Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chó Dẫn Đường - Đại Gia Và Nhân Quả

Trong ngày quyến luyến chia tay với Việt Nam – Mikhail Samarsky đã chính thức ra mắt quyển sách thứ 3 được yêu thích nhất ở Nga xuất bản tại Việt Nam. Bạn đọc Việt Nam đã rất thân quen với chú chó dễ thương Trison, chú chó dẫn đường cho người khiếm thị thông qua bộ sách “Cầu Vồng Trong Đêm” của nhà văn nhỏ tuổi được mệnh danh là thần đồng văn học đến từ nước Nga - Mikhail Samarsky. Câu chuyện lần này không xoay quanh cách chú chó và người khiếm thị, mà xoay quanh việc chú chó Trison suýt bị…giết chết! Câu chuyện cực kỳ hấp dẫn và lôi cuốn ngay từ những dòng đầu bởi chú chó Trison nhỏ bé và vì tác giả vô cùng thông minh đã viết nên những câu thoại cho Trison cực kỳ hấp dẫn, lôi cuốn và cả vui nhộn. Mikhail Samarsky với văn phong quen thuộc: trong trẻo, hồn nhiên, tươi sáng, nhưng cũng không kém phần chững chạc trong tư duy logic và bay bổng trong tư duy hình tượng. Nếu Cầu vồng trong đêm là kết quả của sự xử lý tinh tế nguồn tư liệu thực tế dồi dào mà Mikhail Samarsky đã dày công sưu tập cộng với các chi tiết hư cấu được đưa vào khá nhuần nhuyễn thì ở Chó dẫn đường cho đại gia, ngoài những yếu tố trên, trí tưởng tượng phong phú của tác giả đã góp phần quyết định làm nên thành công cho tác phẩm. Những tình tiết ly kỳ, những chi tiết hấp dẫn đắt giá không thể có được trong bất cứ tư liệu thực tế nào, chỉ có thể là sản phẩm của năng lực tưởng tượng phi thường mà thôi. Tưởng tượng đấy, hư cấu đấy, nhưng rất sinh động, rất đời, rất thực. Và quan trọng nhất – rất nhân ái, nhân văn, nhân bản. Một con chó bị lừa đưa ra khỏi Trường đào tạo chó dẫn đường ư? Bình thường! Nhưng mục đích cú lừa này là gì? Để lấy buồng gan của nó cấy ghép cho con chó cưng của một đại gia. Khác thường! Đại gia nọ vô cùng độc đoán, hung dữ, nhưng bà vợ của ông ta là người nhân hậu, đã tìm cách cứu thoát con chó vô tội, dù biết rằng mình có thể sẽ phải đối đầu với ông chồng “bạo chúa”. Đó là chuyện bình thường. Nhưng phương cách cứu chó của bà ấy mới thực sự khác thường . Khi “âm mưu lừa dối” bị bại lộ, trong cơn tức giận, đại gia “bạo chúa” nọ đã ra lệnh bắn chết con chó. Chuyện không bình thường, vì con chó chẳng có tội lỗi gì trong “âm mưu” này cả. Nhưng người thực thi mệnh lệnh đã tìm cách qua mặt ông chủ để cứu sống con chó. Âu cũng chuyện bình thường, vì đó là “mệnh lệnh” của lương tâm. Nhưng bước ngoặt khác thường lớn nhất là khi vị đại gia nọ gặp tai nạn, bị mù, chính con chó mà ông ta từng ra lệnh giết chết lại trở thành chó dẫn đường cho ông, trở thành một người bạn bốn chân trung thành và thân thiết nhất của ông. Lời sám hối của vị đại gia ở cuối sách cho thấy lòng nhân luôn tiềm ẩn trong mỗi con người, dù có khi họ độc ác, tàn nhẫn đến đâu đi nữa. Chính vì vậy, Chó dẫn đường, đại gia và nhân quả được độc giả và giới phê bình văn học Nga đánh giá cao. Chó dẫn đường, đại gia và nhân quả không chỉ là một cuốn truyện hành động đầy gay cấn, hấp dẫn, với những pha thoát hiểm ngoạn mục trong đường tơ kẽ tóc mà còn là một câu chuyện tình người, một lời cảnh tỉnh đối với những ai đã lỡ đánh mất lòng nhân chớ nên nhắm mắt chạy theo đồng tiền và niềm vui vật chất mà quên mất rằng sống trên đời cần quan tâm giúp đỡ cộng đồng, giúp đỡ những số phận đáng thương, bất hạnh. Gieo nhân nào ắt gặt quả ấy. *** Lời khen tặng dành cho tác phẩm “Chó dẫn đường, đại gia và nhân quả”:  “Chó dẫn đường, đại gia và nhân quả là một tuyệt tác. Tác giả Mikhail Samarsky là một con người đặc biệt. Tài năng văn chương và ý thức thiện nguyện phục vụ cộng đồng người khiếm thị của Mikhail rất đáng khâm phục. Tác phẩm của Mikhail không chỉ thuyết phục tuyệt đối giới phê bình văn học mà còn đánh động được con tim người đọc. Đó chính là phần thưởng lớn nhất cho người sáng tác.” - Nghệ sĩ nhân dân Philipp Kirkorov “Một quyển sách tuyệt vời! Một món quà vô giá cho những ai biết thương yêu, quý mến những “người bạn bốn chân” của loài người. Tác phẩm ngập tràn nhiệt huyết và lòng yêu thương. Mikhail Samarsky – một tâm hồn nhân bản, một tài năng đang phát triển, thăng hoa.” Nhà văn công huân A. Y. Skazhinsky,P. Chủ tịch hội nhà văn LB Nga, Ủy viên Hội nhà báo LB Nga. “Một tác phẩm giàu kịch tính và đầy chất nhân văn. Tác giả ở tuổi vị thành niên mà viết được như vậy quả là rất đáng khen, rất đáng trân trọng.” - Hội viên Hội nhà văn Nga, Ủy viên Hội nhà báo quốc tế, Nhà văn Vadim Kozlov “Đọc cuốn sách Chó dẫn đường, đại gia và nhân quả thật hứng thú. Ta cười đó, rồi có khi khóc đó. Thật nhiều cung bậc cảm xúc. Nhưng điều dễ nhận thấy nhất trong tác phẩm là tấm lòng nhân ái của tác giả nhỏ tuổi Mikhail Samarsky dành cho chó dẫn đường, dành cho người khiếm thị và dành cho tất cả mọi người.” -Nghệ sĩ công huân Tachiana Makarova “Là người khiếm thị, tôi thưởng thức tác phẩm Chó dẫn đường, đại gia và nhân quả qua sách nói. Đó là cuốn sách hay nhất mà tôi từng được nghe (và từng được đọc bằng mắt trước đây, khi tôi chưa bị mù). Xin cảm ơn tác giả Mikhail Samarsky. -Một độc giả khiếm thị   ***   Ngay cả trong những cơn ác mộng kinh hoàng nhất tôi cũng chưa bao giờ nằm mơ thấy những điều đáng sợ đến như vậy. Giả dụ bây giờ tôi thách các bạn đoán xem lúc này tôi đang nằm ở đâu, chắc chẳng ai đoán ra. Ôi, tôi chủ quan quá, có lẽ cũng sẽ có người đoán đúng, rằng tôi đang nằm trên bàn mổ - quả thực, loài chó thỉnh thoảng cũng mắc phải những căn bệnh mà muốn điều trị dứt điểm, đôi khi cũng cần đến sự can thiệp bằng phẫu thuật. Nhưng nếu các bạn nghĩ rằng tôi mắc phải căn bệnh hiểm nghèo nào đó thì quả là lầm to. Tôi khỏe như bò mộng. Hay như lời một bài hát nào đó, tôi “khỏe bằng hai con bò cộng lại”. Không phải tự tôi thích nằm ườn ra trên bàn mổ. Thực ra, gọi là “nằm ườn” thì chẳng mấy chính xác, vì tôi bị trói chặt đến nỗi muốn vẫy tai còn khó chứ nói chi đến chuyện cử động bốn chân và cả thân mình. Tôi rầu nẫu ruột khi viết về chuyện này, thật đấy, rất buồn và rất đáng sợ: có ai đó đang cần đến buồng gan của tôi. Ôi, ngày trước tôi từng ước ao được hưởng cảnh hưu trí an nhàn sau khi thực hiện xong bổn phận của một con chó dẫn đường, nào có bao giờ nghĩ rằng đời mình sẽ phải kết thúc một cách đớn đau và… vô bổ dưới lưỡi dao mổ của một viên bác sĩ thú y nào đó. Ôi, tức thật, tức thật! Tức muốn chết đi được! Giá chi các bạn biết được rằng trong căn phòng mổ chật hẹp này nồng nặc những thứ mùi vô cùng khó chịu – nào mùi ê-te, mùi thuốc khử trùng, mùi từ những thiết bị y tế quái quỷ gì đó… Những mùi ấy có thể giết chết tôi trước khi ông bác sĩ thú y kịp rạch mũi dao tử thần vào cái hông của tôi. Tôi nằm đó, trên bàn mổ, và cuộc đời tôi diễu qua trước mắt như một cuốn phim chiếu chậm. Qua những cuốn sách trước đây của tôi, hẳn các bạn biết, tôi đã hút chết biết bao lần. Bọn trộm chó đã nhét tôi vào cốp xe hơi rồi sau đó giam trong một nhà kho tối tăm, ẩm thấp. Một đám trẻ bắn tôi bằng ná cao su, may mà không vỡ đầu, lòi mắt. Rồi đám trẻ bụi đời suýt xả thịt tôi làm món nướng xiên que. Thậm chí tôi còn bị săn lùng bằng súng đạn ria. Mỗi lần như vậy, tôi đều may mắn thoát chết. Chứng tỏ, số tôi hên. Nhưng chỉ hên được đến thế thôi, còn bây giờ là… chấm hết. Ông bác sĩ thú y bảo rằng chỉ khoảng 15 – 20 phút nữa là ông ấy sẽ bắt tay thực hiện công việc. Hừm, “công việc”! “Giết chóc” thì có chứ “công việc” cái nỗi gì! Chỉ được cái khéo đánh tráo khái niệm! Thử nghĩ xem, có thể gọi là “công việc” được hay không khi mà người ta mổ bụng, moi gan một con chó khỏe mạnh bình thường, có khả năng lao động? Có thể điên lên được với những thứ gọi là “công việc” như vậy. Nhưng thôi, biết làm sao bây giờ? Thôi thì còn chút ít thời gian, nếu các bạn muốn, tôi xin tranh thủ kể các bạn nghe chuyện gì đã xảy ra và tại sao tôi lại bị trói cả bốn chân quẳng lên cái bàn mổ chết tiệt này. Lần gần đây nhất tôi phục vụ ông Vladimir Petrovich, nhân viên cứu hộ thuộc Bộ các tình trạng khẩn cấp. Ông bị mù cả hai mắt trong một lần tham gia cứu nạn. Nhưng rồi sau đó ít lâu, các đồng nghiệp của ông quyên tiền đưa ông sang Đức làm phẫu thuật mắt và kết quả là một con mắt đã phục hồi thị lực. Tôi được trả về trường đào tạo chó dẫn đường. Sau đó, tôi lại được giao cho một chàng thanh niên mù. Ở trong nhà chàng trai này, tôi cảm thấy không thích thú gì cả, thậm chí còn linh cảm sẽ xảy ra chuyện gì đó không ổn. Khi tham gia huấn luyện cùng với tôi ở trường, anh ta được gọi tên là Vichia, vậy mà khi vừa về nhà, anh ta lại có tên là Koschia. Tôi nghe anh ta gọi điện thoại cho ai đó, nói: “Tao đây, Koschia đây, đến ngay đi, có hàng rồi”. Sau đó anh ta tháo cặp kính đen ra, ném vào xó nhà, ngồi phịch xuống ghế bành, cáu kỉnh lẩm bẩm: - Đóng kịch bấy nhiêu đó đủ rồi. Chán quá đi thôi. Tôi nhìn anh ta và hiểu ngay rằng đó là người sáng mắt chứ chẳng phải mù lòa gì cả. Vài phút sau, anh ta quay lại, nhìn tôi trừng trừng rồi quát: - Nhìn cái gì thế? Người ta sắp đến bắt mày đi đấy. Chuyện gì thế này? Hóa ra anh ta dùng chữ “hàng” để gọi tôi. Ối cha cha!!! Từ đáy con tim, tôi cảm nhận rằng chuyện này lành ít dữ nhiều. Người ta sắp đến bắt tôi đưa đi đâu? Có nghĩa, họ đâu có cần đến chó dẫn đường? Anh chàng Vichia-Koschia này đích thực là người sáng mắt. Nhưng từ sâu thẳm lòng mình, tôi vẫn nuôi chút hi vọng là người ta sẽ đưa tôi đến với một người mù nào đó. Tôi cũng thoáng nghĩ, hay là người ta sẽ đưa tôi ra nước ngoài? Nhưng trường tôi là trường quốc gia, chỉ đào tạo chó dẫn đường cho công dân Nga mà thôi. Tuy nhiên, khi những nhân vật mới xuất hiện trong căn hộ, mọi niềm hi vọng của tôi đều tan biến hết. Giá như các bạn được nhìn thấy những bộ mặt dữ dằn ấy. Đúng là những bộ mặt thú dữ. Nắm đấm của chúng còn to hơn cả cái đầu chó của tôi. Một gã đặt tôi nằm ngửa trên lưng và đưa tay sờ nắn gì đó ở vùng bụng của tôi rồi hỏi anh chàng Vichia-Koschia: - Nó mạnh khỏe bình thường chứ? Không bị bệnh gì chứ? - Tất nhiên là nó mạnh khỏe. Sản phẩm của Trường đào tạo chó dẫn đường quốc gia mà lại. Ở trường ấy, đời nào người ta lại đi nuôi nấng, đào tạo thứ chó bệnh? Nói cho mà biết, ở trường còn có cả bệnh viện thú y. Việc tiêm chủng được thực hiện định kỳ, đều đặn theo lịch. Tóm lại, việc chăm sóc sức khỏe cho lũ chó ở đấy luôn được thực hiện trên tầm cao quốc tế. - Giấy tờ tùy thân của nó đâu? - Đây, có đây, đầy đủ. – Vichia-Koschia đưa ra các loại giấy tờ. - Tốt! – Gã trai có bộ mặt hầm hố xoa tay thỏa mãn. – Quan trọng nhất là buồng gan của nó còn xài được, chứ nếu không, sếp sẽ xé xác chúng ta ra làm trăm mảnh. – Rồi hắn quay sang gã trai đi cùng, nói: - Nào, chuẩn bị lồng rọ đi. Chỉ phút sau, tôi đã phải ngồi trong một cái lồng to vật, bản thân chẳng hiểu đầu cua tai nheo gì cả. Ông sếp nào của họ mà dữ dằn đến thế? Tại sao ông ấy lại cần đến buồng gan của tôi? Ông ấy là người thích xơi món lạ hay sao? Ôi! Bất giác tôi cảm thấy đau nhói bên hông. Nếu ông ấy thường xuyên xơi món gan chó thì không biết đã có bao nhiêu con chó oan mạng. Lạ thật đấy. Đúng là đồ quái vật! Lát sau, tôi, giống như một con báo con beo man dã nào đó, bị nhốt trong cái lồng to tướng và chắc chắn, được người ta đưa ra ngoài sân rồi tống lên một chiếc xe hơi 16 chỗ đã dẹp bớt những hàng ghế sau. Thời gian di chuyển rất lâu, không phải vì đường xa, mà vì kẹt xe liên tục. Tôi ngủ gà ngủ gật, nhưng vẫn nghe được câu chuyện của những tên “lính” áp tải. - Ông chủ của chúng ta quả là một người cực quái. Nhiều lúc cứ như trẻ con. Thật đấy. – Gã lái xe nói. - Tại sao mày nói thế? - Thì đấy. Ông ấy cứ thích phải có được con chó Labrador to vật này cơ. Phải chi cứ chọn lấy một chú cún con, rồi nuôi dạy từ từ, tùy thích. - Ôi, mày nói gì vậy? – Gã hộ pháp phản đối. – Con chó của ông ấy đang gặp vấn đề gì đó. Mọi chuyện không đơn giản như mày nghĩ đâu. - Ôi dào, - một gã khác phẩy tay, - chó với chẳng má. Một khi giàu có thì người ta có thể nghĩ ra đủ mọi chuyện điên. - Nhìn chung thì mày nói đúng đấy, - gã tài xế gật đầu biểu đồng tình. – Nếu không có tiền, bố bảo cũng chẳng ai dám làm những trò điên như vậy. Một ca phẫu thuật như thế này tốn tiền tấn chứ ít sao, tao biết chứ. - Thôi đi cha nội ơi, việc quái gì mà cứ phải đếm tiền trong túi người khác. – Một tên trong bọn cười phá. - Vấn đề không phải là tiền. – Một tên khác chen vào. – Có ai thương xót con chó này không? – Hắn hất hàm về phía tôi. – Lát nữa đây người ta sẽ rạch bụng một con chó vô tội, và thế là xong đời nó… Tôi nghe những lời ấy mà giật mình. Nhưng cho đến lúc đó tôi vẫn chưa thể nào hình dung ra được người ta cần cái gì ở tôi. Và bỗng nhiên một trong những kẻ áp giải tôi tiết lộ bí mật: - Thật đáng tiếc nếu lá gan của nó không được cơ thể con chó của ông chủ chấp nhận. Chẳng chắc gì con chó của ông ấy sống được với lá gan của con chó này. - Ghê nhỉ, - tay tài xế huýt gió ngạc nhiên, - vậy hóa ra chẳng có gì bảo đảm thành công cả sao? - Tất nhiên là chẳng có gì bảo đảm cả! - Một gã trong bọn gật đầu. - Ông bác sĩ nói rồi - năm mươi/ năm mươi. Việc cấy ghép gan thì ông ấy vẫn tiến hành, nhưng không dám hứa chắc con chó của ông chủ sẽ sống được. - Bác sĩ gì mà lạ thế! Như vậy là lừa đảo. – Gã tài xế tỏ vẻ bất bình. - Tại sao mày nói vậy? - Năm mươi / năm mươi là thế quái nào? Chẳng có chút trách nhiệm nào về lời nói của mình cả. Chẳng khác gì dự báo thời tiết theo kiểu “có thể sẽ mưa, cũng có thể sẽ nắng”. Dự đoán như thế thì ai mà chẳng dự đoán được. Trong trường hợp này cũng vậy. Cả bọn cười ồ. Nhưng tôi bắt đầu hiểu chuyện gì đang xảy ra. Chuyện là sao? Phải chăng một tay nhà giàu nào đó muốn lấy buồng gan của tôi cấy ghép cho con chó đang bị bệnh của mình hòng cứu sống nó. Thật nhân đức làm sao! Cứu một con chó bằng cách tống tiễn một con chó khác qua thế giới bên kia. Nhưng điều đáng buồn nhất là thậm chí bác sĩ cũng không xác quyết là con chó nọ sẽ sống nổi sau khi được cấy ghép gan. Và họ đã dối gạt nhà trường bằng cách nào để được nhận tôi về? Khi đến nơi, người ta chẳng cho tôi ra khỏi lồng. Ông bác sĩ chích cho tôi một mũi thuốc gì đó khiến đầu óc tôi trở nên lơ mơ, lơ mơ, nhìn thấy mọi sự việc xung quanh diễn ra y như trong một cuốn phim chiếu chậm. Tóm lại tôi đã kịp kể các bạn nghe tại sao tôi lại có mặt trên bàn mổ. Tôi thầm từ biệt cuộc đời, thầm gửi lời tạ lỗi đến tất cả những ai mà tôi vô tình xúc phạm, sủa oan. Các bạn biết không, tôi tiếc cuộc sống này quá, chỉ muốn tru lên như chó sói. Xin đừng nghĩ là tôi đớn hèn, tham sống sợ chết. Không, tôi đã chấp nhận số phận. Chỉ buồn là phải chết một cách vô nghĩa và chết như một con chó vô danh… Ôi!!! Khoan! Hình như có một cơ hội dành cho tôi chăng? Một người đàn ông và một phụ nữ bước vào phòng mổ và nhìn ngắm tôi một cách chăm chú. Người đàn ông chính là ông bác sĩ, còn người phụ nữ là… là ai tôi không biết. Nhưng trước hết hãy nghe họ nói gì với nhau: - Bác sĩ Anton, nếu không có bất cứ sự bảo đảm thành công nào thì liệu ca phẫu thuật này có ý nghĩa gì? – Người phụ nữ vung tay, hỏi giọng cáu gắt. – Nuôi một con chó khác có phải hơn không? - Ôi, thưa bà Olga Semionovna, tôi cũng đã đề nghị như vậy với ông Alexander Mikhailovich rồi đấy ạ. - Rồi ông ấy nói sao? – Bà Olga nhìn chăm chú vào mắt ông bác sĩ. - Phản đối thẳng thừng. – Ông bác sĩ chém bàn tay vào không khí. – Ông ấy bảo: “Tôi không biết, ông làm gì thì làm nhưng phải cứu bằng được con chó Grin của tôi”. Ông ấy dứt khoát không chịu nghe bất cứ ý kiến nào khác. - Nếu sau khi được ghép gan, con Grin vẫn không sống nổi thì sao? - Có Chúa biết được chuyện gì sẽ xảy ra, - ông bác sĩ nhún vai. – Nếu bà muốn, tôi xin nói thật: cơ hội được tiếp tục sống của con chó Grin là vô cùng thấp. - Nghe này, nếu… - bà Olga ngừng lời, đắn đo một lát rồi bật ra: - Nếu ta biến con chó này thành con Grin thì sao? - Như thế nghĩa là thế nào? – Ông bác sĩ há hốc mồm. - Rất đơn giản! – Bà Olga xoa xoa hai bàn tay vào nhau. – Một con chó cần bao nhiêu thời gian nghỉ ngơi tĩnh dưỡng sau phẫu thuật cấy ghép gan? - Bà nghĩ ra điều gì thế? – Ông bác sĩ tỏ ra lo sợ. - Chúng ta có thể giấu nó đi trong khoảng một tháng không? – Bà Olga hỏi. - Trước hết bà hãy cho biết, bà đã nghĩ ra kế gì? – Ông bác sĩ vẫn khăng khăng ý mình. - Tóm lại là thế này, - bà Olga nói dứt khoát: - Chúng ta sẽ hủy bỏ ca mổ! Ông bác sĩ giật mình, xua tay lia lịa. - Ối, ối, thưa bà Olga Semionovna, làm sao có thể như vậy được? Ông Alexander Mikhailovich lại chẳng moi buồng gan của tôi ra làm món pa-tê chứ ông ấy tha cho à? Không, không được đâu. Tôi không dám chơi trò mạo hiểm ấy đâu. - Bao nhiêu? – Bà Olga sầm mặt hỏi. - “Bao nhiêu” gì cơ? – Ông bác sĩ nhíu mày, co rúm người. - Ông cần bao nhiêu tiền cho sự im lặng của mình? – Bà Olga rít lên. - Thưa bà Olga Semionovna, xin bà tha cho tôi đi ạ. – Ông bác sĩ lập cập van lơn. – Xin bà hiểu cho... - Yên tâm đi, bác sĩ Anton, tôi sẽ lãnh nhận mọi hậu quả về mình nếu xảy ra điều tồi tệ. Ngày mai ông sẽ nhận một triệu rúp! - Vậy rồi chúng ta sẽ làm gì với con Grin? – Ông bác sĩ run rẩy hỏi. - Thì ông cứ hãy cứu chữa cho nó! – Bà Olga trả lời. – Trong những trường hợp tương tự, người ta sẽ phải làm gì với con chó bệnh? - Thông thường thì người ta chỉ còn cách đem chôn nó đi mà thôi. – Bác sĩ thở dài nặng nhọc. - Không! – Bà Olga nói dứt khoát. – Chúng ta sẽ không làm điều ác đó. Ông hãy cứ cứu chữa, tiêm thuốc giảm đau cho nó. Vạn bất đắc dĩ nếu nó không qua khỏi thì hãy để nó chết bằng cái chết tự nhiên. Tuyệt đối không được đem chôn khi nó chưa chết hẳn. Tôi không cho phép làm điều đó! - Tôi hiểu, – ông bác sĩ gật đầu. – Như vậy là mọi chuyện đã rõ. - Nó còn cầm cự được bao lâu nữa? – Bà Olga hỏi. - Nhiều nhất là một tuần, - bác sĩ trả lời, - nhưng chắc chỉ một hai ngày là cùng. Ông bác sĩ ngồi phịch xuống cái ghế giữa phòng, hai tay ôm đầu. - Bây giờ thế này, - bà Olga nói giọng ra lệnh, – ông sẽ nói với ông Alexander Mikhailovich rằng ca phẫu thuật đã thành công, nhưng hiện tại không được làm phiền con chó, phải để cho nó nghỉ ngơi, tĩnh dưỡng. Sau đó, mọi chuyện hãy đẩy hết qua cho tôi. Hãy nói rằng bà Olga đã đưa con chó Grin ra nhà nghỉ ngoại ô cho nó dưỡng bệnh, nghỉ ngơi sau ca mổ cấy ghép. Những gì tiếp theo hãy để mặc tôi ứng phó với ông Alexander Mikhailovich. Tôi sẽ tìm cách giải thích hợp lý nhất. Còn bây giờ, ông hãy cải trang con chó này – bà Olga chỉ tay về phía tôi – thành một con chó “hậu phẫu”, băng bó kín mít, bôi máu me lên mình nó thật nhiều, khiến ngay mẹ đẻ của nó cũng không nhận ra. Tôi sẽ trở lại sau hai hoặc ba tiếng đồng hồ. Cứ thế mà làm, không được rút lui đâu đấy. Hiểu chưa? - Thưa bà Olga Semionovna kính mến, nói thực lòng, tôi rất sợ. – Ông bác sĩ run rẩy nói. - Ông sợ ai? – Bà Olga cười khẩy. - Tôi sợ ông Alexander Mikhailovich. – Bác sĩ Anton thì thào đáp. - Điều đó cũng tốt, thậm chí rất tốt! – Bà Olga gật đầu. – Nhưng trong trường hợp này, tốt hơn hết ông phải sợ tôi. Chớ có mà làm hỏng chuyện! – Bà Olga đưa ngón tay điểm mặt, hăm dọa. - Có chết tôi cũng không dám, thưa bà! – Ông bác sĩ run run thề thốt. – Tôi còn có lối thoát nào nữa đâu. - Giỏi. Biết thế là tốt! – Bà Olga khen một câu rồi tiến về phía cửa, nhưng ở ngay ngưỡng cửa, bà ấy quay ngoắt lại hỏi: - Hi vọng, trong vòng một tháng, chúng ta có thể biến con chó này thành con Grin chứ? Làm được không? - Làm được! – Ông bác sĩ trả lời, giọng đã có phần tự tin. – Hai con khá giống nhau. Thực ra cũng cần “cải trang” lại đôi chút, tô màu mấy vệt lông cho giống, cắt xẻ đôi chỗ, kiểu như phẫu thuật thẩm mỹ, chỉnh hình ấy mà. Tai của con Grin có bị sứt sẹo đôi chỗ vì từng cắn nhau với một con chó Stafford, bà nhớ chứ, vì vậy phải chỉnh tai của con chó này sao cho giống. Nhưng mọi công việc ấy chỉ là chuyện vặt. Tôi thuộc từng sợi lông trên mình con Grin mà. - Được rồi, cứ thế tiến hành đi. Sáng mai tôi với ông Alexander Mikhailovich sẽ đến. Ông hãy liệu làm sao để chồng tôi không hề tỏ ý nghi ngờ gì cả. Nhớ băng bó thật kỹ con chó “hiến tặng nội tạng” này đấy nhé, – bà Olga mỉm cười và hất hàm về phía tôi, – vì nó sẽ phải đóng vai con Grin sau ca mổ cấy ghép. - Mọi chuyện sẽ “trên cả tuyệt vời”, thưa bà chủ! – Ông bác sĩ hứa. - Tôi rất hi vọng ở ông, bác sĩ Anton ạ. – Bà Olga vẫy tay chào rồi bước ra khỏi phòng, khép cửa lại. Ôi, cuối cùng thì đã có thể thở phào nhẹ nhõm. Như vậy có nghĩa là án tử dành cho tôi một lần nữa lại được hoãn chăng? Hình như số tôi luôn may mắn gặp được những người tốt bụng như bà Olga Semionovna. Cầu Chúa cho bà sống lâu, bà quả là một người phụ nữ tuyệt vời. Tôi sẽ chịu được ba cái vụ “cải trang” kia, xin bà đừng lo. Sơn sửa màu lông chỉ là chuyện nhỏ. Cần xẻ vành tai một chút cho giống vết thương do bị chó cắn ư? Cũng là chuyện nhỏ! Có xẻ te tua nham nhở ra cũng chẳng sao. Thậm chí cứ việc biến tôi thành giống chó doberman hay chó chăn cừu Trung Á cũng được. Tôi chấp nhận tuốt. Đã có ai nhìn thấy những giống chó ấy chưa? Chúng hoàn toàn không có vành tai, nhưng vẫn sống khỏe như thường. Quan trọng nhất là buồng gan vẫn còn nguyên trong bụng tôi và tôi tiếp tục được sống trên cõi đời này. Như vậy, tôi sẽ phải sống dưới một cái tên khác. Tên gì ấy nhỉ? Ờ, Grin. Thì đã sao nào. Một cái tên không đến nỗi tồi. Tuy nhiên, nếu tôi tìm được cách trốn thoát và trở về trường, không biết các thầy cô huấn luyện viên có nhận ra tôi không, vì lúc đó tôi đã bị tô lông thành màu khác, có khi trông sặc sỡ như con vẹt chứ chẳng chơi. Nhưng hình như tôi đã thả hồn đi quá xa. Chớ có vội mơ về ngày được trở lại trường. Để còn xem, liệu cái ông… ông gì ấy nhỉ, ờ ông Alexander Mikhailovich bạo chúa ấy có chấp nhận mi là con chó Grin của ông ấy hay không. Nhỡ chẳng may ông ấy phát hiện ra tôi chỉ là con Grin giả, nghĩa là bị đánh tráo thay cho con Grin thật của ông ấy, thì sao? Thôi thì phó mặc rủi may. Giờ đây, mọi sự chỉ có thể trông mong vào bà Olga Semionovna kính mến mà thôi. Một khi đã trót cưỡi lên lưng cọp thì ráng cưỡi cho khéo, chớ để ngã xuống, cọp nó xơi mất. Dĩ nhiên, trong chuyện này, tôi chẳng có tội lỗi gì cả. Người ta nghĩ ra những trò lừa dối gì đó, còn tôi thì lãnh hậu quả. Nhưng biết làm sao giờ, kiểu gì thì giờ đây tôi cũng sẽ phải trở thành con chó mang tên Grin của một đại gia nào đó. Dù sao thì như vậy cũng còn tốt hơn so với việc bị mổ bụng moi gan. Hai người đàn ông bước vào phòng mổ. Về sau tôi hiểu rằng đó là các phụ tá của ông bác sĩ. Cuộc “lột xác” của tôi bắt đầu.   Mời các bạn đón đọc Chó Dẫn Đường - Đại Gia Và Nhân Quả của tác giả Mikhail Samarsky & Phạm Bá Thủy (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Người Thành Công Có 1% Cách Nghĩ Khác Bạn
Cuốn sách NGƯỜI THÀNH CÔNG CÓ 1% CÁCH NGHĨ KHÁC BẠN, giới thiệu với bạn về quy tắc trí tuệ nhân sinh của Baltasar Gracián, một vị giáo sĩ Tây Ban Nha, sống ở thế kỷ XVII. Ông là người có tri thức uyên bác, đồng thời có trí tuệ và kinh nghiệm nhân sinh vô cùng phong phú. Triết gia nổi tiếng Netzsche từng ca ngợi: “Trí tuệ và kinh nghiệm nhân sinh của Gracián vẫn tuyệt vời cho đến tận ngày hôm nay, và không gì có thể sánh bằng”. Với những quy tắc trí tuệ của Gracián, cuốn sách cho bạn biết về những phép xử thế vô cùng thực tế, giúp bạn hiểu được rằng, bạn sẽ phải cần đến những phương pháp khôn khéo nào để bảo toàn, mở rộng và thực hiện giá trị của chính mình trong cuộc sống. Cuốn sách được biên soạn với hi vọng, độc giả có thể cùng chia sẻ và tập hợp những tinh hoa trí tuệ của Gracián, từ đó có thể nhìn thấy lời khuyên hữu ích của một bậc triết nhân. Đồng thời, để giúp độc giả có thể lĩnh hội dễ dàng hơn những bí mật và tinh túy ẩn chứa trong nó, tác giả cuốn sách còn đặc biệt lựa chọn các ví dụ từ cổ chí kim, phối hợp để làm rõ nội hàm tinh thần trí tuệ của Gracián. Chỉ cần bạn tĩnh tâm lại, bớt một chút thời gian để ghi nhớ và học tập những lời khuyên, bạn sẽ có thể dẫn dắt cuộc sống của bạn, chèo lái con thuyền cuộc đời đi đến bến bờ thành công trong đại dương mênh mông. *** BẬC THẦY TRÍ TUỆ NHÂN SINH - Gracián Biển người mênh mông, mỗi chúng ta chính là một con thuyền nhỏ bé trong đó. Khi bơi thuyền trên biển, bạn không thể biết mình sẽ gặp phải sóng to gió lớn nơi chân trời góc biển nào, liệu có bị nó đánh tan xương nát thịt hay không. Vậy mà biển đời còn khó nắm bắt, khó thấu hiểu hơn nhiều so với biển trong tự nhiên. Nếu muốn con thuyền được thuận buồm xuôi gió trong đại dương mênh mông này, bạn cần phải trở thành một tay chèo cừ khôi, để chèo lái con thuyền cuộc đời của chính mình, phải học cách vượt qua sóng gió, kịp thời điều chỉnh hướng thuyền, tìm vị trí thích hợp cho mình trong đại dương - nơi hàng ngàn con thuyền khác đang tranh đua. Bạn không thể để người khác vượt mặt mình, thậm chí “thôn tính” mình được. Muốn trở thành người lái thuyền tỉnh táo, trước hết cần biết xem xét tình hình, phán đoán những nơi đang tiềm ẩn sự nguy hiểm, tận dụng tất cả các điều kiện và hoàn cảnh ở xung quanh. Gió bão trên biển lớn thường đến một cách đột ngột, đôi khi ở nơi mà ta chưa bao giờ nghĩ tới, lại có những tảng đá ngầm đang lặng lẽ chờ đợi mình. Vì vậy, mỗi người phải có đủ sự hiểu biết để quan sát những mối nguy hiểm có thể xảy ra trên đường đời, đồng thời cần tích lũy tương đối phong phú những kinh nghiệm xử thế và trí tuệ, khéo léo tận dụng tất cả những gì có thể tận dụng được, để giúp cho con thuyền nhân sinh được chèo lái nhanh hơn, an toàn hơn. Vậy thì, bạn còn do dự gì nữa? Hãy hiểu rằng, cũng như các tri thức khác, trí tuệ và kinh nghiệm nhân sinh ngoài dựa vào việc đích thân trải nghiệm và cảm nhận, thì cũng có thể xuất phát từ việc học hỏi kinh nghiệm và tri thức của người khác. Trên thực tế, bạn không thể nào tự mình đi trải nghiệm tất cả mọi việc, bạn cũng không nên chờ đến lúc thực sự “kinh nhất sự” (trải qua một việc), rồi mới “trưởng nhất tri” (thêm một phần hiểu biết). “Kinh nhất sự trưởng nhất tri” thực ra là một kết quả bất đắc dĩ. Cách làm thông minh nhất chính là học hỏi kinh nghiệm thành công của người khác, rút ra bài học từ sự thất bại của họ, sau đó đem những kinh nghiệm và bài học này vận dụng vào thái độ ứng xử và việc chèo lái con thuyền nhân sinh của chính mình. Chỉ có như vậy, bạn mới có thể bỏ ra một cái giá thấp nhất mà đạt được thành công lớn nhất. Khổng Tử nói: “Tam nhân hành tất hữu ngã sư yên” (Ba người đi cùng nhau, tất sẽ có người là thầy ta). Thực ra, không nhất thiết phải là ba người mới có một người đủ khả năng để làm thầy, cũng không nhất định phải trong khi “đi” mới có thể tìm được người thầy. Mỗi một người ở xung quanh mình đều có thể là thầy, những sự việc xảy ra trong lịch sử, những nhân vật từng xuất hiện trong lịch sử cũng đều có thể là thầy của chúng ta. Những nụ cười sau khi thành công, nỗi buồn sau khi thất bại của họ, chúng ta có thể đồng cảm mà không nhất thiết phải đích thân trải nghiệm. Vì vậy, chúng ta hãy dừng lại một lát giữa bộn bề trăm công nghìn việc, tĩnh tâm lại, xem người khác đã làm như thế nào. Đó là một cách nghỉ ngơi, cũng là một cách học tập khác với bình thường. Thật là việc tốt cả đôi đường, cớ gì lại không làm. Trong cuốn sách này, chúng tôi sẽ giới thiệu với bạn về quy tắc trí tuệ nhân sinh của Baltasar Gracián. Gracián là một vị giáo sĩ Hội thánh Chúa Giê-su Tây Ban Nha, sống ở thế kỷ XVII. Ông là người có tri thức uyên bác, đồng thời có trí tuệ và kinh nghiệm nhân sinh vô cùng phong phú. Là một tín đồ và sứ giả của thượng đế, ông vô cùng phẫn nộ trước những tội ác đối với nhân loại, tuy nhiên, Gracián lại là một người có ý thức thực tế vô cùng mãnh liệt, chứ không đơn thuần là một hình tượng giáo sĩ mô phạm cứng nhắc. Ông không có những giáo lí sáo rỗng về nhân nghĩa đạo đức. Ở đây, ông không chỉ nói với bạn về những điều cao thượng mà còn cho bạn biết về những phép xử thế vô cùng thực tế, giúp bạn hiểu được rằng, bạn sẽ phải cần đến những phương pháp khôn khéo nào để bảo toàn, mở rộng và thực hiện giá trị của chính mình trong cuộc sống hiện thực tàn khốc này. Có thể nói, quy tắc trí tuệ mà ông đưa ra có ý nghĩa hiện thực vô cùng sâu sắc và độ tin cậy cần thiết, cũng như khả năng vận dụng lớn. Nhiều nhân vật ưu tú vĩ đại của lịch sử đều bái phục quy tắc trí tuệ của Gracián. Triết học gia người Đức Schopenhauer dịch cuốn The Art of Worldly Wisdom ( Nghệ thuật của trí tuệ) của Gracián sang tiếng Đức, đệ tử của Schopenhauer - triết học gia kiệt xuất Netzsche cũng ca ngợi rằng: “Trí tuệ và kinh nghiệm nhân sinh của Gracián vẫn tuyệt vời cho đến tận ngày hôm nay, và không gì có thể sánh bằng.” Chúng tôi biên soạn cuốn sách đặc biệt này với hi vọng độc giả có thể cùng chúng tôi chia sẻ trí tuệ của Gracián. Đây là nơi tập trung những tinh hoa trí tuệ của Gracián, là nơi chúng ta nhìn thấy lời khuyên của một bậc triết nhân. Đồng thời, để giúp độc giả có thể lĩnh hội dễ dàng hơn những bí mật và tinh túy ẩn chứa trong nó, chúng tôi còn đặc biệt lựa chọn các ví dụ từ cổ chí kim, phối hợp để làm rõ nội hàm tinh thần trí tuệ của Gracián. Có thể nói, châm ngôn và các ví dụ sẽ làm sáng rõ lẫn cho nhau, chiếu rọi cho nhau, giúp cho bạn có thể hiểu chính xác rõ ràng hơn về đạo lí được ẩn tàng trong đó, góp phần dẫn dắt cuộc sống của bạn, giúp bạn chèo lái con thuyền cuộc đời đi đến bến bờ thành công trong đại dương mênh mông. Chúng tôi tin rằng, chỉ cần bạn tĩnh tâm lại, bớt một chút thời gian để ghi nhớ và học tập những lời khuyên, chắc chắn bạn sẽ đạt được những thành quả chưa từng có. *** Phần 1: NHỮNG NGƯỜI THÀNH CÔNG ĐỐI XỬ VỚI BẢN THÂN NHƯ THẾ NÀO? 16 cách nghĩ có 1% khác với bạn Người đồng hành tốt nhất trong cuộc đời không phải ai khác, mà chính là bạn. Nhận thức rõ những điểm mạnh yếu của bản thân, sẽ khiến tôi và bạn trở thành một ngôi sao đặc biệt nhất trong biển người bao la. 1. Để bản thân đồng thời có tính cách của cả loài rắn độc lẫn bồ câu trắng Bạn cần có đồng thời hai loại tính cách này: một nửa là rắn độc, một nửa là bồ câu trắng. Những người quá hiền lành sẽ luôn bị lường gạt, còn những người chưa bao giờ nói dối thì luôn bị bịp bởi những lời lừa dối. Nói như vậy không có nghĩa là bạn đã bị gắn một cái mác là dễ bị lừa, đôi khi bị người khác lừa lại là một việc tốt. Nhưng lòng dạ đừng quá tốt để đến nỗi tạo cơ hội cho người xấu thực hiện dã tâm của họ, đó là nguyên tắc cơ bản! Một nửa là rắn độc, một nửa là bồ câu trắng, bạn không phải là ma quỷ, mà là thiên tài. ------Baltasar Gracián Lịch sử nước Mỹ có “Chủ nghĩa Monroe” nổi tiếng, người tạo ra nó kì thực không chỉ có tổng thống Monroe mà còn có một nhân vật khác ít được biết đến: Ngoại trưởng Mỹ đương thời - John Quincy Amsterdam. Nếu như tiếp tục tìm hiểu kĩ hơn thì có thể thấy rằng, điều này đã ảnh hưởng đến cả chính sách trong lịch sử Mỹ dưới thời các tổng thống của các nhiệm kì trước đây, dẫn đến sự phát triển tính cách của cả dân tộc Mỹ. Tính cách này có thể dùng câu “một nửa là rắn độc, một nửa là bồ câu trắng” để miêu tả và khái quát. Nước Mỹ sau khi thoát khỏi sự thống trị của người Anh, liền bắt đầu mở rộng lãnh thổ và thế lực của mình. Những người đứng đầu nước Mỹ ngay từ đầu đã tràn đầy tham vọng. Họ hiểu rằng, để đưa Mỹ trở thành một quốc gia hùng mạnh, trước hết cần có đủ sức mạnh. Vì vậy, sau khi lập quốc không lâu, Mỹ từ một nước thực dân trước đây đã biến thành “mãnh thú”, luôn ráng sức so bì cao thấp với các nước khác, nhằm mục tiêu trước mắt là: nỗ lực trở thành bá chủ châu Mỹ. Một mặt, chính phủ Mỹ lập tức thiết lập “giá đỡ”, trở thành cứu tinh cho châu Mỹ. Họ lên tiếng nói rằng, các cường quốc khi đó như Tây Ban Nha, Pháp, Anh không nên can thiệp vào việc riêng của nước Mỹ và cả châu Mỹ; đồng thời, họ lại vung cây gậy lớn nhằm vào các nước nhỏ lân cận như Mexico để thị uy, khiến họ phải nằm dưới sự bảo hộ của mình. Đây là chính sách “Cây gậy và củ cà rốt” đã được tổng thống Roosevelt kế thừa sau này, và cũng chính là “một nửa là rắn độc, một nửa là bồ câu trắng” mà Gracián đã nói. Khi đó, các cường quốc như Anh và Tây Ban Nha đang dần xuống dốc, nhưng điều này không có nghĩa là họ chấp nhận bỏ đi lợi ích của mình. Chính phủ Anh liền giở trò phái đại biểu yêu cầu Mỹ - Anh kết đồng minh, cùng nhau đối phó với Tây Ban Nha. Tổng thống Monroe trước khi đưa ra quyết sách, đã hỏi ý kiến của tổng thống nhiệm kì III Jefferson và tổng thống nhiệm kì IV Madison, tất cả đều đồng ý với ý kiến kết đồng minh với Anh. Tuy nhiên, Ngoại trưởng - ngài Amsterdam lại không đồng ý làm như vậy. Ông cho rằng, Mỹ đương nhiên không thể hoàn toàn cự tuyệt hợp tác với Anh, bởi mất đi sự ủng hộ của một nước lớn như nước Anh là một sự thiệt thòi lớn. Hơn nữa, nước Anh dù sao cũng là mẫu quốc của Mỹ, dù cho có bị nước Anh lừa gạt đi nữa, thì về lâu dài mà nói cũng không nên tính toán làm gì. Việc giữ gìn mối quan hệ tốt đẹp với nước Anh, đối với Mỹ là điều quan trọng, mang tính căn bản. Nhưng đồng thời, Amsterdam cũng phản đối mạnh mẽ việc liên minh. Ông cho rằng, nếu Mỹ và Anh liên minh thì sẽ tạo ra cho nước Anh một cái cớ và cơ hội can thiệp vào việc của nước Mỹ và châu Mỹ. Vì vậy ông kiến nghị: Về đối ngoại, Mỹ cần tuyên bố với Anh giữ gìn bảo vệ mục tiêu chung, chính là vì hòa bình của châu Mỹ; về đối nội, cần đưa cả châu Mỹ vào trong phạm vi thế lực của mình. Hai nguyên tắc kết hợp lại, sẽ hình thành nên một chính sách và khẩu hiệu rõ ràng, đó là: 15 “Sự vụ của châu Mỹ do người châu Mỹ tự giải quyết, nguyên tắc này không thể xâm phạm được”. Văn kiện do Amsterdam khởi thảo, được tổng thống Monroe trình bày với quốc hội Mỹ vào ngày 2 tháng 12 năm 1823, nguyên tắc bao hàm trong đó được gọi là “chủ nghĩa Monroe”. “Chủ nghĩa Monroe” đã đem lại cho châu Mỹ lợi ích trực tiếp, về mặt lí luận, các quốc gia châu Mỹ đều có thể giải phóng mình từ thân phận thuộc địa, có quyền độc lập tự chủ. Xét từ góc độ này, nước Mỹ đã mang lại những ảnh hưởng tích cực cho các nước khác trong châu Mỹ, từ đây họ có thể tự tin như nước Mỹ, tuyên cáo mình là quốc gia độc lập, không phải chịu sự khống chế của những nước như Anh hay Tây Ban Nha nữa. Mỹ vừa không hoàn toàn đắc tội với nước Anh, lại vừa phản đối một cách hiệu quả trước chính sách của người Anh, thêm vào đó lại được cả châu Mỹ tôn sùng, trở thành hình tượng “bồ câu trắng” của châu Mỹ. Đương nhiên Mỹ không chỉ đơn thuần là con bồ câu trắng hiền lành, nó còn là một con rắn độc. Để mở rộng phạm vi lãnh thổ và thế lực của mình, trong hàng trăm năm sau khi lập quốc, Mỹ chưa bao giờ dừng việc khống chế các nước châu Mỹ, thậm chí là uy hiếp bằng quân sự. Vào năm 1821, sau khi Mexico chính thức trở thành một quốc gia độc lập, Texas vốn dĩ thuộc về Mexico, nhưng di dân Mỹ đã đuổi quân đội của Mexico, tuyên bố muốn thành lập “Nước cộng hòa Texas” độc lập. Tuy nhiên, đây chẳng qua chỉ là cái cớ, bởi ngay sau đó, người Mỹ liền đưa ra chính sách sát nhập Texas. Đến năm 1847, Mỹ lấy lí do tranh chấp biên giới, trực tiếp xuất binh, dùng vũ lực, chiếm một phần lãnh thổ của Mexico, ép buộc Mexico phải kí điều ước, chính thức đồng ý cắt Texas nhượng cho Mỹ. Từ đó về sau, lãnh thổ mà Mỹ nuốt chửng bao gồm California, bang Nevada, Utal, tổng diện tích của những bang này còn lớn hơn cả lãnh thổ của Pháp và Đức cộng lại, giúp lãnh thổ nước Mỹ tăng thêm cả một vùng đất rộng hơn chín mươi hai vạn dặm Anh. Có thể thấy, rõ ràng nước Mỹ là quốc gia đồng thời mang cả hai loại tính cách của bồ câu và rắn độc. Chính một tính cách dân tộc như vậy đã làm cho nước Mỹ trong những năm tháng sau này nhanh chóng bước tới trung tâm của vũ đài lịch sử thế giới. Nói theo sự đánh giá của Gracián: một nửa là rắn độc, một nửa là bồ câu trắng, đó không phải là ma quỷ, mà là thiên tài.   Mời các bạn đón đọc Người Thành Công Có 1% Cách Nghĩ Khác Bạn của tác giả Chu Châu Bân.
Giao Tiếp Không Chỉ Bằng Ngôn Từ
Đàm phán là một phần cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Đó là điều chúng ta thực hiện mỗi ngày. Nhưng bạn có thường nghĩ kỹ trước khi đàm phán một vấn đề gì đó không? Điều gì là yếu tố quan trọng nhất để tạo nên một cuộc đàm phán thành công? Nếu bạn muốn cách làm thế nào để đàm phán giỏi hơn trong cuộc hội thoại tiếp theo, trong hội nghị sắp tới hay trong một cuộc tương lai với nhà cung cấp hoặc khách hàng hãy cho phép bản thân có được vài giờ nhàn rỗi, yên tĩnh để đọc cuốn sách này. Sau khi đọc cuốn sách Giao Tiếp Không Chỉ Bằng Ngôn Từ: Bạn sẽ hiểu nguyên tắc và bản chất căn bản của đàm phán hợp tác lẫn đàm phán cạnh tranh, cũng như sự khác biệt giữa chúng. Bạn sẽ tự phản ánh – và cải thiện – hành vi đàm phán của cá nhân mình. Bạn có thể đối phó với các đối tác khó nhằn cũng như sự vụ bất công một cách chuyện nghiệp. Đó là tất cả những gì bạn nhận được từ cuốn sách này. Hãy tận hưởng khoảng thời gian đọc sách này và điều này sẽ đưa bạn đến một thời khắc sáng chói. Mời các bạn đón đọc Giao Tiếp Không Chỉ Bằng Ngôn Từ của tác giả Jutta Portner & Quỳnh Mai (dịch).
Sống Đời Giản Dị
Người bệnh bị sốt nóng giầy vò, cổ khô, họng cháy, mơ thấy trong giấc ngủ một dòng suối mát rượi và y ngụp xuống để tắm rửa thỏa thuê, hay một làn nước trong veo mà y cúi xuống để uống cho thỏa thích. Trong cuộc đời hoạt động nhiêu khê của thời đại văn minh này, tâm hồn mệt mỏi của chúng ta cũng ao ước một cái gì giản dị. Có nhiều người nghĩ rằng: “sống cuộc đời giản dị, vậy là lại quay về thời trước, sống như các cụ ta, ăn lông ở lỗ chăng?” Người ta không thể kéo những nền văn minh quay trở về nguyên thủy, cũng như người ta không thể bắt những dòng sông trở về nguồn. Sự giản dị của cuộc đời không phải chỉ bằng cứ vào yếu tố kinh tế này hay điều kiện xã hội kia. Sự giản dị của cuộc đời chính là một ý chí làm hoạt động và thay đổi những cuộc sống khác nhau để tìm ra một lẽ sống cao cả hơn bây giờ. Đi tìm một cuộc sống giản dị, tức là tìm cách làm tròn cái sứ mệnh cao cả nhất của đời người. Loài người vẫn tiếp tục cố vươn lên một cuộc sống nhân đạo hơn, bác ái hơn và tươi sáng hơn, há chẳng là họ đồng thời vươn lên tìm một đời sống giản dị hơn? Sự giản dị cổ xưa, trong phạm vi nghệ thuật, tư tưởng và phong tục, sở dĩ còn giữ được một giá trị tuyệt đối đến bây giờ, chính là vì nó đã làm nổi bật được nhiều tình cảm thiết yếu, nhiều chân lý bất di bất dịch. Chúng ta phải thiết tha trìu mến sự giản dị đó và hình hương, gìn giữ. Song le, cuộc sống đời giản dị không phải chỉ là sống giản dị bề ngoài. Những người chỉ sống giản dị bề ngoài mà không trau dồi lấy một tinh thần giản dị bên trong, là những người mới đi được một trong một trăm phần con đường giản dị. Thực vậy, chúng ta không sống giản dị về hình thức như ông cha ta được nhưng chúng ta rất có thể sống giản dị về tinh thần như các cụ. Bây giờ, chúng ta đi trên những con đường mới, nhưng mục đích của nhân loại xưa và nay há vẫn chẳng có một đó ư? Đi bộ hay đi máy bay rút lại cũng chỉ đi tìm chân lý. Ngày xưa, chưa có xe thì đi bộ; bây giờ phương tiện chuyên chở có nhiều, chúng ta muốn đi xe lửa, tàu thủy hay máy bay tùy ý. Đi tìm chân lý với những phương tiện mà chúng ta sẵn có, đó là điều quan hệ nhất, xưa cũng như nay. Chính bởi vì chúng ta không biết như thế và hành động không đúng như thế mà thành ra chúng ta làm cho cuộc sống rối tung và nhiêu khê vô cùng.   *** Chúng tôi trình bày cuốn sách này ra quốc âm để các bạn cùng với chúng tôi đi tìm một lẽ sống mới: Sống Giản dị. Quan niệm sống giản dị này, một ngày kia, cần phải được xâm nhập vào giáo dục và phong tục của ta. Năm 1901, một tiểu thư Mỹ quốc đã đem trình chính cái triết lý sống giản dị này với công chúng thành New York. Cựu tổng thống Roosevelt tìm đọc và thích thú vô cùng. Trong hai buổi nói chuyện lịch sử, ông thiết tha khuyên người Mỹ nên sống giản dị. Hơn thế, ông lại còn mời tác giả nền triết lý Sống đời giản dị là Charles Wagner sang Mỹ để trình bày về quan điểm “sống giản dị”. Bước lên diễn đàn, cựu tổng thống Roosevelt đã giới thiệu tác giả pho triết lý “sống giản dị” như sau: “Đây là lần thứ nhất, mà cũng là lần độc nhất trong đời làm tổng thống của tôi, tôi giới thiệu một diễn giả với công chúng. Tôi lại càng vui sướng hơn vì đã được làm việc giới thiệu hôm nay, bởi vì, nếu có một cuốn sách mà tôi mong được thấy toàn thể quốc dân ta đọc như một truyền đơn, một truyền đơn bổ ích, thì chính là cuốn sách “sống đời giản dị” này của ông Charles Wagner. Theo ý riêng tôi, trong khoảng những năm gần đây, chưa có một cuốn sách nào ở nước ta cũng như ở ngoại quốc, lại chứa đựng nhiều điều ích lợi mà chúng ta, con dân nước Mỹ, đều phải học lấy làm lòng, như cuốn sách “Sống đời giản dị” này.   *** Trình bày cuốn sách này với bạn đọc thân yêu, chúng tôi thiết tha mong sẽ có nhiều người đọc và cái thuyết “giản dị hóa đời sống” sẽ được áp dụng trong cái thời đại nhiêu khê, náo động này. Do đó, chúng ta sẽ lưu tâm đến một vấn đề quan trọng nhất trong tất cả các vấn đề: Sống và tổ chức cuộc sống của chúng ta. Chúng tôi mong bạn đọc trong khi suy nghĩ về vấn đề tối quan trọng đó sẽ cùng nhận thấy và hiểu biết rằng hạnh phúc, sức mạnh và vui tươi của kiếp sống con người, một phần lớn, bắt nguồn từ tinh thần giản dị. Hiện nay, nhiều sự phiền toái vô ích đã ngăn cách chúng ta với lý tưởng bác ái, công lý và chân lý – mà chính cái lý tưởng đó lại sưởi ấm lòng chúng ta, đem lại cho ta ý chí muốn sống ở đời. Những sự phiền toái, vô ích đó, tiếng là để che chở cho ta và hạnh phúc của ta, nhưng thực tình thì đã ngăn cản mất cả ánh sáng của ta. “Sống đời giản dị” tức là phá bỏ những sự phiền toái, vô ích đó để tìm ánh sáng, để tìm chân lý, để tìm lẽ sống chân chính vậy. NHÀ XUẤT BẢN Mời các bạn đón đọc Sống Đời Giản Dị của tác giả Charles Wagner.
Lời Mời Không Thể Cưỡng Lại
Người ta có thể trình bày một trường hợp gượng ép rằng tiếp thị đang phá hoại hành tinh này. Qua thời gian, các nhà tiếp thị đã nhận ra rằng cách dễ dàng nhất để bán gì đó là lôi cuốn các nhu cầu cơ bản nhất của chúng ta và khai thác các điểm yếu vốn có trong tâm lý chúng ta. Ví dụ, thay vì dẫn khách hàng triển vọng qua một quyết định mua hợp lý và giúp họ mua gì đó mà sẽ giúp họ thật sự, ta lại lừa họ vào suy nghĩ rằng các Widget của ta sẽ cho họ hạnh phúc và cách quyến rũ vô hạn người khác phái. Đây là một trong nhiều mẹo với tay áo nhà tiếp thị được dùng khi gạt người tiêu dùng bình thường để ra quyết định mua phi lý. Người Mỹ bình thường ngập ngụa trong nợ nần vì mua ngớ ngẩn (và đôi khi tác hại rành rành) nhưng thứ mà họ chẳng cần. Quá trình này không chỉ đẩy người tiêu dùng bình thường vào nợ nần mà còn giảm đi các giá trị của họ. Khi hàng ngày bạn bị dội bằng nhiều thông điệp mà thể hiện một thế giới đầy rẫy sự ích kỷ, nông cạn và tham lam là các lý tưởng cuối cùng, thật khó bắt đầu tin nổi thế giới đó cũng là của riêng bạn. Sách này trình bày một phương án tiếp thị thay cho trước đây. Tôi tin rằng một doanh nghiệp có thể lãi vô cùng và vẫn hoạt động với mức độ nhất quán cao. Tôi viết sách này không chỉ nhằm tiết kiệm tâm trí của cộng đồng tiếp thị mà còn giúp doanh nghiệp tránh suy thoái. Tôi dự đoán rằng khi tỉ lệ nợ tăng và người tiêu dùng tự giáo dục tốt hơn qua truy cập thông tin chưa từng có vào Internet, sự khoan dung các phương pháp tiếp thị của quá khứ sẽ ngừng đáng kể. Một người tiêu dùng giận dữ và có hiểu biết là một kẻ thù nguy hiểm cho nhà tiếp thị. Ngay sau đó, các doanh nghiệp sẽ tranh giành với các lựa chọn. Sách này trình bày không chỉ một phương án, mà là phương án. Phương pháp tiếp thị này đã được thời gian chứng minh và nó lại chẳng bao giờ có tên cả. Dùng phương pháp này, bạn có thể đi đến nhất trí theo nghĩa đen trong đầu khách hàng triển vọng của bạn trong vòng ba giây đầu tiên từ khi tiếp xúc với tiếp thị của bạn. Tôi đã đặt tên phương pháp này là Lời mời không thể cưỡng lại và các trang sau mổ xẻ nó để bạn có thể áp dụng ngay nó vào doanh nghiệp của bạn với tác dụng mãnh liệt. Sách này là hướng dẫn cốt yếu của bạn trên thương trường trong thế kỷ hai mươi mốt. Bỏ qua các bài học này thật tiếc rẻ cho bạn. Các cá nhân và người bán hàng cũng có thể hưởng lợi lớn từ những trang này. Trong phụ lục “Tự bán mình trong vòng ba giây”, tôi giải thích bạn có thể áp dụng công nghệ này ra sao với mỗi khía cạnh cuộc sống của bạn. Rồi tôi chứng tỏ với người bán hàng họ có thể dùng thông tin này như thế nào để bán trong phạm vi đạo đức và vẫn thúc đẩy doanh số của họ vượt xa mức họ đang có hiện nay. Trước tiên, với các nhà tiếp thị trực tiếp trường phái cũ mà đã phù hộ tôi bằng sự khôn ngoan: Ted Nicholas, mà đã luôn truyền cảm hứng cho tôi bằng tính nhất quán, kiến thức và tinh thần của mình. Gary Bencivenga, mà tôi chỉ mới tiếp xúc gần đây nhưng đã thổi làn gió mới vào tâm hồn tôi. Gary Halbert, một người thông minh hàng đầu thế giới mà tôi nhiều lần ăn chung và chia sẻ bí mật trong những tiệm cà phê ở South Beach. Kế tiếp, với nhóm nhà tiếp thị lợi hại hay lảng vảng trên Internet: Matt Gill và Kevin Wilke, những người bạn và anh em tốt. Joe Vitale, mà tôi muốn mời vào hố cá nhân để đánh trận, bất cứ ngày nào trong tuần và hai lần vào chủ nhật- anh là người bạn chân tình. Mike Merz, anh chàng có thể dễ thương nhất mà tôi chưa từng gặp mặt. Paul Myers, mà thật ra có lẽ là phần tỉnh táo cuối cùng đang nắm giữ thế giới điên rồ này cùng nhau- cảm ơn anh vì những tranh đấu không mệt mỏi cho chân lý. Chayden Bates, mà đang ẩn náu, nhưng đang âm mưu thầm lặng thâu tóm thế giới và có lẽ rất thành công. Tom Antion, Tom Wood, Mike Filsaime, Russell Brunson, Josh Anderson, Shawn Casey, brett Rademacher, Kimberly Gordon, Craig Perrine, Rob Fighter, Michel Fortin, Jim Fleck, Ankesh Kothari, Nick Temple, Frank Mullen và Corey Rodl có lẽ yên nghỉ trong an bình. Tiếp đến là vài người bạn khác trong kinh doanh… Otto von Schulze, chủ tịch Trường Am nhạc Mỹ, cám ơn vì tình bạn và vì quan điểm chung về tương lai. Mary Mazullo, cám ơn vì lòng nhân hậu vô bờ bến và vì một ví dụ soi sáng. Những người thân tốt tại Waymaker – tầm nhìn quý báu của các bạn có lẽ sớm trở thành thực tế. Richard Webster mà đã tự chứng minh là một người bạn lớn và một người bảo vệ tích cực tất cả các nhà tự quảng bá lớn tiếng khắp nơi. Hội tác giả New Zealand, những người tôi hy vọng sẽ có ngày trở thành những tác giả có tác phẩm bán chạy nhất. Tới cô giáo khiêu vũ Claudia, cô đã biến tôi thành người tốt hơn. *** Nhiều người nghĩ rằng tiếp thị đang phá hoại hành tinh này bởi vì cách các nhà tiếp thị dễ dàng nhất bán hàng bằng cách lôi cuốn các nhu cầu cơ bản nhất và khai thác các điểm yếu vốn có trong tâm lý khách hàng. Ví dụ, thay vì hướng dẫn khách hàng triển vọng đưa ra một quyết định mua hợp lý và giúp họ mua gì đó thật sự hữu dụng cho họ, người tiếp thị lại lừa họ vào suy nghĩ rằng món hàng đó sẽ giúp họ hạnh phúc. Đây là một trong nhiều mẹo mà nhà tiếp thị dùng để gạt người tiêu dùng bình thường đưa ra những quyết định mua phi lý. Nhiều người ngập ngụa trong nợ nần vì mua ngớ ngẩn những thứ mà họ chẳng cần. Quá trình này không chỉ đẩy người tiêu dùng bình thường vào nợ nần mà còn giảm đi niềm tin vào thương hiệu của họ. Với lượng thông tin phong phú trên internet ngày nay, Mark Joyner dự đoán rằng khi khách hàng biết cách tự tìm hiểu phản ứng của những người đã tiêu dùng sản phẩm trước đây nhiều hơn, sự khoan dung dành cho các phương pháp tiếp thị trong quá khứ sẽ giảm đáng kể. Một người tiêu dùng giận dữ và có hiểu biết sẽ là một kẻ thù nguy hiểm thật sự cho nhà tiếp thị. Chính vì thế, các doanh nghiệp sẽ cạnh tranh với nhau bằng cách nghĩ ra những phương pháp tiếp thị mới. Do đó, cuốn sách Lời mời không thể cưỡng lại không chỉ trình bày một phương án chủ đạo, mà đưa ra rất nhiều phương án thay thế. Những phương pháp tiếp thị này đã được chứng minh là có hiệu quả trong thực tế. Áp dụng những phương pháp trong sách, người tiếp thị sẽ có thể thu hút khách hàng triển vọng trong vòng ba giây đầu tiên từ khi họ tiếp xúc sản phẩm. Vì vậy, cuốn sách này là hướng dẫn cốt yếu không thể thiếu cho những người làm công việc tiếp thị trên thương trường trong thế kỷ 21. Mời các bạn đón đọc Lời Mời Không Thể Cưỡng Lại của tác giả Mark Joyner.