Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Vòng Tròn Đá Thiêng - Tập 2

Thoạt đầu nhìn tên của cuốn sách Outlander, được để nguyên không dịch ra tiếng Việt, cứ nghĩ cuốn sách thuộc dòng sách khoa học viễn tưởng, du hành ngoài không gian gì đó. Hóa ra không phải. Cuốn sách không mới - tác phẩm của Diana Gabaldon xuất bản lần đầu năm 1991, suốt 26 năm qua luôn là một trong những bộ tiểu thuyết lãng mạn hấp dẫn nhất của thời hiện đại, được dịch ra 40 ngôn ngữ với hơn 25 triệu bản in. Bản dịch tiếng Việt mới xuất hiện năm 2017. Sau 26 năm kể từ khi ra đời, Outlander luôn là một trong những  bộ tiểu thuyết lãng mạn nhất Trong một thời buổi hễ cứ nhìn thấy nhiều chữ là nhức đầu, cuốn sách phần nào làm người ta ngại: nó dày lắm, nặng trịch, dịch chưa hết nhưng đã tới tập 4 rồi, mỗi tập đều gần 500 trang, chữ không là chữ!   Nhưng đọc rồi, nhận ra cuốn sách cũng như một vòng tròn đá thiêng bí ẩn, người đọc mở trang đầu tiên là như đã ngã vào trong cánh cửa đá ấy, bị cuốn vào một không gian hun hút, mê đắm, dữ dội, và không muốn quay về. Outlander là một thông điệp nữ quyền ở dạng quyến rũ nhất, đàn bà nhất, thực tế trần trụi nhất, và do đó, cũng đẹp đẽ khó quên nhất.  Sau chiến tranh thế giới thứ hai, năm 1945, một nữ y tá người Anh đang cùng chồng hưởng lại tuần trăng mật sau thời gian vợ chồng bị chiến tranh chia cắt, tại một vùng nông thôn cao nguyên Scotland. Một buổi bình minh trên ngọn đồi có một vòng tròn đá cổ xưa, cô được chứng kiến một nghi lễ ngợi ca mặt trời của những người đàn bà trong vùng. Ngày hôm sau, cô quay lại đó, khi chạm tay vào một phiến đá, cô bất ngờ bị hút vào quá khứ, rơi thẳng xuống thế kỷ XVIII với nghèo đói, lạc hậu, bệnh tật, chiến tranh và tình yêu. Cuộc hành trình bắt đầu, giữa hai cuộc sống là khoảng cách 200 năm, cô vẫn phải sống tiếp vì không thể quay trở về thời hiện đại. Với cuộc hôn nhân đầu tiên ở thế kỷ XX, cô là người vợ mất tích một cách bí ẩn; với thế kỷ XVIII và lãnh địa của dòng Mackenzie, cô mãi mãi là một người ngoài.  Những cuộc chinh phục của nhân loại thường được tiến hành về phía tương lai, phía những vùng đất mới, cùng với nam tính mạnh mẽ, thống trị. Trong khi cuộc du hành này được thực hiện ngược chiều kim đồng hồ, một cuộc trở về quá khứ, chuyến đi bất đắc dĩ của một người đàn bà mỏng manh. Kỳ lạ thay, cuộc trở về ấy giúp người ta hiểu rõ hơn bao giờ hết lịch sử và con người, tình yêu và thù hận, từ khởi đầu thụ động của chuyến đi, người đàn bà ngoại tộc ấy - mà xét cho cùng, người đàn bà nào chẳng là “người ngoại tộc”, đã chủ động, quyết liệt trong chọn lựa của mình, tồn tại, chữa lành, yêu và sống, tranh đấu và chiến thắng. Cô gái có tên Claire, nhưng cái tên ấy không ấn tượng bằng cái tên “Sassenach”, cũng là “Outlander”, chữ được dùng để gọi một người “ngoại tộc”. Chẳng phải không có dụng ý gì khi để cho một người ngoại tộc làm người xới lật lại lịch sử gia tộc và hơn thế nữa, đi ngược chiều phả hệ để hiểu và trải nghiệm: những kẻ ngoại tộc có con mắt quan sát và bản năng tìm hiểu để thích nghi, tồn tại. Đây là hành trình mang tính biểu tượng của một người đàn bà. Đây cũng chính là ý nghĩa sâu xa của thông điệp mang màu sắc nữ quyền ở tầm bản chất: chính người ngoại tộc ấy đã kết nối những thế hệ tổ tiên với con cháu của mình, chẳng phải thế sao? Nếu không có người đàn bà ngoại tộc ấy, những người đàn ông gieo hạt giống của mình ở đâu để có những vụ mùa kế tiếp? Sassenach có cuộc hôn nhân thứ nhất, và ở cuộc đời thứ hai này, cô có một người chồng nữa. Cô yêu cả hai. Một người đàn bà có thể yêu cả hai người đàn ông, một cách nào đó chung thủy với cả hai người, không phải chọn lựa, được không? Câu trả lời của cuốn sách này là: được. Cô đã đeo trên hai bàn tay mình hai chiếc nhẫn, chiếc nhẫn vàng từ người chồng trong cuộc hôn nhân thứ nhất, và chiếc nhẫn bạc của người chồng trong cuộc hôn nhân thứ hai. Không thể loại bỏ cái nào. Hai chiếc nhẫn, một vàng một bạc, là bí ẩn của nguồn cội sức mạnh của cô. Nó nhắc rằng phải có quá khứ, quá khứ phải diễn ra theo cách của nó, thì mới có hiện tại. Hiện tại ấy được quyết định từ trong quá khứ, và cho dẫu biết trước những đau thương, mất mát, cũng không thể tùy tiện thay đổi quá khứ để mong xếp đặt một hiện tại khác.  Claire, với khát vọng ban đầu cháy bỏng là trốn thoát khỏi thế kỷ XVIII để trở về với thế kỷ XX, trở về với cuộc đời hiện đại của cô, đã dần thay đổi: cô chọn ở lại với thế kỷ XVIII, với cuộc sống thiếu tiện nghi và lạc hậu, với sự mông muội hoang dã. Cô dùng khả năng của một nữ y tá để trị thương, để giúp đỡ mọi người, giảm thiểu những thiệt hại trong cái thất bại của tương lai mà cô biết trước. Đứa bé là món quà từ quá khứ gửi vào hiện tại, là dấu hiệu bất tử của tình yêu, kết nối những thế hệ ruột rà máu mủ khác nhau thông qua xương thịt của một người ngoại tộc. Và đứa bé là con gái.  Cô ở lại vì tình yêu của mình, thứ tình yêu hoang dã, bản năng, gắn chặt với cuộc tồn sinh khó nhọc. Trách nhiệm với quá khứ, với lịch sử đã được chuyển thành ý thức cá nhân. Cô góp sức lực nhỏ bé của mình để phần nào làm cho cuộc sống của những người tốt xung quanh cô tốt hơn, thanh thản nhẹ nhàng hơn. Quyết định cuối cùng của Sassenach, một lần nữa dấn thân xuyên qua vòng tròn đá, trở lại thế kỷ XX, là một quyết định không vì cô, mà vì đứa con trong bụng. Đứa trẻ đã thay đổi ý nghĩa cuộc sinh tồn của cô, thay đổi quyết định của cô. Thiên chức làm mẹ chiến thắng. Thông điệp của tính mẫu, của nguyên lý mẹ có thể nhìn thấy ở đây. Đứa bé là món quà từ quá khứ gửi vào hiện tại, là dấu hiệu bất tử của tình yêu, kết nối những thế hệ ruột rà máu mủ khác nhau thông qua xương thịt của một người ngoại tộc. Và đứa bé là con gái. Câu chuyện về hổ phách lại là một ẩn dụ mang tính biểu tượng nữa: những giọt nhựa cây ứa ra trong veo, nước mắt của loài thông, qua hàng ngàn năm kết tinh thành hổ phách. Con chuồn chuồn nhỏ bé, mỏng manh đông cứng trong mảnh hổ phách ấy, không hiểu sao cứ gợi người ta nghĩ đến những thân phận đàn bà. Chuồn chuồn hổ phách và sự bất tử mong manh mà nó chọn cũng chính là nước mắt của người phụ nữ, gói giấc mơ của mình - được bay lượn tự do giữa trời, trong sự hy sinh đã gần như là định mệnh.  Cuốn sách nói với người ta rằng: hiện tại là quan trọng, nhưng quá khứ chưa bao giờ là thứ chỉ ngủ yên, chỉ là những dòng lịch sử sách vở vô hồn. Quan trọng hơn, cuộc sống hiện tại của mỗi người thực ra đã được quyết định bằng chính quá khứ của họ, dù có khi họ không hay biết. Con đường để mình hiểu và đến với những người khác quanh mình nằm ở bên trong mỗi một con người, ở tầm bản lai diện mục, là sự chia sẻ mạnh mẽ của những tình cảm nguyên thủy cổ xưa, mà đôi khi, những thứ màu sắc hiện đại của ngày hôm nay vô tình che lấp. Thế giới đang toàn cầu hóa. Lúc nào đó, cách nào đó, mỗi con người đều có thể là một người ngoại tộc. Những cánh cửa mở ra không ngừng. Thế giới thay đổi mỗi ngày, công nghệ vùn vụt phát triển, nhưng nỗi băn khoăn tìm hiểu về chính bản thân mình, hiểu được người thương yêu của mình, hiểu để chia sẻ và sống cùng nhau trong tình yêu dưới một mái nhà… luôn luôn là nỗi băn khoăn hiện hữu. Con người chưa bao giờ thôi tự nhìn vào nguồn cội của mình, bản chất của mình. Theo cách đó, Outlander không viết về quá khứ theo kiểu tiểu thuyết lịch sử. Outlander viết về quá khứ như một cuộc du hành viễn tưởng, lãng mạn, thú vị, gai góc. Con người hiện tại muốn thực sự hiểu về quá khứ cần phải dấn thân vào cuộc du hành ấy. Lịch sử nằm trong chính trải nghiệm của mỗi con người. Hoàng Mai - phunuonline.com.vn *** Linh tính Sự xôn xao do chuyến trở về bất ngờ và lời thông báo về cuộc hôn nhân của chúng tôi bị át đi gần như ngay lập tức bởi một sự kiện quan trọng hơn. Ngày hôm sau, chúng tôi ngồi ăn tối ở đại sảnh và nhận những lời chúc tụng. “Buidheachas, mo caraid”[1]. Jamie cúi đầu duyên dáng với người chúc tụng cuối cùng rồi ngồi xuống giữa tiếng vỗ tay đang dần thưa thớt. Băng ghế gỗ lung lay dưới sức nặng của anh và anh thoáng nhắm mắt. “Anh uống hơi quá chén rồi phải không?” Tôi thì thầm. Trong khi anh phải gánh trọng trách đáp lễ những lời chúc tụng, uống cạn từng cốc rượu, thì tôi chỉ phải nhấp môi lấy lệ và nở nụ cười rạng rỡ trước những lời chúc bằng tiếng Gaelic mà tôi không tài nào hiểu nổi. Anh mở mắt nhìn tôi, mỉm cười. “Ý em là anh có say không hả? Không, anh có thể uống thứ này suốt đêm.” “Anh gần như đã uống suốt đêm rồi,” tôi nói, nhìn những chai rượu và bia rỗng xếp thành hàng trên tấm ván trước mặt. “Khuya lắm rồi.” Những ngọn nến trên bàn của Colum chỉ còn ngắn ngủn, lớp sáp lỏng ánh lên màu vàng kim, ánh nến hắt lên người anh em nhà MacKenzie những cái bóng kỳ lạ và khiến da thịt họ lấp lánh khi họ ghé lại gần nhau, thì thầm trò chuyện. Trông họ giống như những cái đầu tượng được chạm khắc quanh viền chiếc lò sưởi khổng lồ, và tôi tự hỏi bao nhiêu trong số những cái đầu tượng biếm họa đó được lấy hình mẫu từ những đường nét đầy vẻ trịch thượng của những vị lãnh chúa MacKenzie trước đây - có lẽ người thợ chạm khắc phải có khiếu hài hước lắm... hoặc phải là một người vô cùng thân thiết với gia đinh họ. Jamie khẽ vươn vai, nhăn mặt, tỏ vẻ không thoải mái. “Tuy nhiên,” anh nói, “bàng quang của anh sắp nổ tung rồi. Anh sẽ quay lại ngay.” Anh chống hai tay lên mặt ghế, lanh lẹ nhảy qua nó và biến mất qua cái cửa tò vò ở đầu thấp hơn của đại sảnh. Tôi chuyển sự chú ý sang Geillis Duncan đang ngồi từ tốn nhấm nháp một cốc bia ở bên còn lại của tôi. Chồng cô ta, Arthur, ngồi ở bàn kế bên bàn Colum, phù hợp với địa vị biện lý của vùng, nhưng Geilie khăng khăng ngồi cạnh tôi với cái cớ là cô ta không muốn mệt mỏi vì phải nghe những câu chuyện của đàn ông suốt bữa tối. Arthur đang lim dim, đôi mắt thâm quầng trũng sâu vì rượu và sự mệt mỏi. Ông ta nặng nề chống tay lên cằm, khuôn mặt uể oải, chẳng buồn đoái hoài đến cuộc trò chuyện của anh em nhà MacKenzie ở bên cạnh mình. Trong khi ánh nến làm cho những đường nét sắc sảo của lãnh chúa và em trai trở nên thanh thoát hơn thì nó chỉ khiến cho Arthur Duncan trông càng béo ị và ốm yếu. “Chồng chị trông không được khỏe lắm,” tôi nhận xét. “Chứng bệnh về dạ dày của ông ấy đã tệ hơn à?” Những triệu chứng của ông ta khá khó hiểu; không giống như bị loét, cũng không phải ung thư - khi mà ông ta vẫn còn núng nính thế kia - có lẽ chỉ là viêm dạ dày kinh niên, như Geilie khẳng định. Geilie liếc qua chồng mình trước khi quay lại nhìn tôi và nhún vai. “Ồ, ông ấy vẫn khỏe,” cô ta nói. “Ít nhất cũng không tệ hơn. Còn chồng cô thì sao?” “Ơ, chuyện gì về anh ấy cơ?” Tôi thận trọng đáp. Cô ta hích mạnh cùi chỏ vào mạng sườn tôi với vẻ thân thiết, và tôi nhận ra ở đầu bàn của cô ta có khá nhiều cái chai rỗng. “Chà, cô nghĩ thế nào? Khi không mặc quần áo, trông anh ta có tuyệt như lúc có mặc quần áo không?” “Ừm...” Tôi tìm câu trả lời khi cô ta nghển cổ về phía cửa. “Vậy mà cô dám tuyên bố mình chẳng quan tâm tới anh ta chút nào! Thông minh lắm! Một nửa số con gái trong lâu đài sẽ muốn giật trụi tóc cô đấy - nếu tôi là cô, tôi sẽ cẩn thận với những gì mình ăn.” “Những gì tôi ăn ư?” Tôi hoang mang nhìn xuống cái đĩa lớn bằng gỗ hiện trống trơn ngoài một vệt mỡ và một miếng hành luộc trơ trọi. “Thuốc độc,” cô ta rít lên vẻ kịch tính bên tai tôi, phả ra mùi brandy. “Vớ vẩn,” tôi lạnh lùng nói, rụt người lại. “Sẽ chẳng có ai muốn đầu độc tôi chỉ đơn giản vì tôi... ờ, vì...” Tôi hơi lúng túng, và chợt nghĩ ra rằng có thể tôi đã uống nhiều hơn tôi tưởng. “Chà, thực sự thì, Geilie, cuộc hôn nhân này... tôi đã không lường trước. Tôi không hề muốn nó!” Tôi không nói dối. “Đó chỉ là một... sự... thu xếp cần thiết,” tôi nói, hy vọng ánh nến che giấu được khuôn mặt đỏ lựng của mình. “Ha,” cô ta nói, vẻ chế nhạo. “Chỉ cần nhìn là tôi nhận ra ngay cô gái nào có đời sống chăn gối mãn nguyện.” Cô ta liếc về phía cửa tò vò nơi Jamie đã đi qua. “Và tôi không ngốc đến nỗi nghĩ rằng những dấu vết trên cổ chồng cô là vết muỗi đốt.” Cô ta nhướng một bên lông mày màu bạc. “Nếu đây chỉ là một cuộc hôn nhân sắp đặt thì cô đã vớ được một món bở rồi đây.” Cô ta lại ghé sát tôi. “Chuyện đó có đúng không?” Cô ta thì thầm. “Chuyện về hai ngón tay cái ấy?” “Hai ngón tay cái? Geilie, nhân danh Chúa, chị đang nói linh tinh gì vậy?” Cô ta nhìn tôi, nhíu mày vẻ tập trung. Đôi mắt xám xinh đẹp hơi lờ đờ, và tôi hy vọng cô ta sẽ không ngã nhào. “Cô hẳn phải biết chứ? Ai cũng biết mà! Hai ngón tay cái của một người đàn ông sẽ cho cô biết kích cỡ “cái đó” của anh ta. Đương nhiên là cả những ngón chân cái nữa,” cô ta thận trọng nói thêm, “nhưng thường thì chúng khó đánh giá hơn vì đã bị giày che mất. Con cáo con đằng kia,” cô ta hất đầu về phía cửa tò vò, nơi Jamie vừa xuất hiện trở lại, “hai bàn tay anh ta có thể ôm trọn một quả bí xanh cỡ to. Hoặc một cái mông to, nhỉ?” Cô ta nói thêm, lại hích tôi cái nữa. “Geillis Duncan, chị... im... miệng... được không?” Tôi rít lên, mặt đỏ bừng. “Ai đó sẽ nghe thấy lời chị nói đấy!” “Ồ, không ai là...” Cô ta ngừng lại nửa chừng, nhìn chằm chằm. Jamie đã đi thẳng qua bàn chúng tôi như thể không trông thấy chúng tôi. Khuôn mặt anh tái nhợt, môi mím chặt, vẻ như đang quyết tâm làm nhiệm vụ gì khó chịu lắm. “Có chuyện gì thế nhỉ?” Geilie hỏi. “Trông anh ta giống như Arthur sau khi ăn củ cải sống vậy.” “Tôi không biết.” Tôi đây ghế lại, ngập ngừng. Jamie đang tiến về phía bàn của Colum. Tôi có nên đi theo anh không? Rõ ràng đã xảy ra chuyện gì đó. Geilie nhìn xuôi theo căn phòng, đột nhiên kéo tay áo tôi, chỉ về chỗ Jamie xuất hiện lúc nãy. Một người đàn ông đứng ngay ở cửa tò vò, cũng ngập ngừng như tôi. Quần áo anh ta lấm lem bùn đất và bụi đường; có lẽ anh ta vừa từ xa tới. Một người đưa tin. Dù tin tức đó là gì thì anh ta cũng đã truyền nó cho Jamie, và giờ đến lượt Jamie cúi người thì thầm vào tai Colum. Không, không phải là Colum. Là Dougal. Mái đầu đỏ cúi thấp giữa hai mái đầu tối sẫm, những đường nét đẹp đẽ của cả ba khuôn mặt trông giống nhau đến ngỡ ngàng trong ánh nến dần tàn lụi. Tôi nhận ra rằng trông họ giống nhau đến vậy là do cả ba người đang cùng mang vẻ mặt đau đớn, bàng hoàng. Bàn tay Geilie bấu chặt cánh tay tôi. “Tin xấu,” cô ta nói một câu thừa thãi. ••• “Hai mươi tư năm,” tôi khẽ nói. “Có vẻ là một cuộc hôn nhân lâu dài.” “Ừ, đúng vậy,” Jamie đồng ý. Một làn gió ấm áp khuấy động những nhành cây trên đầu chúng tôi, thổi mái tóc tôi tung bay, khiến những sợi tóc lòa xòa cọ vào mặt tôi nhột nhạt. “Còn dài hơn cả tuổi đời của anh nữa.” Anh đang dựa vào hàng rào của bãi giữ ngựa, cao ráo và chắc khỏe. Tôi thường quên mất anh còn rất trẻ; anh luôn có vẻ quá tự tin và giỏi giang. “Tuy nhiên,” anh nói, búng một cọng rơm vào đống bùn nhão ở bãi giữ ngựa, “anh nghĩ Dougal ở với mợ ấy không quá ba năm. Ông ấy thường ở Leoch hoặc đi đây đi đó quanh lãnh địa, làm việc cho Colum.” Vợ của Dougal, Maura, đã mất ở điền trang Beannachd của họ vì một cơn sốt bất ngờ. Dougal đã rời khỏi lâu đài từ lúc bình minh cùng với Ned Gowan và người đưa tin đêm qua để lo liệu tang ma và giải quyết vấn đề tài sản của vợ ông ta. “Vậy ra đó không phải là một cuộc hôn nhân khăng khít?” Tôi tò mò hỏi. Jamie nhún vai. “Anh nghĩ nó cũng khăng khít như hầu hết các cuộc hôn nhân khác. Mợ ấy còn bận rộn với con cái và việc trông nom nhà cửa; có lẽ mợ ấy cũng không nhớ Dougal nhiều lắm, dù mợ ấy có vẻ vui mừng mỗi khi Dougal về nhà.” “Phải rồi, anh đã sống với họ một thời gian, đúng không?” Tôi im lặng suy nghĩ. Liệu đây có phải là quan niệm của Jamie về hôn nhân không? Bình thường thì sống riêng, chỉ thi thoảng mới ở với nhau để sinh con. Tuy nhiên, từ những câu chuyện vụn vặt anh đã kể, cha mẹ anh rất gần gũi và yêu thương nhau. Như thể có một mánh lới thần bí nào đó để đọc được những ý nghĩ của tôi, anh nói: “Với gia đình anh thì khác. Cuộc hôn nhân của Dougal là một cuộc hôn nhân sắp đặt, giống như cuộc hôn nhân của Colum vậy, họ kết hôn vì đất đai và những lợi ích khác chứ không phải vì ham muốn nhau. Nhưng cha mẹ anh - ờ, họ lấy nhau vì tình yêu, trái với ý muốn của cả hai bên gia đình, vì vậy nhà anh... không hẳn là bị cắt đứt quan hệ; nhưng hầu như không giao thiệp với ai khi ở Lallybroch. Cha mẹ anh không hay đi thăm người thân hoặc đi làm việc ở bên ngoài, vì thế anh nghĩ họ gắn bó với nhau nhiều hơn những cặp vợ chồng thông thường.” Anh đặt tay lên eo lưng tôi, kéo tôi lại gần, rồi cúi đầu, lướt môi qua vành tai tôi. “Cuộc hôn nhân của chúng ta là một sự sắp đặt,” anh khẽ nói. “Tuy nhiên, anh mong... có lẽ một ngày nào đó...” Anh vụng về ngừng lời, nở nụ cười nửa miệng và xua tay như muốn gạt đi câu nói ấy. Không muốn khuyến khích anh tiếp tục, tôi mỉm cười đáp lại với vẻ bình thản nhất có thể và quay mặt về phía bãi giữ ngựa. Không cần chạm vào nhau, tôi vẫn có thể cảm nhận được anh đang ở bên cạnh tôi, bàn tay to lớn của anh nắm lấy thanh chắn trên cùng của hàng rào. Tôi cũng nắm lấy thanh chắn để ngăn mình không cầm lấy tay anh. Tôi rất muốn quay sang để an ủi, trấn an anh bằng cả cơ thể và lời nói rằng cuộc hôn nhân của chúng tôi không chỉ dừng lại ở mức độ của một cuộc hôn nhân sắp đặt. Nhưng chính sự thật ấy đã ngăn tôi lại. Cảm xúc giữa hai chúng ta, anh đã nói, khi anh chạm vào em, khi em nằm bên anh. Không, nó không bình thường chút nào. Nó cũng không phải là một sự say nắng đơn thuần, như tôi đã nghĩ ban đầu. Tuy nhiên, tôi đã bị trói buộc với một người đàn ông khác bởi những lời thề, lòng chung thủy và luật pháp. Và cả tình yêu nữa. Tôi không thể, không thể nói với Jamie tình cảm tôi dành cho anh. Nói ra rồi sau đó lại bỏ đi, như thế sẽ là sự độc ác tột cùng. Tôi cũng không thể nói dối anh. ... Mời các bạn đón đọc Vòng Tròn Đá Thiêng - Tập 1 của tác giả Diana Gabaldon & Khánh Vân (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

99 Phờ - Răng
 Khi cả một cuộc đời giá chỉ có 99 Phờ-răng       Tại sao lại là “99 Phờ-răng”? 99 phờ-răng là giá tiền của cuốn sách bán trong các cửa hàng ở Pháp và sau khi Liên minh châu Âu dùng đồng tiền chung thì tên cuốn sách được đổi thành 14,99 euro. Trong “99 Phờ-răng” là một cuộc đời, cuộc đời của Octave - nhân vật chính và được coi là hình bóng của chính tác giả Frederic Beigbeder.    “99 Phờ-răng” là cuốn tiểu thuyết viết về thế giới quảng cáo – thế giới mà chúng ta đang sống trong đó, thế giới của những câu slogan ấn tượng, những clip quảng cáo gây nhiều tranh cãi, thế giới của những con người thông minh, sáng tạo với mức lương cao chót vót. Nhưng đằng sau thế giới đầy hào quang đó là những trăn trở, dằn vặt, là sự sám hối của một chuyên gia quảng cáo thành đạt nhưng bất ổn trong tâm hồn. Octave là một mẫu người trẻ tuổi sành điệu nhưng bế tắc, cô đơn trong cuộc sống, tình yêu và đặc biệt ác cảm với chính nghề nghiệp của mình - một nghề đầy uy lực, ma thuật nhưng lại rất trơ trẽn, bịp bợm.   Trong con người Octave là sự giằng xé giữa hai mặt của nghề, với một bên là ánh hào quang, các giải thưởng, sự thăng tiến và một bên là sự cắn rứt của lương tâm trước sự giả dối, khắc nghiệt và tàn nhẫn của nghề quảng cáo. Octave cảm thấy day dứt vì đã gia nhập vào đội quân những kẻ dối lừa người tiêu dùng. Anh ta nhận thức rất rõ rằng, “quảng cáo như con bạch tuộc bám chặt tất cả và sở hữu thế giới. Khởi đầu như trò đùa, giờ đây quảng cáo điều khiển cuộc sống của chúng ta: quảng cáo tài trợ cho truyền hình, chỉ huy báo chí, ra lệnh cho thể thao (không phải Pháp hòa Brazin ở trận chung kết World Cup mà là Adidas thắng Nike!)” Hàng năm đầu tư quảng cáo trên thể giới đạt mức nhiều tỷ đô la. “Và có thể cam đoan rằng, với khoản tiền như thế thì mọi thứ đều có thể đem bán được hết - đặc biệt là linh hồn của bạn.” Octave mệt mỏi trong cái trạng thái bất ổn đó và luôn tự đặt cho mình câu hỏi: “Vì cái gì mà người ta lại biến tôi thành Vị Chúa tể Thế gian? Ðã từ lâu, tôi muốn nhận rõ bí mật: bằng cách nào mà quảng cáo lại trở thành là Chúa tể và trị vì trên đỉnh cao của thời đại chúng ta? Chưa bao giờ trong lịch sử hai nghìn năm nay, một kẻ đần độn như tôi lại có được sức mạnh như vậy.”   Octave là đại diện cho một lớp người trẻ tuổi, thông minh, thành đạt nhưng đã mất hết niềm tin vào cuộc sống, vào tình yêu để rồi đắm mình vào thế giới của ma túy và thác loạn, để rồi đau đớn nhận ra rằng mình đang vô cùng cô độc. Thế giới của những công dân cổ cồn trắng như Octave gắn với những trò ăn chơi thác loạn trong nhà thổ, nơi chỉ có đám gái làng chơi dâm dật “mới có thể đánh thức chức năng đàn ông” trong con người anh ta, bởi anh ta không tin vào tình yêu mà mình từng có. Ðó cũng là thế giới của những gã đồng nghiệp khệnh khạng, suốt ngày dán mắt vào màn hình vi tinh chỉ để tải các bộ phim khiêu dâm, thế giới của những quý bà giám đốc béo ú như khúc giò và một đám nhân viên sáng tạo đang ra sức cười hô hô với khát khao được trông giống như các chuyên gia sáng tạo thực thụ”. Octave muốn thoát ra khỏi cái thế giới trơ trẽn đó và mong ước được cấp trên sa thải. Và cũng chính vì mục đích đó mà anh ta đã phơi bày hết chuyện bếp núc của quảng cáo. “99 Phờ-răng” là một cuốn sách châm biếm, mỉa mai ngành công nghiệp quảng cáo, trong đó tác giả bộc lộ cái nhìn không khoan nhượng về thế giới điên cuồng và đầy nghịch lý, nơi tất cả mọi người khinh bỉ nhau và tiêu phí những giá trị tốt đẹp của con người. “99 Phờ-răng” là cái tát đối với xã hội phương Tây hiện đại, là sự giễu cợt xã hội tiêu thụ với một trong những cái lò xo chính của nó là quảng cáo.   Frederic Beigbeder viết “99 Phờ-răng” như thể để trả thù những năm tháng dối lừa mà anh đã cống hiến cho xã hội tiêu dùng. Năm 2000, sau khi “99 Phờ-răng” được xuất bản lần đầu tiên tại Pháp và trở thành cuốn sách bán chạy nhất trong năm, Frederic Beigbeder đã buộc phải giã từ nghề quảng cáo để rối dấn thân vào một nghề đầy thú vị nhưng cũng đầy thách thức: viết tiểu thuyết. Anh là tác giả của nhiều cuốn sách bán chạy tại Pháp và châu Âu như “Kỳ nghỉ trong hôn mê”, “Tình yêu chỉ sống ba năm” hay “Cửa sổ trên tháp đôi”.   “99 Phờ-răng” đã được đạo diễn Jan Kounen dựng thành phim và chỉ trong mấy tháng từ khi công chiếu ở châu Âu ngày 26/9/2007, bộ phim đã thu được 12 triệu đô la tiền bán vé.   Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách thú vị này tới tất cả những ai muốn khám phá mặt trái của xã hội phương Tây, khám phá mặt trái của nghề quảng cáo - một nghề đang thịnh hành và đang là sự lựa chọn của nhiều bạn trẻ hiện nay. Hy vọng rằng, “99 Phờ-răng” sẽ làm bạn đọc hài lòng khi khám phá ra nhiều điều thú vị về cái thế giới kín cổng cao tường đó.   TP. Hồ Chí Minh, tháng 12/2007   PHAN AN *** Frédéric Beigbeder là nhà văn Pháp, người sáng lập ra giải thưởng Café de Flore, trao vào tháng 9 hàng năm tại Saint-Germain-des-Prés. Ông là tác giả của tác phẩm "Kẻ ích kỉ lãng mạn". Sinh năm 1965 trong một gia đình khá giả, Frédéric Beigbeder theo học tại hai trường trung học nổi tiếng rồi vào Học viện nghiên cứu chính trị Paris, tiếp đó là Trường nghiên cứu khoa học thông tin và truyền thông.   Năm 24 tuổi, Frédéric tốt nghiệp với tấm bằng cao học về marketing - quảng cáo và bắt đầu sự nghiệp khá lừng lẫy của một người đa tài: làm quảng cáo, nhà văn, phê bình văn học, làm chương trình thời luận...    Frédéric Beigbeder đã từng làm cho nhiều tạp chí như Elle, Paris Match, Voici, VSD… và làm trong nhóm phê bình văn học cho một số chương trình trên kênh Paris Première, Canal +, sau đó anh làm riêng chương trình Des livres et moi (Sách và tôi) trên kênh Paris Première. Frédéric Beigbeder cũng từng là biên tập viên cho nhà xuất bản Flammarion.   Là một người đam mê văn học thực sự, song song với những công việc trên, Frédéric Beigbeder không từ bỏ việc viết sách. Năm 1990, anh xuất bản tiểu thuyết đầu tay Mémoire d'un jeune homme dérangé (Hồi ký của một thanh niên bị quấy rầy). Năm 1994, tiểu thuyết thứ hai ra đời Vacances dans le coma (Kỳ nghỉ trong cơn hôn mê) và tiếp theo vào năm 1997 là Tình yêu kéo dài ba năm, kết thúc bộ ba tiểu thuyết về Marc Marronnier.    Tiếp sau đó, các tiểu thuyết của Frédéric Beigbeder đều giành được thành công vang dội như 99 francs - bán được 380 000 bản, được chuyển thể thành phim; hay Windows on the world - bán được 100 000 bản, giành giải Prix Interallié, bản dịch tiếng Anh được nhận giải Independent Foreign Fiction Award.    Ngoài tiểu thuyết, anh còn viết truyện ngắn, tiểu luận, truyện tranh. Frédéric Beigbeder là người sáng lập ra giải thưởng Prix de Flore vào năm 1994, giải thưởng này đã từng vinh danh những cây bút nổi tiếng như Michel Houellebecq, Amélie Nothomb, Virginie Despentes,...   Năm 2009, Frédéric Beigbeder giành Giải Renaudot với cuốn tiểu thuyết Un roman françai.   Mời các bạn đón đọc 99 Phờ - Răng của tác giả Frédéric Beigbeder.
Ba Ngày Ở Nhà Mẹ
Kết cấu Ba ngày tại nhà mẹ tôi (Giải Goncourt 2005) thật đặc biệt. Thoạt tiên là sáu "chương" (từ đầu đến trang 160) tuy tác giả không ghi là chương mà chỉ đánh số từ 1 đến 6. Người kể chuyện xưng "tôi", tự giới thiệu mình là François Weyergraf, vợ là Delphine, hai con gái là Zoé và Woglinde. "Tôi" đã gần sáu mươi, đã xuất bản mười tiểu thuyết và dựng năm bộ phim. Mẹ "tôi" thì đã tám mươi tám tuổi. "Tôi" bắt tay vào một cuốn tiểu thuyết mới, "… tôi đã tìm ra nhan đề trước khi bắt đầu viết, đó là "Ba ngày tại nhà mẹ tôi". Tôi cần phải sáng tạo một nhân vật phụ nữ đã nhiều tuổi, một bà mẹ hư cấu, bà sẽ là mẹ của người kể chuyện chứ không phải mẹ tôi […] Trong tiểu thuyết của tôi, bà mẹ goá chồng" (Trois jours..., tr.75). "Tôi" chọn người kể chuyện là một nhà văn, như thế dễ viết hơn là chọn một kẻ sát nhân, một nhà phẫu thuật hay một bộ trưởng. "Người kể chuyện trong cuốn sách sắp tới của tôi đêm đêm giam mình trong một căn phòng để làm việc [...] Tôi chấp thuận cho phép ông ta thỉnh thoảng rời căn phòng […] Đi đây đi đó, làm tình, viết văn, thật là một tam vị nhất thể tuyệt vời!" (Trois jours..., tr.95, 99, 101). Nhưng rồi việc viết lách chậm như rùa. Vợ "tôi" hỏi: "Cuốn tiểu thuyết của anh đến đâu rồi?". Mẹ "tôi" sống ở Provence, miền Nam, lần gần đây nhất lên Paris, hỏi: "- Con đưa cho mẹ xem cuốn tiểu thuyết của con chứ? Nó đâu? - Bà muốn nói là bản thảo […] Tôi đã trả lời mẹ: - Con chưa viết xong được - Thế ít ra con đã bắt đầu viết chưa?” (Trois jours..., tr.156, 157).   Từ trang 163 đến trang 234, tiếp theo sáu "chương" ấy là trang bìa, trình bày hết cả trang, như một trang bìa thật, cuốn tiểu thuyết của "tôi", với đầy đủ tên tác giả là François Weyergraf, nhan đề cuốn tiểu thuyết là "Ba ngày tại nhà mẹ tôi"… Sau trang bìa là ba chương đã hoàn thành, ghi rõ chương 1, chương 2 và chương 3. Phương thức tự sự chuyển sang ngôi thứ ba, lời kể của người trần thuật: François Graffenberg là một nhà văn; ông đã gần sáu mươi tuổi, vợ là Daphné, hai con gái là Chloé và Sieglinde. Ông định viết một cuốn tiểu thuyết lấy nhan đề là "Ba ngày tại nhà mẹ tôi", nhân vật chính, người kể chuyện trong đó tên là François Weyerstein, cũng là một nhà văn, dự định viết "Ba ngày tại nhà mẹ tôi", nhưng mãi chưa xong vì những chuyện gặp gỡ, hẹn hò. Ông quyết định gác lại tất cả, về nhà mẹ ở mấy ngày để nghỉ ngơi đôi chút và hoàn thành tác phẩm.   Cuốn Ba ngày tại nhà mẹ tôi của François Weyergraf mới được ba chương và dừng ở đây. Ba mươi trang cuối (tr.235-263) tiểu thuyết Ba ngày tại nhà mẹ tôi của François Weyergans được đánh số 7, nối tiếp với 6 "chương" mở đầu tác phẩm và trở về với phương thức tự sự ở ngôi thứ nhất. "Tôi" được tin mẹ "tôi" ở Provence bị ngã chẳng ai biết, nên một mình nằm ngoài vườn, nay đang điều trị ở bệnh viện. "Tôi" liền về Provence. "Thế là tôi về sống ba ngày, ba ngày ấy tại nhà mẹ tôi. Tại nhà mẹ tôi mà không có mẹ tôi". Tiểu thuyết kết thúc bằng mấy dòng: "Tối nay tôi rất muốn gửi cho mẹ tôi một bản fax, tôi rất muốn viết báo tin cho mẹ là tôi vừa đặt dấu chấm hết cho quyển sách mà tôi đã quyết định hoàn thành, sau khi mẹ ngã, tôi về ở ba ngày tại nhà mẹ tôi” (Trois jours..., tr.255, 263).   Nhà văn có thật François Weyergans viết cuốn tiểu thuyết với nhân vật trung tâm là nhà văn hư cấu François Weyergraf (tạm gọi là cuốn A); nhà văn hư cấu này lại viết cuốn tiểu thuyết với nhân vật trung tâm hư cấu là François Graffenberg cũng là một nhà văn (tạm gọi là cuốn B). Đến lượt François Graffenberg lại viết cuốn tiểu thuyết với người kể chuyện là François Weyerstein vẫn là một nhà văn (tạm gọi là cuốn C) và nhà văn ấy đang loay hoay viết "Ba ngày tại nhà mẹ tôi" (tạm gọi là cuốn D). Các tiểu thuyết ấy đều lấy cùng một nhan đề và triển khai cùng một nội dung. Một dạng tiểu thuyết trong tiểu thuyết và theo kỹ thuật "lồng gương" đến mấy tầng. Hai cuốn C và D mới chỉ là những dự định. Cuốn B của François Weyergraf đã xong được ba chương, Cuốn A, tiểu thuyết "có thật" của tác giả "có thật" François Weyergans thì gồm bảy "chương" đánh số từ 1 đến 7 và cả ba chương chen ngang của tác giả cuốn B kia.   Xét về một phương diện khác, cuốn D mới chỉ được nhắc đến, chưa có tên nhân vật và cũng chưa biết là theo phương thức tự sự nào. Cuốn C theo phương thức tự sự ở ngôi thứ nhất, căn cứ vào câu: "Người kể chuyện trong tiểu thuyết của ông (tức François Graffenberg - P.V.T thêm) tên là Weyerstein" (Trois jours..., tr.201). Cuốn B theo phương thức tự sự ở ngôi thứ ba. Đọc cuốn tiểu thuyết hoàn chỉnh, “thật sự" của F. Weyergans, ngôn từ kể chuyện dường như cũng luân phiên thay đổi theo kiểu "lồng gương", từ ngôi thứ nhất (cuốn A) ở 7 “chương”, sang người trần thuật ở ba chương (cuốn B) và sẽ lại trở về với ngôi thứ nhất (cuốn C)...   Một cuốn tiểu thuyết về sáng tác tiểu thuyết của một nhà văn có dự định trong đầu mà cứ trì hoãn mãi viết không xong. Cái gọi là cốt truyện theo nghĩa truyền thống hầu như chẳng có. Ba ngày tại nhà mẹ tôi lôi cuốn hứng thú của bạn đọc về phía kỹ thuật biến hoá chủ thể tự sự trong tác phẩm. Ngoài ra, có những dấu hiệu khiến ai cũng phải băn khoăn: các nhân vật nhà văn trong tác phẩm đều có tên là François như tác giả, còn các họ Weyergraf, Graffenberg, Weyerstein đều na ná dắt dây nhau và gợi nghĩ đến Weyergans. Cũng có mối liên hệ tương tự giữa tên vợ (Delphine - Daphné) và tên hai con gái (Zoé - Chloé; Woglinde - Sieglinde) của Weyergraf và Graffenberg. Dù sao, đó vẫn chỉ là những nhân vật hư cấu; các chủ thể xưng "tôi" và người trần thuật trong tác phẩm vẫn không thể đồng nhất với nhà văn. Trong tiểu thuyết này, chủ thể "tôi" có đầy đủ cả họ tên, tuổi tác, lại có vẻ gắn với những mối quan hệ xã hội, vợ con, mẹ, tình nhân, nhà xuất bản... Nhưng các tên họ dắt dây nhau, nhoà vào nhau, các sự kiện lại rất mờ nhạt, cả cuốn tiểu thuyết chỉ quanh quẩn ý chính là mãi chẳng hoàn thành. Thật không dễ dàng hình dung để phân tích "tôi" như một nhân vật theo lối mòn trước đây..."   GS. Phùng Văn Tửu   Khoa Ngữ văn - Đại học Sư phạm Hà Nội  *** François Weyergans sinh năm 1941 ở Bỉ, mẹ là người Pháp và bố là người Bỉ, nhưng chủ yếu sống ở Paris. Ông xuất thân là một nhà làm phim, tốt nghiệp IDHEC (Trường Điện ảnh quốc gia), đạo diễn cuốn phim ăn khách một thời Je t'aime, tu danses (Anh yêu em, còn em thì nhảy múa).   Dầu vậy, Weyergans được thiên hạ biết tiếng nhiều nhờ sự nghiệp văn chương hơn là nhờ mấy tác phẩm điện ảnh lẻ tẻ.   Ông bắt đầu nổi danh với tư cách là nhà văn vào năm 1973 qua cuốn Le pitre (Thằng hề). Trong số các tác phẩm đáng chú ý khác của ông còn có Le radeau de la Méduse (Chiếc bè Méduse), La vie d'un bébé (Hài nhi), Je suis écruvain (Tôi viết văn), La démence d'un boxeur (Võ sĩ điên rồ, giải Renaudot 1992), Franz et François (Franz và François).   Năm 2005 này, ông cùng lúc cho ra mắt hai cuốn Trois jours chez ma mère vừa trúng giải Goncourt và cuốn Salomé (Salomé, tác phẩm đầu tay, khởi thảo năm 1968).     Tác phẩm đoạt giải:   "Có thể rồi một ngày nào đó tôi cũng sẽ trách mình, không phải vì ít trò chuyện với mẹ, bởi hầu như chiều nào tôi cũng nói chuyện qua điện thoại với bà, mà là vì ít đến thăm bà, nhất là mấy năm sau này. Đã thượng thọ, vậy mà người mẹ yêu quý của tôi vẫn còn tỏ ra rạch ròi hơn tôi nhiều. Trong điện thoại, bà không ngớt tóm gọn tình thế: "Tóm lại, mẹ thật ít có dịp trông thấy con trên đời"".   Chính vì vậy mà, thay mặt tác giả, nhân vật François Weyergraf mong muốn được "ba ngày về với mẹ" cho phải đạo làm con.   Đây là một cuốn tiểu thuyết có cấu trúc phức tạp. Người kể chuyện François Weyergraf "bịa" ra một tác giả tên là François Graffenberg, ông Graffenberg này lại "bịa" ra một nhân vật là François Weyerstein; mỗi François lại truyền cho François khác cái xung năng sáng tạo của mình.   Ngay từ đầu, độc giả đã gặp lại nhân vật có họ na ná với họ Weyergans trong cuốn Franz et François xuất bản 8 năm trước. François Weyergraf là nhà làm phim và nhà văn (hệt như tác giả), 60 tuổi, luôn luôn thao thức, trăn trở, bất an trong lòng, nhưng rất ư uyên bác, chẳng khác gì nhà văn Bỉ danh tiếng Franz Weyergans, cha của tác giả.   Nếu như qua Franz et François, tác giả đã tỏ lời vừa kính phục vừa ganh ghét cha mình, thì cuốn Trois jours chez ma mère như một bức thư bày tỏ tình cảm gửi tới mẹ già.     Mẹ và con   Bà nay 91 rồi, nhưng vẫn minh mẫn và còn sung sức. Qua điện thoại, bà không ngớt thăm hỏi, chăm sóc đứa con trai ở tuổi 60 như nó còn bé dại. Bà dặn nó phải viết nhiều hơn, bớt hút thuốc, không thì phổi bị thủng lỗ chỗ. Một nhân vật kỳ diệu.   Nhớ tới thời bà... chưa già, vừa góa chồng là bà cặp kê ngay với một ông láng giềng chủ một xí nghiệp có vợ con. Bà cũng chẳng ngại la cà trong các quán bar, nhảy nhót với những kẻ lạ mặt. Vóc dáng, cử chỉ, lời ăn tiếng nói của bà lúc nào cũng trẻ trung, sống động, khiến cho nhiều người tưởng bà với con mình là vợ chồng chung gối với nhau.   Thế nên Francois Weyergraf/Weyergans hết mực yêu quý, tôn sùng mẹ mình. Chúng ta nghe rõ đằng sau chữ "maman" (má, mẹ, u...) mỗi khi tác giả thốt lên trên trang giấy từng cung bậc rung động của ngòi bút.   Ông khao khát được ôm mẹ vào lòng, về ở với mẹ dầu chỉ "ba ngày" vậy mà cứ mải miết bận rộn. Lại nữa, cứ mong mang về dâng tặng mẹ cuốn sách viết về cuộc đời của bà, nhưng vì nó vẫn còn trong trứng nước nên tác giả ngần ngại không dám bước chân. Mà cũng có thể vì tác giả e rằng một khi đã phơi bày cuộc đời của mẹ mình trên trang sách, biết đâu bà lại chẳng bất thần trút hơi thở cuối cùng.   Rốt cuộc, "ba ngày về với mẹ" chỉ là một giấc mơ.     Mượn cớ   Hay chỉ là cái cớ cho phép tác giả nhẩn nha "tùy bút" trên 270 trang sách, một cách hấp dẫn, lôi cuốn, nhờ ở một văn phong điêu luyện, nhưng không kiểu cách. Thành quả của bảy năm ròng miệt mài với ngôn từ, chữ nghĩa, với tư duy, suy luận.   Viện Hàn lâm Goncourt đã đúng đắn khi trao tặng Goncourt, giải quan trọng nhất của văn học tiếng Pháp, cho tác phẩm Trois jours chez ma mère của Francois Weyergans. Trong số các nhà văn từng đoạt giải này có Marcel Proust, Simone de Beauvoir, Marguerite Duras...   TRẦN THIỆN ĐẠO (Paris)    Mời các bạn đón đọc Ba Ngày Ở Nhà Mẹ của tác giả Francois Weyergans.
Người Khuyết Tật - Barabbas
Barabbas (1950) là một tiểu thuyết của văn hào Pär Lagerkvist, người đoạt Giải Nobel Văn chương năm 1951. Tác phẩm thuật lại câu chuyện về cuộc đời của Barabbas, người mà Thánh Kinh cho biết đã được tha thay vì Chúa Giê-xu. Barabbas đã dùng suốt cuộc đời còn lại của mình để tìm hiểu lý do vì sao mình được chọn để sống. Chúa Giê-xu bị đóng đinh trên đồi Golgotha. Bên lề đám đông, Barabbas đứng đó. Vốn là một người bạo lực, sống ngoài vòng luật pháp và nổi loạn, Barabbas không thể nào có chút kính trọng với một người không biết phản kháng, dầu người đó đã chết thay chỗ của mình. Barabbas cũng hoài nghi về thần tánh của Chúa Giê-xu. Dầu vậy, ông cũng bị lôi cuốn về sự hy sinh của Chúa. Ông tìm gặp nhiều môn đệ khác nhau của Chúa để tìm hiểu. Tuy nhiên, những quan điểm tôn cao Chúa của họ không phù hợp với sự quan sát cụ thể của ông về Chúa. Quan trọng hơn nữa, vì Barabbas chưa bao giờ kinh nghiệm được tình yêu - vốn là nền tảng của niềm tin Cơ-đốc - nên Barabbas thấy rằng ông không thể nào hiểu được tình yêu, và do đó không thể nào hiểu được đức tin Cơ-đốc. Barabbas nói rằng ông "muốn tin," nhưng đối với Barabbas, hiểu biết là điều kiện tiên quyết để tin, do đó ông không thể tin. Sau nhiều thử thách gian truân, cuối cùng Barabbas đến Rome, nơi ông hiểu lầm cuộc hỏa hoạn tại Rome là khởi đầu của Thiên Đàng mới, do đó ông hăng hái giúp đám cháy lan rộng. Kết quả, ông bị bắt và bị đóng đinh cùng với những Cơ-đốc nhân khác như là những người tử đạo về một đức tin mà ông vẫn chưa hiểu. *** Pär Lagerkvist được trao giải vì những tác phẩm mang sức mạnh nghệ thuật và sự tìm kiếm câu trả lời cho những câu hỏi muôn đời vẫn đặt ra trước loài người. Tiểu thuyết Barabbas là tuyệt tác của P. Lagerkvist về nỗ lực của con người tìm kiếm đức tin, đề cập đến những vấn đề cấp thiết nhất của tồn tại con người một cách hết sức xác thực và dũng cảm.   PÄR LAGERKVIST (23/5/1891 - 11/7/1974) Giải Nobel Văn chương 1951 * Nhà văn, nhà thơ, nhà viết kịch Thụy Điển * Nơi sinh: Vaxjo (Thụy Điển) * Nơi mất: Stockholm (Thụy Điển) Pär Lagerkvist là con một công nhân đường sắt. Ông học ngữ văn và lịch sử nghệ thuật, yêu thích văn chương và có định hướng trở thành nhà văn ngay từ thời niên thiếu. Năm 1912 P. Lagerkvist bắt đầu in thơ và truyện dài Những con người, viết báo và phê bình sân khấu. Năm 1913 ông đến Paris và chịu ảnh hưởng rất nhiều của trường phái ấn tượng, đặc biệt trong hội họa. Do ảnh hưởng của Thế chiến I nên các sáng tác thời kì đầu của P. Lagerkvist phản ánh tâm trạng lo âu, hoang mang, cô đơn và bất lực của con người trong thời kì đế quốc chủ nghĩa (Nỗi buồn, 1916). Những năm sau đó ông viết thơ, kịch, truyện, phê bình sân khấu. Năm 1925, ông cho ra đời cuốn tự truyện Vị khách của thực tại mang quan điểm nhân đạo, có tính chiến đấu, được viết bằng ngôn ngữ giản dị nhưng mang tính nghệ thuật rất cao. Cho tới năm 1930 P. Lagerkvist định cư chủ yếu tại Pháp và Ý, và sau khi trở về Thụy Điển, ông vẫn thường xuyên trở lại vùng Địa Trung Hải này. Năm 1940 ông được bầu vào Viện Hàn lâm Thụy Điển. Tiểu thuyết Barabbas (1950) là đỉnh cao sáng tác của P. Lagerkvist, kể lại cốt truyện của kinh Phúc Âm một cách chân thực và đầy sức thuyết phục, ngay lập tức được dịch sang 9 thứ tiếng và dựng thành phim. Năm sau, nhà văn nhận giải Nobel. Cho đến cuối đời ông tiếp tục viết thơ, sáng tác 5 cuốn tiểu thuyết. P. Lagerkvist có hai đời vợ. Ông mất năm 1974, thọ 83 tuổi. * Tác phẩm: - Những con người (Manniskor, 1912), truyện dài. - Nghệ thuật ngôn từ và nghệ thuật họa hình (Ordkonst och bildkonst, 1913), tùy bút [Verbal art and pictorial art]. - Sắt và người (Jam och manniskor, 1915), tập truyện. - Nỗi buồn (Angest, 1916), thơ [Anguish]. - Người cuối cùng (Den sista manniskan, 1917), kịch. - Sân khấu (Teater, 1918), tiểu luận. - Hỗn loạn (Kaos, 1919), tập thơ. - Thời khắc khó khăn I, II, III (Den svara stunden, 1918), kịch [The difficult hour I,II,III]. - Bí mật thiên đường (Himlens hemlighet, 1919), kịch [The secret of heaven]. - Những motiv (Motivs, 1919), thơ và văn xuôi. - Nụ cười vĩnh cửu (Det eviga bendet, 1920), truyện dài. - Con đường của người hạnh phúc (Den lyckliges vag, 1921), thơ. - Người vô hình (Den osynlige, 1923), kịch. - Những truyền thuyết anh hùng đáng sợ (Onda sagor, 1924), tập truyện ngắn. - Vị khách của thực tại (Gaest hos verkligheten, 1925), tự truyện [Guest of reality]. - Bài ca trái tim (Hjartats sanger, 1926), thơ [Songs from the heart]. - Cuộc sống bị chinh phục (Det besegrade livet, 1927), tự truyện [The conquered life]. - Người đã sống hết cuộc đời (Han som fick leva om sitt liv, 1928), kịch [He who lived his life over again]. - Huyền thoại loài người (Myten on manniskorna, khoảng 1930, chơa in). - Bên đống lửa (Vid legeraldem, 1932), tập thơ. - Vua (Konungen, 1932), kịch. - Tên đao phủ (Bödeln, 1933), kịch [The hangman]. - Người không có tâm hồn (Mannen utan sjal, 1936), kịch [The man without a soul]. - Chiến thắng trong bóng tối (Seger i mörker, 1939), kịch [The victory in the darkness]. - Thơ và cuộc chiến (Song och strid, 1940), tập thơ. - Thằng lùn (Dvọrgen, 1944), tiểu thuyết. - Hãy để mọi người được sống (Lat manniskam leva, 1949), kịch. - Barabbas (1950), tiểu thuyết. - Đất hoàng hôn (Aftonland, 1953), tập thơ. - Sibyllan (1956), tiểu thuyết. - Cái chết của Ahasverus (Ahasverus dod, 1960), tiểu thuyết. - Người hành hương trên biển (Pilgrim pa havet, 1962), tiểu thuyết. - Mariamne (1967), tiểu thuyết.   * Tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt : - Người khuyết tật, gồm 2 tiểu thuyết Người khuyết tật (Dvọrgen), Nguyễn Thái Hà dịch và Barabbas, Dương Cầm dịch, NXB Hội Nhà Văn, 2002. - Bố và tôi, Chiếc thang máy xuống địa ngục, Nhật Chiêu dịch, in trong Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt giải Nobel, NXB Văn Học, 1997. - Cha và tôi, Hàn Thủy Giang dịch, in trong Tập truyện ngắn nước ngoài chọn lọc, NXB Quân Đội Nhân Dân, 1998. - Chiếc thang máy xuống địa ngục, Ngô Bích Thu dịch, in trong Đôi mắt lụa, NXB Văn Học, 1998; Truyện ngắn tình yêu hiện đại thế giới, NXB Văn hóa - Thông tin, 2003. - Cuộc phiêu lưu, Cốt thiêng, Tình yêu và cái chết, Chợ đồ cũ, Hà Việt Anh dịch, in trong tập Tọa độ tình yêu, NXB Hội Nhà Văn, 2004. ©  Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây
Di Chúc Pháp
Ký ức tuổi thơ trong một số tác phẩm được giải năm 1995 ở Pháp   (trích)      Đặng Thị Hạnh     Hầu hết các giải thưởng văn học lớn ở Pháp đều được trao vào cuối mùa thu hàng năm, còn được gọi là mùa khai diễn lại.   Năm nay, cuốn Di chúc Pháp của Andrei Makine, giải Goncourt, được giới báo chí khen ngợi nhiệt liệt: “Di chúc Pháp mùa thu năm nay sáng ngời lên với một ánh rạng rỡ đặc biệt. Một cuốn tiểu thuyết hay”. (Báo Le Figaro). “Một sự tráng lệ yên bình, chắc chắn đó là một trong những tiểu thuyết vào đời hay nhất của những năm gần đây. (Báo Le Croise). “Andrei Makine đã viết một kiệt tác. Một kỳ công về văn xuôi, một tiếng nhạc khiến ta sững sờ, như thể Tchékhov viết bằng tiếng Pháp” (Báo Elle).   *   Gần mười năm sau khi rời khỏi đất Nga sang Pháp, người kể chuyện hồi tưởng lại về thời thơ ấu và tuổi mới lớn của mình, sống chia sẻ giữa một thành phố lớn bên bờ sông Volga (nơi bố mẹ ở) và thị trấn Saranza ở vùng Ukraine là nơi người bà ngoại gốc Pháp ở.   Trong nhiều năm, theo một tập quán không thay đổi, trên một ban công giữa vườn, mỗi chiều hè, người bà lại kể cho hai chị em cậu bé những mẩu chuyện về nước Pháp, quê hương của bà, những mẩu chuyện rời rạc, có khi lặp đi lặp lại, điều mà cả người kể lẫn người nghe đều không mấy quan tâm, đối với đứa trẻ, mỗi chuyện kể hay đều có thể nghe đi nghe lại mà không biết chán. Cùng với an bom gia đình, những bài dân ca, thơ văn các nghệ sĩ nổi tiếng, rồi những kỷ vật, vài hòn cuội, một mẩu kim loại bí ẩn... các câu chuyện kể cứ làm hình thành dần trong đầu óc cậu bé, một hình ảnh về nước Pháp, giống như những mẩu trong một bức tranh ghép mảnh. Mở đầu của mọi chuyện, chắc chắn là chuyện kể về Paris vụ lụt mùa đông năm 1910: sông Seine biến thành biển, dân Paris lênh đênh trên những con đò, và nước Pháp của bà ngoại đi lên từ sóng nước như một hòn đảo Atlantide. Nhưng liền ngay sau đó lại là một Paris khác, rực rỡ ánh xuân, đang chờ đón Sa hoàng Nicolas đệ nhị và Hoàng hậu Alexandra. Cả hai xuất hiện trẻ măng, đẹp đẽ Nhiều năm sau, người kể chuyện (lúc ấy còn là người nghe chuyện) mới biết là sự kiện ngoại giao lớn, Paris đón Sa hoàng, là xảy ra vào năm 1896, trước vụ lụt hàng chục năm. Nhưng mọi sự sai niên đại đều chẳng quan trọng gì. Điều quan trọng là trên ban công ngôi nhà của Charlotte, tên người bà, mỗi chiều hè “giống như cái bình cầu cổ dài của một nhà luyện kim, trong đó diễn ra sự chuyển vi nguyên tố của quá khứ”: điện Elysée xuất hiện trong ánh lấp lánh những đèn chùm gương soi, nhà hát Opéra sáng rực vì những đôi vài trần phụ nữ, còn Nhà thờ Đức Bà lại khiến ta cảm thấy rợn người vì chất đá lạnh toát dưới bầu trời vẩn mây...   Cứ như vậy, cho dù các giấc mộng chiều hè đó mỗi năm một lần lại lùi ra xa, mờ đi sau đám sương thu và những cơn bão tuyết đầu tiên- cậu bé trở về với cuộc sống học sinh và thành phố - thì cái mà sau này cậu sẽ gọi là Francité (tính Pháp) vẫn cứ đọng lại như những “địa tầng” trong tâm hồn cậu, cùng với cái đó là những xung đột giữa hai bản ngã khó dung hòa. Cũng như chính tác giả, người kể chuyện cảm thấy “mình vừa là Pháp, lại vừa là Nga: và không ở đâu, tính đối nghịch đó lại biểu hiện rõ như trong ngôn ngữ: “Khi tôi đọc (từ Tsar) bằng tiếng ngan thì một tên bạo chúa tàn ác đứng sừng sững trước mặt tôi, trong khi đó từ “Tsar” trong tiếng Pháp lại tràn ngập ánh sáng, tiếng động, gió, ánh đèn chùm, những vai trần phụ nữ lấp lánh...” Ngôn ngữ, cái mầm ghép hoang đường… Rất lâu sau này, người kể chuyện mới có dịp thể nghiệm cái chất liệu bí ẩn này, nhưng chắc anh sẽ khó thành công nếu ngay từ thời thơ ấu, trong con người anh, trong ngôn ngữ anh, đã không mang tính kép, cái mà có lúc anh đã muốn rũ bỏ cho kì được. “Thói ủy mị Pháp đã ngăn trở không cho tôi sống”: lớn dần lên, cậu bé đã nhận ra như vậy, khi cảm thấy mình lạc lõng giữa cái xã hội mini là trường học, bạn và thầy. Vào một mùa hè, khi cậu đã 14 tuổi, cậu trở về Saranza với “ý định kết thúc với cái nước Pháp của Charlotte”, thì một lần nữa, cậu lại ra đi với bao nhiêu khám phá về bản thân mình, về ngôn ngữ, nhất là về người bà của mình, đơn giản chỉ vì bà xuất hiện dưới bầu trời Nga “như một con người- ngoài trái đất” nhưng lại đã “hội tụ được trong cuộc đời mình các thời điểm mấu chốt của lịch sử nước chúng tôi”.   *   Từ ngày ấy, gần hai mươi năm đã trôi qua. Bị cuốn theo những biến động xã hội người kể chuyện nay đã ở trên đất Pháp. Và điều gì đã xảy ra? Về những tháng dài nghèo khổ và lang thang trên đất Pháp, anh sẽ rất ít lời. Xuống đến tận cùng của tuyệt vọng, có lúc anh đã nghĩ đến cái chết, nhưng chính một hồi ức của tuổi thơ lại đã cứu anh. Vào một sáng tinh mơ, khi anh gần như quỵ xuống cạnh một bức tường: Lũ tháng giêng 1910, những dòng chữ trên xuất hiện như nhờ phép lạ trên một tấm kim loại đã gỉ, đen xì. Và ngay tức thì, cả một quá khứ ùa trở lại: “… Sức nóng của một thành cầu thang gỗ trên cái ban công treo giữa không trung vào một chiều hè. Những mùi hương cỏ, khô và cay cay. Tiếng kêu xa xôi và buồn bã của một đầu tàu… Tiếng giấy nhẹ sột soạt trên lòng người đàn bà đang ngồi giữa hoa. Mái tóc đã điểm bạc. Giọng nói của bà…”Đến đây điểm nhìn của người kể chuyện đã đảo ngược lại, thời ấy còn là nước Pháp nhìn từ nước Nga qua truyện kể của bà, bây giờ lại một hồi ức về đất Nga nhìn lại từ nước Pháp.   Cũng như vậy, trong hai mươi trang cuối chuyện, tình huống sẽ bị rạt lại. Trong hơn hai trăm chín mươi trên ba trăm linh bẩy trang của cuốn tiểu thuyết, người kể chuyện chỉ làm có một việc là vẽ lại cho chúng ta sự hình thành của tính Pháp trong con người anh. Vậy mà khi anh tưởng như đã có điều kiện để đưa người bà trở về thăm nước Pháp thì một bức thư của Charlotte viết trước khi và mất: Di chúc Pháp lại là để nói với anh về đời một người đàn bà Nga, mẹ của anh: bà đã đón từ tay của một phụ nữ Nga bị chết trong trại tập trung, và đã hứa với người đó chỉ báo cho anh biết điều này vào thời điểm chậm nhất. Vậy là tất cả những gì mà suốt thời gian qua anh coi như biểu hiện của tính Pháp di truyền trong anh đều không có, hoàn toàn không có.Nhưng đấy cũng là điều kiện để anh nghĩ tới sự hiện diện của người bà, “kín đáo và tự nhiên như chính cuộc sống vậy. Đối với tôi, duy nhất chỉ còn thiếu các từ để nói lên điều đó”.   Cũng giống như kiệt tác của Proust, khi chuyện kể đóng lại là lúc báo hiệu cuốn tiểu thuyết sẽ bắt đầu.   *   Trên đây chỉ là tóm tắt sơ lược của truyện kể và khó có thể hình dung một tác phẩm hay nếu không biết đến văn viết. Nhưng đấy là việc của người đọc, không ai có thể làm thay. “Mỗi độc giả trước tiên là độc giả của chính mình. Với văn phong trong sáng, dễ hiểu, với cốt truyện giản dị. Di chúc Pháp vẫn là một tác phẩm phức hợp, có thể được đọc ở nhiều tầng. Trong phạm vi bài này không thể nói tới các âm hưởng khác nhau có thể tìm thấy trong tác phẩm. Nhưng một điều có thể nhận thấy ngay, là người độc giả Việt Nam đã quen với tiểu thuyết Na và Xô viết trước đây (tuy bây giờ dường như chúng đã bị xếp xó) sẽ nhận thấy trong người đàn bà gốc Pháp nhiều nét gợi nhớ tới các nữ nhân vật trong tiểu thuyết cổ điển Nga, và cả trong các tác phẩm Xô viết họ đã đọc. Còn một số độc giả khác sẽ nhạy cảm với “tiếng nhạc nhỏ của các hồi ức Proustienm cứ đệm theo dòng chuyện kể, gợi nhớ “những giây lát không trôi qua”, cái sẽ còn lại mãi mãi phía trên dòng thời gian luôn chảy./.   “(…) tôi ghi lại đây tên thật những người ấy với một niềm thích thú trẻ nít cùng niềm xúc động sâu xa, trong khi không thể kể hết tên bao người khác nữa hẳn cũng đã từng hành động tương tự và nhờ họ mà nước Pháp vẫn tồn tại đến ngày nay (…)”      MARCEL PROUST      Thời gian tìm lại được     “Người dân Xibêri có bao giờ xin ông trời cây ôliu, hoặc người dân cứ Provence cây klukwa?”      JOSEPH DE MAISTRE     Những tối đàm luận ở Saint Petersbourg     “Tôi hỏi nhà văn Nga cách thức ông làm việc và lấy làm ngạc nhiên là ông không tự dịch bản viết, mặc dù ông nói một thức tiếng Pháp hết sức trong sáng, hơi chậm rãi tí chút do lối suy nghĩ tinh tế của ông.   Ông thú thật là Viện Hàn lâm với pho từ điển của nó khiến ông buốt cóng.      ALPHONSE DAUDET     Ba mươi băm ở Paris  *** Andreï Makine sinh ngày 10/9/1957 tại Krasnoyarsk, Xô Viết.   Năm 1987, ông sang Pháp là thành viên của chương trình trao đổi giáo viên và quyết định ở lại. Quyển tiểu thuyết đầu tiên của ông La fille d'un héros de l'Union soviétique (A Hero's Daughter) được xuất bản năm 1990, khi ông trình bày rằng nó đã được dịch từ tiếng Nga, vì không nhà xuất bản nào tin rằng ông có thể viết bằng tiếng Pháp. Với quyển tiểu thuyết thứ ba, Au temps du fleuve Amour (Once Upon Love River), ông mới được công nhận là một nhà văn Pháp. Và đến quyển tiểu thuyết thứ tư, Le Testament Français (Dreams of My Russian Summers), năm 1995, ông trở thành tác giả đầu tiên chiến thắng được cả hai giải thưởng văn học hàng đầu nước Pháp Prix Goncourt và Prix Médicis.   Năm 2001, Andreï Makine bắt đầu bí mật xuất bản dưới bút danh Gabriel Osmonde với tổng cộng 4 quyển tiểu thuyết trong hơn 10 năm. Đây là một bí ẩn của nền văn học Pháp. Mãi đến năm 2011, một học giả nhận thấy quyển Les 20 000 Femmes de la vie d'un homme của Osmonde được lấy cảm hứng từ Le Testament Français (Dreams of My Russian Summers) của Makine, sau đó sự việc mới được sáng tỏ. Khi được hỏi tại sao lại sử dụng bút danh, ông đã trả lời rằng: “Tôi muốn tạo ra một người sống xa sự ồn ào náo nhiệt của thế giới”.   Các tác phẩm:   - La fille d'un héros de l'Union soviétique , 1990 (A Hero's Daughter , 1996)   - Confession d'un porte-drapeau déchu , 1992 (Confessions of a Fallen Standard-Bearer , 1996)   - Au temps du fleuve Amour , 1994 (Once Upon the River Love , 1996)   - Le Testament français , 1995 (Dreams of My Russian Summers , 1997)   - Le Crime d'Olga Arbelina , 1998 (Crime of Olga Arbyelina , 2000)   - Requiem pour l'Est , 2000 (Requiem for a Lost Empire , 2001)   - La Musique d'une vie , 2001 (A Life's Music , 2004; also published as Music of a Life)   - La Terre et le ciel de Jacques Dorme , 2003 (The Earth and Sky of Jacques Dorme , 2005)   - La femme qui attendait , 2004 (The Woman Who Waited , 2005)   - L'Amour humain , 2006 (Human Love , 2008)   - Le Monde selon Gabriel , 2007   - La Vie d'un homme inconnu , 2009 (The Life of an Unknown Man , 2010)   - Cette France qu'on oublie d'aimer , 2010   - Le Livre des brèves amours éternelles , 2011   Dưới bút danh Gabriel Osmonde:   - Le Voyage d'une femme qui n'avait plus peur de vieillir, 2001   - Les 20 000 Femmes de la vie d'un homme, 2004   - L'Œuvre de l'amour, 2006   - Alternaissance, 2011   Mời các bạn đón đọc Di Chúc Pháp của tác giả Andrei Makine.