Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hội Chợ Phù Hoa - William Makepeace Thackeray

William Makepeace Thackeray sinh ngày 18 tháng 7 năm 1811 tại Calcutta, Ấn Độ. Ông là con một viên chức của Công ty Ấn Độ, lãnh chức vụ tài phán ủy viên. Năm Thackeray lên 4 tuổi, cha ông từ trần, mẹ ông tái giá. Ông theo mẹ về nước Anh, được gửi theo học trong một trường tư thục ở Chiswich HamSơ. Lối giáo dục nghiệt ngã trong trường này khiến ông không chịu nổi, đã có lần ông phải bỏ trốn. Ta còn thấy dấu vết trường học này trong chương đầu cuốn Hội chợ phù hoa (Vanity Fair). Năm 18 tuổi, ông theo học luật khoa tại Đại học đường Cambridge, nhưng không tốt nghiệp. Ông tỏ ra có khuynh hướng châm biếm ngay từ hồi còn ít tuổi. Trong thời gian theo học tại trường đại học Cambridge, ông dành nhiều thì giờ cộng tác với những tờ báo trào phúng, thí dụ tờ Timbutoo, tờ Người học làm sang (The Snob) hơn là để trau dồi những kiến thức mà ông thấy vô ích. Rời nhà trường, ông chính thức bước vào làng văn với những bài báo và những truyện ngắn có tính chất châm biếm. Nhờ gia sản của cha để lại, được hưởng một món lợi tức đồng niên khá dồi dào, ông có điều kiện du lịch nhiều nơi tại Âu châu. Ông có sống tại Weima (Đức) một thời gian để tìm hiểu phong tục địa phương và nghiên cứu về thi hào Goethe. Rải rác trong tác phẩm của ông, ta còn thấy một số chi tiết miêu tả sinh hoạt của giới quý tộc Đức, thí dụ đoạn tả tiểu triều đình Pumpernickel trong Hội Chợ Phù Hoa. Ông cũng đã sống tại Paris một thời gian khá lâu để theo học nghề hội họa. Trong lĩnh vực văn học cũng như trong lĩnh vực mỹ thuật, sở trường của ông rất thống nhất: ông có biệt tài về loại tranh biếm họa, đã một thời sinh nhai về nghề này tại Paris. Cũng tự tay ông đã vẽ những “vi-nhét” và những tranh minh họa in kèm tác phẩm Hội chợ phù hoa lần xuất bản thứ nhất. Kết quả của những cuộc du lịch ấy là những tập ký sự có tính chất châm biếm như Tập ký họa thành Paris (The Paris Sketch Book, 1840), Tập ký họa xứ Ai len (The Irish Sketch Book, 1843)v.v… Hồi còn thanh niên, Thackeray sống một cuộc đời phong lưu, có dịp tiếp xúc nhiều với những người thuộc tầng lớp tư sản và quý tộc, nhân đó ông đã thu lượm được những tài liệu thực tế rất phong phú về cuộc sống vật chất và tinh thần của những hạng người này để đưa vào tác phẩm của mình. Người ta còn nói rằng vì vợ ông mắc bệnh loạn trí nên ông sinh ra chán đời, việc ấy có thể phần nào cũng ảnh hưởng tới cái nhìn bi quan của ông đối với cuộc sống, và khiến cho ngòi bút châm biếm của ông thêm chua chát, tàn nhẫn; tuy nhiên đó không phải là nguyên nhân chủ yếu. Thackeray sang Mỹ hai lần để diễn thuyết về văn học, đặc biệt là về vấn đề Những nhà văn trào phúng nước Anh thế kỷ thứ 18. Trở về nước, ông ứng cử vào Hạ Nghị viện, nhưng thất bại. Từ 1859 ông làm chủ bút một tờ báo lớn, tờ Tuần báo Cornhin (The Cornhill Magazine) được vài năm. Do làm việc quá nhiều, sức khỏe suy giảm, ông mất năm 1863 vì bệnh xung huyết não thọ 52 tuổi. Văn nghiệp của Thackeray có tính chất khá thuần nhất. Ông viết nhiều loại truyện, cả truyện nhi đồng và truyện lịch sử, nhưng hầu hết văn phẩm của ông đều có tính chất châm biếm, nhằm đả kích xã hội tư sản quý tộc Anh đương thời. Trong số ấy, nổi tiếng nhất là những tác phẩm Cuốn sách của các ông học làm sang (The Book of Snob); Hội Chợ Phù Hoa; Truyện Penđennix (Pendennis)… Những tác phẩm này đã gây ra một dư luận sôi nổi – người tán thưởng nhiều mà kẻ ghen ghét dĩ nhiên cũng lắm – và nâng ông lên hàng những tiểu thuyết gia hiện thực ưu tú nhất trên văn đàn nước Anh. Đó là những tác phẩm bộc lộ đầy đủ nhất bản sắc tư tưởng của tác giả. Tác phẩm đầu tiên rọi ánh sáng vinh quang vào cuộc đời sáng tác của ông là cuốn Truyện các ông học làm sang nước Anh do một người trong bọn kể lại (The Snobs of England by One of themselves) in năm 1846; tác phẩm này gồm những bài tiểu luận có tính chất luân lý và chính trị, nội dung nhằm đả kích một cách cay độc những cái rởm đời và thối nát trong xã hội và chính giới nước Anh đương thời. Năm sau, ông cho xuất bản cuốn Hội Chợ Phù Hoa. Năm 1848 ông lại cho in cuốn Pendennis. Ngay từ cuốn Truyện các ông học làm sang nước Anh do một người trong bọn kể lại… nhiều người đã tỏ ý bất bình vì những nét đen thẫm trên những bức tranh biếm họa của ông; tới khi cuốn Pendennis ra đời, thì sự khó chịu biến thành sự thù ghét, vì rất nhiều người thuộc các tầng lớp trên cảm thấy hình như tác giả muốn ám chỉ chính họ. Thackeray gặp khá nhiều khó khăn trong việc ấn hành những tác phẩm này. Hội Chợ Phù Hoa được coi là một kiệt tác của chủ nghĩa hiện thực trong văn học Anh thế kỷ 19; đó là một trong năm tác phẩm nổi tiếng nhất của văn học Anh-cát-lợi. Mới đầu cuốn truyện được mang tên là Những bức ký họa về xã hội nước Anh (Sketches of English Society) về sau tác giả đổi là Hội Chợ Phù Hoa; cái tên có tính chất tượng trưng này thích hợp với nội dung hơn vì bao hàm cả thái độ phủ định của Thackeray đối với xã hội đương thời. Lần ấn hành thứ nhất, ngoài bìa có ghi câu “Một cuốn truyện không có nhân vật tiêu biểu cho một hạng người, một thói xấu, hoặc một tầng lớp xã hội; toàn bộ tác phẩm là một bức tranh toàn cảnh miêu tả xã hội nước Anh đương thời, do đó các nhân vật có địa vị quan trọng như nhau, không phân biệt chính phụ”. Thật ra cuốn tiểu thuyết vẫn có những nhân vật chính, và một nhân vật trung tâm là Rebecca Sharp. Nội dung chủ yếu của Hội Chợ Phù Hoa xoay quanh việc “làm nên” của Rebecca, một thiếu nữ “con nhà hà tiện”, cha là một họa sĩ trác táng, mẹ là một vũ nữ người Pháp. Thiếu giáo dục từ nhỏ, nhưng nhờ có sắc đẹp, lại thông minh và tài hoa, từ chỗ bơ vơ côi cút, bị khinh rẻ, cô ta trở thành con dâu của gia đình Crawley, một gia đình quý tộc thôn quê. Dựa vào địa vị nhà chồng, và nhờ những mánh khóe xảo quyệt riêng, dần dần Rebecca len lỏi được vào giới thượng lưu quý tộc nước Anh và nước Pháp, trở thành một bậc mệnh phụ, danh vọng lẫy lừng, được triều kiến cả hoàng đế George đệ tứ. Song chính những thủ đoạn đê tiện Rebecca dùng để mưu danh lợi về sau đã làm hại cô ta; Rebecca ngoại tình với một hầu tước để lợi dụng y; việc vỡ lở; cô ta bị quẳng ra khỏi xã hội thượng lưu một cách tàn nhẫn. Cô gái sớm hư hỏng ấy trở lại cuộc đời tăm tối cũ; bị cái giới thượng lưu thanh cao một cách giả dối kia ruồng bỏ, càng ngày cô càng chìm sâu xuống vũng bùn trụy lạc. Khi đã luống tuổi, chán cảnh lăn lộn vô ích, Rebecca đành sống cuộc đời tầm thường như mọi người; và nhờ số tiền kiếm được một cách bất chính, Rebecca cũng được thiên hạ kính trọng như một người có đạo đức. Xen vào câu chuyện lên voi xuống chó của Rebecca là những mẩu phim linh hoạt trình bày cuộc sống và tâm lý của nhiều hạng người khác nhau thuộc giai cấp quý tộc, giai cấp tư sản, tầng lớp trung lưu trong xã hội nước Anh đương thời: gia đình ông Sedley, một người làm nghề buôn cổ phiếu, bị cuộc chiến tranh Napoléon làm cho phá sản, lâm vào cảnh khốn cùng, nhưng vẫn luyến tiếc thời kỳ còn ôm giấc mộng làm giàu, gia đình lão Osborne, nhà tư sản buôn sáp, với một nền luân lý đặc biệt của khu City thành Luân Đôn, lấy đồng tiền làm tiêu chuẩn, gia đình Crawley, một gia đình quý tộc lâu đời ở thôn quê với đủ những cái thối tha lục đục trong nội bộ, gia đình Gôn mà người cầm đầu là hầu tước Xtên, với mâu thuẫn trắng trợn giữa cái bề ngoài đầy uy thế của một nhà đại quý tộc và thực chất bất nhân phi nghĩa của một tên lưu manh… tất cả lồng vào câu chuyện tình vừa lãng mạn vừa tức cười của bộ ba Amelia, George Osborne, và Dobbin. Thế kỷ thứ 19, chế độ tư bản nước Anh đang trong giai đoạn phát triển cực thịnh; năm 1875, tính ra bốn phần năm dân số Anh sống về công nghiệp. Lợi nhuận bóc lột được của công nhân trong nước và vơ vét được tại các thuộc địa tạo điều kiện cho giai cấp tư sản và giai cấp quý tộc tư sản hóa sinh hoạt hết sức xa xỉ. Bề ngoài xã hội Anh đương thời có một bộ mặt phồn vinh; việc kinh doanh dễ đem lại những món lợi lớn; địa vị của giai cấp tư sản trong xã hội được nâng cao; sự cấu kết giữa giai cấp phong kiến và giai cấp tư sản càng chặt chẽ hơn. Giai cấp quý tộc đi vào con đường kinh doanh tư bản để thu lợi nhuận, hoặc liên kết với giai cấp tư sản để lấy tiền mạ vàng lại huy hiệu của dòng họ; ngược lại, giai cấp tư sản cũng muốn quý tộc hóa đồng tiền của mình bằng cách kết liên với giai cấp phong kiến, đồng thời đó cũng là một cách nhờ hơi hướng địa vị của giai cấp này nhằm bước vào lĩnh vực hoạt động chính trị dễ dàng hơn. Trong ngai vàng ngư trị xã hội, có hai thế lực cùng ngồi song song, là đồng tiền và danh vọng. Đó là hai thế lực có tác dụng nhào nặn tâm lý con người đúc theo một cái khuôn chung, và biến cuộc đời thành một cái chợ trong đó mọi thứ quan hệ đều có tính chất “tiền trao cháo múc”. Cuộc chạy đua theo đồng tiền và danh vọng lôi cuốn tất cả các tầng lớp từ bậc trung lưu trở lên. Tôn giáo bị giảm bớt hiệu lực, vì một nền luân lý mới có tính chất thực tiễn hơn đã hình thành: hạnh phúc tối cao của cuộc đời là có địa vị sang trọng và có thật nhiều tiền, vì thiên hạ đang xô nhau vào mà quỳ lụy, bợ đỡ, sợ hãi kính phục kẻ có của và có địa vị. Đạo đức và tài năng trở thành những thứ đồ cổ bị gạt ra bên lề cuộc sống, bởi lẽ trong một xã hội thương mại chỉ có hai thần tượng được người ta phụng thờ là đồng tiền và uy thế của dòng họ; kẻ có tài nhưng nghèo túng và xuất thân tăm tối của mình. Văn hào Stendhal[3] đã có một nhận xét lý thú: “Trí thông minh và thiên tài đặt chân lên nước Anh là mất ngay hai mươi lăm phần trăm giá trị”; ông muốn nói tới cái “Tinh thần chiết khấu” đặc biệt thương mại thấm nhuần trong mọi quan hệ của xã hội Anh. Một mặt khác, đời sống của quần chúng lao động rất cực khổ. Sau chiến tranh chống Napoleon (kết thúc năm 1815), nông thôn tiêu điều xơ xác vì giá lúa mì sụt kinh khủng đến nỗi nhiều nông dân đốt cả cối xay bột; đạo luật khoanh đất cướp ruộng vẫn tiếp tục thi hành; tầng lớp trung gian ở nông thôn giảm đi trông thấy; họ lũ lượt kéo ra thành thị và bị vô sản hóa, hoặc biến thành tá điền làm thuê cho địa chủ. Công nghiệp không dùng hết người, vì kỹ thuật phát triển đòi hỏi tương đối ít nhân công; lại thêm số binh lính quá đông không cần thiết trong thời bình trở thành một gánh nặng cho ngân sách; chính phủ quyết định thải hồi tất cả dân vệ. Do đó thành thị đầy dẫy những đoàn người thất nghiệp; nạn bần cùng lan tràn khắp nơi. Những mâu thuẫn xã hội trầm trọng đến mức sắp nổ ra những vụ bạo động lớn (thí dụ ngày 23-2-1820 sở mật vụ khám phá ra một cuộc âm mưu giết toàn bộ chính phủ, do Thistlewood cầm đầu, tức là: Vụ án phố Ca- tô Chính mâu thuẫn xã hội này giải thích sự phát triển đặc biệt của phong trào “Nghiệp đoàn” (Trade-Unions) và sự ra đời của tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng do Owen đề xướng (1833); về mặt văn học, nó là động lực thúc đẩy sự phát triển của khuynh hướng hiện thực manh nha từ thế kỷ 18, trở thành xu hướng văn học chủ yếu dưới triều đại Victôria thế kỷ 19. Hai đại diện ưu tú của văn học hiện thực thời kỳ này là Thackeray và Đickenx. Tuy cùng chung một thái độ phủ định đối với xã hội đương thời, nhưng đối tượng miêu tả của hai người khác nhau. Thackeray khác Dickens ở điểm ít quan tâm nêu những mâu thuẫn giữa các tầng lớp xã hội đối kháng, cũng như ít chú ý đến vào việc đả kích các tầng lớp thống trị, và có con mắt quan sát tâm lý thấu đáo hơn. Khuynh hướng trào phúng nảy nở trong văn học Anh từ giữa thế kỷ 18. Những người đại diện của khuynh hướng đó là Smolett và Jonathan Swift[4]. Đó là tiếng nói phản kháng lại những sự bất công trong xã hội; khuynh hướng ấy được kết tinh ở Thackeray. Ông đại diện cho tài năng chân chính bị miệt thị; trong tiếng cười cay độc của ông có phần nào sự phẫn nộ của quần chúng. Chủ nghĩa hiện thực ở Thackeray mang mầu sắc luân lý rõ rệt; ông muốn đứng trên quan điểm đạo đức mà soi mói cuộc đời và rút ra những bài học về cách xử thế. Chủ đề của Hội chợ phù hoa – như tên cuốn truyện cũng cho ta rõ một phần – là sự vô nghĩa, sự phù phiếm của cuộc đời, một tấn hài kịch lớn, trong đó mỗi con người sắm một vai trò mà không tự biết, hoặc một cảnh hội chợ hỗn tạp, trong đó chỉ toàn là những sự phô trương mua bán, và mọi thứ đều là những món hàng. Tác giả tự coi vừa là một anh hề sắm vai trò để mua vui cho thiên hạ, vừa là nhà đạo diễn cô lại hình ảnh của cuộc sống trong một màn kịch múa rối. Khuynh hướng vạch những nét “mặt trái đời” toát ra trong toàn bộ tác phẩm từ chương đầu đến chương cuối. Tác giả muốn rút ra một bài học luân lý; tác phẩm có tính chất như một bài ngụ ngôn dài. Tất cả những cái gì gọi là cao quý, tốt đẹp, mà thiên hạ hằng khao khát và thiết tha gắn bó, thực ra chỉ là những chuyện hết sức vô nghĩa, thí dụ như danh vọng, tiền tài, những cái vẫn gọi là những đức tính, và ngay cả những tình cảm thiêng liêng như tình cha con, tình bè bạn, tình vợ chồng… nhiều khi cũng chỉ là câu chuyện khôi hài. Dưới mắt tác giả, đạo đức vẫn khoác tấm áo thêu kim tuyến lộng lẫy như cũ, nhưng lật lên chỉ thấy những tình cảm đê tiện trần truồng: sự tính toán vị kỷ, lòng vụ lợi, thói giả nhân giả nghĩa, tính phô trương rởm đời, sự lường gạt kèn cựa. Mỗi nhân vật trong tác phẩm tiêu biểu cho một thói xấu, một giai cấp; mỗi người mỗi vẻ, nhưng tất cả đều mang trên mình con dấu chính của thời đại, tức là hình ảnh dục vọng hung hãn đè nén và tiêu diệt thiên lương; do đó con người ta ở đời không nên phí sức mà tranh danh đoạt lợi, hãy nên biết tiết chế dục vọng của mình. Nhà luân lý Thackeray đã nhìn xã hội nước Anh – đúng hơn là xã hội thượng lưu trưởng giả nước Anh – với con mắt rất bi quan, hoài nghi, nhưng không thờ ơ, trái lại hết sức soi mói; do đó những chi tiết nêu lên trong tác phẩm có một giá trị hiện thực lớn. Mũi nhọn đả kích của tác giả chĩa thẳng vào những tầng lớp đang chễm chệ ngồi trên cổ quần chúng lao động. Ngòi bút của ông tỏ ra không thương xót đối với giai cấp quý tộc. Khác với giới quý tộc Pháp bị phá sản sau cách mạng, chuyên sống bằng những thủ đoạn bịp bợm, giới quý tộc tư sản nước Anh vẫn giữ được hầu hết những đặc quyền; nhưng không phải vì vậy mà bản chất của chúng khác nhau. Sinh hoạt thối nát, tư cách đê tiện, mâu thuẫn giữa địa vị tôn quý và tâm lý xảo quyệt, bỉ ổi, bất nhân, đó là những nét đặc trưng của giai cấp quý tộc Anh từ nhỏ đến lớn, được nêu bật qua hai nhân vật điển hình là tôn ông Pitt Crawley và hầu tước Xtên. Tôn ông Pitt Crawley đại diện cho tầng lớp quý tộc thôn quê, chúa đất một vùng, nghị sĩ quốc hội, lãnh chức vụ “bảo an đại quan”[5] một quận; lão bóc lột nông dân tàn nhẫn đến mức hầu hết tá điền trong trang trại của lão đều bị phá sản. Lão lại có thói keo cú bủn xỉn: Ở trại, lão khoác bộ áo đài các của ông chúa một vùng, nhưng hễ ra tỉnh là nơi không ai biết mặt biết tên, lão ăn ở bần tiện đến bẩn thỉu: chia đôi củ hành rán với người ở, đòi lại từng xu lẻ tiền tiêu vặt… Nhà nghị sĩ quốc hội ấy có cái đức không thèm đọc thông viết thạo; là đại diện cho dân nhưng lão chỉ thích những chuyện bắt người, đánh người. Lạc thú duy nhất của lão trên đời là rượu, đàn bà và kiện tụng. Con người lấy vật dục làm lẽ sống ấy, hoàn toàn vô tín ngưỡng, coi em ruột như quân thù, đánh vợ như bổ củi, không hề biết giáo dục con cái là gì. Càng già lão càng trác táng một cách trắng trợn; mảnh áo sĩ diện đã rách nát, lúc gần kề miệng lỗ, lão lột vứt bỏ nốt. Tác giả đã phải phẫn nỗ kêu lên: “Hội chợ phù hoa!… Tại đây có một thằng đọc không thông, cũng không chịu tập đọc… có những thói quen và tính xảo quyệt của một thằng biển lận, suốt đời chỉ có một lẽ sống là đi lừa vặt thiên hạ, chỉ biết những sở thích, những tình cảm, những thú vui bần tiện bẩn thỉu; vậy mà không rõ tại sao hắn có đủ cả địa vị, danh vọng và quyền lực, lại là một bậc tai mắt trong xứ, một cây cột trụ của nhà nước!… Trong Hội chợ phù hoa, hắn chiếm một địa vị cao hơn cả những tài năng lỗi lạc nhất hoặc những người đạo đức trong sạch nhất”. Tác giả trình bày cho ta rõ nguyên nhân gây ra tất cả những sự sa đọa của tôn ông Pitt là sự giàu có thái quá. Chính cái sản nghiệp đồ sộ đã đẩy lão tới thói biển lận và sự trác táng. Lại cũng chính sự giàu có cung cấp cho lão đủ mọi thứ khoái lạc vật chất trên đời, cho nên lão không thiết gì đến tôn giáo, mà cũng không thể vươn tới tín ngưỡng được như Chúa trời đã nói: “Kẻ giàu có muốn lên thiên đường, khó như con lạc đà chui qua lỗ kim”. Đó cũng là nguyên nhân gây ra mối mâu thuẫn đặc biệt giữa lão và ông em trai là mục sư Biutơ Crawley. Suốt đời lão đã tự ý bóp nghẹt tất cả những tình cảm cao quý để thay vào bằng những dục vọng hạ cấp; nhưng đến khi bị thần bệnh làm tê liệt thân thể, bất lực không còn hưởng thụ được nữa, lão mới cảm thấy một sự trống trải ghê gớm xâm chiếm tâm hồn; ấy là lúc phần con người của lão sống lại: lão bám lấy người con dâu dịu dàng hiền hậu để cố sống lấy một chút tình cảm đẹp đẽ trước khi từ giã cõi trần, như một kẻ suốt đời làm ác, lúc hấp hối mới thoáng có một phút ăn năn thành thực. Nếu Pitt Crawley tiêu biểu cho hạng quý tộc thôn quê ngu dốt, tục tằn và bần tiện, thì hầu tước Xtên tiêu biểu cho giới đại quý tộc ở triều đình, danh vọng to, quyền thế lớn, nhưng cũng sa đọa một cách lịch sự hơn, có học thức, tế nhị và thông minh, nhưng cũng xảo quyệt và tàn nhẫn hơn. Lão là trụ cột của triều đình, tiền nhiều của nhiều, mà nói đến những dục vọng đê tiện thì cũng không ai bằng lão. Lão vớ được tước hầu trong một canh bạc, lấy thế lực và tiền tài để mua dư luận báo chí, chuyên dùng bả vinh hoa để quyến rũ đàn bà con gái và căn cứ vào kinh nghiệm của mình, coi rẻ nhân phẩm của tất cả những ông chồng có vợ đẹp. Đúng tư cách một nhà quý tộc, lão thù ghét con trai cả, vì hắn là kẻ đang nhòm ngó địa vị hầu tước thế tập và cái gia tài kếch xù của lão. Trước mặt thiên hạ, lão là một nhân vật thượng lưu kiểu mẫu, được giới quý tộc coi là “khuôn vàng thước ngọc” cho cách ăn ở, nhưng trong gia đình, đối với vợ con, lão là “một tên bạo chúa” lão bắt vợ ngồi ăn với bọn đĩ rạc, buộc vợ phải tiếp nhân tình của lão thật lịch sự, diếc móc con dâu một cách thô bỉ tàn tệ; trong cái gia đình tôn quý ấy lại cũng có cảnh “ông ăn chả, bà ăn nem”. Lão không từ cả thủ đoạn cho tay sai giam người chồng lại, để tự do với vợ người ta, và khi bị làm nhục thì phái người đi dàn xếp và bảo vệ danh dự bằng cách chuồn ra nước ngoài?… Hầu tước Xtên thuộc loại người quá nhiều tiền bạc và thế lực, sống chỉ cốt thu hết hương nhụy của cuộc đời; lão là con đẻ của một chế độ tất yếu sản sinh ra những tên bạo chúa. Tác giả đã nêu lên một nét tâm lý đặc sắc của hạng người này là cuộc sống sa đọa đã làm cho con người của chúng biến tính: quen được cuộc đời chiều chuộng quá đầy đủ, chính hầu tước Xtên đâm ra chán ngấy tất cả những lạc thú vật dục nhưng vẫn lao theo những lạc thú ấy do thói quen không cưỡng được như một người trên cái dốc trơn tuột. Lão khuyên Rebecca, nhân tình của lão rằng: “Gặm cỏ tươi ngoài đồng nội lại ngon hơn xơi cỏ khô trong chuồng”, nhưng lão vẫn cứ dùng “mớ cỏ khô lão đã ngấy để làm mồi dử những con bò non ngờ nghệch”; thì ra xã hội thượng lưu đã tạo cho lão thói sáng suốt trong sự phạm tội. Mặt khác, quen chà đạp và làm hư hỏng người khác, dần dần lão thù ghét và khinh bỉ hết thẩy mọi người, và trong tâm hồn lão, những tình cảm tốt đẹp cũng hoàn toàn tê liệt. Lão chỉ có cảm tình với hạng người tồi tệ, phản bội! Lão yêu Rebecca không những vì dục tình, mà còn vì cô ta là hiện thân của người đàn bà lý tưởng xứng đáng với lão. Rebecca cũng có những dục vọng mãnh liệt, cũng thông minh song xảo quyệt, cũng vô tình, vô nghĩa và dám liều lĩnh không kém gì lão. Cho nên chỉ có một lần hầu tước Xtên say sưa hào hứng, tức là lần xem Rebecca đóng vai kịch Clytemnet giết chồng như thật; có thể nói buổi tối hôm ấy lão mới yêu Rebecca thật sự. Một đặc điểm thống nhất giữa Xtên và Pitt Crawley là thái độ vô tín ngưỡng. Pitt vì ngu dốt không hiểu được tôn giáo, và cũng vì không cần tới tôn giáo nên coi rẻ; nhưng Xtên thông minh, có học mà cũng không thiết gì đến Chúa trời. Hắn nuôi hai tu sĩ trong nhà, một mục sư Anh quốc giáo, một linh mục Gia-tô giáo chính thống, để thỉnh thoảng khích bác họ cãi lộn nhau mua vui. Tinh thần vụ lợi của thời đại đã hạ thấp vai trò tín ngưỡng xuống thành một vật trang sức, Xtên là một quan lớn còn cần tới nó phần nào để che mắt thế gian, nhưng Pitt không cần thì vứt xó. Đúng như văn hào Voltaire[6] đã nhận xét: “Điểm khác nhau giữa phái Whig và phái Tory[7] là “phái Wich thì không có tín ngưỡng mà phái Tory thì chỉ có một tí”. Hình ảnh Pitt Crawley (con trai) minh họa cho nhận định này: hắn làm ra vẻ mộ đạo để được lòng mẹ vợ, nhưng hắn cũng sẵn sàng nhảy từ Gia-tô giáo chính thống sang Anh quốc giáo để dễ mưu địa vị trong chính giới, và Pitt là một tay Tory chính cống. Tóm lại, tàn nhẫn, bất nhân, sa đọa, hèn nhát, vô tình vô nghĩa và vô tín ngưỡng… đó là hình ảnh trung thực của giới quý tộc Anh đang phá sản về mặt tinh thần. Đáng tức cười hơn nữa là những nhân vật thượng lưu quý phái ấy vẫn cứ “thành thực” tưởng mình là cao quý hơn người. Chúng tin tưởng vào giá trị của “dòng máu xanh” mang trong người, khinh miệt tất cả các tầng lớp xã hội khác. Chúng bám lấy giai cấp tư sản để làm tiền, nhưng vẫn có thái độ rẻ rúng. Trong khi ấy bọn con cái nhà tư sản lại ra sức leo lên địa vị quý tộc để rồi quay lại miệt thị ngay chính giai cấp mình. Thể hiện những nhân vật vẫn được coi là hạng người tôn quý với những nét tâm lý trên, Thackeray đại diện cho quần chúng muốn phá bỏ cái uy thế đã mọt ruỗng của một giai cấp vẫn cố níu lấy địa vị thống trị xã hội, và đòi tiêu biểu cho cả một dân tộc. Việc làm này của ông hoàn toàn có ý thức; trong Cuốn sách của các ông học làm sang nước Anh, Thackeray có viết: “Bậc thang giai cấp và những sự phân biệt chỉ là một luận điệu lừa bịp, phải đem quẳng nó vào lửa mà đốt. Sắp xếp chỗ ngồi theo thứ bực địa vị, đó là việc của các ông phụ trách nghi thức nào biết tổ chức sự bình đẳng”. Đối với nhà vua, tác giả cũng không nể nang hơn mấy tí. Hãy xem ông miêu tả hoàng đế Georgeđệ tứ ngự xem kịch tại rạp Opera: “Thì người ngồi kia… mặt mũi phương phi rạng rỡ, thân hình thật phì nộn, khắp người la liệt huy chương, mớ tóc giả rậm rạp xoăn tít. Phải, chúng mình đã được chiêm ngưỡng dung nhan của Người. Số mệnh cũng không cướp được của chúng mình kỷ niệm ấy đi… chúng mình có thể khoe với con cháu mà không sợ quá lời rằng đã từng được nhìn mặt hoàng đế George đại từ đại bi, hoàng đế George chí tôn, hoàng đế George vĩ đại”. Lời lẽ kín đáo tưởng như ca tụng, nhưng ý tứ châm biếm tưởng cũng rõ ràng, vì con người thực của George đệ tứ là một kẻ trác táng, mê đánh bạc, công nợ ngập mặt, dối trá và bất hiếu. Sở dĩ ông chưa hạ nhà vua xuống xếp ngang hàng cùng hầu tước Xtên khi đả kích, có lẽ vì ông còn muốn cho tác phẩm được ra mắt công chúng. Đối với giai cấp tư sản, ông cũng tỏ ra không thương xót. Nhân vật đại diện cho giai cấp này là lão Osborne, chủ một hãng buôn sáp lớn ở khu City. Vận mệnh và tâm lý nhân vật này phản ánh rất đúng những đặc điểm của giai cấp tư sản. Xuất thân là một người nghèo, ít học nhờ khôn ngoan và tàn nhẫn, lão leo lên địa vị một đại thương gia, và khi đó tính tình cũng thay đổi theo sự sinh hoạt. Suốt đời chạy theo đồng tiền, lão cam chịu cho đồng tiền chi phối cả tư tưởng và hành động của mình. Lão không ngần ngại trả ơn ân nhân cũ bằng sự vu cáo, sự phản bội, khi tình bạn ấy không còn có lợi gì nữa. Lão tàn nhẫn phá hoại mối lương duyên của con trai, vì bên thông gia đã bị phá sản không còn xứng đáng là chỗ “môn đăng hộ đối”; lão yêu quý đứa con trai độc nhất như vàng, nhưng cũng sẵn sàng từ bỏ và coi con mình như kẻ thù chỉ vì anh ta dám cưỡng lại ý lão, không chịu lấy một cô gái lai da đen triệu phú làm vợ. Về sau, tiếc quá, lão lại đích thân ngỏ lời cầu hôn cho chính mình! Niềm kiêu hãnh duy nhất của lão là sự giàu có; ước vọng duy nhất của lão là được thấy con trai nhờ tiền, nhờ vợ, len lỏi được vào hàng quý tộc, vì đã có “lợi”, lão chỉ còn thiếu có “danh”. Nếu sau này, lão có ý tha thứ cho con trai và đem đứa cháu nội về nuôi, thì một phần vì bản chất con người trong lão chưa tắt hẳn, nhưng chủ yếu là vì đứa trẻ có vẻ mặt dáng điệu của con nhà quý tộc, hứa hẹn rất nhiều sẽ thỏa mãn nguyện vọng của ông nội. Chính sự giằng co gay gắt giữa tình cảm cha con và lòng ham danh lợi trong người lão lại càng cho ta rõ hơn tác dụng phá hoại của đồng tiền đối với bản chất tốt đẹp của con người. Trong xã hội tư bản, những tình cảm thiêng liêng nhất cũng có thể trở thành những món hàng; có thể lấy nhân vật Bơlôc, con rể lão Osborne làm thí dụ. Trước khi lấy vợ, hắn đắn đo cẩn thận, mặc cả rạch ròi về món tiền hồi môn, thận trọng như một thương gia khi hùn vốn vào một công ty. Trước những tai họa xảy đến cho gia đình nhà vợ, hắn có một thái độ điển hình cho “tâm lý lạnh lẽo giá băng của đồng tiền”: hắn coi việc George Osborne bị bố từ là một dịp để kiếm thêm vạn đồng bảng Anh trong phần gia tài của vợ, và khi hay tin bố vợ chết, câu nói đầu tiên của hắn là: “Ông cụ để lại cho thằng bé bao nhiêu tiền đấy hả?… Nhất định không phải là một nửa gia tài chứ? Phải chia làm ba phần đều nhau, dứt khoát thế!” Tóm lại, qua tác phẩm, cái thế lực hung hãn và cái bản chất vô tình vô nghĩa của đồng tiền đã được minh họa bằng những nét đen thẫm. Trong xã hội cũ, loại người to tiếng nhất dạy luân lý cho người ta là mấy vị tu sĩ. Nhưng trong Hội chợ phù hoa, ông mục sư Biutơ Crawley đã không xứng đáng đại diện cho giới mình chút nào. Ông ta đi chơi suốt đêm thứ bẩy sáng sớm chủ nhật mới hối hả mò về nhà thờ giảng đạo; bài thuyết giáo thường do bà vợ soạn sẵn hộ, ông ta cứ lên bục giảng mà không cần hiểu ý nghĩa ra sao. Ông thuộc loại tu sĩ sành thể thao, ham tiệc tùng hơn việc Chúa: đức cha rất thánh lại có đầy đủ những thói xấu của con chiên vẫn được ngài thuyết giáo hàng tuần, nghĩa là tham ăn tục uống, hám lợi, đạo đức giả và thô bỉ. Giáo điều đã mất cả hiệu lực ngay cả đối với những kẻ tự nhận là thay mặt Chúa trời. Lại có thể dẫn thêm một thí dụ khác là ngài “tiến sĩ thần học” bị giam cùng Rawdon vì tội quỵt nợ. Những chi tiết trên rút từ thực tế hàng ngày của giới tu sĩ Anh quốc đương thời. Hồi ấy, giới tu sĩ nước Anh chia làm hai tầng lớp; lớp tu sĩ cao cấp sinh hoạt rất xa xỉ, chuyên việc săn sóc linh hồn cho bọn quý tộc và tư sản lớn, hoàn việc săn sóc linh hồn cho bọn quý tộc và tư sản lớn, hoàn toàn cách biệt với người dân thường; còn tầng lớp mục sư ở nông thôn thì lại quá thiếu thốn, quanh năm lo chuyện ăn mặc và kiếm thêm tiền để dành, nhiều hơn là lo việc Chúa. Cả hai loại giống nhau ở một điểm là coi việc đi tu như một nghề để kiếm miếng sinh nhai. Henry Prentout, sử gia người Pháp, miêu tả họ như sau: “Đó là loại thầy tu giao tế, không hiểu biết mấy về giới thượng lưu chân chính và những phong tục đẹp đẽ, được anh chức sau một cuộc sát hạch qua loa, và chỉ được cung cấp một số vốn liếng kiến thức hết sức sơ sài về thần học trong các trường đại học. Có lợi nhuận kha khá… lấy vợ có của… mang đủ các đức tính cũng như thói xấu của các nhà quý tộc trang chủ, ham săn cầy cáo, thích uống rượu mạnh… quanh năm chỉ hành lễ chừng bốn lần nhân những ngày hội lớn, và nhiều khi cũng hành lễ qua loa tắc trách với một thái độ không đứng đắn lắm”[8]. Cũng theo Prentout, nhiều người vì túng thiếu, lấy cả chị hầu phòng làm vợ để nhờ vả vốn liếng; trong Hội chợ phù hoa cũng có nhắc đến sự thực tức cười này. Vậy thì Biutơ Crawley chưa phải là một hình ảnh phóng đại. Ta không lạ khi thấy tác phẩm vừa xuất bản được một phần, đã bị nhao nhao phản đối, vì Thackeray đã cầy tung cả nền móng tinh thần của xã hội Anh đương thời, là tín ngưỡng và sự tôn trọng giai cấp quý tộc. Nhân vật được tác giả khắc gọt công phu hơn cả chính là Rebecca Sharp, vai trò chính của vở kịch múa rối. Nhân vật này đại diện cho thói xấu chung của người đời: lòng ham danh lợi. Xã hội phong kiến tư sản đã để lại những vết hoen ố trong tâm lý của tất cả mọi người hút thở cái không khí vẩn đục của nó. Tác giả muốn cho thấy con người ta không có một cơ sở đạo đức vững vàng, khi bị lôi cuốn vào cơn lốc của dục vọng, thì bị sa đọa ghê gớm đến thế nào. Thiếu giáo dục từ nhỏ, sớm hư hỏng trong một môi trường vẩn đục, Rebecca đã lấy ngay nhan sắc và những tình cảm đẹp đẽ thiêng liêng nhất ra buôn bán, đánh đổi lấy tiền bạc và danh vọng. Mới mười bảy tuổi, vừa chân ướt chân ráo bước vào gia đình một cô bạn đã tỏ ra rộng lượng che chở cho mình, Rebecca đã trắng trợn “mồi chài” người anh cô bạn vì biết anh ta lắm tiền: thói hám lợi đã làm thui chột mất tính e lệ bẩm sinh của người con gái mới lớn. Đối với Rebecca, lấy chồng không phải vì tình, cũng không phải vì dục, mà cốt để làm một bậc thang leo lên địa vị cao sang, cho nên lấy lão Pitt Crawley đã ngoài bảy mươi, hoặc lấy Rawdon là con trai lão, đối với cô ta không khác gì nhau. Trong đời, chỉ có một lần cô ta rỏ những giọt nước mắt thành thực duy nhất, ấy là khi lão Pít ưa “chơi trống bỏi” tỏ tình với cô ta quá muộn, khi cô ta đã trót ăn ở với Rawdon rồi. Rebecca lợi dụng mọi cơ hội mang ngay cái vốn sắc đẹp và sự thông minh của mình ra đặt lãi: cô ta tán tỉnh Joe Sedley, chiều chuộng lão Pitt, ve vãn Rawdon, mơn trớn ông anh chồng, đóng kịch với bạn chồng để xin tiền, õng ẹo với hầu tước Xtên để bòn xu, và dĩ nhiên phải đi đến kết quả là ngoại tình, đánh đổi tiết hạnh lấy tấm giấy một nghìn đồng. Tính toán và lừa dối, đó là nguyên tắc xử thế của người đàn bà xảo trá này; Rebecca sẵn sàng chà đạp lên tất cả những cái gì cao quý thiêng liêng nhất để đi đến thành công. Ở Rebecca, hầu như không có sự giằng co giữa cái thiện với cái ác, vì cơn bão táp của vật dục quá dữ dội, ngọn lửa le lói của lương tâm vừa lóe lên đã tắt phụt rồi. Cái tiết hạnh trước kia vẫn nâng niu để mang trao đổi dè sẻn và giấu giếm với giá đắt, sau khi bị thất bại thảm hại, Rebecca sẵn sàng đem ra công khai “bán phá giá” cho bất cứ hạng người nào, điều đó ta cũng dễ hiểu, vì nó đã thành một món hàng hết được tín nhiệm. Tác giả vẽ Rebecca với những nét tàn nhẫn như thế, cốt gây một sự ghê tởm đối với con người là hiện thân của lòng ham danh lợi, và qua đó, cho ta thấy hết cái vô nghĩa, cái tác dụng phá hoại của nó. Những thủ đoạn ô uế Rebecca dùng để tiến thủ trong đời đã nhấn nhân phẩm của cô ta sa xuống hố trụy lạc, người đọc mới thấy ghê tởm. Thackeray muốn cho rằng con người xấu xa là do tính bẩm sinh, nhưng khi thể hiện qua hình tượng, ta thấy rõ ràng thói phù hoa đã gạn chơi hết những phần tốt đẹp trong con người của Rebecca, chỉ còn để lại phần cặn đục ngầu. Nhảy múa xung quanh Rebecca là một số nhân vật khác, được xây dựng để nêu bật ý nghĩa sau: xã hội quý tộc đẻ ra sự kiêu ngạo, sự xảo quyệt; xã hội thương mại đẻ ra tính tham lam, thói vị kỷ; những thói xấu ấy thấm vào từng thớ thịt mọi hạng người, khiến cho cha con, anh em thù hằn nhau, chị em khinh rẻ ghen ghét nhau, vợ chồng lừa dối nhau, khiến cho ngay trong nhà trường, những đứa trẻ đang tuổi trong trắng cũng đã tiêm nhiễm thói phân biệt đẳng cấp… Chỗ nào ta cũng thấy bàn tay của sự tính toán xen vào, nó tự do cắt đứt hoặc nối lại mối dây ràng buộc mọi thứ tình cảm. Thói giả nhân giả nghĩa mặc áo đội mũ ngang nhiên đi lại giữa cuộc đời; người ta mặc cả tình nghĩa, mua bán tiếng tăm, thay đổi quan điểm tôn giáo như thay áo để mưu lợi. Tóm lại, cá nhân chủ nghĩa đã thống trị xã hội với những biểu hiện trắng trợn nhất của nó. Với tính chất là một nhà tiểu thuyết miêu tả phong tục, Thackeray còn trình bày cho ta nhiều mẫu người đặc biệt khác của thời đại. Rebecca còn tiêu biểu cho loại đàn bà xảo quyệt đầy dục vọng thấp hèn, đem tai họa cho bất cứ người nào bị cô ta bấu lấy trong đời. Joe Sedley là hình ảnh con người có bản chất tốt song ngốc nghếch và tự mãn, sống ngơ ngác giữa cuộc đời để bị chết chẹt giữa cái xô bồ hỗn độn của mọi sự tranh giành trong cuộc sống; Rawdon thuộc loại quý tộc lưu manh, sống bằng sự lừa bịp thiên hạ, lường gạt cả đầy tớ; George Osborne đại diện cho các cậu công tử bột “giẻ cùi tốt mã” con nhà tư sản quen thói “bốc trời”; Wenham và Wage là hình ảnh của loại nghị sĩ và trí thức đầy dẫy trong xã hội tư sản, đánh đĩ ngòi bút, ca tụng bọn đĩ rạc được bọn quý tộc che chở, bán rẻ nhân phẩm đến mức làm ma cô cho bọn quyền thế để kiếm miếng sinh nhai nhưng vẫn vênh váo với đời… Với con mắt quan sát tinh tế, tác giả lách mũi dao giải phẫu của mình vào tâm lý nhiều hạng người, làm bật ra những nét đặc sắc, khám phá, và nói chung rất tức cười: bà Biutơ săn chồng cho con gái một cách tội nghiệp; bà thiếu tá O’Dowd khoe khoang hợm hĩnh; bá tước phu nhân Xaođao mắc bệnh cứ muốn thống trị hết thảy thiên hạ, cái bệnh khá thông thường của giới phụ nữ; cô Jane Osborne và cô Glorvina lâm vào cảnh “chổng mông mà gào” vì khát chồng; bà quý tộc già Crawley trái tật trái chứng với tư tưởng dân chủ và cách mạng giả hiệu; bà giáo Pinkerton dốt nát nhưng kiêu căng: thói ngồi lê đôi mách của bọn phụ nữ ăn không ngồi rồi v.v… Những nét tâm lý này được trình bày như những thói xấu của con người “muôn thuở”, nhưng xét cho cùng thì đều gắn liền với bản chất của xã hội phong kiến tư sản. Những bóng đen lờ mờ nhảy múa xung quanh cái thần tượng danh lợi ấy được ngòi bút biếm họa của tác giả tô đậm thêm với những nét sắc sảo. Tác giả còn miêu tả phong tục của giới thượng lưu nước Anh, đặc biệt nêu bật cái tẻ nhạt, trống rỗng trong sinh hoạt của họ: những buổi tiếp tân long trọng trong đó người ta – nhất là phụ nữ – tìm mọi dịp gièm pha bới móc lẫn nhau một cách lịch sự, những buổi diễn kịch đố chữ vô vị, thói ham bài bạc, mê săn bắn – săn cầy cáo, và săn cả chuột – thói hay đánh cuộc cả về tình cảm cha con, những chuyện chim chuột lẫn nhau v.v… Tóm lại đó là sinh hoạt của một loại người thừa tiền của và thì giờ, rất giầu có về mặt vật chất, song lại rất nghèo nàn về mặt tinh thần. Họ không có một mục đích cao đẹp gì trong cuộc sống; có một món lợi tức đồng niên kha khá, được tiếp một vị khách sang trọng, được nêu tên trên mặt báo trong một buổi tiếp tân có tiếng, được vào triều kiến trong Hoàng cung, đối với họ là hạnh phúc tối cao của cuộc đời. Thackeray bới vạch cho ta thấy mọi thứ rễ cái, rễ con của thói phù hoa ăn sâu vào mọi ngõ ngách của tình cảm con người một cách hết sức tài tình. Có thể so sánh nhiều đoạn văn trong Hội chợ phù hoa với những trang trong tác phẩm Nhân vật (Les Caractères) của La Bruyere[9]: cũng những bức chân dung biếm họa tài tình, cũng những lời phẩm bình lạnh lùng mà cay độc, và cũng những nhận xét có giá trị như những câu cách ngôn. Viết về Thackeray, nhà phê bình người Pháp Hypôlit Taine có câu: “Để phục vụ cho mục đích châm biếm, Thackeray đã dựa vào một lương tri cao quý, một sự hiểu biết thấu đáo về tâm lý người đời, một ngòi bút khéo léo tuyệt vời, một sự suy luận vững vàng, một thái độ căm thù sâu sắc và ông đã tiêu diệt thói xấu của người đời bằng đủ mọi thứ vũ khí của sự suy tưởng”[10]. Có thể chắc chắn rằng Thackeray chịu nhiều ảnh hưởng của La Bruyere; nhưng ông khác nhà văn Pháp ở điểm chưa có ý thức rõ ràng khi đứng về phía quần chúng để đả kích giai cấp thống trị[11]. Thackeray ít miêu tả những nhân vật thuộc tầng lớp bình dân, có lẽ vì họ không phải là đối tượng miêu tả trong một cuốn truyện mà cảm hứng chủ đạo là thái độ công phẫn trước những sự thật đen tối xấu xa trong cuộc đời. Tuy nhiên, mỗi khi nhắc đến họ, ông Clap, bà Brigơ, người vú nuôi thằng bé Râuđy, bác Ragơnx, đều là những người có tâm địa tốt; họ sẵn sàng giúp đỡ người khác, tỏ ra có tình, có nghĩa, và nhiều khi vì vậy mà chui vào cạm bẫy của các ông bà thượng lưu. Tác giả cho ta thấy trong quan hệ với các vị tai mặt, họ luôn luôn chịu lép vế, thiệt thòi, nhưng tác giả chưa trình bày đầy đủ cảnh sống khổ cực của họ, mặc dầu ông tỏ ra công phẫn trước cảnh giầu nghèo chênh lệch trong xã hội: “Nhưng cũng phải thấy rằng tại sao có người thì lại lụa là gấm vóc, trong khi khối kẻ phải đeo khố tải, chỉ có con chó thương xót cảnh ngộ của họ? Đó cũng là một điều bí mật nhiều khi không giải thích nổi”. Đứng trên quan điểm đạo đức, Thackeray thù ghét chế độ phong kiến và tư sản, vì nó làm cho con người sa đọa nhiều hơn là vì nó áp bức các tầng lớp nhân dân lao động; đó cũng là một điểm hạn chế trong tư tưởng của ông. Trong khi ông miêu tả những nhân vật bình dân, thấp thoáng còn xen lẫn vài nét giễu cợt nhẹ nhàng, do khuynh hướng hài hước cố hữu hơn là do thái độ đả kích cố ý. Riêng đối với giới “cơm thầy cơm cô”, Thackeray tỏ ra đặc biệt nghiêm khắc, điều này có lẽ không phải lỗi hoàn toàn ở tác giả. Nhưng Thackeray không chỉ làm một công việc hoàn toàn có tính chất phá hoại. Trong nhiều đoạn văn đầy nhiệt tình, ông ca tụng những tình cảm cao quý như tình cha con, tình mẹ con, tình bè bạn, lòng chung thủy v.v… Đứng trước cảnh đời xấu xa, ông chưa mất hết lòng tin đối với bản chất tốt đẹp của con người. Điều này được chứng minh qua việc xây dựng hai nhân vật Amelia và Dobbin. Hai nhân vật này có tính chất lý tưởng, khuôn theo ước vọng của tác giả nhiều hơn là dựa vào sự quan sát thực tế. Amelia được tác giả nâng niu hơn cả: cô ta không đẹp lộng lẫy, không thông minh tài giỏi lắm, nhưng thùy mỵ, trung hậu trong trắng, hấp dẫn đàn ông ở chỗ yếu đuối, như luôn luôn muốn được che chở; đó là loại đàn bà lý tưởng của những người muốn có một gia đình ấm cúng bình thường. Dobbin là người có lòng vị tha, tính tình cao thượng, giầu đức hi sinh, thẳng thắn mà tế nhị, bề ngoài mộc mạc vụng về mà thật ra rất giàu tình cảm. Tâm lý của hai nhân vật chính diện duy nhất này đều có những nét lãng mạn vượt quá sự thực, thể hiện sự phản ứng của tác giả đối với những mẫu người đàn ông và đàn bà xấu xa, đầy dẫy trong xã hội đương thời. Sự trong sạch của họ nổi bật trên cái nền đen tối của tác phẩm, nó biểu hiện những ước vọng thầm kín của Thackeray; ông muốn truyền bá một thứ luân lý lấy “thiện tâm” làm gốc, như chính ông đã nói trong Cuốn sách của các ông học hàm sang: khôi hài là việc tốt, sự thực là điều hay hơn, nhưng Tình yêu mới thật là quý hơn cả. Tuy nhiên

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Người Máy Có Mơ Về Cừu Điện Không?
Người Máy Có Mơ Về Cừu Điện Không?- một trong những cuốn tiểu thuyết khoa học viễn tưởng viết năm 1986 đưa lại hình dung đình đám nhất về đời sống hậu-nhân loại (post-human) của Phillip K.Dick. *** Cốt truyện diễn ra trong vòng 24 giờ, từ khi Rick phát hiện bọn người máy, tiêu diệt chúng cho đến lúc gã lạc lõng trong chính thế giới quan của mình.   Ngôn ngữ của hội họa với màu vẽ vốn là ngôn ngữ im lặng, nhưng lại có những tác phẩm ngồn ngộn âm thanh, bức tranh The Scream (tạm dịch: Tiếng thét) của Edvard Munch là một ví dụ.  Ngôn ngữ của văn chương nằm ở câu chuyện bên trong tác phẩm, nhưng có những sáng tác mà chỉ nhan đề của chúng đã đẩy người xem đến cuộc phiêu lưu suy tưởng, Người máy có mơ về cừu điện không? - tiểu thuyết của Philip K. Dick nắm giữ sự khiêu khích như vậy. Tác phẩm của Philip K. Dick đặt bối cảnh trong một tương lai gần: sau khi cuộc thế chiến bom hạt nhân kết thúc, con người phải di cư lên sao Hỏa để tránh những cơn mưa axit, trong khi một số ít ở lại Trái đất, còn động vật gần như bị tuyệt chủng.  Rick Deckard - gã thợ săn tiền thưởng đang muốn có đủ tiền để mua một con cừu thật thay cho cừu điện ở nhà - đã vướng vào vụ truy quét những con robot trốn từ sao Hỏa đến Trái đất. Cốt truyện diễn ra trong vòng 24 giờ, từ khi Rick phát hiện bọn người máy, tiêu diệt chúng cho đến lúc gã lạc lõng trong chính thế giới quan của mình. Tạo ra mớ bòng bong về nhân tính, Philip K. Dick để Rick Deckard chao đảo liên tục trước câu hỏi liệu người máy có được quyền sống hay không, một con cừu thật sẽ cứu vớt cuộc đời gã ra sao và liệu con người có thấu cảm được lũ robot dây nhợ chằng chịt? Nhịp điệu trong cuốn sách là sự đan xen kỳ lạ giữa tiết tấu chậm rãi khi nói về thú vui của con người, hay trong cách miêu tả thế giới ảm đạm, nhưng lại chuyển nhịp gấp gáp với cái chết của sáu người máy đào thoát. Điều đó tạo nên không khí kỳ ảo, siêu nhiên trong tác phẩm, nửa kéo người xem vào thế giới hư cấu, nửa khác lại quăng độc giả rất nhanh vào những chất vấn về mối quan hệ người - máy. Thế nhưng tại sao cuốn sách này lại liên quan mật thiết đến bức tranh của Edvard Munch? Tác giả đã có một trong những trang viết hay nhất về bức Tiếng thét: "...sinh vật ấy gào thét trong cô độc. Bị cách ly bởi tiếng la hét của nó".  Những bình phẩm về bức tranh của Edvard Munch cũng chính là lời ta thán của chính Philip K. Dick dành cho sự đơn độc của người máy. Trong thế giới văn chương của ông, dẫu sao con người vẫn có sự lựa chọn, có con cừu điện hoặc mua một con vật thật, tiêu diệt người máy hoặc thấu cảm với chúng. Còn người máy, chúng nằm hoàn toàn ở phía của sự bế tắc. Bức tranh của Edvard Munch và tiểu thuyết của Philip K. Dick đã tạo nên một giao điểm trong nghệ thuật, nơi sự cô độc được đẩy lên mức cao nhất bằng cả tranh vẽ lẫn câu chữ. Đó cũng chính là câu trả lời đanh thép (dù gián tiếp) của Philip K. Dick khi hỏi người máy có mơ về cừu điện không? Không. Họ mơ về những con cừu thật. Người máy có mơ về cừu điện không? (Triều Dương dịch, Nhã Nam và NXB Hội Nhà Văn) là tác phẩm quan trọng bậc nhất của nền văn học viễn tưởng.  Tiểu thuyết đã gợi cảm hứng cho bộ phim Blade Runner (1982) của đạo diễn Ridley Scott ra đời. Bản thân bộ phim cũng đã thay đổi hoàn toàn nền điện ảnh giả tưởng. Bất kỳ một phiên bản nào của Blade Runner hay chính cuốn sách cũng đều tạo nên một sức hút đặc biệt cho công chúng và tạo ra những tranh luận gay gắt về đạo đức trí tuệ nhân tạo. *** Luồng điện nhẹ vui tươi được chuông đánh thức tự động bơm lên từ thiết bị tâm trạng ở bên giường làm Rick Deckard tỉnh giấc. Bất ngờ – gã luôn bị bất ngờ khi thấy mình đã tỉnh mà không báo trước – gã nhổm khỏi giường, đứng dậy trong bộ đồ ngủ sặc sỡ, và vươn người. Lúc này, ở trên giường, Iran vợ gã đã mở cặp mắt xám rất thiếu vui tươi, chớp chớp rồi rên khẽ, đoạn nhắm mắt lại. “Em đặt cái Penfield yếu quá,” gã bảo cô. “Để anh đặt lại rồi em sẽ tỉnh táo và…” “Đừng động vào cài đặt của em.” Giọng cô gắt gỏng. “Em không muốn tỉnh.” Gã ngồi lại cạnh cô, cúi xuống cô và dịu dàng giải thích. “Nếu em đặt luồng điện đủ cao, em sẽ khoan khoái khi thấy mình đã tỉnh, toàn bộ mục đích là ở đó. Tới mức C nó sẽ vượt qua ngưỡng ngăn ý thức, như với anh.” Niềm nở, vì gã đang cảm thấy khá yêu mến thế giới – mức cài đặt của gã là D – gã vỗ lên bờ vai trần trắng nhợt của cô. “Bỏ cái tay cảnh sát thô bạo của anh ra.” “Anh đâu phải cảnh sát.” Lúc này gã cảm thấy cáu kỉnh, dù gã không quay số chọn cáu kỉnh. “Anh còn tệ hơn cả cảnh sát,” vợ gã nói, mắt vẫn nhắm nghiền. “Anh là kẻ được cảnh sát thuê để giết người.” “Trong đời anh chưa giết một con người nào cả.” Lúc này cơn tức giận của gã đã dâng cao, biến thành thù địch rõ rệt. “Chỉ giết bọn người máy đáng thương thôi.” “Thế mà tiền thưởng anh mang về, anh thấy em chưa bao giờ nghĩ ngợi trước khi ném ra mua món đồ nào theo ý thích bất chợt của em cả.” Gã đứng dậy, bước đến bảng điều khiển thiết bị tâm trạng của mình. “Thay vì tiết kiệm để nhà mình có tiền mua một con cừu thực, để thay con cừu điện giả trên kia. Một con thú điện thôi mà anh phải phấn đấu suốt mấy năm ròng để đạt được.” Ở bàn điều khiển, gã băn khoăn không biết nên quay số chọn áp chế đồi não (sẽ xóa bỏ tâm trạng giận dữ của gã) hay kích thích đồi não (sẽ khiến gã bực tức đủ để thắng cuộc cãi cọ lần này). “Nếu anh chọn,” Iran nói, mắt mở ra quan sát, “mức độc địa hơn, thì em cũng chọn y vậy. Em sẽ chọn tối đa và anh sẽ được thấy một vụ cãi nhau mà mọi cuộc cãi cọ giữa chúng ta từ trước tới nay sẽ chẳng là gì hết. Cứ thử xem nào.” Cô đứng phắt dậy, lao tới bảng điều khiển tâm trạng của mình, nhìn chằm chằm gã và đợi. Gã thở dài, đầu hàng trước lời đe dọa của cô. “Anh sẽ chọn chế độ mà anh lên lịch hôm nay.” Kiểm tra lịch ngày 3/1/1992, gã thấy lịch yêu cầu thái độ chuyên nghiệp tích cực trong công việc. “Nếu anh chọn theo lịch,” gã cẩn trọng nói, “em cũng đồng ý làm như thế chứ?” Gã đợi, khôn khéo không thi hành ngay cho tới khi vợ gã đồng ý làm theo. “Lịch của em hôm nay là sáu tiếng trầm cảm tự buộc tội.” “Sao cơ? Sao em lại lên lịch như vậy?” Thế là đi trái với toàn bộ mục đích của thiết bị tâm trạng. “Anh còn không biết là có thể cài đặt lựa chọn đó,” gã nói gầm gừ. “Một buổi chiều em đang ngồi đây, và tất nhiên là em đã bật Buster Thân thiện và những Thân hữu Thân thiện. Ông ta đang nói về một tin quan trọng sắp công bố thì cái quảng cáo kinh khủng ấy bật lên. Cái em ghét nhất, anh biết đấy, cái Khố chì Mountibank ấy. Nên em tắt tiếng chừng một phút. Và em nghe thấy tòa nhà, cái tòa nhà này. Em nghe thấy những…” Cô huơ tay. “Những căn hộ trống trải,” Rick nói. Đôi khi gã cũng nghe thấy chúng vào ban đêm khi lẽ ra phải ngủ. Nhưng, vào ngày hôm nay và ở thời đại này, một tòa chung cư với nửa số căn hộ có người ở đã được xếp hạng là mật độ dân số cao. Ở ngoài kia, nơi hồi tiền chiến là vùng ngoại ô, còn có thể bắt gặp những tòa nhà hoàn toàn trống trơn… hay là gã nghe bảo vậy. Thông tin ấy gã nghe vậy thì cứ biết vậy. Như hầu hết mọi người, gã không có ý định đi kiểm nghiệm trực tiếp. “Lúc đó, khi em tắt tiếng ti vi đi, em vừa mới quay số xong ở tâm trạng 382. Nên tuy về lý trí em vẫn nghe thấy sự trống rỗng kia, nhưng em không cảm nhận được nó. Phản ứng đầu tiên của em là mừng vì mình có tiền mua máy tâm trạng Penfield. Nhưng rồi em nhận ra như vậy không lành mạnh chút nào: hiểu được sự thiếu vắng cuộc sống, không chỉ trong tòa nhà này mà khắp mọi nơi, mà lại không có phản ứng – anh không thấy sao? Em đoán là không. Nhưng một thời đó được xem là dấu hiệu của bệnh tâm thần đấy. Họ gọi đó là ‘thiếu xúc động phù hợp’. Nên em vẫn tắt tiếng ti vi và ngồi vào máy tâm trạng thử nghiệm các mức khác nhau. Rồi cuối cùng em tìm thấy mức cài đặt cho tuyệt vọng.” Khuôn mặt lanh lợi, sẫm màu của cô lộ vẻ hài lòng, như thể cô đã đạt được điều gì đó giá trị. “Nên em đặt lịch hai lần một tháng. Em nghĩ chừng đó thời gian là hợp lý để cảm thấy vô vọng về mọi thứ, về việc ở lại Trái đất này sau khi tất cả những người khôn ngoan đã di cư, anh không nghĩ thế sao?” “Nhưng tâm trạng như vậy, em sẽ rất dễ ở lại trong tâm trạng đó, không quay chọn mức khác để thoát ra. Nỗi tuyệt vọng như vậy, tuyệt vọng với toàn bộ thực tại, sẽ chỉ càng lúc càng thêm đậm.” “Em lên chương trình tự động cài đặt lại sau ba tiếng,” vợ gã nói ngọt xớt. “Chế độ 481. Nhận ra những khả năng phong phú mở ra với em trong tương lai, hy vọng mới rằng…” “Anh biết 481,” gã cắt lời. Gã đã chọn số đó nhiều lần, gã dựa rất nhiều vào nó. “Em nghe này,” gã nói, ngồi xuống giường, cầm tay kéo cô ngồi bên cạnh gã, “dù có thiết lập ngắt tự động, thì trải qua một cơn trầm cảm vẫn là nguy hiểm dù ở bất cứ dạng nào. Hãy quên lịch của em đi, còn anh sẽ quên đi lịch của anh. Chúng ta sẽ cùng quay số 104 và trải nghiệm bên nhau, và rồi em cứ ở trong trạng thái đó, còn anh sẽ chỉnh lại về thái độ chuyên nghiệp tích cực trong công việc như thường lệ. Như vậy anh sẽ có ý muốn lên sân thượng xem cừu rồi đến văn phòng, và anh sẽ biết là em không ngồi ủ rũ ở đây không buồn xem ti vi.” Gã buông những ngón tay dài và gầy của cô, đi qua không gian rộng rãi của căn hộ vào phòng khách thoảng mùi thuốc lá đêm trước. Tại đây gã cúi xuống bật ti vi. Giọng Iran từ phòng ngủ vọng ra. “Em không chịu được ti vi khi chưa ăn sáng.” “Chọn 888 đi,” Rick nói khi ti vi đang nóng lên. “Mong muốn xem ti vi, bất kể trên đó đang chiếu gì.” “Em không muốn chọn gì lúc này cả.” “Vậy chọn số 3.” “Em không thể chọn cài đặt kích thích vỏ não để đâm ra muốn chọn được! Nếu đã không muốn chọn, thì em không muốn chọn nhất là số đó, vì sau đó em sẽ muốn chọn, mà ngay lúc này thì muốn chọn là cái ý tưởng xa vời nhất em có thể tưởng tượng ra. Em chỉ muốn ngồi trên giường này nhìn sàn nhà.” Giọng cô trở nên sắc lạnh pha lẫn nét ảm đạm khi tâm hồn cô đông lại và cô ngừng cử động, khi làn sương bản năng tỏa khắp mang sức nặng to lớn - sức ì gần như tuyệt đối - bao trùm lên cô. Gã tăng âm lượng ti vi, và giọng Buster Thân thiện ồm ồm vang đầy căn phòng. “… Hô hô, chào các bạn. Bây giờ là vài tin vắn về thời tiết. Vệ tinh Cầy Lỏn cho biết bụi phóng xạ sẽ đặc biệt dày đặc khi gần đến trưa, rồi sau đó loãng dần, nên nếu quý vị nào định phiêu lưu…” Iran xuất hiện bên cạnh gã, chiếc váy ngủ dài của cô lả lướt sau lưng, cô tắt ti vi. “Thôi được, em đầu hàng. Em sẽ quay số. Bất cứ điều gì anh muốn. Khoái cảm tình dục ngất ngây – em cảm thấy tồi tệ đến mức có thể chịu đựng được cả cái đó. Mẹ nó chứ. Có khác gì đâu?” “Anh sẽ quay cho cả hai,” Rick nói, rồi dẫn cô vào phòng ngủ. Ở đó, trên bảng điều khiển của cô, gã quay số 594: hài lòng thừa nhận trí tuệ vượt trội của người chồng trong mọi chuyện. Trên bảng điều khiển của gã, gã chọn thái độ sáng tạo và tươi mới khi bắt tay vào công việc, dù gã không thực sự cần. Đó là thái độ bẩm sinh, quen thuộc của gã, không cần sự kích thích giả tạo của máy Penfield lên não bộ. Mời các bạn đón đọc Người Máy Có Mơ Về Cừu Điện Không? của tác giả Philip K. Dick.
Người Đàn Bà Đang Yêu
“Người đàn bà đang yêu” xuất bản năm 1920. Cuốn tiểu thuyết được coi là phần tiếp theo của tác phẩm “Cầu vồng” đã ra mắt trước đó, với nội dung tiếp tục kể về câu chuyện tình của hai chị em nhà Brangwen, Gudrun, một họa sĩ theo đuổi mối tình với Gerald - một nhà tư bản. Lawrence miêu tả mối tình của của Ursula và Birkin - một kẻ thông minh đến bất thường. Tình cảm của hai cô gái càng được nhấn mạnh và khắc sâu hơn bởi sự quyến rũ mãnh liệt của hai chàng trai ấy. Thông qua mối tình và quan hệ của họ, Lawrence khắc tả về xã hội Anh trước Thế Chiến thứ hai. Như phần lớn các cuốn tiểu thuyết khác của Lawrence, vấn đề về tình dục trong Người đàn bà đang yêu đã gây ra những tranh luận và phản ứng gay gắt. Năm 1998, Người đàn bà đang yêu được xếp thứ 49 trong số 100 cuốn tiểu thuyết tiếng Anh hay nhất thế kỷ 20. *** TÁC GIẢ David Herbert Richards Lawrence (11/9/1885 - 2/3/1920) là nhà thơ, nhà văn, nhà viết kịch và nhà phê bình văn học người Anh. Các tác phẩm của ông chủ yếu phản ánh những vấn đề mất nhân tính trong xã hội hiện đại ở Anh một thời. Ở đó con người dường như luôn phải biết cách đối mặt với những cảm xúc, sự sống và bản năng của chính mình. Nhưng chính những quan điểm của Lawrence đã khiến ông có rất nhiều kẻ thù, vì thế ông phải chịu đựng sự khắc nghiệt, kiểm duyệt của chính quyền, và cả sự xuyên tạc những tác phẩm của ông trong suốt cuộc đời. Phần lớn những quan điểm sống khác biệt đó ông có được trong quãng thời gian xa quê hương mà ông gọi là "cuộc hành hương hoang dã". Gần cuối đời, ông bị coi là người chuyên viết sách báo khiêu dâm và nhiều người còn cho rằng ông đã quá lãng phí tài năng của mình. Còn E.M. Forster, một nhà văn lớn của Anh, đã miêu tả ông như "Nhà tiểu thuyết giàu tưởng tượng vĩ đại nhất trong thế hệ của chúng ta." Người đàn bà đang yêu xuất bản năm 1920. Cuốn tiểu thuyết được coi là phần tiếp theo của tác phẩm Cầu vồng đã ra mắt trước đó, với nội dung tiếp tục kể về câu chuyện tình của hai chị em nhà Brangwen, Gudrun, một họa sĩ theo đuổi mối tình với Gerald - một nhà tư bản. Lawrence miêu tả mối tình của của Ursula và Birkin - một kẻ thông minh đến bất thường. Và qua tình yêu của họ, Lawrence khắc họa lại hình ảnh xã hội Anh trước Thế Chiến thứ hai. Như phần lớn các cuốn tiểu thuyết khác của Lawrence, vấn đề tình dục trong Người đàn bà đang yêu đã gây ra những tranh luận và phản ứng gay gắt. Năm 1998, Người đàn bà đang yêu được xếp thứ 49 trong số 100 cuốn tiểu thuyết tiếng Anh hay nhất thế kỷ 20. *** CHỊ EM GÁI Buổi sáng, Ursula và Gudrun Brangwen ngồi bên khung cửa sổ ngôi nhà của bố mẹ ở Beldover, vừa làm việc vừa chuyện trò. Ursula đang tỉ mỉ khâu móc một mẫu thêu với những họa tiết màu sắc sặc sỡ, còn Gudrun đang chăm chú phác thảo một bức tranh trên giá vẽ nho nhỏ đặt trên đầu gối. Cả hai gần như chìm đắm trong im lặng, chỉ thỉnh thoảng lên tiếng trao đổi với nhau những ý nghĩ lơ đễnh tản mát trong tâm trí mỗi người. “Ursula này” Gudrun lên tiếng trước, “Thực sự chị vẫn KHÔNG MUỐN kết hôn sao?” Ursula nhẹ nhàng đặt mẫu thêu vào lòng, ngẩng đầu. Cô tỏ vẻ bình thản và thận trọng. “Chị không biết,” cô trả lời. “Còn tùy thuộc ý em là gì.” Gudrun khẽ xoay người ra sau. Ánh mắt cô chăm chăm nhìn chị gái. “Ừm,” cô tiếp tục câu chuyện bằng giọng điệu mỉa mai, “Em chỉ có ý đề cập đến duy nhất một chuyện! Nhưng dù sao đi nữa thì chị không hề có ý nghĩ, chị sẽ...” Nói đến đây nét mặt cô đột nhiên u ám “có một vị trí tốt đẹp hơn so với hiện tại sao.” Khuôn mặt Ursula bỗng chốc sa sầm. “Có thể,” cô trả lời. “Nhưng chị không chắc.” Đáp lại, Gudrun chỉ im lặng, có vẻ bực bội. Rõ ràng cô nên im lặng. “Thế chị không nghĩ mỗi người đều phải TRẢI NGHIỆM trong vấn đề hôn nhân sao?” Cô hỏi. “Thế em có nghĩ chuyện ấy là cần thiết phải giống như một sự trảinghiệm hay không?” Ursula trả lời. “Chắc chắn, trong một số trường hợp nào đấy,” Gudrun nói, vẻ thờ ơ. “Có thể sẽ mang lại đôi chút rắc rối phiền toái, nhưng ắt hẳn cũng sẽ mang lại không ít kinh nghiệm.” “Không hẳn,” Ursula đáp trả. “Giống kết thúc của sự trải nghiệmnhiều hơn.” Gudrun ngồi bất động, miên man với những ý nghĩ trong đầu. “Tất nhiên,” cô nói, “đấy chính là điều cần phải suy nghĩ thật kỹ.” Câu chuyện kết thúc ở đấy. Gudrun, đầy hờn dỗi và giận dữ, nhặt lấy cục tẩy,nghiến răng xát mạnh lên bức vẽ của mình. Ursula tiếp tục chăm chú vào đường kim trong tay. “Chị vẫn nhất định không cân nhắc đến một lời đề nghị tốt đẹp nàosao?” Gudrun tiếp tục hỏi. “Chị nghĩ mình đã từ chối một số.” Ursula thản nhiên trả lời. “THẬT SAO!” Gudrun sa sầm... “Có điều gì là thực sự quan trọng? Chị nói thật chứ?” “Một ngàn lần một năm và một người đàn ông tuyệt vời. Chị mê mẩn anh ấy đến phát điên,” Ursula trả lời. “Thật thế sao! Không phải là chị bị quyến rũ đến quên cả đường đi lối về đấy chứ?” “Về mặt lý thuyết chứ không phải thực tế.” Ursula trả lời. “Khi đến thời điểm, thậm chí không một ai bị cám dỗ... Ôi, nếu quả thật chị bị quyến rũ, chắc chắn chị đã kết hôn ngay lập tức, không một chút lưỡng lự. Chị là người duy nhất không gục ngã trước cám dỗ.” Khuôn mặt của hai chị em bỗng chốc bừng sáng, rạng rỡ. “Đấy không phải là điều ngạc nhiên thú vị sao,” Gudrun reo lên, “sức mạnh của sự cám dỗ, không hề!” Cả hai đưa mắt nhìn nhau, cười vang. Trong thâm tâm, nỗi sợ hãi đang trào dâng bóp nghẹn trái tim hai chị em. Không gian bên ô cửa sổ chìm trong tĩnh lặng, Ursula trở về với mũi kim và mẫu thêu trên tay, Gudrun tiếp tục chăm chú vào bức tranh vẽ dở của mình. Hai chị em họ là đàn bà, Ursula hai sáu tuổi, còn Gudrun hai lăm. Cả hai đều mang trong mình những quan điểm mới mẻ của các thiếu nữ hiện đại, cả hai thuộc tuýp những cô gái giống Artemis hơn là Hebe . Gudrun cực kỳ xinh đẹp, thuộc tuýp các cô gái thụ động, làn da mượt mà, hai cánh tay mềm mại đầy nữ tính. Cô mặc một chiếc váy lụa màu xanh thẫm, với những dải đăng ten tua rua màu xanh da trời và màu xanh lá cây điểm xuyết ở cổ và tay áo; đôi tất màu ngọc lục bảo xỏ duới chân. Lúc nào cũng phơi phới tự tin, hoàn toàn trái ngược với một Ursula đầy nhạy cảm và mong manh đến nao lòng. Đám người tỉnh lẻ quê mùa thô kệch trong vùng trước thần thái lúc nào cũng điềm tĩnh như không, trước thái độ kể cả ra vẻ bề trên của Gudrun, đã tỏ ra khúm núm và sợ hãi, bọn họ nói về cô như thế này: “Đấy là một cô gái rất thông minh.” Gudrun vừa từ London trở về, suốt mấy năm qua cô đã miệt mài học tập ở đấy, tại trường mỹ thuật, cô đã có những tháng ngày gắn bó với những xưởng vẽ, xưởng điêu khắc. “Giờ thì em chỉ hy vọng sẽ cùng người đàn ông của đời mình đi đến hết cuộc đời,” Gudrun nói, đột nhiên cắn chặt môi dưới, vờ nhăn mặt, nửa như mỉm cười, nửa đau đớn. Ursula cảm thấy bất an, mơ hồ sợ hãi. “Thế nên em mới quay về và chờ đợi anh ấy ở đây?” Cô cười lớn. “Ôi chị tôi,” Gudrun hét lên, the thé, “em không từ bỏ con đường mà mình đã chọn để kiếm tìm anh ấy. Nhưng giả dụ có một chàng trai khiến em mê mẩn, một chàng trai đủ sức lôi cuốn em, có ý nghĩa với cuộc đời em, ừm...” thái độ mỉa mai nhạt dần sau từng giọng nói. Đôi mắt cô nhìn Ursula, sắc sảo, như thể xuyên thấu tâm can chị gái mình. “Chị không cảm thấy tẻ nhạt sao?” Cô hỏi dồn chị gái. “Chẳng lẽ chị không nhận thấy rằng những điều ấy sẽ không thể trở thành hiện thực hay sao? KHỒNG HỀ LÀ THẬT! “Tất cả rồi sẽ tàn phai héo úa trong chồi non lộc biếc.” “Cái gì sẽ tàn phai héo úa trong chồi non lộc biếc?” Ursula hỏi. “Ôi, mọi thứ - tự mình - tất cả.” Im lặng. Cô chị mơ màng mường tượng đến số phận mình. “Đấy không phải là điều gì ghê gớm khiến ta phải sợ hãi.” Ursula nói, rồi lại rơi vào im lặng. “Thế liệu em có hy vọng sẽ đạt được điều gì đấy, chạm đến một nơi nào đấy chỉ nhờ vào hôn nhân?” “Có vẻ đấy là bước tiếp theo không thể nào tránh khỏi,” Gudrun trả lời. Ursula trầm tư, miên man về điều cô em gái vừa nói, cảm giác cay đắng chua xót chợt len lén ùa về trong cô. Cô là giáo viên, ở trường trung học Willey Green, chỉ vài năm trước. “Chị hiểu,” cô nói, “điều này có vẻ giống như khi ta suy nghĩ về mặt lý thuyết. Nhưng thực ra lại tưởng tượng về nó: tưởng tượng về bất kỳ một người đàn ông nào đấy mà ta biết, ta tưởng tượng đến hình ảnh anh ấy trở về nhà vào mỗi tối, nhoẻn miệng cất lên hai tiếng “chào em,” rồi trao cho ta một nụ hôn...” Im lặng. “Đúng thế,” giọng Gudrun từ tốn. “Chỉ là điều bất khả thi. Chính loài người chúng ta khiến nó trở thành không thể.” “Tất nhiên sẽ có cả những đứa con...” Giọng Ursula đầy hoài nghi. Khuôn mặt Gudrun chợt đanh lại. “Chị có THỰC SỰ muốn có con không, Ursula?” Giọng Gudrun lạnh băng, hờ hững. Nét mặt Ursula bỗng rạng rỡ. “Có cảm giác vượt ra ngoài khả năng của chị” cô trả lời. “Chị có thích có con không?” Gudrun vẫn không chịu dừng lại. “Em không thể suy nghĩ được điều gì hay ho mỗi khi thao thức với ý nghĩ phải chịu đựng bọn trẻ.” Gudrun nhìn Ursula bằng đôi mắt vô cảm, khuôn mặt thẫn thờ đến ngây ngô. Ursula khẽ nhíu mày. “Cũng có thể điều đấy chưa hẳn đã đúng,” cô ấp úng. “Có thể ai đấy không thực sự muốn có những đứa con của mình, tự trong sâu thẳm tâm hồn... đó chỉ là quan điểm nông cạn và hời hợt.” Khuôn mặt Gudrun đanh lại. Cô không hề muốn trở thành một kẻ quá trần trụi. “Khi một người nghĩ đến những đứa trẻ, là con của ai đấy...” Ursula tiếp tục. Ánh mắt của Gudrun lại dán vào chị mình, giận dữ. “Chính xác.” Cô chỏng lỏn, để kết thúc câu chuyện. Hai chị em tiếp tục làm việc trong im lặng, luôn là vậy, trong con người Ursula lúc nào cũng hừng hực đến lạ kỳ với ngọn lửa đang bùng cháy, bão bùng và đầy mâu thuẫn. Cô đã sống cùng một thỏa thuận khá nghiêm ngặt với chính bản thân mình, cho chính bản thân cô, làm việc, miệt mài từ ngày này sang ngày khác, không ngừng tư duy, nỗ lực hết mình để sắp xếp, kiểm soát cuộc đời mình, để thấu hiểu nó bằng chính tri thức của riêng cô. Cuộc sống năng động của cô đã rời xa, rất xa, nhưng ẩn sâu bên dưới nó, ngay trong bóng tối, có những điều đang duềnh dàng kéo đến chực chờ tuôn trào. Chỉ cần cô phá vỡ lớp vỏ bọc cuối cùng! Có vẻ cô cũng đã cố gắng và đã chìa tay ra ngoài, hệt như một bào thai còn nằm trong tử cung và rồi cô đã không thể, không làm được điều đấy. Cô đã nhìn thấu trước những viễn cảnh hết sức xa lạ, về một điềm báo cho biết những điều chưa hề xuất hiện trong đời. Cô tạm ngừng công việc thêu thùa, đưa mắt nhìn em gái. Trong mắt cô, Gudrun mới QUYẾN RŨ làm sao, cực kỳ quyến rũ, trong hình hài mềm mại và thanh tú ấy, với những đường cong duyên dáng, mong manh và dịu dàng quá đỗi. Gudrun còn là một cô gái tinh nghịch, có khướu hài hước, đôi khi hơi mỉa mai song vẫn phảng phất nét duyên ngầm. Ursula ngưỡng mộ cô em gái bằng tất cả trái tim mình. “Thế sao em lại quyết định trở về nhà, Prune?” Cô hỏi. Gudrun hiểu cô đang được ngưỡng mộ. Cô ngồi quay lưng với bản vẽ của mình, đôi mắt ẩn sâu dưới hai hàng mi cong vút nhìn chằm chằm vào chị gái. “Tại sao em lại quay về, hở Ursula?” Cô lặp lại câu hỏi của chị. “Em đã tự hỏi chính mình cả ngàn lần trước đấy.” “Và em vẫn chưa tìm được câu trả lời?” “Rồi, em nghĩ mình đã tìm thấy. Em nghĩ quyết định trở về nhà của mình chỉ đơn giản là LÙI MỘT BƯỚC ĐỂ TIẾN THÊM NHIỀU BƯỚC.” Ánh mắt cô chậm rãi nhìn Ursula, thấu hiểu. “Chị biết!” Ursula reo lên, khuôn mặt cô giãn ra, rạng rỡ, tuy nhiên vẫn giả vờ như thể cô KHÔNG hiểu. “Nhưng ta có thể tiến đến đâu?” “Ôi, không quan trọng,” Gudrun cao giọng, vẻ bề trên. “Nếu ta tiến đến ngoài rìa, ta sẽ nhảy lên cao và đáp xuống một nơi nào đấy.” “Như thế không mạo hiểm sao?” Ursula hỏi. Một nụ cười mỉa mai vụt hiện lên trên khóe miệng Gudrun. “A!” Cô cười lớn. “Chẳng nghĩa lý gì cả!” Một lần nữa, cô lại kết thúc câu chuyện. Nhưng Ursula vẫn ủ ê với những ý nghĩ trong đầu. “Làm thế nào em tìm được một tổ ấm, bây giờ em có phải quay về nơi ấy?” Cô hỏi. Gudrun im lặng, lạnh lùng trước khi cô trả lời chị. Ít phút sau, rất chân thành, cô trả lời: “Em thấy mình hoàn toàn đứng ngoài một tổ ấm.” “Thế còn bố?” Gudrun nhìn Ursula bằng đôi mắt đầy ắp oán giận, như thể cô muốn gào lên. “Em không hề nghĩ về ông ấy: Em đã cố nhịn.” Giọng cô lạnh băng. “Ừ,” Ursula dao động. Câu chuyện thực sự kết thúc. Cả hai chị em đều có chung cảm giác như đang đứng bên bờ vực thẳm, trống rỗng và kinh hoàng, như thể đang cúi đầu nhìn xuống khoảng trống hoang hoác và sâu hun hút dưới chân. Cả hai vẫn cặm cụi làm việc trong im lặng, đôi gò má của Gudrun ửng hồng bởi những cảm xúc đang dồn nén chất chồng trong lòng. Cảm giác bực bội cứ xâm chiếm trong cô. “Liệu chúng ta có nên ra ngoài đến dự đám cưới ấy không nhỉ?” Cô hỏi, giọng thản nhiên, ra vẻ tình cờ. “Tất nhiên!” Ursula reo lên, hơn cả hăm hở, vứt mẫu thêu và kim chỉ sang một bên, nhanh nhẹn vụt đứng dậy, như thể cô đang cố trốn thoát khỏi điều gì đấy và vì thế, cô đã vô tình để lộ ra ngoài cảm giác căng thẳng đang xâm chiếm trong mình, dẫn đến cảm giác bẳn gắt ghét bỏ kích thích trong từng tế bào thần kinh của Gudrun. Khi vừa bước chân lên những bậc cầu thang, Ursula đã nhìn thấy ngôi nhà của gia đình cô, nằm im lìm vây quanh chỗ cô đứng. Cảm giác ghê tởm ùa về trong cô, cả cảm giác bẩn thỉu nhớp nhúa nữa, một không gian quá quen thuộc! Cô cảm thấy sợ hãi bởi sâu thẳm trong lòng mình, những dòng cảm xúc ghét bỏ chính ngôi nhà đang cuộn lên trong cô, là hoàn cảnh, là không khí và điều kiện của một cuộc sống cũ kỹ, lỗi thời và lạc hậu. Những dòng cảm xúc khiến cô sợ hãi. Mời các bạn đón đọc Người Đàn Bà Đang Yêu của tác giả D. H. Lawrence.
Gửi Asuka Và Đứa Con Chưa Chào Đời Của Bố
Tác giả Kazukiyo (1947-1979) là một bác sĩ nội khoa 31 tuổi, đang ở vào 4 tháng cuối cùng của cuộc đời do ung thư di căn. 11/1977, bác sĩ Kazukiyo phát hiện ra khối u ở đầu gối nên đã quyết định cắt bỏ chân phải. Anh lạc quan và can trường luyện tập phục hồi chức năng tới 5/1978 để quay lại bệnh viện làm việc. Nhưng số phận nghiệt ngã, tới cuối 8/1978, Kazukiyo thấy đau ngực và phát hiện ra tế bào ung thư đã di căn lên phổi. Không đầu hàng số phận, anh bắt đầu tự thực hiện liệu pháp miễn dịch mà không nói cho ai hay kể cả vợ và cha mẹ, ngoài 4 người giúp anh thực hiện liệu pháp. Anh đã kiên trì điều trị và gắng gượng làm việc được đến 12/1978 rồi đành nghỉ việc vì kiệt sức và về quê tĩnh dưỡng. Anh đã ngoan cường chiến đấu với bệnh tật tới giây phút cuối cùng và ra đi vào 21/1/1979. Từ khoảnh khắc biết ung thư đã di căn vào phổi và tự tính được thời gian còn lại, Kazukiyo đã quyết định viết cuốn sách để tặng cho trước hết là hai con của mình, Asuka 2 tuổi và con thứ hai đang trong bụng mẹ, và thứ nữa là cho vợ, cha mẹ, bạn bè đồng nghiệp, bệnh nhân cùng những ai đang giúp họ chiến đấu với bệnh tật. *** [REVIEW] GỬI ASUKA VÀ ĐỨA CON CHƯA CHÀO ĐỜI CỦA BỐ   Cuốn sách kể lại câu chuyện có thật về quá trình chiến đấu với căn bệnh ung thư của bác sĩ nội khoa Kazukiyo Imura dành tặng cho cô con gái nhỏ Asuka, và đứa con còn chưa chào đời. Cuốn sách best-seller đã bán được một triệu năm trăm nghìn bản, được chuyển thể thành movie và phim dài tập. Sự tử tế, trái tim nhân ái và lòng trân trọng cuộc sống của vị bác sĩ đã truyền động lực, niềm tin cho những người đang sống. Một cuốn sách lay động đến trái tim của hàng triệu độc giả tại xứ sở hoa anh đào và được chuyển ngữ tại Việt Nam. Cuốn sách là những chiêm nghiệm của tác giả về cuộc sống từ ngày còn nhỏ đến khi trở thành một bác sĩ nội khoa. Từ những sai lầm thủa ấu thơ để rồi sửa chữa mà lớn lên với tấm lòng đầy bao dung và ấm áp. Trong suốt quá trình làm việc tại bệnh viện, bác sĩ Kazukiyo Imura đã gặp rất nhiều trường hợp khi con người đứng giữa sự sống và cái chết. Và anh đã nhận ra rằng mọi người lựa chọn sống hay chết, nỗ lực từng ngày hay tuyệt vọng buông xuôi đều có lý do của nó. Đừng buông những lời cay đắng khi bạn chưa biết được người khác đã phải trải qua những gì. Anh viết “ Người ta thường nói rằng những kẻ tự sát là những kẻ yếu đuối. Bố không nghĩ thế. Bố tự hỏi, liệu nỗi đau phải lớn tới mức nào mới dồn ép họ tới hành động đòi hỏi dũng khí như tự tử.”   Khi biết mình mang căn bệnh quái ác, bác sĩ Kazukiyo Imura đã chiến đấu với nó thật can trường. Sau khi cắt bỏ một chân, anh vẫn tiếp tục đến bệnh viện làm việc với cái chân giả. Dù khó khăn hơn những bác sĩ khác nhưng điều đó không cản được mong muốn chữa bệnh cho bệnh nhân trong anh. Anh hiểu rằng không ai hiểu người bệnh hơn một bác sĩ cũng đang bị căn bệnh giống họ. Với tinh thần lạc quan ấy, cuốn sách dù viết về quá trình chiến đấu với căn bệnh ung thư, có những đoạn khiến người đọc nghẹt thở vì thương cảm, xót xa nhưng lại không mang đến cảm giác u buồn, tuyệt vọng. Bởi khi đối diện với cái chết đến gần, bác sĩ Kazukiyo Imura vẫn luôn mang lòng biết ơn đối với cuộc sống, với những người đã giúp đỡ, yêu thương mình trong cuộc đời ngắn ngủi. Bên cạnh đó cũng có những phút giây vị bác sĩ dũng cảm ấy yếu lòng khi nghĩ đến việc phải rời xa gia đình thân yêu, đặc biệt là Asuka bé nhỏ và đứa con còn chưa chào đời. Những phút giây ấy cũng khiến độc giả thấy tim mình trùng xuống vì đọc những lời nghẹn ngào “Bố có thể ở cùng Asuka đến khi nào? Bố còn có thể ôm Asuka đến khi nào? Nhìn Asuka, nước mắt bố cứ trào ra”. Cũng chính tình yêu thương ấy đã là động lực to lớn để giúp tác giả hoàn thành cuốn sách để giành tặng hai đứa con bé nhỏ trong khi phải chiến đấu với những cơn đau bởi khối u di căn sang phổi. Người đàn ông 31 tuổi nhắn gửi các con rằng: “Khi lớn lên, hãy trở thành những đứa trẻ tốt bụng và có lòng vị tha. Thêm vào đó, hãy biết trân trọng mẹ các con. Để nuôi dạy các con, mẹ đã phải chịu đựng bao nhiêu là khổ cực. Và ngay cả với bố, mẹ cũng dốc hết tâm can mà hết mực dịu dàng”. Một cuốn sách không lời văn hoa sáo rỗng, vì đó là tất cả tấm lòng của người bố viết cho con mình vì sợ khi chúng lớn lên không có chút ký ức nào về người bố đã mất sớm. Đó là tình yêu đã đi cùng vợ và hai con trong suốt quãng thời gian sau này, khi không có anh ở bên... *** Lời nói đầu Chồng tôi, Imura Kazukiyo, qua đời vào ngày 21 tháng 1 năm 1979, thấm thoắt cũng đã hai mươi sáu năm. Thời gian gần đây, quyển sách này đã trở thành ấn phẩm bán chạy, thường xuyên xuất hiện trên đài NHK và còn được dựng thành phim, giúp cho rất nhiều quý vị biết đến người chồng quá cố của tôi. Chúng tôi cũng nhận được vô số lời động viên khích lệ từ khắp nơi trên cả nước. Từ đáy lòng tôi cảm thấy vô cùng biết ơn. Thực tình, tôi rất muốn hồi đáp từng vị một, nhưng việc đó là quá sức nên tôi thành thật ngỏ lời xin lỗi. Khi chồng tôi mất, con gái đầu Asuka của chúng tôi mới được hai tuổi, giờ cháu đã hai mươi tám. Còn “đứa con chưa chào đời” mà chồng tôi đã không thể gặp mặt vào ngày hạ sinh - thứ nữ Seiko cũng đã bước sang tuổi hai mươi sáu. cho tới nay, điều duy nhất tôi ngóng trông là sự trưởng thành của hai con, và may thay chúng đều khỏe mạnh, bình yên vô sự mà nên người. Cũng giống như tôi và chồng, cả hai cháu đều làm công việc liên quan tới lĩnh vực y tế. Bản thân tôi, nhờ các con gái, cũng được trau dồi thêm về khái niệm đời sống thời nay và sự đổi thay, cải thiện của môi trường chăm sóc sức khỏe. Ngoài ra, mùa xuân vừa rồi, con gái thứ hai Seiko của tôi đã nên duyên và kết hôn. Chú rể cũng là người làm trong ngành Y. Nhân cơ hội đó, nhà xuất bản Shodensha đã nói chuyện với tôi về việc tái bản sách. Ngẫm ra thì, tôi cảm thấy chưa có thời đại nào mà câu hỏi về sức nặng của sinh mệnh lại được đặt ra nhiều như bây giờ. Tôi quyết định chấp nhận lời đề nghị tái bản, bởi tôi mong muốn rằng, càng nhiều người càng tốt có thể thấu hiểu lòng biết ơn vô vàn mà người chồng quá cố của tôi đã dành cho những điều rất đỗi hiển nhiên. Tôi cũng mượn dịp này để gửi lời cảm tạ chân thành tới những người đã luôn giúp đỡ chúng tôi bấy lâu nay. Thực sự cảm ơn mọi người. Một ngày đẹp trời tháng 7 năm 2005 Imura Michiko *** Vì biết rằng mình chẳng còn sống được bao lâu nữa, nên tôi đã luôn suy nghĩ về một chuyện. Tranh thủ những ngày tháng ít ỏi còn lại, tôi muốn viết một quyển sách. Đó sẽ là bằng chứng cho thấy tôi đã sống trên đời này hơn ba mươi năm, là lời cảm ơn từ tận trong tâm dành cho những người đã vì tôi mà rơi lệ, cũng là món quà duy nhất của một người bố dành tặng hai đứa con thơ ngây cờn chưa hiểu sự đời, và là kỉ vật của lòng tôi. Bởi vậy, tôi muốn viết lời đề tặng cho quyển sách này như sau: Xin dành tặng quyển sách nhỏ này cho hai con đáng yêu của bỗ; cho vợ - người tới tận những giây phút cuối cùng vẫn hết lòng yêu thương anh; cho bố mẹ đáng kính - hai người đã đau buôn vì bệnh tật của con hơn bất kì ai; cho những người bạn tuyệt vời; cho các em, họ hàng, đồng nghiệp, người thân quen đã dùng thương yêu mà bao bọc giúp đỡ tôi; cho các bệnh nhân vẫn luôn chờ đợi tôi trở về; cho những người đang thống khổ vật lộn trên giường bệnh và cho những ai mang trái tim thiện lương đang chung nỗi đau cùng họ trên toàn thế giới. Imura Kazukiyo Mời các bạn đón đọc Gửi Asuka Và Đứa Con Chưa Chào Đời Của Bố của tác giả Kazukiyo Imura & Thùy Dương (dịch).
Cô Gái Người Anh
Madeline Hart là ngôi sao đang lên trong đảng cầm quyền ở Đảo quốc Anh: xinh đẹp, thông minh, đã vượt lên tuổi thơ khốn khó để có được chỗ đứng trong xã hội. Tuy nhiên Madeline đang mang một bí mật đen tối: cô là nhân tình của Thủ tướng Jonathan Lancaster. Biết chuyện, những kẻ bắt cóc cô quyết tâm buộc nhà lãnh đạo Anh phải trả giá đắt cho tội lỗi của mình. Lo sợ vụ bê bối sẽ làm tiêu tan sự nghiệp, Lancaster muốn giải quyết vấn đề này một cách âm thầm thay vì giao phó cho cảnh sát. Đúng là một nước bài đầy rủi ro, không chỉ đối với Thủ tướng mà còn cho những ai dấn thân vào nhiệm vụ này. Bảy ngày – Một cô gái – Không có cơ hội thứ hai. Gabriel Allon – sát thủ bậc thầy, nhà phục chế nghệ thuật trứ danh và là điệp viên kỳ cựu của Israel, không còn lạ lẫm gì với các nhiệm vụ hiểm nguy hay rắc rối chính trị – chấp nhận đương đầu với thử thách. Trong từng tiếng tích tắc của đồng hồ, Gabriel không ngừng tìm cách giải cứu Madeline. Nhiệm vụ đã đưa ông đi từ thế giới ngầm tội ác của Marseilles đến vùng thung lũng biệt lập của Provence, đến các hành lang sang trọng nhưng đã lu mờ của chốn quyền lực London – và cuối cùng, là đến nơi tột cùng kinh hoảng – Moscow, thành phố của bạo lực và gián điệp, nơi có cả một danh sách dài những kẻ muốn Gabriel phải chết. *** LÀNG PIANA, ĐẢO CORSE BỌN CHÚNG ĐẾN tìm cô cuối tháng Tám trên đảo Corse*. Thời gian chính xác sẽ không bao giờ xác định: dù đã cố hết sức, bất cứ người bạn nào ở chung nhà với cô cũng chỉ biết là thời điểm nào đó từ lúc mặt trời lặn đến giữa trưa ngày hôm sau. Mặt trời lặn là lúc họ nhìn thấy cô lần cuối, đang phóng nhanh trên chiếc xe máy scooter* màu đỏ ra khỏi lối vào biệt thự, một chiếc váy bằng vải bông mỏng tang phấp phới trên cặp đùi rám nắng. Đến giữa trưa là lúc họ nhận thấy giường cô trống không, chẳng có gì ngoài một cuốn tiểu thuyết bìa giấy rẻ tiền đang đọc dở dang thơm mùi dầu dừa và thoang thoảng mùi rượu rum. Hai mươi bốn giờ nữa trôi qua rồi họ mới quyết định đi gọi hiến binh* Pháp tới. Đã có một mùa hè như thế, và Madeline là một cô nàng như thế. Họ đã tới đảo Corse nửa tháng trước, bốn cô nàng xinh đẹp và hai anh chàng đứng đắn, tất cả đều là công chức mẫn cán của chính phủ Vương quốc Anh, hoặc là đảng viên đảng cầm quyền dạo ấy. Họ có một chiếc xe hơi đơn sơ, một chiếc hatchback hiệu Renault của cơ quan vừa đủ lớn để sắp xếp cho năm người ngồi không được thoải mái, và một chiếc scooter màu đỏ là độc quyền của riêng Madeline mà cô vốn cứ cưỡi nó rồi phóng đi bạt mạng gần như là tự sát. Biệt thự màu đất son của họ tọa lạc ở rìa phía Tây ngôi làng trên một mỏm đá nhìn ra biển cả. Nó ngăn nắp gọn gàng và vững chắc, một kiểu cơ ngơi mà các nhân viên môi giới bất động sản vẫn luôn mô tả là “quyến rũ”. Còn có một hồ bơi và một khu vườn có tường rào đấy những bụi hoa hương thảo và những cây mát tít; và trong hàng giờ đồng hồ đổ bộ lên đảo, họ đắm mình trong một tình trạng bán khỏa thân cháy nắng thật sung sướng, điều mà các du khách Anh luôn khát khao mong mỏi, bất kể chuyến lữ hành đưa họ đến đâu. Mặc dù Madeline trẻ nhất trong nhóm, nhưng lại là người chỉ huy không chính thức của họ, một gánh nặng mà cô chấp nhận chẳng hề phản đối. Chính Madeline đã lo thuê biệt thự, và Madeline đã sắp xếp các bữa ăn trưa kéo dài, các bữa ăn tối muộn màng và chuyến đi một ngày vào nội địa hoang dã của đảo Corse, lúc nào cô cũng dẫn đầu dọc theo con đường đầy bất trắc trên chiếc scooter của cô. Không chỉ một lần cô bực bội vì phải dừng xe tham khảo bản đồ. Kiến thức thuộc hàng bách khoa toàn thư của cô về hòn đảo này trên các phương diện địa lý, lịch sử, văn hóa và ẩm thực được tích lũy trong suốt quá trình nghiên cứu và chuẩn bị kỳ công trong những tuần lễ trước ngày lên đường. Dường như Madeline chẳng hề phó mặc cho may rủi bất cứ việc gì. Nhưng rồi hiếm khi cô làm những việc đã chuẩn bị kỹ. Cô đã đến làm tại trụ sở của đảng tại tòa phức hợp Millbank hai năm trước, sau khi tốt nghiệp Đại học Edinburgh với tấm bằng cử nhân kinh tế và các chính sách xã hội. Mặc dù cô thụ hưởng một nền giáo dục hạng hai - hầu hết đồng nghiệp của cô đều được đào tạo từ các trường công dành cho giới thượng lưu và Oxbridge - cô thăng tiến nhanh chóng qua một loạt chức vụ ở văn phòng trước khi được thăng chức Giám đốc Bộ phận Hỗ trợ cộng đồng. Công việc của cô, như cô thường mô tả, là sục sạo tìm kiếm phiếu bầu trong các tầng lớp người dân Đảo quốc Anh chưa từng làm gì để ủng hộ đảng, cương lĩnh hay các ứng cử viên của đảng. Tất cả đều đồng ý chức vụ đó chẳng qua chỉ là một trạm dừng chân trên hành trình tiến tới những công việc tốt hơn. Tương lai của Madeline thật sáng chói - “rực sáng như mặt trời,” theo lời của Pauline, cô gái từng theo dõi sự thăng tiến của đồng nghiệp trẻ hơn mình với không ít ghen tỵ. Theo lời đồn đại lan truyền, Madeline đã được một nhân vật cao cấp trong đảng bảo bọc che chở. Ai đó thân cận với Thủ tướng. Thậm chí có lẽ chính Thủ tướng. Với ngoại hình ăn ảnh truyền hình, khả năng lập luận sắc bén và tiềm năng vô hạn, Madeline đang được chuẩn bị để ngồi vào một ghế an toàn trong Nghị viện và một bộ của riêng cô. Chỉ là vấn đề thời gian. Hay là người ta đã nói như vậy. Điều càng kỳ quặc hơn nữa là đã hai mươi bảy tuổi mà Madeline Hart, vẫn chưa bị tình cảm lãng mạn ràng buộc. Khi được yêu cầu giải thích về đời sống tình ái khô khan của mình, cô thường tuyên bố vì quá bận rộn nên không thể cặp đôi với đàn ông. Fiona, một người đẹp tóc đen hơi ác mồm ác miệng ở Văn phòng Nội Các, thấy lời giải thích đó thật đáng ngờ. Hơn nữa về điểm này, cô tin rằng Madeline vẫn hay lừa dối - tính hay lừa dối là một trong những tính cách mà Fiona cho là dễ chấp nhận nhất, vì vậy cô mới ưa thích các quan điểm chính trị của đảng. Để chứng minh lập luận của mình, cô thường chỉ ra rằng Madeline, trong khi vẫn nói huyên thuyên về hầu như mọi đề tài có thể nghĩ ra, lại đề phòng thủ thế một cách bất thường khi đề cập tới cuộc sống riêng tư. Đúng thế, Fiona nói, nó sẵn lòng tung ra những chuyện vặt vãnh vô hại thỉnh thoảng xảy ra trong thời thơ ấu không yên lành của mình - ngôi nhà hội đồng*buồn thảm ở Essex, ông bố mà khuôn mặt nó hoàn toàn không thể nào nhớ lại, người anh nghiện rượu cả đời chưa bao giờ làm việc một ngày nào - nhưng mọi chuyện khác nó vẫn giấu kín sau một con hào sâu và những bức tường bằng đá. “Có thể Madeline của chúng ta từng là sát thủ trên tình trường hoặc là gái hạng sang,” Fiona nói, “và bọn mình chả có đứa nào khôn hơn nó.” Nhưng Alison, một nhân viên cấp dưới ở Bộ Nội vụ đã có nhiều đổ vỡ, từng có một lập luận khác. “Con cừu non đáng thương đang yêu,” cô tuyên bố vào một buổi chiều khi ngắm Madeline như một nữ thần hiện lên từ biển cả trong một cái vũng nhỏ xíu bên dưới biệt thự. “Rắc rối là người đàn ông có liên quan không đáp lại ân tình ấy.” “Sao lại không nhỉ?” Fiona hỏi một cách đờ đẫn từ bên dưới cái vành mũ che nắng to tướng. “Có lẽ hắn ở một vị thế không thích hợp.” “Có vợ rồi ư?” “Lẽ đương nhiên là thế.” “Đồ khốn nạn.” “Cô chưa bao giờ sao?” “Từng có quan hệ với đàn ông có vợ ư?” “Phải.” “Chỉ có hai lần thôi. Nhưng tôi đang dự tính làm tiếp tập ba đấy.” “Cô sắp bị hỏa thiêu dưới địa ngục, Fi ạ.” “Tôi thực sự mong như thế đấy.” Chính là lúc đó, vào buổi chiều ngày thứ bảy, và dựa trên chứng cứ mong manh nhất, ba cô gái và hai chàng trai đang lưu trú với Madeline Hart trong biệt thự được thuê ở ven làng Piana đã tự đảm nhiệm việc tìm cho cô ấy một bạn tình. Pauline nói không phải chỉ là bất cứ tình nhân nào. Chàng ta phải phù hợp về tuổi tác, có ngoại hình đẹp và xuất thân thật tốt, tài chính và sức khỏe tâm thần phải ổn định, không có chuyện xấu xa nào phải giấu giếm và không có ả đàn bà nào khác trên giường chàng ta. Fiona vốn giàu kinh nghiệm nhất khi đề cập đến vấn đề của con tim, tuyên bố đấy là một sứ mệnh bất khả. “Hắn không tồn tại,” cô giải thích với nỗi chán chường mệt mỏi của một người đàn bà từng bỏ nhiều thời gian đi tìm tình nhân. “Còn nếu hắn tồn tại thì hoặc là đã có vợ, hoặc quá say mê công việc đến nỗi chả có thời gian trong ngày dành cho Madeline đáng thương.” Mặc cho những nghi ngại của mình, Fiona vẫn cứ đâm đầu vào thách thức, chẳng vì lý do nào khác ngoài việc thêm vào một chút mưu đồ cho kỳ nghỉ hè. May mắn là cô ta không hề thiếu các mục tiêu tiềm tàng, vì dường như một nửa dân số vùng Đông Nam nước Anh đã rời bỏ hòn đảo ẩm thấp của họ để đến với ánh nắng trên đảo Corse. Có một đoàn các nhà tài phiệt ở Khu Trung tâm thành phố London đã thuê một khu vực sang trọng ở đầu phía Bắc của Vịnh Porto. Và một đám họa sĩ đang sống như dân Gypsy trong một thị trấn trên đồi ở Castagniccia. Một đoàn làm phim tiếp tục lưu trú trên bãi biển Campomoro. Và một phái đoàn các chính khách đối lập đang mưu toan trở lại nắm lấy quyền lực trong một biệt thự trên đỉnh các mỏm đá ở thị trấn Bonifacio. Dùng danh nghĩa của Văn phòng Nội Các, Fiona đã nhanh chóng sắp xếp một loạt các cuộc gặp gỡ xã giao ngẫu hứng. Và trong mỗi dịp như thế - dù là một bữa tiệc tối, một cuộc đi bộ đường trường trên vùng rừng núi hoặc một buổi chiều say sưa túy lúy trên bãi biển - cô đều gài bẫy một anh chàng hiện diện đủ tư cách nhất và xếp đặt chàng ta bên cạnh Madeline. Tuy nhiên chả có ai vượt qua nổi cửa ải của cô nàng, ngay cả anh chàng diễn viên trẻ tuổi vừa mới hoàn thành thắng lợi cuộc đua vào vị trí dẫn đầu làng âm nhạc của khu Tây London với những bài hát được ưa thích nhất mùa hè này. “Rõ là cô ấy cho rằng việc này không hay,” Fiona thừa nhận khi họ quay đầu xe trở về biệt thự vào một đêm muộn nọ, với Madeline dẫn đường xuyên qua bóng tối trên chiếc scooter màu đỏ của cô. “Cô đoán xem anh ta là ai?” Alison hỏi. “Chả biết,” Fiona đáp, kéo dài ra với vẻ ghen tỵ. “Nhưng hắn ta chắc hẳn là ai đấy hoàn toàn đặc biệt.” Chính vào thời điểm này, khi chỉ còn khoảng chưa đấy một tuần trước khi họ trở về London như dự định, Madeline bắt đầu dành khá nhiều thời gian cho riêng mình. Mỗi buổi sáng cô ra khỏi biệt thự rất sớm, thường trước khi những người khác thức giấc, và trở về lúc đã xế chiều. Khi được hỏi đã đi những nơi nào, rõ là cô chỉ đáp mập mờ, và vào bữa ăn tối cô thường buồn rầu hay lo lắng. Alison lẽ tự nhiên đã lo sợ điều tệ hại nhất, rằng tình nhân của Madeline, dù là ai cũng vậy thôi, đã gửi tới cô ấy lời nhắn rằng sự quan tâm của cô là điều không cần thiết nữa. Nhưng ngày hôm sau, lúc trở về biệt thự sau một chuyến tham quan mua sắm, Fiona và Pauline vui vẻ tuyên bố rằng Alison đã nhầm. Dường như tình nhân của Madeline đã đến đảo Corse. Và Fiona còn có hình ảnh làm bằng chứng. Chuyện họ trông thấy đã xảy đến lúc hai giờ mười phút trong nhà hàng Les Palmiers, trên Bến cảng Adolphe Landry ở thị trấn Calvi. Madeline ngồi ở một cái bàn kê dọc theo mép bến tàu, đầu hơi quay về phía biển như thể không biết đến người đàn ông ngồi ở ghế đối diện. Cặp kính đen to lớn giấu kín đôi mắt. Một cái mũ rơm rộng vành thắt nơ con bướm màu đen thật khéo phủ bóng mát xuống khuôn mặt hoàn mỹ của cô. Pauline đã cố tiến sát lại gần cái bàn đó, nhưng Fiona cảm thấy có chuyện riêng tư căng thẳng trong khung cảnh ấy nên đã đề nghị một cuộc rút lui vội vã thay vào đó. Cô đã tạm dừng một thời gian vừa đủ để lén chụp thật nhanh tấm ảnh đầu tiên nhằm buộc tội bằng chiếc điện thoại di động của cô. Madeline có vẻ chẳng biết gì về vụ xâm phạm đời tư này, nhưng người đàn ông thì không. Ngay giây phút Fiona bấm nút chụp hình, đầu anh ta quay ngoắt đi, như thể cảnh giác bởi một bản năng động vật nào đó khi hình ảnh của mình bị bắt giữ trong một thiết bị điện tử. Sau khi tạm lánh sang một quán bia ngoài trời gần đó, Fiona và Pauline xem xét kỹ người đàn ông trong ảnh chụp. Mái tóc màu vàng khói, phất phơ trong gió và đầy nam tính. Nó xõa xuống trước trán, chỉnh lại một khuôn mặt góc cạnh bị chi phối bởi một cái miệng nhỏ trông có vẻ khá tàn bạo. Trang phục tựa như người miền biển: quần dài trắng, một cái áo sơ mi bằng vài oxford sọc xanh, một đồng hồ đeo tay to của thợ lặn, một đôi giày vải đế bằng phẳng không để lại dấu vết nào trên boong tàu. Hắn ta là hạng đàn ông kiểu ấy đấy, họ quả quyết. Một người đàn ông không bao giờ để lại dấu vết. Họ đoán hắn là thần dân Vương quốc Anh, mặc dù vẫn có thể là người Đức hay Bắc Âu, hoặc có lẽ như Pauline nghĩ, là hậu duệ của quý tộc Ba Lan. Tiền tài rõ ràng chẳng phải là vấn đề, minh chứng bởi chai rượu champagne đắt tiền đang đọng những giọt sương trong cái xô đá bằng bạc neo chặt vào cạnh bàn. Tài sản do hắn kiếm được chứ chẳng phải nhờ thừa kế, họ quả quyết, và không hoàn toàn trong sạch. Hắn là một con bạc. Có tài khoản ngân hàng ở Thụy Sĩ. Hắn thường du hành đến những nơi nguy hiểm. Chủ yếu là người biết suy xét cẩn trọng. Các công việc của hắn cũng giống như đôi giày vải đi trên tàu bè chẳng để lại một dấu vết nào. Nhưng chính hình ảnh của Madeline khiến họ bận tâm suy nghĩ nhiều nhất. Cô ấy chẳng còn là cô gái họ từng quen biết từ lúc còn ở London, hay thậm chí cô gái hai tuần qua từng ở chung trong một biệt thự. Dường như cô nàng đã xử sự theo một cách hoàn toàn khác hẳn. Một nữ diễn viên trong một cuốn phim khác. Người phụ nữ khác. Giờ đây, Fiona và Pauline đang suy đoán trên điện thoại di động như một cặp nữ sinh trung học, hai người tự viết lời thoại rồi thêm thắt phần xương thịt vào để dựng nên các nhân vật. Trong phiên bản câu chuyện này của họ, vụ việc đã bắt đầu một cách vô tội vạ với cuộc gặp gỡ tình cờ trong một cửa hàng dành riêng cho giới thượng lưu ở Phố New Bond. Cuộc tán tỉnh đã kéo dài, việc đạt mục đích mỹ mãn được hoạch định thật chu đáo. Nhưng đoạn kết của truyện tạm thời họ không nắm bắt được, vì trong đời sống thực nó vẫn chưa được viết ra. Cả hai cô đều đồng ý kết cục sẽ bi thảm. “Đấy là cách những truyện như thế này vẫn luôn kết thúc,” Fiona nói từ kinh nghiệm bản thân. “Con gái gặp con trai. Con gái phải lòng con trai. Con gái bị tổn thương và làm hết sức mình để hủy hoại con trai.” Fiona nhanh tay chụp thêm hai tấm hình của Madeline và tình nhân chiều hôm đó. Một tấm cho thấy họ đang dạo bước dọc theo bến cảng dưới bầu trời rực nắng, những khớp ngón tay len lén chạm vào nhau. Tấm hình thứ nhì chụp cành họ chia tay chẳng có một nụ hôn nào. Người đàn ông sau đó leo xuống một cái xuồng nhỏ hiệu Zodiac và bơi ra bến cảng. Madeline lên chiếc scooter màu đỏ của mình và nổ máy trở về biệt thự. Lúc về tới nơi cô không còn sở hữu cái mũ rộng vành thắt nơ con bướm màu đen thật khéo. Đêm hôm ấy khi điểm lại những sự việc vào buổi chiều của mình, cô chẳng hề đề cập đến một chuyến viếng thăm thị trấn Calvi, hoặc một bữa tiệc trưa với một người đàn ông có vẻ sung túc ở nhà hàng Les Palmiers. Fiona nghĩ đó là một màn trình diễn khá ấn tượng. “Madeline của chúng ta là một đứa nói dối tài giỏi phi thường,” cô nói với Pauline. “Có lẽ tương lai của nó xán lạn như người ta bảo. Ai biết được chứ? Thậm chí một ngày nào đấy nó có thể làm Thủ tướng ấy chứ.” Đêm hôm ấy bốn cô nàng xinh đẹp và hai anh chàng đứng đắn dự định ăn tối ở thị trấn Porto gần đó. Madeline đặt chỗ trước bằng thứ tiếng Pháp của các nữ sinh trung học và thậm chí còn bắt chủ nhà hàng giữ lại bàn tuyệt vời nhất của ông ta, đặt trên sân thượng có thể nhìn thấy toàn cảnh con đường đầy sỏi đá vòng quanh vịnh. Họ cứ tưởng sẽ tới nhà hàng theo như dự định của đoàn, nhưng trước bảy giờ một chút, Madeline lại thông báo sẽ đến thị trấn Calvi để uống rượu với một người bạn cũ từ thành phố Edinburgh tới. “Tôi sẽ gặp các bạn ở nhà hàng,” cô ngoái đầu lại la lớn rồi phóng nhanh ra khỏi lối vào biệt thự. “Trời đất ơi, cố gắng để đến đúng giờ là điều không thể.” Rồi sau đó cô đi mất. Chẳng ai nghĩ là kỳ quái khi cô không thể xuất hiện để dùng bữa đêm hôm đó. Họ cũng chẳng hề hốt hoảng khi thức giấc và thấy giường cô trống không. Đã có một mùa hè như thế, và Madeline là một cô nàng như thế.   Mời các bạn đón đọc Cô Gái Người Anh của tác giả Daniel Silva & Hoài Ngọc (dịch).