc sống hàng ngày. Nếu chúng ta liên tục xem xét lại các niềm tin và giả định, chúng ta sẽ đờ đẫn ra vì do dự. Chúng ta sẽ thường xuyên trầm tư và chần chừ không quyết. Nhưng trong văn hóa truyền thông hiện đại, quan niệm phổ biến không còn là những gì như trước đây - và khi đó nó đặt nền móng cho những sai lầm. Theo Galbraith, quan niệm phổ biến bao gồm các ý tưởng cổ điển. Nó giống như rượu vang để lâu ngày. Nó có danh tiếng thông qua việc được vô số các nhân vật có uy tín nhắc đi nhắc lại liên tục qua nhiều năm. Giống như rượu vang, quan niệm phổ biến cũng có thể bị hỏng. Với các sự kiện hoặc các kiến thức mới, quan niệm phổ biến cũng có thể chỉ còn là chuyện đã qua hoặc lý thuyết lỗi thời. Ngược lại, quan niệm phổ biến ngày nay lại thường xuất hiện từ vô định. Các lý thuyết - hầu hết là bàn về các chủ đề mà gần như tất cả mọi người chưa nghĩ đến hay người ta chỉ có chút ít quan điểm rõ ràng - bất ngờ mang tính thời sự và được chấp nhận. Các lý thuyết này không chín muồi theo cách phù hợp, mà được “đóng gói” nhanh chóng, quảng cáo rầm rộ và “bán” một cách quyết liệt. Quan niệm phổ biến đã ít tự nhiên hơn và chứa đựng nhiều toan tính hơn so với trước kia. Nó ngày càng trở thành hoạt động buôn bán có tính trí tuệ hoặc chính trị. Tôi cho rằng điều này giúp giải thích tại sao đa phần quan niệm phổ biến đã trở nên hời hợt, nhầm lẫn và ngu xuẩn. Các ý tưởng là tay sai cho tham vọng của con người, các nhóm lợi ích hoặc các chương trình của giới chính trị hay trí thức. Nó không phát xuất từ những nỗ lực vô tư để khám phá sự thật. Nó là sự vận dụng của kinh doanh và phải gánh chịu mọi sự thái quá của kinh doanh. Người ta nhấn mạnh đến những gì làm nên hoàn cảnh của họ, và bỏ qua hoặc tối thiểu hóa những gì “không dính dáng”. Các tuyên bố là quá lời. Sự kiện được chọn lọc. Việc thẩm định bị phớt lờ hoặc không rõ ràng. Chính trị ảnh hưởng nhiều đến việc này. Nói đến chính trị, tôi không có ý nói riêng về hay tập trung phần lớn vào Đảng Dân chủ hay Cộng hòa, đến khuynh hướng tự do cấp tiến hay bảo thủ. Hình thái chính trị đang thắng thế ngày nay là cái mà tôi gọi là “chính trị giải quyết vấn đề”. Mọi khiếm khuyết trong xã hội, bằng cách nào đó, cần được chuyển đổi thành một “vấn đề” cụ thể, và sau đó có thể được “giải quyết”, thường là do chính quyền, còn nếu không là được giải quyết bởi “thị trường” hoặc một ai khác, một thứ gì khác. Nói chung người Mỹ lạc quan và thực dụng, rất sùng bái sự tiên tiến. Chúng ta gắn bó với ý tưởng cho rằng các vấn đề đều có thể được giải quyết - và từ đó sự không hoàn hảo được giảm đi. Tocqueville cho rằng, người Mỹ tin vào “sự hoàn thiện không giới hạn của con người”. Chúng ta phản đối ý niệm cho rằng một số thiếu sót chỉ đơn giản là những mảng bình thường của cuộc sống. Sau nữa, đây cũng không phải là một lực đẩy mới. Nhưng trong thời đại của chúng ta thì quan niệm phổ biến đã được nhắc đến nhiều hơn. Nó liên tục được nuôi dưỡng bởi các nhóm chủ trương biện hộ, các nhà chính trị doanh nhân (entrepreneurial politicians) - là các ứng viên hoặc viên chức văn phòng không thể dựa vào một bộ máy đảng phái mạnh tại trung ương để tiến lên phía trước, mà ngày càng phải tự thân vận động - và các trí thức lớn, của cả hai cánh Tả và Hữu. Tất cả họ đều rao giảng cho công chúng về tất cả mọi thứ, từ chính sách của chính phủ đến việc phổ biến văn hóa. Chúng ta được dẫn dắt để tin rằng hầu hết các vấn đề xã hội và kinh tế đều có thể được giải quyết và mong muốn của người dân là có thể được xoa dịu hay đáp ứng. Với những vấn đề được tìm ra để giải quyết, những nhóm chủ trương biện hộ, các chính trị gia, và các vị thương nhân kinh doanh ý tưởng khác nhau đã tự khẳng định mình. Họ thiết lập sự nhận biết, nâng cao tầm nhìn của họ, và kết nối các cử tri hoặc khán giả. Sự chủ trương biện hộ hòa lẫn với tự quảng cáo. Sản phẩm mà quá trình này tạo ra là sự thổi phồng bất tận. Một vấn đề không thể đơn giản là quá khiêm tốn, bất tiện, khó tránh khỏi, hoặc khó giải quyết. Vấn đề phải là chuyện lớn, nghiêm trọng, nguy hiểm, và bức xúc - và có thể giải quyết được. Vì vậy, các vấn đề được cường điệu hóa lên về mặt quy mô và mức độ nghiêm trọng, theo đó sức mạnh của các giải pháp đề xuất cũng được thổi phồng lên theo. Việc tìm kiếm các khoản đóng góp cá nhân để tài trợ cho chiến dịch chính trị không thể đơn giản chỉ mang tính tự hạ thấp mình và không “sạch”; nó phải khuấy động được những nền móng cho dân chủ - và có thể thu hồi được từ “chiến dịch cải cách tài chính” (xem “Cái Giá của Chính trị”). Chăm sóc sức khỏe được quản lý (managed care) không thể chỉ đơn giản là một phương pháp mới và chưa hoàn hảo để cung cấp các dịch vụ y tế; nó phải là một cuộc tổng công kích không thương xót dành cho sự tích hợp của y học hiện đại và khôi phục được từ “cải cách y tế” (xem “Chuyện hoang đường về “con quái vật” Chăm sóc sức khỏe được quản lý”). Trong những năm 1990, việc các thành viên Đảng Cộng hòa chiếm đa số ghế trong Quốc hội không thể chỉ đơn giản là sự thay đổi trong quyền lực chính trị để có thể sửa đổi đường lối và bầu không khí chính trị của đất nước. Nó phải là một “cuộc cách mạng” toàn diện làm thay đổi chính trị và cuộc sống như chúng ta đã biết (xem “Họ gọi đây là một cuộc cách mạng?”). Đến một mức độ nhất định, sự biện hộ đòi hỏi việc tranh luận phải trở thành các bài học đạo đức: người tốt (hoặc các ý tưởng tốt) đối lập với cái xấu. Người anh hùng và kẻ xấu xa cùng tạo nên “sức nặng” (throw-weight) của trí tuệ và chính trị để cho chương trình nghị sự được nâng cao, đầy hoài nghi, và có các đối thủ công kích nhau. Ở Hoa Kỳ, loại vận động này tìm thấy một đối tượng khán giả sẵn lòng. Vượt trên sự lạc quan - một niềm tin rằng những gì bị hỏng có thể được sửa chữa - là di sản mang tính nhiệm vụ của chúng ta. Người Mỹ luôn luôn tưởng tượng mình là một ngoại lệ đặc biệt và đúng đắn, nhất quyết cải tiến nhân loại với việc tấn công vào thành trì của sự ngu dốt, quyền lực thối nát hay điều ác. Những đặc tính này của dân tộc là rất tuyệt vời. Chúng thường làm chúng ta chìm vào sự ngây thơ ngấm ngầm rằng: nếu chỉ vì cái gì đó chưa được thực hiện trước đây thì không có nghĩa là điều đó không thể được thực hiện. Những niềm tin vào sự tiến bộ có thể tạo ra tiến bộ và thường xuyên là như vậy. Tuy nhiên, một số đức tính tốt của dân tộc, khi để vượt quá mức hợp lý, cũng trở thành thói xấu (xem “Các vết đen trong đạo đức của chúng ta”). Chính trị “Giải quyết vấn đề” là một trong những loại hỗn hợp khó chịu của sự thành công và thất bại. Khi thất bại, nó dẫn đến một thứ quan niệm phổ biến với đầy rẫy các điều giản đơn và ngớ ngẩn, trong khi vẫn gợi cảm hứng cho các “giải pháp” mà đôi khi có hại nhiều hơn là có lợi. Vấn đề của dịch vụ chăm sóc sức khỏe không phải là “được quản lý”, mà là mâu thuẫn trong nhu cầu của công chúng: chúng ta muốn bảo hiểm y tế toàn diện (universal health insurance), tuyệt đối tự chủ cho các bệnh nhân và bác sĩ trong quá trình điều trị và kiểm soát được chi phí y tế. Không có chế độ nào có thể đồng thời đáp ứng các nhu cầu không nhất quán này. (Nếu tất cả mọi người đã bảo hiểm cho tất cả mọi thứ, và bác sĩ hay bệnh nhân đều có thể yêu cầu bất cứ gì họ muốn - thì chi phí sẽ không thể kiểm soát được.) Vấn đề với “chiến dịch cải cách tài chính” là: nếu sử dụng kết luận logic của nó thì tự do ngôn luận chính trị sẽ bị bịt miệng. Điều phiền toái là truyền thông hiện đại (qua truyền hình, quảng cáo, gửi thư hàng loạt) đều cần tiền. Nếu truyền thông không phải là vấn đề ngôn luận, thì là cái gì? Và nếu mọi người không thể chi tiền để biện hộ cho các quan điểm chính trị và hỗ trợ các ứng cử viên chính trị mà họ tán thành, thì họ “tự do” như thế nào? Nghệ thuật biện hộ có hiệu quả để khỏa lấp các hoài nghi sẽ làm hỏng các thông điệp đạo đức. Vấn đề sẽ không còn đơn giản như vậy nữa, giải pháp không còn rõ ràng như vậy nữa. Xung đột giữa các mục tiêu mong muốn được tối thiểu hóa, và giới hạn thực tế của các giải pháp đề xuất cũng vậy. Chúng ta, những người trong báo giới, hỗ trợ cho sự lẩn tránh - và đôi khi còn xúi giục nó. Là người Mỹ, chúng ta chia sẻ tính nhạy cảm trong việc giải quyết vấn đề. Ngoài ra, chúng ta cũng có lợi ích riêng. Chúng ta cần thu hút và giữ được độc giả. Cả bản năng và lợi ích của chúng ta đều được đặt trong việc nghiên cứu các mâu thuẫn và xung đột. Chúng ta thường hào hứng tham gia vào các cuộc vận động đạo đức hay chính trị. Đó là câu chuyện hay và thu hút các khách hàng của chúng ta. Mặc dù đó là sự thật từ lâu nay, nhưng thực tế cạnh tranh mới đã thổi phồng các hiệu ứng. Chỉ cách đây một vài thập kỷ, trong những năm của thập niên 1960 - phương tiện truyền thông tin tức quốc gia mới chỉ gồm một nhóm nhỏ và ổn định với các tổ chức: 3 mạng lưới truyền hình (ABC, CBS, và NBC); 3 tạp chí (Time, Newsweek, và Thông cáo Tin tức & Thế giới của Hoa Kỳ), một số báo chí quốc gia có tầm cỡ (Thời báo New York, The Wall Street Journal, Bưu điện Washington) trong đó chỉ có một tờ có phạm vi phát hành toàn quốc (tờ Journal) và một vài dịch vụ thông tin chính yếu (Hiệp hội báo chí (Associated Press), Liên đoàn báo chí quốc tế (United Press International). Điều này cho phép các chuyên gia tin tức - các nhà biên tập, các nhà báo - có quyền quyết định những gì là “tin tức” và những gì không phải là “tin tức”. Phán xét của họ rõ ràng là có thể sai lầm và không được “miễn nhiễm” với xu thế chính trị đang thống trị hay xu hướng của giới trí thức. Nhưng các phán xét phần lớn cũng chỉ là phán xét của riêng giới đưa tin mà thôi. Với lượng độc giả ổn định, áp lực thương mại buộc sử dụng tin tức để thu hút người đọc và người xem thời đó là chưa nhiều. Tình hình hiện nay là hoàn toàn khác. Sự phát triển của các phương tiện truyền thông thật ấn tượng: đã có các kênh truyền hình cáp (MTV, ESPN, CNN, C-span); có một mạng lưới truyền hình chủ chốt khác (Fox); thêm hai tờ báo quốc gia (tờ Hoa Kỳ Ngày Nay và Thời báo New York); Internet và vô số các trang web với các tin tức, thông tin tài chính, y tế, khiêu dâm và nhiều nhiều nữa. Không ai còn có thể giữ vững lượng khán giả của mình. Khi các mạng lưới truyền thông còn kiểm soát được các kênh truyền hình, người xem phải theo dõi các chương trình tin tức ban đêm (thường là được ấn định cùng thời điểm) - hoặc không có gì khác để xem. Bây giờ họ có thể bấm nút để xem chương trình nấu ăn, thể thao, hoạt hình, phim truyện, câu chuyện du lịch, mua sắm cho gia đình. Hoặc họ có thể lướt net. Lượng khán giả của mạng tin tức ban đêm sụt giảm nhanh. Độc giả của báo chí cũng giảm, tuy chậm hơn nhưng nói chung là đã giảm. Kết quả là những người kinh doanh tin tức đã mất quyền lực trong việc xác định những gì là tin tức và những gì không phải là tin tức. Ngày càng nhiều, người đọc và người xem mới là những người xác định đâu là tin tức, với việc thu nhặt và chọn lọc những gì họ muốn, hoặc quyết định rằng họ không cần tin tức nữa. Điều này làm tăng thêm yêu cầu đối với người biên tập và các phóng viên báo phải làm sao để cho các tin tức phổ biến hơn và hấp dẫn hơn. Hiện đã có sự nhập nhèm giữa tin tức và giải trí, khi các giá trị của truyền hình đã lan tràn trong tất cả các phương tiện truyền thông. Để lôi kéo khán giả, bài bình luận phải trở nên “cao giọng” hơn. Chương trình “Bắn chéo” (CrossFire)[2] của kênh CNN là người đi đầu: chính trị tương đương như thi đấu vật chuyên nghiệp. Sự độc lập trong công tác biên tập đã bị thu hẹp lại. Biên tập viên vẫn được quyết định những gì sẽ được in hoặc được xem, nhưng nếu những gì họ làm là không thành công trên không gian thị trường, họ sẽ bị thay thế. Các nhà phê bình trong lĩnh vực truyền thông đại chúng thường xuyên than phiền rằng sự thống trị của một vài doanh nghiệp lớn đã hạ thấp các giá trị của thông tin xuống mức chỉ còn là lợi nhuận. Tình trạng này, trong nhiều khía cạnh, lại là ngược lại. Cạnh tranh mạnh hơn đã tấn công vào sự tự chủ trong biên tập. Càng có nhiều gã khổng lồ trong ngành truyền thông thì các giá trị của tin tức lại càng trở nên khó khăn hơn. Khi một vài công ty lớn thống trị thị trường (ba mạng lưới truyền hình là ví dụ rõ ràng), họ có thể chấp nhận sự độc lập cao hơn từ các phòng ban tin tức, chính xác là vì tổng lợi nhuận là con số chắc chắn và có thể dự đoán được. Ngược lại, số lượng các “đại gia truyền thông” ngày nay là rất nhiều và họ cũng ít được an toàn hơn trước. Sự cạnh tranh khốc liệt để giành lấy khách hàng đã nhấn mạnh tầm quan trọng của sự thành công trong thương mại và xói mòn các giá trị thuần túy của việc biên tập. Đến một mức độ nhất định thì tin tức đã được dân chủ hóa. Nó ngày càng được tung ra theo mệnh lệnh của thị trường. Điều này tạo thuận lợi cho một phong cách biên tập, theo đó nhấn mạnh vào các câu chuyện đạo đức của các đấng anh hùng và những kẻ vô lại, rồi rút ra những xung đột một cách sâu sắc - về bất cứ điều gì để tạo ra một “tin đồn”. Những gì mà tôi muốn đề xuất là: cách thức mà chúng ta, ở đây được hiểu như một xã hội, tổ chức và trình bày thông tin - một cách có hệ thống và hầu như dự đoán được từ trước - ngày càng dẫn đến sự sai lạc. Truyền thông không chắc chắn và những người thực hành chính trị “giải quyết vấn đề” (các chính trị gia, các nhóm biện hộ, “những cái đầu hiểu biết”) đã “kết hôn” với sự dễ dãi. Họ cùng nhau khai thác để đạt được mục tiêu hẹp: có được sự nổi tiếng hoặc khét tiếng, thúc đẩy một chương trình nghị sự của giới chính trị hay trí thức, nắm bắt được khán giả và thị phần. Kết quả là chúng ta bị oanh tạc bởi các luồng vấn đề miên man không dứt (một số vấn đề xã hội, một số căng thẳng trong vấn đề con người - ma túy, bệnh tật, lạm dụng trong hôn nhân gia đình, stress) và các giải pháp đi kèm. Nhiều vấn đề trong số đó là có thật, một số các giải pháp có thể thực sự có ích. Nhưng có sự cường điệu thổi phồng trong cả hai nội dung: vấn đề và giải pháp, bởi vì đó là những thứ thu hút sự chú ý. Tôi gọi quá trình này là “cái sai”. Đó là sự xuyên tạc thực tế nói chung, tuy nhiên không phải là kết quả của sự dối trá cố tình. Đúng hơn thì đó là sản phẩm bình thường của chính trị và truyền thông dân chủ của chúng ta. Điều đó xảy ra, khi chúng ta tìm hiểu và tranh luận các vấn đề có ảnh hưởng đến cả tập thể. Nếu không làm như thế, chúng ta sẽ không phải là chính chúng ta nữa. Nhìn chung, tiến trình này là lành mạnh. Nhưng quá trình này sẽ trở thành không lành mạnh khi nó đơn giản hoá quan điểm của chúng ta về sự thật và lãng mạn hóa sức mạnh của chúng ta khi thay đổi sự thật đó. Đối với tôi, sự đơn giản hóa và cường điệu hóa nhằm phục vụ lợi ích bản thân là một cánh đồng phì nhiêu cho các báo cáo và bình luận. Chúng cầu mong để được trở nên tinh vi và xác thực. Tôi đã cố gắng để cung cấp được một bối cảnh: để cho mọi người có bức tranh vô tư và đầy đủ về thế giới của chúng. Kết luận của tôi là: quan niệm phổ biến (thường) là sai, vì nó là phương tiện cho một số chương trình chính trị hay tham vọng cá nhân. Trong thực tế, tôi không tin rằng có bất kỳ một nhóm chính trị, kinh tế, xã hội, hoặc một nhóm ý thức hệ nào lại có “độc quyền” về cái sai. Bạn có thể nhìn thấy một cơ chế tương tự cũng hoạt động như vậy trên khắp các quang phổ chính trị và trên tập hợp các mối quan tâm và yêu cầu của xã hội. Những người bảo thủ có xu hướng ca ngợi “thị trường”, ngay cả khi thị trường rõ ràng phạm sai lầm (xem “Sự sáp nhập kỳ lạ”). Những người tự do cấp tiến có xu hướng nói quá lời trước những ảnh hưởng dần dần về sau của sự bất bình đẳng trong thu nhập (xem “Không phải là các hộ gia đình điển hình”). Các chuyên gia môi trường bàn về việc hủy diệt hành tinh trong bối cảnh của “ngày tận thế” (xem “Bạn đừng lo lắng”). Một lần nữa, những vấn đề thường là có thực, nhưng chúng cần phải được trình bày trong những điều kiện khắc nghiệt nhất để khơi dậy sự quan tâm hay củng cố cho giải pháp đề xuất. Mặc dù các kỹ thuật đã phổ biến rộng rãi, vẫn có xu hướng nghiêng về các loại “sai lầm” nổi trội nhất: đó là những cái sai “cấp tiến” (liberal untruths). Lý do chính yếu là tầng lớp “viết nguệch ngoạc và nói huyên thuyên” - các nhà báo, biên tập viên, các nhà nghiên cứu học thuật, các nhà bình luận - có xu hướng tự do cấp tiến nhiều hơn là bảo thủ. Rất nhiều các cuộc điều tra đã xác nhận điều này trên báo chí. Năm 1992, gần 90% các nhà báo của Washington ủng hộ Bill Clinton, theo kết quả một trong những cuộc thăm dò ý kiến. Nhưng trên phạm vi quốc gia, lượng phiếu phổ thông dành cho Clinton chỉ là 43%. Một cuộc khảo sát trong giới học thuật (dành cho các giáo sư tại các trường cao đẳng và đại học hệ 2 năm và 4 năm) được xuất bản trong cuốn Giáo dục cấp cao Ký sự (Chronicle of Higher Education) cho thấy: 5,2% cho rằng mình “cực tả”; 39,6% “tự do cấp tiến”; 37,2% “trung lập” (không tả mà cũng không hữu); 17,6% “bảo thủ”; và 0,4% “cực hữu”. Kết quả không phải là một liên minh có ý thức giữa báo chí và nhóm ủng hộ tự do cấp tiến và nhóm chính trị gia Dân chủ. Hầu hết các nhà báo và nhà biên tập (ít nhất là của báo chí, tạp chí tin tức, và kênh truyền hình chính thống, mặc dù rõ ràng không thuộc các tạp chí hoặc chương trình truyền hình chuyên bày tỏ quan điểm) đều tán thành ý kiến cho rằng họ nên khách quan và trung lập. Họ hào hứng đăng tải các scandal liên quan đến những người tự do cấp tiến cũng như bảo thủ. Họ biết rằng hầu hết các chính trị gia và những người theo một phe phái nào đó đều cố gắng “thêu dệt” nên các câu chuyện. Một số nhà báo tự xem mình như là nền tảng thụ động để người khác tuyên truyền. Tất cả chúng ta đều biết rằng mọi người có xu hướng để cho các “nguồn” khác sử dụng. Phần lớn những gì báo chí thực hiện lại không đả động gì nhiều đến các nhà chính trị hay các phe phái. Chúng ta chỉ đơn giản là kể lại một “câu chuyện hay”, hoặc đóng vai trò truyền thống là “giám sát” chính phủ, các cơ quan và các tập đoàn. Xu hướng này còn tinh tế hơn. Những câu chuyện do các chính trị gia tự do cấp tiến và các “chuyên gia” các loại (nhà kinh tế, nhà khoa học, bác sĩ, nhà khoa học xã hội, nhà giáo) kể lại đã tìm thấy những người nghe đồng cảm nhiều hơn là những câu chuyện kể của những người bảo thủ. Các anh hùng và tên vô lại của phe tự do cấp tiến, các giá trị và niềm tin của họ tương ứng sát sao hơn với các triết lý và thành kiến của nhà báo và nhà biên tập. Những gì đến từ các nguồn tự do cấp tiến có vẻ như đáng tin cậy hơn và xác đáng hơn. Nó phù hợp với các ý niệm về xung đột xã hội và theo đuổi một xã hội tốt. (Họ cho rằng) Đây không phải là thành kiến. Đó là thực tế. Thông thường họ không thể tưởng tượng các sự vật theo cách nào khác. Ngược lại, những người bảo thủ - hoặc người không thuộc nhóm tự do cấp tiến -thường được xem là người biện hộ cho các doanh nghiệp và người giàu có. Hoặc họ bị bêu riếu là những người nhẫn tâm và kỳ quặc. Các giá trị của riêng tôi là khá chính đáng (tôi tin là vậy), mặc dù những người khác có dán lên cái nhãn là quá bảo thủ hoặc - ít khi hơn - là quá tự do cấp tiến. Tôi tin rằng Chính quyền trung ương nhìn chung là đem lại các lợi ích cho quốc gia, nhưng tôi cũng nghĩ rằng việc mở rộng chính phủ sẽ đem lại nhiều vấn đề khó khăn mang tính thực tiễn và tạo điều kiện cho sự lạm quyền. Người ta có thể trở nên quá phụ thuộc vào phúc lợi của chính phủ. Thuế có thể tăng quá cao và ảnh hưởng đến sức khỏe kinh tế hoặc tự do cá nhân. Mặc dù khó có thể xác định được các giới hạn nhưng chúng thực sự tồn tại. Tương tự như vậy, tôi đặt nhiều niềm tin vào các “thị trường” - sự tự do để xác định những gì mà chúng ta cần sản xuất, giá cả của chúng, cách thức chúng ta tiết kiệm và đầu tư, và nơi chúng ta làm việc - nhưng tôi không tin rằng các thị trường là cái hiểu-biết-hết-mọi-thứ hoặc hoàn hảo. Các thị trường cũng có sai lầm và cần sự giám sát và điều tiết của chính phủ. Thường thì có ranh giới mỏng manh giữa mức độ quá ít và quá nhiều của công việc này. Sau cùng, tôi tin vào những gì đôi khi bị chế nhạo là “những giá trị truyền thống gia đình”: tình yêu cha mẹ và kỷ luật của cha mẹ, nếu có thể. Với sự may mắn, các bậc cha mẹ có thể giúp con cái của họ lớn khôn và thành những người lớn có trách nhiệm và tự lập. Cha mẹ đem lại tình yêu, các bài học nhỏ về cuộc sống hàng ngày, và những kiến thức cần có. Từ thử thách này mà một cá nhân có thể có năng lực và sự tự tin. Mặc dù việc nuôi dạy con cái là một việc phức tạp - và không có sự đảm bảo cho thành công - các tổ chức của chính phủ và xã hội không thể dễ dàng thay thế cho các bậc cha mẹ đầy tình thương yêu và đủ khả năng (xem “Thứ mà tiền không thể mua được”). Tôi đã có vợ và ba đứa con, hiện chúng ở độ tuổi từ mười đến mười lăm. Đó là những phần quan trọng nhất của đời tôi. Các nhà báo, những người phụ trách chuyên mục là “con lai” (tôi tin là như vậy). Quan điểm của tôi cho rằng họ không phải là nhà báo thuần túy, cũng không phải là người biện hộ thuần túy. Họ là sự kết hợp của cả hai. Họ pha trộn quan điểm và tình cảm trong bài báo của mình. Mối nguy hiểm lớn nhất - hậu quả của việc quá ấn tượng với tầm quan trọng của riêng mình - là trở thành kẻ “nhai lại chính mình” (self-parody): một người có quan điểm và phong cách có thể được dự đoán trước, và có thể bị bắt chước theo một cách dễ dàng. Sự nguy hiểm của riêng tôi là, từ việc liên tục thách thức quan niệm phổ biến, tôi trở thành người hoài nghi chính mình (reflexively skeptical) trước bất kỳ quan điểm nào của đám đông hoặc thường xuyên phê phán bất cứ điều gì là mới hoặc khác biệt. Tôi nhận thức được sự nguy hiểm, nhưng không phải lúc nào tôi cũng có thể vượt lên trên nó. Đa phần trong nghề báo chí, những gì chúng tôi viết ra thường là vào thời hạn chót. Các đánh giá phải được thực hiện một cách nhanh chóng. Chúng thường sai. Tôi nghi ngờ việc liệu có hay không những người phụ trách chuyên mục lớn mà lại không lúng túng vì một số bài viết của mình trong quá khứ. Nếu có những người này thì tôi không nằm trong số đó. Lẽ ra tôi có thể đưa vào cuốn sách này những sai lầm ngớ ngẩn của riêng tôi. Một trong những bài viết yêu thích nhất của tôi đã đặt ra khái niệm về “công nghệ trì hoãn” - đối lập với công nghệ tiên tiến, chúng là các công nghệ mới tạo ra những phương pháp cồng kềnh và đắt tiền để thực hiện các công việc đã được làm một cách đơn giản và không mấy tốn kém trước đây. Một ví dụ là sách điện tử, đối với tôi thì đây đã từng là một ý tưởng tồi, trong khi dùng sách giấy là quá thuận lợi. Sau khi suy xét, tôi đã quyết định không đưa vào đây bài viết này. Robert J. Samuelson Ngày 26, tháng 9 năm 2000 Washington, D.C.I Mời các bạn đón đọc Nói Vậy Mà Không Phải Vậy của tác giả Robert J. Samuelson.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Cửa Hàng Thịnh Vượng
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Cửa Hàng Thịnh Vượng của tác giả Takashi Uno & Kam Tròn (dịch). Đời người chỉ có một lần. Vậy nên, chắc hẳn trong thâm tâm chúng ta, ai cũng từng nghĩ đến việc trở thành một ông chủ tự lực tự cường. Ước mơ này không hề viển vông. Đúng là không phải ai cũng đủ năng lực để sở hữu một công ty lớn, nhưng nếu là chủ của một cửa hàng nhỏ thì bạn hoàn toàn có khả năng. Hơn cả thế bạn còn có thể kinh doanh cả đời trong vui vẻ nữa. Để có thể kinh doanh, buôn bán lâu dài trong vui vẻ, chúng ta phải tìm cách giúp cho cửa hàng của mình thật phát đạt. Điều này thực chất không hề quá khó khăn. Vì chính bản thân tôi đây cũng chỉ làm những việc đơn giản mà bất kì ai cũng có thể làm, và tôi đã kinh doanh được gần 50 năm rồi. Trong kinh doanh, có những điều tuy nhỏ bé nhưng lại có thể trở thành cơ hội để thu hút khách đến cửa hàng. Cửa hàng đầu tiên của tôi là một quán cà phê. Thời đấy, đá viên khá là đắt đỏ, vậy nên khi phục vụ nước lọc cho khách, tôi sẽ hỏi: - Quý khách có dùng đá không ạ? Nếu khách hàng trả lời “Có”, tôi mới thêm đá vào. Vì đã cất công dùng đá như vậy, tôi muốn khách hàng ý thức được rằng: “Cửa hàng này phục vụ nước lọc có bỏ đá cho khách hàng.” Chỉ một việc nhỏ như thế thôi nhưng khi được tôi nói ra thành lời, khách hàng sẽ cảm thấy: “Nước lọc ở đây lúc nào cũng có đá, thích thật đấy!” Nhờ vậy, có thể khách hàng sẽ quay lại quán của tôi không chừng. Khi bắt đầu kinh doanh một quán nhậu có diện tích vỏn vẹn 16,5 m2, vì chỉ có một mình đứng quán nên tôi đã suy nghĩ xem làm thế nào để có thể kinh doanh một cách đơn giản nhất mà vẫn có hiệu quả cao. Tôi quyết định sẽ chuẩn bị sẵn vài món ăn trước giờ mở cửa. “Cánh tay phải” của tôi trong việc nấu nướng chính là chiếc lò vi sóng. Khi khách gọi món, tôi chỉ cần hâm nóng thức ăn trong đĩa rồi mang ra là được. Thời đấy, việc công khai sử dụng lò vi sóng trong bếp là chuyện đáng xấu hổ, nhưng vì quán của tôi bé nên tôi chỉ có thể đặt nó ở nơi ai cũng có thể nhìn thấy. Nếu đã vậy, để biến tình huống này bớt phần ngại ngùng, tôi đặt tên cho lò vi sóng là “anh đầu bếp”. Khi khách gọi món, tôi sẽ hỏi: - Quý khách muốn “anh đầu bếp” làm không ạ? Hay để anh bếp trưởng làm? Nghe thế, khách hàng liền ngạc nhiên hỏi tôi: - Ô? Thế bếp trưởng đi. Tôi lập tức đáp lại: - Bếp trưởng (tức là tôi) đang bận nên để “anh đầu bếp” làm có được không ạ? Cứ như vậy, tôi đã thành công gây ấn tượng với khách hàng. Nếu khách hàng nghĩ: “Cửa hàng này thú vị nhỉ!” thì rất có thể họ sẽ quay lại quán lần nữa. Tôi mở chi nhánh đầu tiên của quán nhậu ở Shibuya, Tokyo. Địa điểm tôi chọn là một nơi chẳng có mấy ai hứng thú qua lại, đến mức chủ nhà đã phải hỏi tôi rằng: - Ông thực sự muốn thuê chỗ này sao? Không lâu sau đó, toà nhà nơi quán nhậu của tôi kinh doanh xảy ra một vụ nổ súng. Tôi nhanh trí nảy ra một ý tưởng: - Món ăn được phục vụ ngày hôm nay sẽ là món rau củ xào thập cẩm1! 1 Tác giả chơi chữ giữa hai từ “rau củ xào thập cẩm” (happousai) và “nổ súng” (happou). Và tôi đã bán hết sạch món đó. Rau củ xào thập cẩm thì chỉ cần dùng những loại rau có sẵn ở cửa hàng là có thể chế biến ngay được. Hơn thế nữa, tôi còn tranh thủ trò chuyện với khách: - Hôm nay vất vả thật đấy! Nhờ thế mà khoảng cách đôi bên được rút ngắn lại. Để duy trì mức chi phí thấp, tôi thường mua nguyên liệu là thịt gà. Khi khách gọi món cánh gà tẩm bột chiên giòn, tôi sẽ hỏi lại: - Quý khách muốn ăn cánh trái hay cánh phải ạ? Câu pha trò đó đã khiến khách hàng bật cười vui vẻ. Không chỉ chú trọng cung cách phục vụ khách hàng, tôi còn chú ý xây dựng thực đơn sao cho phù hợp với phong cách của quán nhất. Ví dụ, khách hàng rất yêu thích hai món mì udon kimchi và trứng cá của quán tôi. Mặc dù những món này đơn giản đến mức ngay cả người không mấy khi nấu nướng cũng có thể làm được, nhưng khi ngà ngà say thì chúng thực sự rất ngon! Tuy thực đơn toàn là những món không đòi hỏi kĩ thuật hay nỗ lực gì, nhưng nhờ cách vận hành như vậy, khách hàng vẫn thường xuyên quay lại quán của tôi. Chỉ cần phục vụ những món ăn mà khách hàng có thể vui vẻ thưởng thức trong khoảng thời gian ở quán, chúng ta sẽ có thể tạo dựng được những mối quan hệ sâu sắc và biến họ trở thành người hâm mộ của quán. Rồi sau đó những người hâm mộ đấy sẽ là những người ủng hộ, giúp đỡ cho quán của chúng ta. *** Là một người biết điểm dừng, tôi luôn nghĩ đến việc làm thế nào để đạt được mục tiêu mà vẫn nằm trong giới hạn mình đặt ra. Tính cách của tôi thực sự không phù hợp với hai từ “nỗ lực” quá sức. “Nỗ lực” quá sức chính là việc cố gắng vượt lên trên năng lực của bản thân. Nhưng nếu cứ cố nhón chân rồi vươn tay đến một nơi rất, rất cao, chẳng phải chúng ta sẽ chóng cảm thấy mệt mỏi và không thể đứng lâu hay sao? Ngược lại, đứng vững chãi trên mặt đất và vươn tay tới những thứ trong độ cao có thể với tới thì sẽ chẳng quá mất sức mà vẫn có thể lấy được đồ. Mặc dù vậy, nếu cứ liên tục giơ tay lên thì sẽ rất mỏi. Tôi cho rằng chính vì không bao giờ cố quá sức nên tôi không biết mệt mỏi là gì và có thể duy trì quán nhậu suốt mấy chục năm như vậy. Mặc dù đã kinh doanh quán nhậu được một thời gian nhưng nếu không có chứng chỉ đầu bếp, tôi sẽ khó có thể tiếp tục duy trì quán. Vì chẳng có tài cán gì nên tôi đã phải vắt óc suy nghĩ làm sao để chỉ với những việc đơn giản mà ngay cả tôi cũng làm được, lại có thể biến khách hàng thành người hâm mộ của mình và giúp cho cửa hàng phát đạt. Nghĩ thử thì cụm từ “không cố gắng quá sức” có khi là một trong những khẩu hiệu chính của cuộc đời tôi. Trước đây, tôi cũng từng thử nỗ lực. Trong những năm dậy thì, để tăng chiều cao, tôi thậm chí đã sử dụng những dụng cụ tập thể dục kì quặc, rồi còn uống canxi hàng ngày nữa. Nhưng rốt cục chẳng mang lại kết quả gì nên tôi đã từ bỏ thứ gọi là nỗ lực viển vông ấy. Liệu tôi có thể làm được công việc nào không tạo thêm gánh nặng cho bản thân, mà còn vô cùng thú vị, vui vẻ không? Đó chính là điều cơ bản của cơ bản trong kinh doanh. Tôi nghĩ nếu có cơ hội làm việc một cách hạnh phúc như vậy, tôi mới có thể vận hành cửa hàng lâu dài và thoải mái tận hưởng đời người. Kí tên: Giám đốc tập đoàn Raku Coporation Uno Takashi *** Tóm tắt Cuốn sách Cửa Hàng Thịnh Vượng - 3 Món Nhỏ, Lời Lãi To của tác giả Takashi Uno đề cập đến những kinh nghiệm kinh doanh của ông trong suốt gần 50 năm. Ông là chủ tịch của tập đoàn Raku Corporation, một tập đoàn chuyên kinh doanh ẩm thực tại Nhật Bản. Theo ông Uno, để kinh doanh thành công, không nhất thiết phải có tài năng hay nỗ lực quá sức. Điều quan trọng là phải biết điểm dừng, suy nghĩ thấu đáo, và tận dụng những gì mình có. Trong cuốn sách, ông Uno chia sẻ những bí quyết kinh doanh của mình, bao gồm: Chú trọng đến cung cách phục vụ khách hàng. Ông Uno luôn quan niệm rằng khách hàng là thượng đế, và việc phục vụ khách hàng chu đáo là điều quan trọng nhất. Ông thường xuyên giao lưu, trò chuyện với khách hàng, và luôn cố gắng tạo ra những trải nghiệm đáng nhớ cho họ. Xây dựng thực đơn phù hợp với phong cách của quán. Ông Uno cho rằng thực đơn không cần phải quá cầu kỳ, chỉ cần phù hợp với sở thích của khách hàng và phong cách của quán là được. Không cố gắng quá sức. Ông Uno luôn ý thức được giới hạn của bản thân, và luôn cố gắng làm việc trong khả năng của mình. Ông cho rằng nỗ lực quá sức sẽ chỉ khiến chúng ta mệt mỏi và thất bại. Đánh giá Cuốn sách Cửa Hàng Thịnh Vượng - 3 Món Nhỏ, Lời Lãi To là một cuốn sách kinh doanh thực tế, dễ đọc, dễ hiểu. Những kinh nghiệm của ông Uno được chia sẻ một cách chân thành và gần gũi, giúp người đọc có thể dễ dàng áp dụng vào thực tế. Cuốn sách phù hợp với những ai đang có ý định kinh doanh, đặc biệt là những người kinh doanh nhỏ lẻ. Một số điểm nổi bật của cuốn sách Cuốn sách được viết bởi một người có kinh nghiệm kinh doanh lâu năm và thành công. Những kinh nghiệm được chia sẻ trong cuốn sách đều rất thực tế và dễ áp dụng. Cuốn sách được viết một cách chân thành và gần gũi, giúp người đọc dễ dàng tiếp thu. Kết luận Cuốn sách Cửa Hàng Thịnh Vượng - 3 Món Nhỏ, Lời Lãi To là một cuốn sách kinh doanh đáng đọc cho những ai đang có ý định kinh doanh. Mời các bạn mượn đọc sách Cửa Hàng Thịnh Vượng của tác giả Takashi Uno & Kam Tròn (dịch).
Bí Quyết Học Giỏi Ở Trường
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Bản Đồ Tư Duy Cho Trẻ Thông Minh: Bí Quyết Học Giỏi Ở Trường của tác giả Tony Buzan. VÀI LỜI NHẮN NHỦ CỦA TÁC GIẢ Bài tập về nhà ư? Thôi rồi! Khi phải đối mặt với chúng, em có nhận thấy mình đang tìm cớ hợp lý để “trốn tránh”, như gọi điện thoại cho bạn, xem ti-vi, chơi điện tử hay đọc báo cho đến giờ đi ngủ không? Và dĩ nhiên, ngày mai các em sẽ… thế… thế đấy! Em có hay lo lắng về các bài kiểm tra và kỳ thi? Em có bao giờ mơ mộng có được một cây đũa thần để khiến bài tập về nhà dễ dàng hơn, làm tốt bài thi và khiến thầy cô bất ngờ, bạn bè ngỡ ngàng, còn các giám khảo phải sửng sốt? Em có bao giờ ước ao có được một công cụ bí mật sẽ giúp em tập trung hơn và có thể nhanh chóng giải quyết các rắc rối ở trường, còn thời gian thư giãn, nghỉ ngơi thì lại dài hơn? Giá như… Tôi đã đi khắp thế giới, tìm hiểu và rồi phát hiện ra nhiều điều thú vị về bộ não, về cách vận hành thực sự của cơ quan này, và những gì bộ não cần để có thể hoạt động hiệu quả. Cuối cùng, tôi cũng khám phá ra công cụ bí mật: Bản đồ Tư duy. Bản đồ Tư duy đã hỗ trợ tôi viết lách, giải quyết vấn đề và giúp cuộc sống của tôi dễ chịu hơn, đạt nhiều thành công hơn. Và công cụ này cũng có thể hữu ích cho em đấy. Bản đồ Tư duy đã giúp hàng triệu học sinh khắp thế giới đạt kết quả học tốt hơn, trong khi công sức bỏ ra ít hơn. Trong cuốn sách này, tôi sẽ hướng dẫn em vận dụng nhuần nhuyễn công cụ bí mật này chỉ với vài cây bút màu và bộ não. Nào, chúng ta cùng bắt đầu… TONY BUZAN *** Tóm tắt Cuốn sách Bản Đồ Tư Duy Cho Trẻ Thông Minh: Bí Quyết Học Giỏi Ở Trường của tác giả Tony Buzan là một cuốn sách hướng dẫn sử dụng bản đồ tư duy (mind map) cho trẻ em từ 7-14 tuổi. Cuốn sách được viết bằng ngôn ngữ đơn giản, dễ hiểu và sử dụng những hình ảnh minh họa sinh động để thu hút sự chú ý của trẻ em. Đánh giá Cuốn sách Bản Đồ Tư Duy Cho Trẻ Thông Minh: Bí Quyết Học Giỏi Ở Trường là một cuốn sách bổ ích và hữu ích cho trẻ em đang tìm kiếm cách để học tập hiệu quả hơn. Cuốn sách cung cấp cho trẻ em những kiến thức cơ bản về bản đồ tư duy và hướng dẫn trẻ em cách sử dụng bản đồ tư duy để học tập các môn học khác nhau ở trường. Một số điểm nổi bật của cuốn sách: Sử dụng ngôn ngữ đơn giản, dễ hiểu và những hình ảnh minh họa sinh động để thu hút sự chú ý của trẻ em. Cung cấp cho trẻ em những kiến thức cơ bản về bản đồ tư duy. Hướng dẫn trẻ em cách sử dụng bản đồ tư duy để học tập các môn học khác nhau ở trường. Đánh giá tóm tắt Cuốn sách Bản Đồ Tư Duy Cho Trẻ Thông Minh: Bí Quyết Học Giỏi Ở Trường là một cuốn sách tuyệt vời cho trẻ em đang tìm kiếm cách để học tập hiệu quả hơn. Cuốn sách được viết bằng ngôn ngữ đơn giản, dễ hiểu và cung cấp cho trẻ em những kiến thức và kỹ năng cần thiết để sử dụng bản đồ tư duy trong học tập. Vài lời nhắn nhủ của tác giả Tony Buzan Vài lời nhắn nhủ của tác giả Tony Buzan trong phần mở đầu của cuốn sách đã nêu bật những lợi ích mà bản đồ tư duy mang lại cho trẻ em trong học tập. Bản đồ tư duy có thể giúp trẻ em: Học tập hiệu quả hơn Nắm bắt kiến thức nhanh chóng và dễ dàng hơn Ghi nhớ lâu hơn Giải quyết vấn đề sáng tạo hơn Tăng cường sự sáng tạo và tư duy phản biện Với những lợi ích như vậy, bản đồ tư duy là một công cụ học tập vô cùng hữu ích cho trẻ em. Cha mẹ và giáo viên có thể khuyến khích trẻ em sử dụng bản đồ tư duy để học tập hiệu quả hơn. Mời các bạn mượn đọc sách Bản Đồ Tư Duy Cho Trẻ Thông Minh: Bí Quyết Học Giỏi Ở Trường của tác giả Tony Buzan.
7 Thói Quen Để Trẻ Hạnh Phúc (Song Ngữ)
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách 7 Thói Quen Để Trẻ Hạnh Phúc (Song ngữ) của tác giả Sean Covey & Uyển Linh (dịch). Ở thị trấn Bảy Cây Sồi, bạn sẽ không có một giây phút nào để ù lì. Nếu không chơi đá banh với thỏ Jumper thì sẽ trồng vườn với chồn Lily…những người bạn này lúc nào cũng vui vẻ và không ngừng học hỏi những điều mới mẻ. 7 câu chuyện được minh họa sống động sẽ cho thấy việc luôn ghi nhớ 7 Thói quen quan trọng như thế nào. Thông qua những nhân vật đáng yêu và những câu chuyện vui nhộn, quyển sách này giúp trẻ tiếp cận với những giá trị và nguyên tắc bất hủ được đề cập trong cuốn 7 Thói Quen Để Thành Đạt – từ việc làm sao để chịu trách nhiệm với cuộc sống của chính mình đến việc khám phá vì sao trạng thái cân bằng luôn là tốt nhất. Nào, hãy cùng đến với nhóm bạn ở thị trấn Bảy Cây Sồi và tìm hiểu vì sao mỗi đứa trẻ đều có thể là một người hạnh phúc! *** LỜI NGỎ GỬI ĐẾN PHỤ HUYNH VÀ GIÁO VIÊN Người lớn chúng ta bất đồng nhau đủ thứ, nhưng ta lại có một điểm chung vô cùng lớn, đó là tình yêu và sự quan tâm, lo lắng cho con trẻ. Ở thời điểm tôi viết quyển sách này, tôi đã có bảy đứa con, trong đó có ba đứa dưới 10 tuổi: Nathan 8 tuổi, Weston 5 tuổi và Allie 3 tuổi. Chúng cũng ngoan lắm (thường là vậy). Nhưng phải nói thật là tôi khá ngán mấy trò chọc phá không hồi kết của Nathan và những trận giận lẫy không báo trước của Allie. Tôi cũng phát hoảng khi Weston khám phá ra cách dùng đồ bấm kim và thực tập ngay trên mấy bức tường nhà tôi. Nhưng sau tất cả, tôi vẫn yêu thương chúng vô cùng và tôi luôn bị bất ngờ khi thấy chúng thực sự thông minh đến thế nào. Vài năm về trước, tôi từng viết một quyển sách với nhan đề 7 Thói Quen Của Bạn Trẻ Thành Đạt dựa theo quyển bán chạy nhất 7 Thói Quen Để Thành Đạt do bố tôi chấp bút. Khi bắt tay vào viết sách cho tuổi teen, tôi đã sợ mình sẽ phải đơn giản hóa nhiều khái niệm để độ tuổi này có thể hiểu những thói quen được đề cập đến. Thế nhưng, tôi đã rất bất ngờ vì điều đó chẳng hề cần thiết: các em ấy đã hiểu hết. Mà bất ngờ hơn nữa là rất nhiều trường tiểu học trên thế giới đã đưa quyển 7 Thói Quen Của Bạn Trẻ Thành Đạt vào chương trình giảng dạy – và họ đều rất thành công. Ai mà ngờ rằng các em nhỏ lại có thể nhanh chóng hiểu thấu và áp dụng những quy luật tự nhiên hàm chứa trong 7 Thói Quen Của Bạn Trẻ Thành Đạt đến thế! Lần nữa, tôi cũng lại đánh giá thấp các em mất rồi. (Mà nếu bạn muốn đưa 7 Thói Quen Của Bạn Trẻ Thành Đạt vào chương trình tiểu học của trường mình thì hãy ghé www.theleaderinme.org nhé.) Vì thế, khi Simon & Schuster hỏi tôi có muốn viết một quyển sách thiếu nhi dựa trên nền tảng 7 Thói Quen Của Bạn Trẻ Thành Đạt không là tôi hào hứng ngay. Cứ như thể đang học mà được ra chơi vậy. Giờ đây, tôi đã tin rằng quyển sách này sẽ hữu ích cho các em nhỏ theo ba hướng: Đầu tiên, sách sẽ dạy các em về ưu điểm của việc sống có nguyên tắc như: có trách nhiệm, lên kế hoạch trước, tôn trọng người khác, làm việc nhóm và cân bằng mọi việc. Trong cuộc sống, các nguyên tắc cũng như lực hút Trái Đất vậy, luôn luôn tồn tại, phủ sóng khắp mọi nơi và là điều rất đỗi hiển nhiên. Và hơn bất kỳ lúc nào khác, thời buổi này đang rất cần đến chúng. Thứ hai, sách sẽ trang bị cho các em một loại “ngôn ngữ” chung, có thể dùng cả với bố mẹ, thầy cô. Sẽ rất hữu ích khi các em biết cách nói “Con cần phải ưu tiên những việc quan trọng trước”, hoặc “Bố mẹ/Thầy cô hãy cùng con tìm ra phương án để hai ta cùng có lợi nhé”, bởi vì tất cả mọi người đều hiểu những lời này. Thứ ba, bất kỳ em nào cũng có thể tìm thấy từ quyển sách một nhân vật khiến mình đồng cảm, dù đó là Gấu Goob hay Sóc Sophie. Chính nhờ điều này, các em sẽ dễ ghi nhớ những câu chuyện, cũng như dễ áp dụng 7 Thói Quen vào thực tế hơn. Khi đọc, các em sẽ nhận thấy mỗi câu chuyện trong sách sẽ khắc họa một thói quen điển hình. Cuối mỗi truyện sẽ có những ghi chú dành cho phụ huynh và giáo viên (gọi là Góc Phụ Huynh), và trong đó sẽ gợi ý vài cách giúp người lớn khơi dậy thói quen vừa nhắc trong truyện nơi các bé. Trong phần này cũng sẽ có một danh sách các câu nên hỏi các bé (gọi là Cùng Con Thảo Luận), cũng như một danh sách các bước nhỏ (mục Từng Bước Dạy Con) để các bé dần làm quen với thói quen ấy. Ngoài ra, ở cuối sách còn có một sơ đồ khắc họa 7 Thói Quen và cách chúng tác động và hỗ trợ lẫn nhau. À! Đừng quên ghé trang webwww.seancovey.com bổ trợ cho quyển sách này nhé. Trên trang web này có rất nhiều hoạt động thú vị dành cho các bé như: đố vui, trò chơi hay tranh tô màu hình các nhân vật trong truyện để các bé có thể vừa đọc, hoặc nghe đọc, vừa tô màu. Tôi xin được sát cánh cùng bạn trong hành trình chung với sứ mệnh đầy cao cả của chúng ta: giúp tất cả các bé trở thành những cô cậu bé vui vẻ, hạnh phúc. Gửi đến bạn mọi điều tốt lành nhất! Sean Covey *** Tóm tắt Sách 7 Thói Quen Để Trẻ Hạnh Phúc (Song ngữ) của tác giả Sean Covey và Uyển Linh (dịch) là một cuốn sách dành cho trẻ em từ 6 đến 12 tuổi. Cuốn sách kể về cuộc sống của những người bạn ở thị trấn Bảy Cây Sồi, nơi mà mỗi người đều có những thói quen riêng để giúp họ hạnh phúc và thành công. Cuốn sách gồm 7 câu chuyện, mỗi câu chuyện sẽ giới thiệu một thói quen quan trọng: Thói quen 1: Hãy chủ động - Biết chịu trách nhiệm cho cuộc sống của chính mình. Thói quen 2: Hãy đặt mục tiêu - Xác định những gì bạn muốn đạt được và lập kế hoạch để đạt được chúng. Thói quen 3: Hãy nghĩ win-win - Tìm kiếm giải pháp có lợi cho tất cả mọi người. Thói quen 4: Hãy lắng nghe chủ động - Tập trung vào những gì người khác đang nói và thấu hiểu quan điểm của họ. Thói quen 5: Hãy suy nghĩ trước khi hành động - Cân nhắc hậu quả của hành động của bạn trước khi bạn làm điều gì đó. Thói quen 6: Hãy hợp tác - Làm việc cùng nhau để đạt được mục tiêu chung. Thói quen 7: Hãy cân bằng - Tìm sự cân bằng giữa các lĩnh vực khác nhau trong cuộc sống của bạn. Đánh giá Sách 7 Thói Quen Để Trẻ Hạnh Phúc là một cuốn sách tuyệt vời cho trẻ em học về những thói quen quan trọng để thành công và hạnh phúc. Cuốn sách được viết bằng ngôn ngữ đơn giản, dễ hiểu và sử dụng những nhân vật đáng yêu và những câu chuyện vui nhộn để thu hút sự chú ý của trẻ em. Cuốn sách cũng cung cấp cho trẻ em những công cụ và kỹ năng cần thiết để áp dụng những thói quen này vào cuộc sống hàng ngày. Ví dụ, trong câu chuyện về thói quen 1, "Hãy chủ động", thỏ Jumper học cách chịu trách nhiệm cho việc học của mình bằng cách lập kế hoạch và thực hiện các mục tiêu học tập. Nhìn chung, sách 7 Thói Quen Để Trẻ Hạnh Phúc là một cuốn sách bổ ích và hữu ích cho trẻ em đang tìm kiếm cách để trở thành người hạnh phúc và thành công. Một số điểm nổi bật của cuốn sách: Sử dụng ngôn ngữ đơn giản, dễ hiểu và những nhân vật đáng yêu để thu hút sự chú ý của trẻ em. Cung cấp cho trẻ em những công cụ và kỹ năng cần thiết để áp dụng những thói quen vào cuộc sống hàng ngày. Giới thiệu những giá trị và nguyên tắc bất hủ được đề cập trong cuốn 7 Thói Quen Để Thành Đạt. Đánh giá tóm tắt Sách 7 Thói Quen Để Trẻ Hạnh Phúc là một cuốn sách tuyệt vời cho trẻ em học về những thói quen quan trọng để thành công và hạnh phúc. Cuốn sách được viết bằng ngôn ngữ đơn giản, dễ hiểu và cung cấp cho trẻ em những công cụ và kỹ năng cần thiết để áp dụng những thói quen này vào cuộc sống hàng ngày. Mời các bạn mượn đọc sách 7 Thói Quen Để Trẻ Hạnh Phúc (Song ngữ) của tác giả Sean Covey & Uyển Linh (dịch).
Đời Ngắn Đừng Ngủ Dài
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Đời Ngắn Đừng Ngủ Dài của tác giả Robin Sharma & Phạm Anh Tuấn (dịch). “Cuốn sách của Robin chứa đựng rất nhiều sự thông tuệ và lời khuyên sâu sắc, được trình bày ngắn gọn, đơn giản để ai cũng hiểu được, và nếu kiên nhẫn áp dụng thì hiệu quả sẽ rất to lớn” - John Spence, nhà tư vấn, diễn giả, tác giả các cuốn sáchLetters to a CEO và Strategies for Success: The Keys to Success in College Career and Life nói về The Greatness Guide (bản tiếng Việt: Đời ngắn đừng ngủ dài) của Robin Sharma. *** “Mọi lựa chọn đều giá trị. Mọi bước đi đều quan trọng. Cuộc sống vẫn diễn ra theo cách của nó, không phải theo cách của ta. Hãy kiên nhẫn. Tin tưởng. Hãy giống như người thợ cắt đá, đều đặn từng nhịp, ngày qua ngày. Cuối cùng, một nhát cắt duy nhất sẽ phá vỡ tảng đá và lộ ra viên kim cương. Người tràn đầy nhiệt huyết và tận tâm với việc mình làm không bao giờ bị chối bỏ. Sự thật là thế.” Bằng những lời chia sẻ thật ngắn gọn, dễ hiểu về những trải nghiệm và suy ngẫm trong đời, Robin Sharma tiếp tục phong cách viết của ông từ cuốn sách Điều vĩ đại đời thường để mang đến cho độc giả những bài viết như lời tâm sự, vừa chân thành vừa sâu sắc. *** Tóm tắt Cuốn sách "Đời Ngắn Đừng Ngủ Dài" của tác giả Robin Sharma là một cuốn sách self-help, hướng dẫn người đọc cách sống một cuộc sống trọn vẹn và thành công. Cuốn sách được chia thành 26 chương, mỗi chương là một lời khuyên hoặc bài học về cuộc sống. Một số lời khuyên nổi bật trong cuốn sách bao gồm: Hãy là chính mình và sống với sự thật. Hãy kiên trì và không bao giờ bỏ cuộc. Hãy học hỏi từ những thất bại của mình. Hãy giúp đỡ người khác và tạo ra tác động tích cực đến thế giới. Review Cuốn sách được viết với giọng văn ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu. Các lời khuyên được trình bày một cách chân thành và sâu sắc, mang đến cho người đọc nhiều cảm xúc và suy ngẫm. Cuốn sách phù hợp với những ai đang tìm kiếm hướng dẫn để sống một cuộc sống trọn vẹn và thành công. Tuy nhiên, cuốn sách cũng có thể mang lại giá trị cho bất kỳ ai, bất kể ở độ tuổi nào và ở giai đoạn nào của cuộc đời. Một số điểm tích cực của cuốn sách Các lời khuyên trong cuốn sách được trình bày một cách ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu. Các lời khuyên được trình bày một cách chân thành và sâu sắc, mang đến cho người đọc nhiều cảm xúc và suy ngẫm. Cuốn sách phù hợp với nhiều đối tượng độc giả. Một số điểm hạn chế của cuốn sách Một số lời khuyên trong cuốn sách có thể hơi chung chung, khó áp dụng cụ thể vào thực tế. Cuốn sách cũng có thể mang lại cảm giác hơi quá khích và áp lực cho một số độc giả. Nhìn chung, "Đời Ngắn Đừng Ngủ Dài" là một cuốn sách self-help đáng đọc, mang đến cho người đọc nhiều thông điệp và lời khuyên giá trị. *** VỀ TÁC GIẢ Robin Sharma là một trong những chuyên gia hàng đầu thế giới về huấn luyện nghệ thuật lãnh đạo và phát triển bản thân. Triết lý cốt lõi của ông là lãnh đạo không cần chức danh và thoải mái phát huy cao nhất năng lực của mình. Ông là tác giả của 8 cuốn sách bestseller trên thế giới trong đó có The Monk Who Sold His Ferrari (được dịch ra 55 thứ tiếng), The Leader Who Had No Title, và Who Will Cry When You Die?. Ông là nhà sáng lập của Sharma Leadership International Inc., một công ty đào tạo, với nhiều khách hàng nổi tiếng như FedEx, GE, IBM, Microsoft, Nike và Đại học Yale . Đời Ngắn Đừng Ngủ Dài gồm có: Hãy là chính mình Rào cản vô hình Sức mạnh của sự đơn giản Hoặc giỏi hoặc ra rìa Nguyên tắc mở rộng thành công Giữ đôi giày bóng láng Lắng nghe kỹ Ước mơ như David Hãy làm ngay Hãy tử tế Không có lỗi Một ngày mới Lòng biết ơn Nhanh chóng nhận lãnh trách nhiệm Các ý tưởng đều vô giá trị Mở to mắt Biểu tượng huy hoàng Hãy là người vô lý Không phải mọi nhà lãnh đạo đều như nhau Học từ lỗi lầm Câu hỏi đúng Khiêm nhường Nhãn hiệu nổi tiếng Yêu quý xung đột Đồng hồ đo trách nhiệm Thèm khát sự phát triển Lời ngợi khen không là gì Chấp nhận là khôn ngoan Nhà tư tưởng thanh cao Dư luận chẳng là gì Bạn biết đùa không? Cách tăng quyền lực Thói quen Tìm giây phút tuyệt vời Nghịch lý của lời khen May mắn và quy luật Hội chứng lưng lừa Nỗ lực thêm một phần trăm Có đi có lại Nói điều bạn muốn Lạc quan mãnh liệt Lời nói yếm thế Thoát khỏi vỏ sò Đừng cố quá sức Kiểm tra trước gương Tìm những người bạn hay đòi hỏi Đổi mới nơi bạn làm việc Tự hào làm cha mẹ Cỗ máy che giấu Đừng chờ cơ hội đến Mời các bạn mượn đọc sách Đời Ngắn Đừng Ngủ Dài của tác giả Robin Sharma & Phạm Anh Tuấn (dịch).