Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Trái Tim Đam Mê

Giàu có, xinh đẹp và đầy khiêu hãnh, Kristen Haardrad luôn luôn là nỗi khao khát của các anh chàng Viking chưa vợ. Nhưng với một trái tim tuổi trẻ đầy khao khát tình yêu như nàng thì cái vịnh Horten thật vô cùng nhỏ bé. Kristen trốn gia đình lên tầu đi tìm tình yêu cho chính mình. Royce, một thủ lĩnh Saxon tài giỏi, đẹp trai, nhưng có một mối căm thù sâu sắc đối với tất cả người Viking. Liệu khi gặp Kristen ngang ngược, thông minh, xinh đẹp chàng có bị cuốn hút và quên đi mối thù kia không? Chàng và nàng có tìm được hạnh phúc thật sự? *** Johanna Lindsey, tên thật là Johanna Helen Howard, sinh ngày 10 tháng 3 năm 1952 tại Đức, nhưng lại là một trong những nhà văn nổi tiếng ở Mỹ. Bà được mệnh danh là một trong những tác giả thành công nhất trên thế giới về tiểu thuyết lịch sử lãng mạn. Các tác phẩm của bà thường xuyên lọt vào danh sách bán chạy nhất do New York Times bình chọn.   Lindsey xuất bản cuốn sách đầu tay vào năm 1977, với tựa đề Captive Bride, và ngay lập tức đưa tên tuổi của bà đến với các độc giả yêu văn học. Đó chính là độc lực để bà tiếp tục cho ra đời rất nhiều cuốn tiểu thuyết ăn khách khác.   Tính đến năm 2006, những tác phẩm của bà đã bán được trên năm mươi tám triệu ấn bản và dịch ra mười hai ngôn ngữ trên toàn thế giới.   Bằng lối kể chuyện hài hước song cũng không kém phần lãng mạn và bất ngờ, Johanna đã không hề khiến người đọc thất vọng với những câu chuyện của mình. Bà đã gắn kết những con người với hoàn cảnh và số phận hoàn toàn khác biệt, tưởng chừng như không bao giờ có thể ở bên nhau, và cho hộ một kết thúc viên mãn.   Không chỉ có vậy, giọng văn tinh tế và vô cùng đặc trưng của Johanna cũng là điều luôn hấp dẫn độc giả. Mỗi nhân vật của bà luôn được khắc họa với cá tính nổi bật. Ngoài ra, chính sự kiên cường của họ trong tình yêu cũng góp phần tạo ra nét đặc sắc cho ngòi bút của bà.   Mời độc giả đọc các tác phẩm của Johanna Lindsey đã và sẽ được Bách Việt xuất bản: Ma lực tình yêu (2012), Nàng công chúa lưu lạc (2012), Gã cướp biển quý tộc (2012), Em là của anh (2012), Hãy nói yêu em (2013), Người thừa kế (2015), The devil who tamed her, A rogue of my own, Let love find you. ***   Dirk Gerhardsen tiếp đất và lượn vòng đến gần bờ sông, nơi có một nàng gái tóc vàng đã dừng lại. Kristen Haardrad nhìn lại phía sau như thể nàng đã thấy hắn, rồi buộc con ngựa lại và đi xuống nước. Phía ngược lại, nước vịnh Horten chảy nhanh theo dòng của nó. Nhưng một vại đá cuội đã phân dòng nó, nước chảy yên ả, phẳng lặng như mặt hồ. Dirk biết rằng nó cũng ấm áp tuyệt vời và quá cám dỗ để lờ đi với một nàng gái. Anh ta biết Kristen đang đến đây khi thấy nàng rời ngôi nhà của chú Hugh và cưỡi ngựa theo lối này. Khi họ còn nhỏ, rất nhỏ, họ đã từng đi bơi chung với nhau, có cả những anh trai và anh em họ của nàng. Kristen có một gia đình lớn, một ông cậu của nàng, Jard, sống bên bờ vịnh này, và hàng tá những anh em nàng cậu xa, tất cả bọn họ tin rằng mặt trăng và mặt trời xoay quanh nàng gái này. Cho đến gần đây, Dirk cũng đã nghĩ vậy. Hắn đã cho nàng trái tim mình và hỏi cưới nàng, như nhiều người khác đã làm trước đây. Nàng đã từ chối – nhẹ nhàng, hắn đã miễn cưỡng đồng ý - nhưng sự thất vọng gần như hủy hoại hắn. Hắn nhìn thấy nàng lớn lên, từ một nàng bé cao, vụng về trở về thành một phụ nữ tuyệt vời. Không có gì hắn muốn nhiều hơn ước muốn Kristen là của riêng mình. Dirk nín thở khi nàng bắt đầu cởi bỏ áo choàng linen. Hắn đã hi vọng nàng sẽ làm vậy. Đó là lý do tại sao hắn đi theo nàng, hy vọng – Odin giúp hắn – nàng làm thật. Cảnh tượng còn hơn hắn có thể chịu được – đôi chân thon dài… những đường cong mềm mại của hông nàng, tấm lưng thẳng, mảnh khảnh chỉ được bao phủ bởi một bím tóc dày, nâu vàng. Chỉ cách đây hai tuần, hắn đã nắm trong tay bím tóc dày đó và kéo hông nàng sát vào hắn trong một nụ hôn, làm hắn gần như điên lên. Nàng đã tát hắn, cái tát làm hắn thật sự lảo đảo. Vì Kristen không phải là nàng gái chân yếu tay mềm; thật ra nàng chỉ thấp hơn hắn có 2 inches và hắn thì cao 6 feet. Điều này chẳng dọa được hắn. Vào lúc đó, đúng thời điểm đó, hắn thật sự nghĩ hắn có thể nổi điên nếu không thể có nàng. Thật may, Selig, người anh kế của nàng đã đến, nhưng không may vì khó mà Dirk gặp nàng lần nữa và kéo nàng xuống đất. Hắn và Selig đều bị thương trong cuộc chạm tráng đó, và Dirk đánh mất người bạn tốt này – không phải bởi vì họ đã đánh nhau, hay vì Norsemen đã sẳn sàng đánh nhau vì bất cứ lý do gì, mà vì những gì hắn đã cố làm với Kristen. Và hắn không thể phủ nhận rằng hắn có lẽ đã chiếm lấy nàng, ngay tại đó, trên sàn chuồng ngựa của cha nàng. Hắn ắt hẳn đã chết rồi nếu hắn thành nàngng. Và người mà hắn phải chiến đấu không phải là anh trai nàng hay những anh em họ khác, mà là cha nàng, Garrick, ông sẽ tay không mà giết Dirk. Kristen bây giờ đang ở trong nước, nhưng việc không còn nhìn thấy toàn bộ cơ thể nàng nữa không làm dịu được ngọn lửa đang xuyên qua các tĩnh mạch hắn. Hắn đã không nghĩ sẽ phải chịu tra tấn thế nào khi ngắm nàng bơi. Hắn chỉ lập luận rằng nàng sẽ một mình, không có gia đình nàng ở đây, và đây có lẽ là lần duy nhất hắn có thể gặp riêng nàng. Đã có tin đồn rằng nàng sẽ sớm kết hôn, với Sheldon, người con cả của Perrin, bạn thân của cha nàng. Dĩ nhiên trước đây cũng có vô số những tin đồn, khi Kristen 19 tuổi, và trong 4 năm gần đây, mỗi một chàng trai khỏe mạnh ở dọc vịnh này đều đã cầu hôn nàng. Nàng đang bơi ngữa trên mặt nước, những ngón chân hiện ra, đỉnh đùi mịn màng của nàng, ngực nàng… Loki dẫn dắt nàng, nàng đang mời gọi sự xâm phạm! Dirk không thể ngăn mình được nữa. Hắn vội vã xé toạc quần áo mình. Kristen đã nghe tiếng nước bắn tung tóe và nhìn theo hướng mà nàng đoán là nơi phát ra tiếng động, nhưng không có gì cả. Nàng nhanh chóng lượn một vòng, hồ nước ấm áp này không có ai khác ngoài nàng, chỉ có những làn sóng lăn tăn mà nàng đã tạo ra. Tuy nhiên, nàng bắt đầu bơi về phía bờ mà nàng đã để áo quần của mình, cùng với thứ vũ khí duy nhất của nàng, chiếc dao găm có nạm đá quý, nó đã cùn như một món trang sức chứ không còn là vũ khí nữa. Nàng đúng là ngốc khi đến đây một mình thay vì đợi một trong những người anh của mình đi cùng. Nhưng họ quá bận rộn chuẩn bị cho con tàu Viking của cha nàng, chiếc tàu mà tuần tới Selig sẽ xuôi miền đông, và ngày hôm nay ấm áp tuyệt vời sau một mùa xuân mát mẻ và một mùa động lạnh khác thường. Nàng không thể chống lại sự cám dỗ này. Đây như một cuộc phiêu lưu, làm những việc nàng chưa bao giờ làm, và nàng thật sự thích phiêu lưu. Nhưng tất cả những cuộc phiêu lưu của nàng trước đây đều chia sẽ với người khác. Và có lẽ là không khôn ngoan khi cỡi bỏ hết quần áo thế này, dù lúc này làm như vậy thật là một sự liều lỉnh tội tệ, và nếu Kristen là bất cứ thứ gì, thì đó là sự liều lĩnh. Luôn là như vậy, ngay bây giờ, nàng đã hối hận. Chỉ ngay khi chân nàng chạm đất, hắn đã đứng trước mặt nàng, to lớn và đầy đe dọa. Kristen rên thầm rằng đó là Dirk thay vì ai đó, vì hắn đã từng cưỡng bức nàng, và nhìn vào mặt hắn cứ y như cách đây 2 tuần. Hắn là một người đàn ông khỏe mạnh, rắn chắc, như anh Selig của nàng. Thật ra họ đã từng là bạn thân, cùng tuổi với nhau. Nàng cũng từng xem hắn là bạn, cho đến ngày hắn tấn công nàng trong chuồng ngựa. Hắn đã thay đổi, từ một cậu bé mà nàng cùng lớn lên, cùng cưỡi ngựa, đi săn, đi bơi. Hắn ta quả là đẹp trai với mái tóc vàng sậm và đôi mắt nâu vàng. Nhưng hắn không phải là Dirk mà nàng biết, nàng rất sợ những gì đã xảy ra ngày hôm đó lại tái diễn. “Em không nên đến đây, Kristen.” Giọng hắn nhỏ, khàn khàn. Mắt hắn ta bị thu hút bởi những giọt nước lấp lánh trên hàng mi dài của nàng.Nước đang nhỏ giọt xuống đôi gò má cao và chiếc mũi thẳng. Nàng liếm môi và hắn ta rên lên. Kristen đã nghe thấy và mở to mắt, không phải sự cảnh báo, mà là nguy hiểm. Đôi mắt đó giống như cha nàng, xuyên qua bầu trời, biển cả và mặt đất, với ánh mặt trời đằng sau để làm chúng thàng màu xanh biển sáng. Chỉ ngay lúc này, chúng có màu ngọc lam, hoảng loạn, như bão biển đang dậy sóng. “Để tôi đi, Dirk” “Anh nghĩ là không đâu” “Nghĩ lại đi.” Nàng không lên giọng, không cần phải làm vậy. Cơn giận của nàng là bằng chứng trong mỗi đường nét trên khuôn mặt nàng. Nhưng Dirk là một con ác quỷ đang quay lưng, con quỷ của sự thèm khát. Đã qua rồi cái suy nghĩ thật may mắn sao hắn không cưỡng bức nàng trước đây. “Ah, Kristen.” Hắn đưa tay tóm lấy đôi vai trần của nàng, giữ thật chặt khi nàng cố để thoát khỏi. “ Em có biết em đang làm gì với anh không? Em có biết gì về việc một người đàn ông có thể mất trí thế nào khi ham muốn một phụ nữ xinh đẹp như em không?” Một tia nguy hiểm lóe lên trong mắt nàng. “Anh mất trí nếu anh nghĩ…” Miệng hắn đáp xuống một cách hung bạo để ngăn nàng nói. Đôi tay hắn túm vai nàng kéo lại gần, ép ngực nàng vào hắn. Kristen ngạt thở. Miệng hắn đang chà xát môi nàng đau đớn và nàng ghét điều đó, ghét cảm giác cơ thể hắn áp sát vào nàng. Việc họ gần như cùng chiều cao làm cho cái nam tính của hắn ở ngay vị trí hắn tìm kiếm, và nàng ghét điều đó nhất. Nàng không ngờ nghệch đến nổi không biết cách mà một người đàn ông và một phụ nữ như thế nào khi họ ân ái. Mẹ nàng, Brenna, đã dạy nàng tất cả về việc này, nhưng đây không phải như thế, không khi mà nàng chỉ cảm thấy sợ hãi. Nàng nguyền rủa sức mạnh của hắn khi nàng cố gắng để thoát khỏi vòng tay hắn. Nàng ngưỡng mộ sức mạnh và sự can đảm của đàn ông nhưng không khi nó trực tiếp chống lại nàng. Dirk ắt hẳn không gặp trở ngại gì để tìm được lối vào và cướp đi đời con gái của nàng. Nàng sẽ giết hắn nếu hắn làm thế, hắn không có quyền đó. Chỉ nàng mới có quyền tặng nó cho người mà nàng muốn cho, nàng sẽ vui sướng làm điều đó. Nhưng không phải như thế này, và Dirk không phải con người. Nhận ra môi hắn đang ở giữa hàm răng mình, nàng cắn mạnh, móng tay nàng cắm sâu vào ngực hắn cùng lúc đó. Nàng cắn mạnh thêm cho đến khi hắn bỏ tay khỏi người nàng; lúc này nàng đẩy hắn ra cho đến khi họ thay đổi vị trí. Hắn có thể tấn công nàng để có thể tiếp tục, nhưng nàng dĩ nhiên sẽ xé toạc môi hắn ra và hắn chắc chắn nhận ra điều đó. Nhưng nàng không có cơ hội, tiếp tục cắn chặt môi hắn cho đến khi bất ngờ đá vào bụng hắn. Nàng nhả môi hắn ra vào đúng ngay lúc nàng dùng bụng hắn là ván đệm, bật chạy về phía bờ sông và Dirk bật ngược xuống nước. Việc hắn ngã xuống nước cho nàng thời gian để thoát khỏi mép nước và túm chặt dao găm trước khi hắn đến gần. Nhưng hắn không thử. Nhìn vào vũ khí của nàng làm hắn do dự một chút. “Em lắm trò như là con gái của Loki vậy!” Dirk thốt ra một cách đau đớn, chùi máu ở môi, trừng mắt giận dữ với nàng. “Đừng so sánh tôi với ông thần của anh, Dirk. Mẹ tôi nuôi lớn tôi là con chiên Thiên Chúa” “Anh không quan tâm em tin vào vị thần nào,” hắn vặn lại. “Bỏ con dao xuống, Kristen.” Nàng lắc đầu. Giờ nàng đã bình tĩnh, hắn nhìn thấy điều đó, bây giờ nàng có vũ khí trong tay. Và, nhờ Odin, nàng thật lộng lẫy, đứng đó hoàn toàn khỏa thân với những giọt nước lấp lánh khắp cơ thể, ngực nàng đầy đặn như trêu chọc hắn, cái bụng phẳng, mềm mại được bao phủ bởi đám cỏ rối hung vàng trải ra giữa hai chân nàng. Và nàng đang thách thức hắn, thách thức hắn di chuyển về phía nàng, và nắm chặt cái dao găm như thể nàng biết sử dụng nó vậy. “Anh nghĩ mẹ em đã dạy em nhiều thứ hơn là chỉ yêu mến Chúa trời.” Sự cay đắng trào lên giọng hắn. “Cha và anh trai em không bao giờ dạy em sử dụng thứ đồ chơi đó, cũng không tha thứ cho em vì đã học nó, vì đó sẽ là sĩ nhục khả năng bảo vệ em của họ. Quý bà Brenna đã dạy em các trò của người Celtic, phải không? Sau nhiều năm lẽ ra bà ta nên học được rằng các kỹ năng của Celtic không ăn nhầm gì với chiến binh or cướp biển vùng Bắc và Tây u chứ. Bà ấy đã dạy em điều gì nữa, Kristen?” “Tôi biết sử dụng mỗi loại vũ khí trừ rìu vì đó là thứ vũ khí vụng, không cần phải biết cách sử dụng.” Nàng trả lời một cách tự hào. “Vụng chỉ bởi vì em không đủ sức để dùng nó,” hắn đáp trả một cách cáu kỉnh. “Và cha em sẽ nói gì nếu ông ấy biết? Anh cá là ông sẽ dung roi da mà quất hai người.” “Anh sẽ nói với cha tôi à?” Nàng chế nhạo. Hắn nhìn trừng nàng. Dĩ nhiên hắn không kể với cha nàng, vì lúc đó hắn sẽ phải giải thích tại sao hắn biết việc đó. Và cái nhếch mép trên môi nàng nói lên rằng nàng đã biết. Nghĩ đến Garrick Haardrad, người cao hơn hắn cả 30cm và vẫn còn rất đường bệ, đã làm nguội một ít hăng hái của hắn – không phải tất cả. Hắn nhướng mày thăm dò phản ứng của nàng. “ Anh có gì không ổn mà em từ chối anh, Kristen?” Câu hỏi làm nàng kinh ngạc, được thốt ra nhẹ nhàng kèm theo chút bối rối. Hắn đứng trước nàng với ánh mắt trống rỗng và niềm kiêu hãnh cứng nhắc. Mắt nàng do dự quét qua người hắn. Nàng không khó chịu với những gì nàng thấy, nàng đã từng nhìn thấy những người đàn ông khỏa thân khi cùng bạn thân của mình, Tyra, lẽn vào nhà tắm của chú nàng, trốn sau thùng nước và nhìn các anh họ nàng tắm. Dĩ nhiên chuyện đó cách đây 10 năm rồi, và có sự khác biệt chứ. Nàng chưa bao giờ nhìn thấy cái vật đàn ông đang thẳng tưng và đầy kiêu hãnh như Dirk hiện giờ. Kristen thành thật trả lời với hắn, vì đáng phải như thế. “Anh không có gì không được cả, Dirk. Anh có thân hình rất đẹp và bắt mắt. Cha anh có một trang trại giàu có và anh là người thừa kế. Một người phụ nữ chắc chắn rất hài lòng lấy anh làm chồng.” Nàng không thêm rằng Tyra thậm chí sẽ mặc cả với các vị thần để có được hắn và đó là lý do tại sao Kristen sẽ không có ý với hắn. Tyra đã yêu người đàn ông này 5 năm, nhưng hắn không biết điều đó. Và Kristen đã thề sẽ không bao giờ kể với ai bí mật của bạn mình, nhất là Dirk. “Anh chỉ đơn giản là không dành cho tôi, Dirk Gerhardsen,”. Nàng kết thúc một cách chắn chắn. “Tại sao?” “Anh không làm tim tôi xao động.” Hắn nhìn nàng ngờ vực,gặng hỏi “ Điều đó có liên quan gì đến việc kết hôn chứ?” . Mọi thứ, nàng nói với bản thân mình. Với hắn, nàng chỉ nói “ Tôi xin lỗi, Dirk, Tôi không muốn kết hôn với anh. Tôi đã nói với anh rôi.” “Có thật em sẽ kết hôn với Sheldon?” Nàng có thể nói dối và dùng nó như cái cớ để thoát khỏi tình thế này, nhưng nàng không muốn nói dối chỉ để làm mọi thứ dễ dàng hơn. “Sheldon như là một người anh trai đối với tôi, bố mẹ tôi muốn tôi cưới anh ấy nhưng tôi cũng đã từ chối.” Và anh ấy thấy nhẹ nhõm, nàng nhủ thầm, vì anh ấy cũng xem tôi như em gái, cũng cảm thấy không thoải mái với cái viễn cảnh một đám cưới giữa chúng tôi.“Rồi em sẽ phải chọn ai đó, Kristen. Mọi đàn ông ở dọc cái vịnh này đều đã hỏi cưới em một lần rồi, có khi hơn. Em lẽ ra đã cưới lâu rồi.” Đây không phải là chủ đề hay ho gì với Kristen, bởi vì nàng rõ hoàn cảnh của mình hơn bất cứ ai, không có người đàn ông độc thân nào ở quanh sông này nàng muốn cưới cả. Nàng muốn có một tình yêu đẹp như bố mẹ nàng đã có với nhau, nhưng nàng biết cuối cùng rồi nàng cũng phải từ bỏ. Nàng đã hoãn lại nhiều năm rồi, bằng cách từ chối tất cả những lời cầu hôn, và bố mẹ nàng để mặc nàng làm vậy vì họ yêu thương nàng. Nhưng nàng không thể tiếp tục làm thế nữa rồi. Nàng điên tiết với Dirk vì đã làm nàng nhớ lại sự tuyệt vọng của mình, cái mà đã ở trong đầu nàng nhiều năm qua. “Tôi chọn ai không liên quan tới anh, Dirk, vì đó sẽ không phải là anh. Nghĩ lại đi và tìm người khác, xin đừng làm phiền tôi nữa.” “Anh có thể chiếm đoạt em, Kristen, và buộc em phải cưới anh,” hắn cảnh cáo nhẹ nhàng. “ Vì em đã từ chối quá nhiều lời cầu hôn rồi, cha em sẽ vui mừng trao em cho anh sau khi anh đã hủy hoại em” Đó là một khả năng. Dĩ nhiên cha nàng sẽ đánh hắn nhừ tử trước. Nhưng nếu Dirk vẫn sống sau đó, nàng sẽ bị ép lấy hắn. Sự thật thì nàng không còn là thiếu nữ nữa để mà xem xét. Kristen quắc mắt nhìn hắn. “Nếu cha tôi không giết anh, tôi sẽ làm việc đó. Đừng ngốc thế, Dirk, tôi sẽ không bao giờ tha thứ cho trò bẩn thĩu đó” “Nhưng em sẽ là của anh.” “Tôi nói tôi sẽ giết anh!” “Anh nghĩ là không,” hắn nói với quá nhiều tự tin vì ham muốn nàng. “Anh nghĩ rất đáng để liều.” Mắt hắn ở trên ngực nàng khi hắn nói câu đó. Kristen cứng người. Lẽ ra nàng không nên đứng đó mà nói chuyện với hắn. Lẽ ra nàng nên nhảy lên Torden và cưỡi thẳng đi thay vì túm lấy con dao găm mà đối mặt với hắn. “Giờ thì thử đi, chết tiệt đôi mắt của anh, tôi sẽ giết anh sớm hơn.” Kristen rít lên. Dirk nhìn vào con dao của nàng lần nữa và thấy nàng dơ nó lên theo cách nó chắc chắn sẽ trúng mục tiêu trước khi hắn có thể tước nó từ tay nàng. Chỉ khi nàng không cao bằng hắn, và sức mạnh thì thường đi kèm với chiều cao… Cơn giận của hắn bốc lên lần nữa, nhưng bây giờ nó hướng về mẹ nàng, bà ta đúng là điên rồi mới day nàng kỹ năng chiến đấu. Hắn gầm gừ “Em sẽ không luôn có món đồ chơi đó trong tay, Kristen.” Nàng hếch cằm. “ Anh là một tên ngốc mới cảnh báo tôi thế. Bây giờ tôi sẽ bao giờ để anh bắt gặp một mình nữa đâu.” Hắn kích động. “Vậy thì em nên chắc rằng cửa phòng luôn khóa khi đi ngủ, bằng cách nào đó, vào ngày nào đó, sớm thôi, anh sẽ có cách chiếm được em.” Kristen không thèm đáp trả lời đe dọa đó, mà khom người để nhặt nhạnh quần áo dưới chân và kéo chúng qua vai. Không rời mắt khỏi Dirk, nàng lui lại túm lấy dây cương của Torden và đi về phía con ngựa của mình. Khi đi một khoáng xa, nàng nắm lấy cái bờm trắng mượt mà của Torden và nhảy lên lưng nó.” Nàng có thể nghe thấy những lời nguyền rủa điên tiết của Dirk phía sau lưng mình, nhưng nàng chẳng quan tâm, điều nàng đang lo bây giờ là làm sao mặc quần ao vào mà không phải cho ngựa đi chậm lại, trước khi nàng đến gần lãnh địa của Haardrad và ai đó sẽ trông thấy nàng. Nàng sẽ không thể giải thích, và sự thật sẽ làm sự do của nàng bị giới hạn một khắc khe, còn Dirk Gerhardsen thì rơi vào đống lộn xộn. Nếu không phải vì những cấm kỵ đó, nàng sẽ thừa nhận những gì xảy ra, nhưng nàng đánh giá cao sự tự do của mình. Cha nàng lo lắng về nàng như thế đủ rồi. Mẹ nàng thì không, trong suốt những mùa hè mà cha nàng ra khơi và mang theo các anh trai cùng đi, bà đã dạy cho nàng rất tốt các kỹ năng tự vệ. Brenna đã dạy nàng cách bí mất để học từ cha nàng kỹ năng và xảo thuật cần thiết để sử dụng vũ khí chống lại kẻ địch mạnh hơn mình, phải có thủ đoạn bởi vì dù nàng có cao hơn mẹ nàng ½ foot, mạnh hơn hầu hết phụ nữ, nàng cũng không đủ mạnh so với 1 người đàn ông. Kristen tự hào vào khả năng tự vệ của nàng, nhưng đây là lần đầu tiên nàng kiểm chứng khả năng đó. Ngoài Selig, lớn hơn nàng 2 tuổi, còn có Eric, 16 tuổi, và Thorall, 14 tuổi, cả hai đứa đã to lớn gần bằng người cha vĩ đại của họ rồi. Nàng còn có người anh họ Athol, chỉ lớn hơn Selig vài tháng, và hàng tá anh em họ xa bên nhánh của cha nàng nữa, họ sẽ chiến đấu thậm chí tới chết để giảm tối thiểu tổn thương cho nàng. Không, nàng sẽ tự vệ tốt và không cần phải chứng minh bản thân như mẹ nàng cảm thấy cần khi bà ở tuổi nàng. Cho đến hôm nay. Nếu như nàng ra khơi với Selig và bạn anh tuần tới để đến các thị trấn thương mại ở Miền Đông, nàng sẽ không cần phải lo lắng về Dirk nữa – ít nhất cho đến khi nàng quay lại vào cuối mùa hè. Cho đến lúc đó, có lẽ hắn đã tìm được một nàng vợ rồi và sẽ không phiền nàng nữa. Trời ạ, nàng đã xin được tham gia chuyến đi này nhưng đã bị từ chối rồi. Nàng đã dư lớn để ra khơi với nhiều người đàn ông trẻ tuổi này rồi, dù đó là một trong những con tàu của cha nàng, với sự trông nom của Selig. Nếu Garrick không đi, nàng cũng không được đi, thế đấy. Thậm chí nàng đã tinh vi trêu chọc rằng có thể nàng sẽ gặp một ông hoàng kinh doanh như ông ở Birka or Hedeby để đem về làm chồng cũng không lay chuyển được ông. Nếu ông không ở đó để trông nom nàng như những lần ông đã đem nàng và mẹ nàng theo, thế thì, nhờ thần Odin, nàng phải ở nhà. Garrick đã không ra khơi tám năm nay rồi, ông thích trải qua hàng tháng hè với Brenna hơn, ông để bạn ông, Perrin, chỉ huy con tàu của mình, or Selig, vì giờ anh đã đủ tuổi làm việc đó. Bố mẹ Kristen sẽ cưỡi xuống phía bắc, một mình, và sẽ không quay lại cho đến hết hè. Họ sẽ cùng nhau đi săn, khám phá, yêu nhau, và Kristen luôn ước mình có sẽ có được tình yêu như họ. Nhưng ở đâu có thể tìm đc người đàn ông như Garrick, người rất dịu dàng hòa nhã với những ai ông yêu mến, và rất nguy hiểm, đáng sợ với những kẽ ngược lại, người có thể làm tim nàng đập nhanh hơn như cách Brenna đã thể hiện khi bà chỉ đơn giản nhìn vào Garrick? Kristen thở dài đánh thượt, cưỡi ngựa về nhà. Không có người đàn ông như thế, không phải ở đây. Oh, có một vài người khá lịch thiệp, nhưng không nhiều, dù là có nhiều gã khá là nguy hiểm. Miền bắc này đã sinh ra những người đàn ông dày dạn, khỏe mạnh, những hình mẫu tốt đẹp của đàn ông, nhưng không ai có thể khuấy động được trái tim nàng. Ở đâu đó chắc chắn có một người định mệnh dành cho nàng, có thể là một thương gia, or một thủy thủ như cha nàng – một người Đan Mạch, hay có lẽ là Thụy Điển, thậm chí là 1 người Na-uy đến từ Miền Nam. Tất cả bọn họ đều làm ăn ở các thị trấn thương mại lớn của Miền Đông. Nàng chỉ phải tìm ra anh thôi.   Mời các bạn đón đọc Trái Tim Đam Mê của tác giả Johanna Lindsey.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Gỗ Mun - Ryszard Kapuściński
Trước hết là cái nhìn: Ryszard Kapuściński. Đó là một cái nhìn luôn luôn độc đáo và thấu suốt, cho dù đối tượng sự quan sát của ông có là gì, và cho dù không mấy khi ông thích phân tích dài dòng. Nhất là khi đối tượng ấy là châu Phi, một lục địa dường như rất hợp với tâm tính ông, thì Kapuściński nhìn thấy cả những gì sâu xa, nhỏ bé nhất của nơi đây. Và sau đó là cách chạm vào châu Phi: thông qua sự mô tả cuộc đối đầu nghẹt thở với một con rắn, Kapuściński làm sống lại sự rung động của tâm hồn cả một châu lục, trong đó có sự mãnh liệt và có hiểm nguy tàn khốc. Rồi tất nhiên ta phải nói đến một tài năng văn chương hiếm thấy, hiện ra tràn ngập những trang viết của thông tín viên Ba Lan kiệt xuất này. Tất cả cộng lại để tạo nên một Gỗ Mun như tác phẩm không thể không nhắc tới về châu Phi thế kỷ XX. *** Lời khen tặng dành cho Gỗ Mun: “Giống như Gabriel García Márquez là ông hoàng đen vĩ đại của tiểu thuyết hiện đại, Kapuściński là vị phù thủy kiệt xuất của phóng sự.” - John Le Carré “Ryszard Kapuściński là một ví dụ hiếm hoi trong nền văn hóa của chúng ta về một nhà văn người-Ba-Lan-toàn-cầu. Ông, một công dân thế giới, luôn luôn chống lại việc dựng lên các rào ngăn đối với Người Khác, đóng sập cửa trước mặt họ. Dường như ông muốn nói: bài ngoại là căn bệnh của những kẻ khiếp nhược, bị mặc cảm về sự thấp hèn hành hạ, sợ hãi ý nghĩ đến lượt họ sẽ phải soi mình trong văn hóa của Người Khác.” - Adam Michnik “Chúng ta đang sống trong một thế kỷ nhiều thách đố nhất trong lịch sử thế giới, bản chất thực của nó còn là một bí ẩn tối tăm. Chúng ta rất cần những nhà giải mã như Ryszard Kapuściński.” - Salman Rushdie “Tôi nghĩ đến những cuốn sách ông đã viết với lòng biết ơn sâu sắc, và nghĩ đến những cuốn sách ông còn chưa kịp viết với nỗi buồn sâu sắc. Một nhà văn lớn, một con người cao quý, một người lữ hành không mệt mỏi qua thế giới đầy quyến rũ nhưng mãi luôn luôn bất an của chúng ta. - Wisława Szymborska “Tôi không biết bất cứ ai có viết với sự thấu cảm đến thế về Thế giới Thứ ba. Mỗi lần được tin giải Nobel được trao cho một người khác, tôi lại cảm thấy thất vọng. Tôi luôn luôn chắc chắn rằng Kapuściński sẽ nhận được giải thưởng này.” - Tomas Venclova “Ryszard Kapuściński đã viết một tác phẩm để đời: cuốn sách về châu Phi với nhan đề Gỗ Mun. Cuốn sách của Kapuściński đặt chúng ta trước nhiều câu hỏi. Đó là những câu hỏi cốt yếu. Cuộc sống là gì, ý nghĩa của nó, đạo đức, tội ác, lòng kiêu hãnh và khiêm nhường, sự phản kháng hay chấp nhận số phận? Chúng ta vẫn luôn đặt ra những câu hỏi ấy trong văn hóa của mình, nhưng những lời giải đáp và phản ứng của chúng ta lại hoàn toàn khác.” - Helena Zaworska “Không trực tiếp, nhưng rất rõ ràng, Kapuściński luận chiến với hai lối nghĩ dĩ Âu vi trung rập khuôn về châu Phi: với khuôn mẫu khiến người ta nhìn châu Phi như một châu lục của những người man rợ thấp kém hơn về văn hóa, khó hiểu (vì chẳng đáng được hiểu); và với huyền thoại hậu thực dân đầy cảm tính (dù chỉ như trong Xa mãi Phi châu của Karen Blixen) nhìn thấy ở châu Phi thiên đường đã mất.” - Piotr Bratkowski *** Trước hết là ánh sáng đập vào mắt. Khắp nơi là ánh sáng. Khắp nơi chói lòa. Khắp nơi là nắng. Mới ngày hôm qua, London mùa thu lướt thướt nước mưa. Máy bay lướt thướt nước mưa. Gió lạnh và âm u. Còn ở đây, từ sáng sớm cả sân bay ngập trong nắng, tất cả chúng tôi ngập trong nắng. Thời trước, khi người ta đi bộ du hành qua thế giới, cưỡi ngựa hay đi thuyền, cuộc hành trình làm họ thích nghi dần với các thay đổi. Các hình ảnh của trái đất từ từ trôi qua trước mắt họ, sân khấu của thế giới quay chầm chậm từng chút một. Hành trình kéo dài hàng tuần, hàng tháng. Con người có thời gian để thích nghi với môi trường khác, với quang cảnh mới. Khí hậu cũng thay đổi từng bước, qua các giai đoạn. Trước khi một người du hành từ châu Âu lạnh lẽo đến được xích đạo nóng bỏng, anh ta đã trải qua cái ấm áp dễ chịu của Las Palmas, cái nóng nực của Al-Mahara và địa ngục Quần đảo Cape Verde. Ngày nay, những giai đoạn ấy chẳng còn lại chút gì. Máy bay đột ngột bứt chúng ta ra khỏi tuyết và băng giá rồi ngay ngày hôm đó ném ta vào vạc dầu nhiệt đới nóng rực. Đột nhiên, chỉ vừa mới dụi mắt là ta đã ở trong địa ngục ẩm ướt. Ta bắt đầu đổ mồ hôi ngay. Nếu bay đến từ châu Âu mùa đông, ta quăng bỏ áo choàng, cởi áo len. Đó là hành động đầu tiên của chúng ta, người phương Bắc, khi đến châu Phi. Người phương Bắc. Có bao giờ ta từng nghĩ rằng người phương Bắc chỉ chiếm một phần rất nhỏ trên hành tinh này? Người Canada và Ba Lan, người Litva và bán đảo Scandinavia, một bộ phận người Mỹ và Đức, người Nga và Scotland, người Sami[1] và Eskimo, người Evenki và Yakut, danh sách cũng không dài lắm. Tôi không rõ tổng cộng nó có nhiều hơn năm trăm triệu người - chưa đến 10% cư dân trái đất - hay không. Ngược lại, một phần rất lớn sống trong ấm áp, cả đời được sưởi nắng. Vả lại, con người được sinh ra trong ánh nắng, những dấu vết cổ xưa nhất của con người được tìm thấy ở các xứ sở ấm áp. Thiên đường trong Kinh Thánh có khí hậu thế nào? Ở đó ấm áp vĩnh cửu, nóng nực là đằng khác, đến nỗi Eva và Adam có thể trần truồng và không cảm thấy lạnh ngay cả trong bóng cây. Ngay ở cầu thang máy bay ta đã gặp một điều mới mẻ khác: mùi nhiệt đới. Điều mới mẻ? Nhưng đó chính là mùi hương ngập tràn trong cửa tiệm nhỏ của ông Kanzman “Hàng hóa từ thuộc địa và các loại khác” trên phố Pereca ở Pinsk[2] đấy mà! Quả hạnh, đinh hương, chà là, ca cao. Va ni, lá nguyệt quế; cam và chuối bán quả, bạch đậu khấu và nghệ bán cân. Còn Drohobych thì sao? Những cửa hàng quế của Schulz[3] thì sao? Chính là “những đồ vật sẫm màu và trang trọng được chiếu sáng lờ mờ, thơm nồng mùi của màu, sơn, nhang, đẫm hương của các xứ sở xa xôi và những chất liệu quý hiếm”! Tuy vậy, mùi nhiệt đới có khác một chút. Ta nhanh chóng nhận ra sức nặng của nó, sự nhớp nháp của nó. Thứ mùi này cho ta biết ngay rằng ta đang ở một điểm trên trái đất nơi giới thực vật rậm rạp và không mệt mỏi luôn liên tục hoạt động, sinh sôi, lan tràn và nở hoa, song đồng thời cũng đang tật bệnh, bị đốn ngã, sâu ruỗng và héo rụi. Đó là mùi của những tấm thân được sưởi nóng và cá khô, của thịt ôi và sắn nướng, của hoa tươi và tảo rữa, tóm lại là mùi của tất cả những thứ đồng thời vừa dễ chịu vừa khó chịu, vừa lôi cuốn vừa đáng ghét, những thứ cám dỗ hoặc làm người ta ghê tởm. Thứ mùi này bay đến với chúng ta từ những rừng cọ không xa, thoát ra từ mặt đất nóng ran, bốc lên trên những rãnh nước mốc meo của thành phố. Nó không rời chúng ta, nó là một phần của miền nhiệt đới. Và cuối cùng là khám phá quan trọng nhất - con người. Những người ở đây, dân bản xứ. Họ mới hợp với phong cảnh, ánh sáng và thứ mùi này làm sao! Dường như họ tạo thành một tổng thể. Dường như con người và cảnh vật không tách rời nhau, bổ sung cho nhau, là một bản sắc, một cộng đồng hài hòa. Dường như mỗi sắc dân được đặt vào phong cảnh của riêng mình, khí hậu của mình! Chúng ta tạo ra phong cảnh của mình, còn phong cảnh nặn thành hình các đường nét trên gương mặt chúng ta. Người da trắng ở giữa những cây cọ và đám dây leo này, trong các bụi cây và rừng rậm này là một điều gì đó lạc lõng thừa thãi. Nhợt nhạt, yếu ớt, áo đẫm mồ hôi, tóc dính bết, anh ta luôn bị cái khát, cảm giác bất lực và chán nản hành hạ. Anh ta luôn luôn sợ hãi, sợ muỗi, a míp, bọ cạp, rắn - tất cả những gì cử động đều làm anh ta tràn ngập lo sợ, khiếp hãi, hoảng loạn. ... Mời các bạn đón đọc Gỗ Mun của tác giả Ryszard Kapuściński.
CIA và Các Tướng Lãnh Cộng Hòa - Thomas L. Ahern
Hôm 19/2/2009 cơ quan tình báo trung ương Hoa Kỳ (Central Intelligence Agency – CIA) đã cho giải mật tài liệu mang tên: “CIA and the Generals: Covert Support to military government in South Vietnam”. Tài liệu này do ông  Thomas L. Ahern, Jr., một nhân viên CIA từng làm việc tại Sài gòn từ năm 1963 đến đầu năm 1965 đúc kết từ những tài liệu mật của CIA. Tài liệu được giải mật sau khi cơ quan CIA đã đọc lại và gạch bỏ những tên tuổi và địa danh không lợi cho hoạt động tình báo. Tuy nhiên nếu so chiếu với các tài liệu khác viết về cuộc chiến Việt Nam, người  đọc có thể đoán hầu hết những tên tuổi gạch bỏ đó là ai. Tài liệu dài 243 trang gồm chính yếu là phần Nhập Đề của tác giả và 10 Chương. Tôi tóm tắt lại những sự việc chính của tài liệu trong 6 bài viết: phần Nhập Đề và sau đó hai Chương trong một bài, và sẽ lần lượt cho lên trang nhà www.tranbinhnam.com . Mục đích tóm tắt tài liệu là “ôn cố tri tân” về một giai đoạn lịch sử đã qua nhưng còn ảnh hưởng sâu đậm đến đời sống của mỗi người Việt chúng ta trong cũng như ngoài nước. Và cũng là kinh nghiệm có thể hữu ích trong mối quan hệ hiện nay giữa Việt Nam và Trung quốc, cũng như giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Một điều cần nói là không có một tài liệu nào, nhất là tài liệu liên quan đến hoạt động tình báo, là hoàn toàn trung thực. Giải mật một tài liệu mật tự nó cũng có thể là một phần của một chương trình tình báo khác. Tài liệu “CIA and the Generals: Covert Support to military government in South Vietnam” cũng không ra ngoài quy luật đó. Cho nên sự xử dụng những thông tin do sự giải mật tài liệu này mang lại như thế nào là trách nhiệm của người xử dụng. Trong phần nhập đề ông Thomas Ahern nhắc lại quan hệ Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa từ năm 1954 cho đến ngày 30/4/1975. Ông viết rằng, sau khi người Pháp thất bại tại Điện Biên Phủ, người Mỹ thay thế dần người Pháp vì người Mỹ cho rằng nếu Việt Nam sụp đổ, toàn vùng Đông Nam Á cũng sụp đổ theo thuyết domino. Người Mỹ ủng hộ ông Ngô Đình Điệm củng cố miền Nam Việt Nam từ vĩ tuyến 17 trở vào, qua trung gian ông Ngô Đình Nhu, em ruột của ông Diệm.  Cùng với các lực lượng vũ trang của ông Diệm, CIA phát động phong trào dân vệ (self-defense units) để bảo vệ nông thôn. Đây là kinh nghiệm chống nổi dậy đầu tiên của CIA tại Việt Nam . Chương trình của ông Diệm là tiêu diệt các thành phần cộng sản để lại miền Nam trước khi rút ra Bắc theo hiệp định Geneva. Đến năm 1959 hầu hết tổ chức cộng sản gài lại miền Nam đều bị tiêu diệt. Nhưng chương trình bài cộng quá nặng tay và thi hành một cách bừa bãi đụng chạm đến các thành phần không cộng trong quần chúng như thành phần thiểu số và tôn giáo khác mà không có chương trình nâng cao đời sống nông thôn để thu phục lòng dân nên mất dần sự ủng hộ của quần chúng. Cuối năm 1959 Hà Nội đưa người vào Nam và làm cho sự kiểm soát của ông Diệm tại nông thôn càng ngày càng lỏng dần. Để cứu chế độ Diệm, Hoa Kỳ tăng cường viện trợ quân sự và kinh tế. Đầu năm 1963 khi cao trào chống chế độ ông Diệm của Phật Giáo nổ ra tại miền Trung, Hoa Kỳ có 12.000 cố vấn quân sự tại miền Nam. Cung cách đàn áp phong trào Phật giáo của ông Diệm không phù hợp với quan niệm tự do tôn giáo của Hoa Kỳ làm cho Hoa Kỳ bất mãn, và đồng thời sự kiểm soát nông thôn của ông Diệm càng ngày càng sa sút, nên vào tháng 8 năm 1963 do đề nghị của đại sứ Henry Cabot Lodge, Hoa Kỳ quyết định hạ bệ ông Diệm. *** Trong phần nhập đề, ông Thomas Ahern nhắc lại quan hệ Mỹ và Việt Nam Cộng hòa từ năm 1954 cho đến ngày 30-4-1975. Ông viết rằng sau khi người Pháp thất bại tại Điện Biên Phủ, người Mỹ thay thế dần người Pháp vì người Mỹ cho rằng nếu Việt Nam sụp đổ, toàn vùng Đông Nam Á cũng sụp đổ theo thuyết domino. Người Mỹ ủng hộ ông Ngô Đình Diệm củng cố miền Nam Việt Nam từ vĩ tuyến 17 trở vào, qua trung gian ông Ngô Đình Nhu, em ruột của ông Diệm. Cùng với các lực lượng vũ trang của ông Diệm, CIA phát động phong trào tự vệ để bảo vệ nông thôn. Đây là kinh nghiệm chống nổi dậy đầu tiên của CIA tại Việt Nam. Chương trình của ông Diệm là tiêu diệt các thành phần Cộng sản còn lại ở miền Nam trước khi rút ra Bắc theo Hiệp định Giơnevơ. Đến năm 1959, hầu hết tổ chức Cộng sản gài lại miền Nam đều bị tiêu diệt. Nhưng chương trình bài Cộng quá nặng tay và thi hành một cách bừa bãi đụng chạm đến các thành phần không Cộng sản trong quần chúng như thành phần thiểu số và tôn giáo khác và không có chương trình nâng cao đời sống nông thôn để thu phục lòng dân nên mất dần sự ủng hộ của quần chúng. Cuối năm 1959, Hà Nội đưa người vào Nam và làm cho sự kiểm soát của ông Diệm tại nông thôn ngày càng lỏng dần. Để cứu chế độ Diệm, Mỹ tăng cường viện trợ quân sự và kinh tế. Đầu năm 1963, khi cao trào chống chế độ ông Diệm của Phật giáo nổ ra tại miền Trung, Mỹ có 12.000 cố vấn quân sự tại miền Nam. Cung cách đàn áp phong trào Phật giáo của ông Diệm không phù hợp với quan niệm tự do tôn giáo của Mỹ làm cho Mỹ bất mãn, đồng thời sự kiểm soát nông thôn của ông Diệm ngày càng sa sút, nên vào tháng 8-1963, theo đề nghị của Đại sứ Henry Cabot Lodge, Mỹ quyết định hạ bệ ông Diệm. Sau khi quân đảo chính chiếm Bộ Tổng tham mưu và giết Đại tá Lê Quang Tung, người làm việc cận kề với CIA và là Chỉ huy trưởng lực lượng đặc biệt, các tướng đảo chính kêu gọi anh em ông Diệm đầu hàng. Ông Diệm và ông Nhu lợi dụng trời tối rời Dinh Độc Lập và sau đó bị bắt tại một nhà thờ Công giáo ở Chợ Lớn. Trước đó Đại sứ Cabot Lodge có hứa giúp hai anh em ông Diệm và ông Nhu an toàn rời khỏi Việt Nam, nhưng khi ông Diệm và ông Nhu bị bắt không thấy Mỹ nhắc lại. Các sĩ quan của tướng Dương Văn Minh, người lãnh đạo cuộc đảo chính đã bắn chết hai ông Diệm và Nhu trên một xe thiết giáp… “Hòa bình ló dạng” Tình hình chính trị tạm ổn định sau khi tướng Nguyễn Văn Thiệu đắc cử Tổng thống vào tháng 9-1967 qua một bản Hiến pháp mới. Tháng 2-1968, Cộng sản tổng tấn công vào các đô thị miền Nam (cuộc tổng tấn công Mậu Thân). Cuộc tấn công không thành công nhưng làm cho chương trình bình định của ông Thiệu giậm chân tại chỗ, tạo một tâm lý bi quan đối với dân chúng Mỹ và báo giới Mỹ nên không khí chống chiến tranh tại Mỹ lên cao buộc Tổng thống Johnson vào cuối tháng 3-1968 tuyên bố không ra ứng cử Tổng thống lần thứ hai và đề nghị thương thuyết với Hà Nội. Tháng 5-1968, khi các cuộc tiếp xúc chính thức giữa Mỹ và Hà Nội bắt đầu tại Paris, Cộng sản mở cuộc tấn công Mậu Thân 2 nhưng cũng không thành công, giúp quân đội Việt Nam Cộng hòa và Mỹ lấy lại thế tấn công và cuối năm 1968 xem như bình định và kiểm soát 73% dân chúng miền Nam. Tuy nhiên, tình hình này không giúp cho Hubert Humphrey (ứng cử viên đảng Dân chủ) đắc cử để có thể tiếp tục đường hướng của Johnson. Tổng thống Nixon đắc cử và bắt đầu chương trình Việt Nam hóa chiến tranh. Giữa năm 1969, Tổng thống Nixon tuyên bố đợt rút quân đầu tiên. Đặc điểm của tình hình chiến trường Việt Nam trong những năm 1969-1971 là trong khi Mỹ ra sức cải tiến và trang bị cho quân đội miền Nam thì Liên Xô và Trung Quốc cũng viện trợ dồi dào cho Bắc Việt. Hai bên Nam-Bắc cố giành đất và dân chuẩn bị cho một giải pháp chính trị từ cuộc hòa đàm Paris. Mời các bạn đón đọc CIA và Các Tướng Lãnh Cộng Hòa của tác giả Thomas L. Ahern.
Cuộc Thám Hiểm Vào Lòng Đất - Jules Verne
Cuộc Thám Hiểm Vào Lòng Đất được xuất bản vào năm 1864. Câu chuyện kể về một giáo sư người Đức tin rằng có những miệng núi lửa có con những con đường đi thẳng cuống trung tâm Trái đất. Ông, đứa cháu trai Axel, và người dẫn đường Hans của họ đã trải qua những chuyến phiêu lưu thú vị, gặp gỡ những con vật thời tiền sử cùng các thảm họa tự nhiên, cuối cùng đã quay lại mặt đất ở miền Nam nước Ý. *** Chuyện bắt đầu khi giáo sư Lindenbrock mua được cuốn sách cổ rồi cùng đứa cháu trai Axel giải mã và tìm ra con đường đi xuống tâm trái đất qua núi lửa Sneffels Jukull ở Iceland. Đoàn thám hiểm ba người gồm giáo sư, Axel và người dẫn đường Hans đã gặp những hiện tượng kỳ lạ và cả những nguy hiểm chết người: có một hang động đầy khí dễ cháy, những loại cây hóa thạch và nấm khổng lồ, những sinh vật thời tiền sử trong đó có người khổng lồ cao tới 12 feet… Làm thế nào đoàn thám hiểm có thể thoát khỏi mọi nguy hiểm luôn rình rập, quay trở lại mặt đất với cuộc sống trước kia? Câu trả lời đang chờ bạn giải đáp, vậy bạn có đủ can đảm để đối mặt với những thử thách và nhận được danh hiệu “nhà thám hiểm tài ba” không. Hãy cùng Jules Verne tham gia cuộc thám hiểm vào lòng đất! *** Chủ nhật, ngày 24 tháng 5 năm 1863, giáo sư Lidenbrockenbrock vội vã trở về ngôi nhà của ông ở số 19 đường Konigstasse, nằm trong khu phố cổ kính nhất ở thành phố Hambourg. Trong khi ấy, Dì Marthe, người đầu bếp của chúng tôi, đang vội vã nổi lửa làm bữa ăn chiều. - Dì Marthe này, chú tôi là người háu đói nhất hạng đấy. Ông ta về mà chưa chuẩn bị xong bữa ăn thì thế nào cũng lối ầm ĩ lên cho xem. - Giáo sư Lindenbrock về rồi à? - Phải, dì Marthe ạ. – Tôi trấn an người đầu bếp đáng thương. – Nhưng dì đừng lo vì còn đến nửa giờ nữa mới đến bữa ăn chiều. - Nhưng sao hôm nay giáo sư lại về sớm vậy hả? - Cháu không rõ, nhưng chắc lát nữa chú sẽ nói cho chúng ta nghe chứ gì. - Thật khổ! – Dì Marthe kêu lên. – Thôi tôi phải xuông nhà bếp để tiếp tục chuẩn bị bữa ăn, cậu hỏi dùm vì sao hôm nay giáo sư về sớm quá và nói giúp dùm tôi về bữa ăn chưa nấu xong nhé. Nói xong, dì Marthe trở vào nhà bếp, bỏ tôi lại một. Nhưng làm cách nào để giải thích cho chú tôi hiểu ra tại sao bữa ăn chưa nấu xong quả là một việc làm khó khăn đối với tôi. Nên tôi định rút êm lên căn phòng nhỏ của mình trên lầu thì nghe tiếng cửa mở ra, rồi những bước chân nặng nề làm rung rinh cả chiếc cầu thang gỗ và chú tôi xồng xộc đi vào phòng làm việc của ông ta. Vừa đến nơi, chú tôi quăng cây gậy vào góc phòng và vứt cái nón lên bàn làm việc rồi nóng nảy gọi to: - Axel, đi theo chú mau! Tôi chưa kịp nhúc nhích thì chú tôi đã nổi nóng và hét lên một lần nữa với giọng không thể tưởng tượng nổi: - Thế nào! Sao chưa mau tới đây hả? Tôi nhảy phắt lên rồi vội vàng chạy theo chú tôi vào phòng của ông. Tôi cũng phải nói rõ rằng chú Otto Lidenbrockenbrock không phải là người xấu bụng nhưng chỉ có một cố tật là quá nóng tính, khó mà làm vừa lòng chú ấy. Đôi khi chỉ vì một chuyện nhỏ, ông trở lên kỳ quặc khủng khiếp. Chú tôi là giáo sư ở đại học Hambourg, giảng dạy về môn địa chất học và trong mỗi buổi giảng về môn học này chú thường hay nổi cáu lên một vài lần. Nhưng dù sao đi nữa, có một việc mà mọi người đều không thể phủ nhận được là giáo sư Lidenbrock là một nhà khoa học có tài. Nếu có ai đưa cho chú một viên đá, chú sẽ ngắm nghía, gõ rồi nghe tiếng phát ra hoặc ngửi mùi và mỗi lần như vậy chú sẽ cho biết nó làm bằng chất gì và xuất xứ của nó. Hiện thời, người ta biết hết thảy khoảng 600 loại đá và chú tôi có thể nói ngay tức khắc là viên đá này thuộc loại nào trong số đó. Các nhà khoa học lừng danh khác thường hay đến thăm chú tôi. Họ đến để tham khảo ý kiến của chú tôi về những vấn đề khó khăn nhất mà họ không thể giải quyết nổi. Chú tôi đã khám phá được nhiều điều rất quan trọng cho nền khoa học hiện đại và là tác giả của những bài báo lớn. Ông còn là giám đốc một viện bảo tàng địa chất có chứa một bộ sưu tập khoáng sản giá trị và nổi tiếng khắp châu Âu. Do đó, tên tuổi của giáo sư Lidenbrock luôn được nhắc tới một cách trang trọng tại mọi trường đại học và các viện hàn lâm khoa học. Và bây giờ, vị giáo sư đáng kính ấy đang nóng nảy gào thật to tên tôi. Bạn hãy tưởng tượng ra một người cao, gầy, sức khỏe rất tốt. Ông có một nước da thật đẹp và trẻ trung khiến ông trông nhỏ hơn nhiều so với cái tuổi năm mươi của mình. Đôi mắt to của ông lúc nào cũng đảo lia lịa sau đôi tròng kính thật to. Chú tôi sống trong ngôi nhà nhỏ ở đường Konigstrasse. Ngôi nhà trông xuống một trong những dòng kênh ngoằn ngèo chảy qua khu phố cổ kính của thành phố Hambourg. Dù chỉ là giáo sư đại học nhưng chú tôi quả là giàu. Ông làm chủ cả ngôi nhà và tất cả mọi thứ đồ vật bên trong, kể cả tôi, dì Marthe và cả Grauben, cô thiếu nữ xinh đẹp người xứ Virland vày mới mười bảy tuổi, là cháu họ của giáo sư. Còn tôi với tư cách là cháu của giáo sư, tôi cũng là một đứa trẻ mồ côi. Khi cha mẹ tôi mất, tôi đến ở trong ngôi nhà này và trở thành phụ tá cho ông. Phải thú nhận rằng tôi rất thích môn địa chất học. Hình như có một dòng máu của nhà địa chất học đang chảy trong cơ thể của tôi. Tôi thích nó đến nỗi không bao giờ biết chán trong việc nghiên cứu những mẫu đá. Nói chung thì cuộc sống của tôi cũng khá sung sướng trong căn nhà nhỏ trên đường Konigstrasse này mặc dù chủ của nó hơi khó tính và hay gắt gỏng nhưng rất yêu mến tôi. Cố điều ông hoàn toàn không có khả năng kiên nhẫn chờ đợi và lúc nào cũng tỏ vẻ vô cùng vội vã. Hồi tháng tư vừa qua, ông có gieo mấy hạt giống vào chậu kiểng đặt trong phòng khách. Và ông đã nóng nảy đến độ cứ mỗi sáng đều ra mớm những cái lá cho chúng lớn nhanh hơn. ... Mời các bạn đón đọc Cuộc Thám Hiểm Vào Lòng Đất của tác giả Jules Verne.
Phía Tây Không Có Gì Lạ
Erich Maria Remarque (1898-1970) đã phục vụ trong Thế chiến thứ nhất và đã bị thương tất cả năm lần. Những hình ảnh ghê rợn của cuộc chiến trong giao thông hào đã để lại những vết sẹo không phai mờ trong tâm trí Remarque nên ông cố xua đuổi những bóng ma đó qua các sáng tác văn học. “Phía Tây không có gì lạ” là tác phẩm hay nhất của ông dù chín tác phẩm khác ông cũng viết về những đau đớn, khổ cực trong chiến tranh. “Phía Tây không có gì lạ" là câu chuyện về Pôn Baomơ, một người lính Đức trẻ, xung phong vào quân đội vì Căntôrec, vị giáo sư của anh, đã thuyết phục cả lớp tham gia quân đội để làm cho nước Đức được vẻ vang. Sau một thời kỳ huấn luyện gian khổ dưới quyền của Himmenxtôt, một phu trạm, Baomơ và các bạn ra tiền tuyến. Dù được vẽ vời trong nhà trường với những hình ảnh huy hoàng của các anh hùng, Baomơ nhanh chóng nhận thức được rằng những chiến hào đầy máu của Mặt trận phía Tây là một sa lầy của những khổ đau và chết chóc. Ngay khi những quả đạn pháo đầu tiên nổ tung trong bùn lầy, Baomơ và các bạn thấy rằng tất cả những người ở lại nhà đều dối trá: chiến tranh không phải là một thay đổi vinh quang, chiến tranh không làm cho các cậu con trai trưởng thành mà nó hủy diệt một cách có hệ thống tất cả những ai khỏe mạnh và lịch sự. Tất cả các bạn của Baomơ đều chết, bị thương, hoặc đào ngũ. Pôn Baomơ bắt đầu tự vấn về cuộc đời mình và băn khoăn không biết mình có sống sót được sau cuộc chiến hay thậm chí có sống được trong một thế giới không có chiến tranh hay không. Xuyên suốt câu chuyện, Remarque thường dùng từ “chúng tôi” để nói lên tình đồng đội - cái quý nhất mà chiến tranh tạo nên. Những người lính ấy đã trải qua những giây phút cận kề cái chết cùng nhau nên họ gắn bó với nhau, chia sẻ với nhau tất cả những gì họ có. “Chúng tôi không nói nhiều nhưng chúng tôi để ý săn sóc nhau từng ly từng tí, thiết tưởng còn hơn cả những cặp tình nhân. Chúng tôi là hai con người, hai tàn lửa sống nhỏ bé, và ngoài kia, là đêm tối, là vòng vây của thần chết.” *** húng tôi nằm sau chiến tuyến chín cây số. Đại đội vừa được thay phiên hôm qua; lúc này cả bọn vừa ăn căng rốn món đậu trắng hầm thịt bò, no nê và hài lòng. Thậm chí mỗi thằng còn được thêm một cà mèn đầy dành cho bữa tối; đã vậy còn lĩnh cả khẩu phần kép xúc xích và bánh mì - thật là quá đã. Lâu lắm rồi chẳng có bữa nào thỏa thuê như thế này: gã đầu bếp với tấm thân bò mộng và cái đầu cà chua đỏ lựng đích thân đem đồ ăn ra mời anh em; ai đi ngang qua gã cũng vẫy vẫy cái muỗng gọi lại và úp cho một muỗng đầy tú hụ. Gã đang tuyệt vọng lắm, vì không biết làm cách nào trút cho hết cái nồi quân dụng to vật này. Tjaden và Müller lôi đâu đến mấy cái chậu và để gã múc cho đầy phè đến tận miệng chậu. Tjaden làm thế vì háu ăn, còn Müller vì lo xa. Mọi người chịu không hiểu Tjaden tọng rõ lắm mà chả biết thức ăn chui đằng nào hết. Trước nay lúc nào cậu ta cũng gầy đét như con cá mắm. Nhưng quan trọng nhất là có cả khẩu phần kép thuốc hút. Mỗi người được mười điếu xì gà, hai mươi điếu thuốc lá và hai miếng thuốc lá nhai, quả là rất đàng hoàng lịch sự! Tôi đổi chỗ thuốc nhai của mình lấy thuốc lá của Katczinsky, thế là tôi có bốn mươi điếu. Đủ xài cho cả ngày. Thật ra thì tất cả những món quà bất ngờ này không dành cho chúng tôi. Người Phổ đâu có hào phóng thế. Chúng tôi vớ bở chỉ nhờ một sự nhầm lẫn. Mười bốn ngày trước chúng tôi phải lên tuyến đầu vì đến phiên giữ chốt. Khu vực chúng tôi cắm quân khá yên tĩnh, và vì vậy để chuẩn bị cho ngày chúng tôi trở về viên quản lý đã lĩnh khẩu phần ăn thông thường đủ cho cả một trăm năm mươi lính toàn đại đội. Nhưng đúng vào ngày cuối cùng, với số lượng pháo nòng dài và pháo hạng nặng nhiều đến kinh ngạc, quân Anh đã liên tục nã đạn vào vị trí của chúng tôi, khiến chúng tôi chịu tổn thất nặng nề tới mức chỉ còn tám chục mống quay về. Chúng tôi rút quân vào ban đêm và lập tức lăn ra đánh một giấc cho đã đời; vì Katczinsky nói đúng: chỉ cần lính tráng được ngủ nhiều hơn thì chiến tranh cũng chẳng đến nỗi nào. Thế nhưng ở tiền tuyến có bao giờ được ngủ cho ra giấc đâu, và mỗi phiên chốt mười lăm ngày lại quá là lâu. Khi những thằng đầu tiên trong chúng tôi bò ra khỏi các lán trú quân thì trời đã trưa. Nửa giờ sau, mọi người đều vớ lấy cà mèn, kéo nhau đến tụ trước nồi thịt hầm vừa chín tới đang tỏa mùi béo ngậy. Đứng đầu tiên cố nhiên là những thằng háu đói nhất: Albert Kropp nhỏ thó, suy nghĩ sáng suốt nhất bọn nên vừa mới được lên binh nhất; Müller V, vẫn tha theo những cuốn sách giáo khoa bên mình và mơ tới kỳ thi tranh thủ ngày về phép, dưới màn đạn lửa vẫn cày các định luật vật lý; Leer, râu quai nón, rất thích các cô gái trong nhà thổ dành cho sĩ quan thề sống thề chết rằng theo lệnh nhà binh thì các cô có nghĩa vụ phải mặc áo sơ mi lụa và phải tắm trước nếu tiếp khách từ cấp đại úy trở lên; và người thứ tư là tôi, Paul Bäumer. Cả bốn thằng cùng mười chín tuổi, cả bốn thằng cùng từ một lớp học đi thẳng vào cuộc chiến. Ngay sau lưng bọn tôi là đám bạn thân, Tjaden, một thợ khóa gầy gò, trạc tuổi bọn tôi, chén khỏe nhất đại đội. Cậu ta ngồi xuống bàn ăn người mảnh như que tăm, nhưng khi đứng dậy thì bụng kệnh như con rệp chửa; Haie Westhus, bằng tuổi, thợ than bùn, có thể dễ dàng nắm gọn một ổ bánh mì lính trong lòng bàn tay mà đố: “Đoán xem, trong tay tớ có gì?”; Detering, nông dân, chỉ nghĩ đến nông trại và vợ của mình; và cuối cùng là Stanislaus Katczinsky, thủ lĩnh của nhóm chúng tôi, gan lì, láu lỉnh, dày dạn, tuổi đã tứ tuần, mặt nâu như đất thó, mắt xanh lơ, vai xuôi thõng và có khứu giác kỳ diệu, ngửi ra ngay những mối nguy hiểm, những món ăn ngon, những chỗ nấp tốt. Nhóm chúng tôi đứng đầu đội quân xếp hàng rồng rắn trước quầy bếp lưu động. Chúng tôi bắt đầu sốt ruột, vì gã đầu bếp thẫn thờ vẫn còn đứng ì ra đấy mà đợi. Cuối cùng Katczinsky réo về phía gã: “Mở thùng súp của cậu ra đi chứ, Heinrich! Ai cũng thấy là đậu nhừ rồi kìa.” Gã kia lắc đầu như ngái ngủ. “Các cậu phải có mặt đông đủ đã.” Tjaden nhe răng cười. “Bọn tôi đến đủ rồi.” Gã hạ sĩ quan anh nuôi vẫn chưa mảy may biết gì. “Các cậu đừng có tưởng bở! Thế còn những người khác đâu cả?” “Hôm nay họ không xơi cơm của cậu! Họ đang nằm ở quân y viện và dưới mồ chung rồi.” Con bò nấu bếp như bị một đòn chí mạng khi biết được sự thật. Gã lảo đảo. “Thế mà tôi lại nấu cho những một trăm năm mươi người.” Kropp huých vào sườn gã. “Vậy thì bọn này cuối cùng cũng được một bữa no. Thôi, bắt đầu đi!” Nhưng trong đầu Tjaden chợt lóe lên một ý nghĩ. Cái mặt chuột nhọn hoắt của cậu ta sáng rỡ lên, cặp mắt nheo lại đầy vẻ láu cá, hai gò má giật giật, cậu ta sán đến gần gã đầu bếp hơn: “Này nhóc, vậy là cậu cũng đã lĩnh cả phần bánh mì cho một trăm năm mươi người, hả?” Gã kia gật đầu trong lúc còn chưa hết choáng váng và hồn vía vẫn ở trên mây. Tjaden túm lấy áo gã. “Cả xúc xích à?” Cái đầu cà chua lại gật. Xương quai hàm Tjaden run lên. “Cả thuốc lá nữa chứ?” “Phải, tất tần tật.” Tjaden mặt mày sáng rỡ ngó ra xung quanh. “Mẹ kiếp, thế này gọi là đỏ hơn son đây! Vậy là tất cả dành cho anh em ta! Mỗi thằng sẽ được… xem nào… đúng rồi, chính xác là gấp đôi khẩu phần!” Nhưng lúc này gã cà chua đã hoàn hồn, gã tuyên bố: “Thế không được.” Giờ thì cả bọn chúng tôi cũng phấn chấn hẳn lên, xô nhau sấn gần lại. “Sao lại không được, cái đồ óc bã đậu kia?” Katczinsky vặn. “Tiêu chuẩn cho một trăm năm mươi người, không thể chia cho tám mươi người được.” “Rồi chúng tao sẽ cho mày biết,” Müller gầm gừ. “Thức ăn thì còn được, chứ những thứ khác tôi chỉ có thể phát đủ tám mươi suất,” gã cà chua khăng khăng một mực. Katczinsky nổi cáu: “Xem chừng phải thuyên chuyển mày khỏi đây, hả? Mày đã lĩnh khẩu phần không phải cho tám mươi lính, mà cho đại đội hai, vậy thôi. Giờ bỏ cả ra đây! Đại đội hai là chúng tao đây này!” Chúng tôi áp sát gã đầu bếp. Chẳng ai chịu nổi gã, đã nhiều phen do lỗi của gã mà ở ngoài chiến hào chúng tôi phải nhận bữa ăn vừa quá muộn vừa nguội ngắt, vì đạn pháo chỉ mới đùng đoàng một tí là gã đã không dám bê nồi thức ăn lại gần hơn, cho nên anh em đại đội chúng tôi đi lấy đồ ăn phải đánh đường xa hơn anh em các đại đội khác rất nhiều. Bulcke ở đại đội một chẳng hạn là một đầu bếp khá hơn hẳn. Tuy béo như con chuột đồng, nhưng khi cần, anh ta vẫn tự tay lễ mễ tha thức ăn lên tận tuyến đầu. Chúng tôi đang bức xúc ghê gớm, và nếu viên chỉ huy đại đội không xuất hiện đúng lúc thì thế nào cũng có thằng bị chẻ nhỏ như chẻ củi. Ông ta hỏi lý do cuộc cãi vã và chỉ nói: “Phải, ngày hôm qua chúng ta đã có những tổn thất nặng nề…” Rồi ông ta ngó vào chiếc nồi lớn. “Món đậu này trông có vẻ ngon đây.” Gã cà chua gật đầu. “Hầm với mỡ và thịt đấy ạ.” Viên trung úy nhìn chúng tôi. Ông ta biết chúng tôi đang nghĩ gì. Ông ta cũng biết nhiều chuyện khác nữa, vì ông ta đã trưởng thành giữa chúng tôi, khi đến đại đội ông ta mới chỉ là hạ sĩ quan. Ông ta lại nhấc vung nồi lên một lần nữa và hít hít. Trước khi bỏ đi, ông ta bảo: “Nhớ mang cả cho tôi một đĩa đầy nhé. Và chia tất cả các khẩu phần đi. Chúng ta có thể cần đến chúng.” Gã cà chua thộn mặt ra. Tjaden nhảy nhót quanh gã. “Cậu có thiệt gì đâu kia chứ! Cứ làm như cả kho lương thực là của mình không bằng… Nào thôi bắt đầu đi, đồ săn mỡ già đời, và đừng có đếm nhầm đấy…” “Treo cổ mày lên!” gã cà chua gầm gừ. Gã tức nổ mắt, chuyện như thế này đi ngược với lý trí của gã. Gã không còn hiểu cái thế giới này nữa. Và để tỏ ra giờ đây gã cũng bất cần tất cả, gã còn tự động chia thêm cho mỗi người hai lạng rưỡi mật ong nhân tạo. Hôm nay quả là một ngày đẹp. Lại có cả quà của quân bưu, hầu như ai cũng nhận được vài lá thư và báo. Lúc này chúng tôi thong thả đi về phía đồng cỏ sau lán trú quân. Kropp cắp dưới nách cái nắp tròn của thùng bơ thực vật. Người ta đã xây bên rìa phải đồng cỏ một chuồng xí công cộng to đoành - một ngôi nhà chắc chắn, lợp mái đàng hoàng. Nhưng chỗ ấy chỉ dành cho bọn lính mới tò te chưa học được cách rút tỉa những điều hay ho từ mỗi việc dù nhỏ nhất. Bọn tôi tìm cái gì khác thú vị hơn kia. Số là nơi đây rải rác những cái thùng nho nhỏ với cùng một mục đích sử dụng - hình vuông, sạch sẽ, đóng toàn bằng gỗ, bốn bề bịt kín, bên trên là bệ ngồi thuận tiện, không chê vào đâu được. Hai bên thùng gắn quai xách, nên có thể dịch chuyển thoải mái. Bọn tôi kê ba cái thùng châu vào nhau và khoan khoái ngồi xuống. Bét ra phải hai tiếng nữa cả bọn mới chịu đứng lên. Tôi vẫn nhớ hồi còn là tân binh vừa chân ướt chân ráo đến doanh trại, cả bọn đã xấu hổ như thế nào khi lần đầu tiên phải dùng chuồng xí công cộng. Chẳng có cửa nẻo gì cả, hai chục thằng ngồi kề bên nhau như trong toa tàu. Chỉ lướt mắt một phát là bao quát cả lũ… thì lính tráng cần được giám sát thường xuyên mà. Từ bấy đến nay chúng tôi đã học được cách vượt qua nhiều thứ hơn là vượt qua chỉ một nỗi xấu hổ cỏn con đó. Thời gian trôi đi, chúng tôi đã quen với những điều còn đáng xấu hổ hơn. Nhưng làm chuyện này giữa trời đất quả thật là quá sướng. Tôi không còn nhớ tại sao trước kia lúc nào bọn tôi cũng ngại ngùng khi đi ngang qua những cái thùng này, vì chúng cũng tự nhiên như ăn uống thôi mà. Và có lẽ cũng không cần phải nhiều lời về chúng, nếu như chúng không đóng một vai trò quan trọng với bọn tôi, và nếu chúng chẳng mới lạ ngay với chính bọn tôi như thế… vì thực ra từ lâu chúng đã quá đương nhiên. Tiêu hóa và bài tiết là những vấn đề thiết thân với người lính hơn với bất cứ người nào khác. Ba phần tư từ vựng của người lính từ đó mà ra, và khi thể hiện niềm vui sướng cực độ hay nỗi căm giận sâu sắc nhất thì từ ngữ anh ta dùng đều bắt nguồn từ chỗ này. Quả là không có cách nào khác để biểu lộ cảm xúc một cách ngắn gọn và rõ ràng đến thế. Cha mẹ và các thầy cô giáo hẳn sẽ lạ lùng lắm khi chúng tôi trở về nhà với lời ăn tiếng nói như vậy, nhưng ở ngoài mặt trận thì nó quá là quen tai. Đối với chúng tôi, toàn bộ những tiến trình này đã lấy lại được đặc tính ngây thơ, vì chúng bắt buộc phải diễn ra giữa chốn công cộng. Hơn thế nữa: chúng tôi xem chúng đương nhiên đến nỗi việc hoàn thành chúng cũng khoan khoái ngang với thắng một ván bài ở mức đặt cược cao nhất. Không phải tự nhiên lại sinh ra cái từ “khẩu ngữ cầu tiêu” để chỉ đủ loại chuyện tán nhảm. Những chỗ giải quyết “nỗi buồn” là góc buôn chuyện, là nơi tụ bạ quen thuộc của lính. Khoảnh khắc này đây bọn tôi đang cảm thấy thoải mái hơn là ngồi trong buồng vệ sinh sang trọng lát gạch men trắng. Nơi đó chỉ có thể sạch sẽ, chứ ở đây mới khoan khoái dễ chịu. Đó là những thời khắc vô tư lự tuyệt vời. Bên trên chúng tôi bầu trời xanh biếc. Xa xa phía chân trời lơ lửng những quả khinh khí cầu màu vàng rực sáng trong nắng và những vệt khói nhỏ màu trắng của những viên đạn cao xạ. Đôi khi chúng vọt lên thành chùm để rượt theo một phi cơ. Tiếng gầm của đạn pháo vẳng về đây chỉ ì ầm tựa một cơn dông từ nơi xa lắm. Những con ong đất vo ve bay ngang cũng đủ át hết cả. Và bao quanh chúng tôi là cánh đồng cỏ đầy hoa. Những ngọn cỏ non đu đưa, những cánh bướm trắng rập rờn đến gần, chúng chao liệng trong làn gió êm ái, ấm áp cuối hạ; còn chúng tôi đọc thư, đọc báo và hút thuốc, chúng tôi bỏ mũ ca lô đặt xuống bên cạnh mình, làn gió đùa trên mái tóc chúng tôi, đùa với những lời nói, những ý nghĩ của chúng tôi. Ba cái thùng của ba thằng đứng giữa đám hoa anh túc đỏ rực… Mời các bạn đón đọc Phía Tây Không Có Gì Lạ của tác giả Erich Maria Remarque.