Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bướm Trắng

"Nếu chỉ có một năm để sống" bạn sẽ làm gì? Ðây có thể là đề tài một cuốn phim hồi hộp, một cuốn tiểu thuyết hấp dẫn hay một tác phẩm văn học phân tâm. Nhất Linh chọn giải pháp thứ ba: Bướm Trắng là một ăng-kết của Trương về bản ngã mình. Trương bị lao và bác sĩ cho biết chàng chỉ có thể sống được một năm nữa là cùng. Nhất Linh đem máy ghi âm đặt vào óc Trương để ghi lại những ý nghĩ, những phản ứng của Trương từ khi biết mình chỉ còn một thời gian sống nhất định.  Phản ứng đầu tiên của Trương là sẽ ghi vào sổ nhật ký, ngày 21/2: Hôm nay mình chết (Bướm Trắng, NXB Ðời Nay tái bản, 1970, trang 34). Ðó là cái chết đầu tiên, sau khi biết mình sắp chết, cái chết này biểu hiện tính cách hóa thân của hai từ Bướm Trắng và đưa Trương vào đoạn đời thứ nhì, đoạn đời mà Trương quyết định rằng từ nay "chàng sẽ nếm đủ các khoái lạc ở đời, chàng sẽ sống đến cực điểm, sống cho hết để không còn ao ước gì nữa, sống cho chán chường. Trương thấy mình nô nức hồi hộp mà lại sung sướng nữa. Chàng sung sướng vì chàng thấy mình như con chim thoát khỏi lồng, nhẹ nhàng trong một sự tự do không bờ bến. Những cái ràng buộc, đè nén của cuộc sống thường không có nữa, chàng sẽ hết băn khoăn, hết e dè được hoàn toàn sống như ý mình. - Chết thì còn cần gì nữa?" (trang 38)  Ðặt ngược lại vấn đề, Albert Camus bắt đầu cuốn tiểu luận Le Mythe de Sisyphe (Huyền Thoại Sisyphe) bằng câu: "Chỉ có một vấn đề triết lý thật sự nghiêm túc: đó là tự tử, xét rằng đời đáng sống hay không đáng sống là trả lời câu hỏi cơ bản của triết học". Cả hai tác giả Nhất Linh và Camus, đi từ hai con đường khác nhau nhưng dường như đều cùng muốn điều tra ý nghĩa của cuộc sống từ cái chết. Rồi Nhất Linh và Camus đều chết bất đắc kỳ tử. Camus, tai nạn xe hơi ở tuổi 47, Nhất Linh tự tử ở tuổi 57, một trùng hợp phi lý.  Cái chết, trước tiên, đối với Trương là một giải thoát, khi giao hẹn "hôm nay mình chết" là Trương đã tự hóa, từ một người bị ràng buộc, trở thành người tự do, hồi sinh trong cuộc sống mới, với hai lớp lang: biết mình sắp chết và quên rằng mình đang sống.  Ở lớp thứ nhất, Trương quyết định tìm vui trong trụy lạc: trụy lạc thể xác và tinh thần. Về thể xác, hưởng thụ hết những thú vui nhục dục trước khi chết và về tinh thần, chiếm hữu tình yêu của Thu, người con gái tình cờ gặp mà ngay sau đó Trương đã muốn yêu như một trò chơi: yêu cũng được mà không yêu cũng được.  Ở từng thứ nhì, Trương sợ sống: không dám về nhà, muốn quên rằng mình đang sống, lẩn tránh những ý nghĩ của mình, sợ đối diện với chính mình. "Trương ở vào tình trạng một người không cần gì nữa, chỉ mong xảy đến cho mình một việc, bất cứ việc gì, miễn là khác thường để cho mình quên được sự sống" (trang 55). Hai trạng thái, hai lớp lang tâm thần ấy giao nhau trong một môi trường không có lối thoát: Sự trụy lạc mà Trương tìm đến như một ao ước hưởng thụ hết trước khi chết, không đem lại cho Trương tị ti thỏa mãn nào, và cuộc tình đối với Thu, mới đầu chỉ là một trò chơi, sau đã lấn át tâm hồn Trương, chi phối tư tưởng Trương như một lớp sống, một định mệnh thứ ba: Cái định mệnh quái ác, tưởng (yêu) đùa lại hóa (yêu) thật, tưởng chết lại không chết, lại sống, cứ sống, rồi chính cái sống thừa, sống ra ngoài mọi ước vọng ấy, đã chơi khăm Trương, vì mọi toan tính về định mệnh đều vô nghĩa: không ai có thể biết trước được định mệnh, kể cả những thầy thuốc giỏi nhất và cũng không ai dự đoán được kết quả một cuộc tình. Trương như con bướm trắng lượn trong các nẻo tâm tư của chính mình, Trương bay hết nơi này đến nơi khác, từ những phăng-tát cực đoan của một người bệnh bị cái chết ám ảnh trong mỗi phút sống, đến những giây phút hạnh phúc cũng như bi đát của một người bình thường, nhảy từ những ý nghĩ trong sáng, dịu dàng nhất đến những toan tính đen tối, đồi tệ, đê hèn nhất. Trương là bướm trắng bay trong não trạng của chính mình, Trương hành động, nhận xét mình hành động, mà không hiểu những gì đã xẩy ra quanh mình, cho mình. *** « Trương chậm bước lại vì chàng vừa nhận thấy mình đi nhanh quá tuy không có việc gì vội và cũng không nhất định đi đến đâu ». Câu văn khơi dòng cho tiểu thuyết Bướm Trắng của Nhất Linh, là bước chân người đi. Người ấy lắng nghe, và nhận định nhịp bước, nhận thấy mình đi nhanh quá, mà không có lý do, không có việc gì vội. Sau đó lại bổ sung không nhất định đi đến đâu, dường như muốn tu chỉnh câu vừa mới nói : không có việc gì, không cần đến chữ vội, như lỡ bước quá một bước, thốt quá một lời, viết quá một chữ. Quá một chữ, không nhất thiết phải là thừa, vì câu nói, lời văn, bước chân đưa đẩy như vậy, trong đời sống như vậy. Khi ta bước, hay thở, không mấy khi ta lưu ý. Cũng có khi cố tình nhanh hay chậm chân một chút, hay thở mạnh, sâu hơn một chút, vì lý do nào đó. Như lý do đưa đẩy Nhất Linh viết truyện Bướm Trắng : chuyện của Trương biết mình bị bệnh phổi, được bác sĩ tiên đoán sống một năm. Biết vậy, và cho rằng không tránh khỏi, Trương lắng nghe cuộc sống đang tiếp diễn, và gây thêm biến cố, để cuộc sống xao động hơn, để mình nghe tiếng động của đời sống rõ rệt hơn. Trong Tiếng nói của im lặng (Les voix du silence), André Malraux có giải thích tác phẩm của mình : « Tôi có lần kể cuộc phiêu lưu của một người không nhận ra giọng nói của mình vừa được thu âm, vì anh ta mới nghe lần đầu qua lỗ tai chứ không qua cổ họng ; và vì chỉ có cổ họng mới chuyển đến ta, tiếng nói của nội tâm, tôi gọi tên sách là Thân phận làm người (La condition humaine) ». Nói rộng ra, gọi Bướm Trắng là tiếng thầm thì của nội tâm cũng được. Bướm Trắng viết vào năm 1939, đăng báo 1940, xuất bản 1941, khi Nhất Linh đã có địa vị vững vàng trong văn học ; tiểu thuyết Đoạn Tuyệt, 1934, đã gây chấn động vì luận đề xã hội. Nhất Linh dựng lại hai nhân vật Dũng và Loan trong Đôi Bạn, 1938-39, giầu tính chất văn chương hơn, nhưng cái nền của tác phẩm vẫn còn tồn đọng chuyện xã hội và chính trị trong bối cảnh nông thôn miền Bắc. Đến Bướm Trắng, ông chủ tâm viết một tác phẩm văn học thuần tuý, không hàm ý chính trị hay xã hội, lấy đời sống đô thị làm khung cảnh. Nhất Linh muốn thể nghiệm một kỹ thuật khác xưa : viết tiểu thuyết để hành văn, lấy văn chương làm cứu cánh, không mượn văn học để luận về xã hội và thời thế. Dù rằng thời điểm Bướm Trắng, 1939-1940, tình hình đất nước đang căng thẳng. Bản thân Nhất Linh đã dấn thân sâu vào thời cuộc, nhưng không mượn văn chương để bày tỏ quan điểm xã hội. Tuy nhiên tác phẩm bao giờ cũng phản ánh đời sống xã hội qua một thành phần nào đó, điều này là quy luật hiển nhiên, không tránh khỏi. Chuyện xảy ra tại Hà Nội, giữa một nhóm thanh niên trí thức thuộc gia đình khá giả. Trương, sinh viên trường luật, thôi học vì bệnh lao phổi. Trong giới hạn thời gian còn sống, Trương muốn khám phá triệt để cuộc sống, chủ yếu qua hai cách : qua tình yêu với Thu và qua kinh nghiệm trác táng. Có lúc thụt két, phải vào tù mấy tháng. Ra tù, Trương khỏi bệnh, về làng cưới vợ quê. Trong một tham luận nhân cuộc hội thảo về Tự lực văn đoàn ở Cẩm Giàng, quê Nhất Linh, ngày 9/5/2008, học giả Nguyễn Huệ Chi đã nhận ra những biến chuyển trong quan niệm và kỹ thuật tiểu thuyết Nhất Linh « nhà văn luôn luôn tìm tòi không ngừng không mỏi. Vừa cho ra mắt một loạt tiểu thuyết luận đề làm cả một thế hệ thanh niên yêu thích, ông lại thoắt chuyển sang dạng tiểu thuyết không có truyện, lấy việc phân tích các biến thái tâm lý nhân vật làm chủ điểm (Đôi Bạn) rồi lại thoắt chuyển sang dạng tiểu thuyết khơi sâu vào những miền khuất tối, không dễ nhận biết cái của « tôi », cái thế giới bí mật nhất trong mỗi con người, kể cả sự mò mẫm vô thức trên quá trình cái tôi phân thân, tự huỷ, ít nhiều mang dáng dấp hiện sinh (Bướm Trắng) » i. Chúng tôi lưu ý vào hai chữ hiện sinh. Tiểu thuyết, thông thường thì cần cốt truyện. Chuyện Trương đối diện với cái chết có thể là một đề tài hấp dẫn, nhưng tác giả không muốn lôi cuốn bằng chuyện kể, không tạo tình tiết éo le, ly kỳ, gây cấn. Sự việc phần nhiều là do nhân vật cố tình tạo ra để thăm dò cảm giác và suy tưởng của chính mình : « Mình thụt két mà Thu còn yêu mới thực là yêu, Thu không yêu nữa càng hay. Thử xem sao. Chẳng có gì mà sợ, chết cũng không sợ lại còn sợ một việc cỏn con như thế này à ? » (Bướm Trắng, tr.119, Nxb Văn Mới, 2014, California). Trương, con người bình thường, thậm chí tầm thường, trở nên nhân vật tiểu thuyết vì bệnh lao, việc có thể đến với bất cứ người nào. Nhất Linh chọn nhân vật thanh niên trí thức Hà Nội, vì hoàn cảnh này thuận lợi cho việc tạo ra sự việc để nhẩn nha và tỉ mỉ phân tích nội tâm. Dụng tâm của Nhất Linh là kể một câu chuyện đời thường, bằng giọng văn đời thường, không lên bổng xuống trầm, không hùng hồn để thuyết phục, không bi luỵ để gây xúc cảm, không thắt nút mở nút. Chuyện của Trương chấm dứt ở đây, nhưng vẫn có thể tiếp tục diễn tiến. Kết cuộc như thế, không tự nhiên, cũng không bất ngờ, có thể không như thế. Câu kết : «Nói xong, Nhan nhìn Trương, mỉm cườ i; nàng sung sướng có cái cảm tưởng như được săn sóc âu yếm đến một người chồng ». Mời các bạn đón đọc Bướm Trắng của tác giả Nhất Linh.  

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Phố Những Cửa Hiệu U Tối - Patrick Modiano
Sẽ chẳng bao giờ biết được Guy Roland đã tìm thấy gì ở số 2, phố Những Cửa hiệu U tối... Một địa chỉ tại Rome, địa chỉ cuối cùng, địa chỉ bí hiểm nhất trong số các địa chỉ mà người đàn ông mất trí này tìm đến. Guy Roland là nhân viên của một hãng thám tử tư do nam tước xứ Baltique Constantin von Hutte thành lập, von Hutte vừa nghỉ hưu. Guy Roland, trước thay đổi này, đã quyết định lần tìm về quá khứ để khám phá bí mật nhân thân mình. Anh vừa đoan chắc mình chính là “hậu duệ của một gia đình có tên hiển thị trên một vài cuốn Bottin thời lưu cũ” thì đã bị hướng ngay đến vết dấu của một Pedro McEvoy nào đó vốn là thư ký của một “tòa công sứ Nam Mỹ” từng sống trên phố Cambacérès, quận VIII Paris. Nhưng liệu đó có phải tên đi mượn của Jimmy Stern làm nghề môi giới và đã mất tích vào năm 1940 không? Và chuyện gì đã xảy đến với vợ anh, Denise Coudreuse, một người làm mẫu theo giờ, cũng cùng anh trốn đến Megève lánh nạn vì “Paris đang trở nên quá nguy hiểm”? Thoạt tiên, Guy Roland chỉ tiến hành điều tra trong thủ đô, rồi dần dà anh khôi phục được các mảnh ghép của cuộc sống trước đây của mình. Các mảnh ghép của một câu chuyện không chắc chắn cùng những nhân chứng tha hương, Freddie Howard de Luz, Oleg de Wrédé, Gay Orlow, Porfirio Rubirosa, André Wildmer, và những người khác. Các mảnh ghép của “một thời kỳ kỳ cục”, thời Chiếm đóng và săn lùng người Do Thái, lan đến tận Bora Bora, New York, Jouy-en-Josas, Vichy, và dĩ nhiên là Rome nữa. Phố những cửa hiệu u tối là cuốn tiểu thuyết thứ sáu của nhà văn Nobel 2014 Patrick Modiano, xuất bản năm 1978 và cùng năm đó được giải thưởng văn học Goncourt danh giá nhất nước Pháp. ***  Ta còn lại gì sau khi đã sống qua một đời? Vài bức ảnh ố vàng đựng trong mấy cái hộp bánh bích quy, đôi ba số điện thoại đã đổi chủ thuê bao, một nhúm chứng nhân đến lượt họ cũng tan như mây khói... rồi chẳng còn gì nữa, ta gần như không tồn tại. Nhưng liệu sống thì có ích gì khi ta không nhớ và nhớ thì có ích gì khi ta không sống? Những cuốn sách lớn, dù mỏng manh tới đâu, vẫn mang trong chúng một sức nặng ngầm ẩn. Phố những cửa hiệu u tối là một trong số đó.  Le Monde   - Một ngôn ngữ thoảng qua. Một sự giản đơn bí ẩn. Một thực tế hoàn toàn ảo mờ. Chỉ tài năng đặc biệt của Modiano mới có thể tạo ra được một Phố những cửa hiệu u tối  như thế. L’Express   Mời các bạn đón đọc Phố Những Cửa Hiệu U Tối của tác giả Patrick Modiano.
39 Manh mối tập 8: Mật Mã của Hoàng Đế - Gordon Korman
39 Manh mối là một bộ tiểu thuyết phiêu lưu được nhiều tác giả nổi tiếng của dòng fantasy cùng chắp bút. Qua từng cuốn sách, chúng ta sẽ cùng hai chị em Amy Cahill và Dan Cahill đến những đất nước khác nhau truy tìm 39 manh mối để sở hữu quyền lực vĩ đại nhất từng thấy. Bạn sẽ đắm mình vào cuộc phiêu lưu hồi hộp, tìm hiểu những câu chuyện hư hư thực thực về những con người nổi tiếng có trong phả hệ nhà Cahill như Benjamin Franklin, Mozart, hay Shakespeare... *Bộ sách còn được một số quốc gia đưa vào trò chơi trực tuyến với phần thưởng có giá trị. Mật Mã của Hoàng Đế là cuốn sách thứ tám trong bộ 39 Manh Mối, cuốn sách này được viết bởi Gordon Korman. Ông cũng là tác giả của tập 2 trong bộ sách này, Bí mật của Mozart. Sau cuộc tranh cãi nảy lửa với chị gái Amy, Dan bị nhà Kabra bắt cóc. Nellie và Amy đi tìm Dan, theo một Manh Mối dẫn dắt tới nhà leo núi thuộc nhà Tomas là George Mallory và vị Hoàng Đế cuối cùng của Trung Quốc. Đây là lần đầu tiên Amy và Dan tách khỏi nhau – làm sao chúng có thể tìm thấy nhau giữa một đất nước có hơn một tỷ người? Mời các bạn đón đọc 39 Manh mối tập 8: Mật Mã của Hoàng Đế của tác giả Gordon Korman.
Đỏ và Đen - Stendhal
Stendhal là người mở đầu cho trào lưu hiện thực phê phán trong Văn học Pháp, song ngoại trừ Honore de Dalzac, ông không được các nhà văn cùng thời đánh giá cao. Mặc dù vậy, trải bao biến thiên thời cuộc, đến nay, vị trí của người có "Giọng điệu cá biệt nhất trong văn học từ trước tới nay" (như nhận xét của Valery) ngày càng thêm vững chắc. Cuốn tiểu thuyết "Đỏ và đen" của Stendhal hiện vẫn là một trong những cuốn sách bán chạy tại nhiều nước trên thế giới (hiện ở Trung Quốc, nó đã xuất hiện với 8 bản dịch khác nhau). Gần đây, Tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy cũng tiết lộ rằng, cuốn sách ưa thích nhất của ông chính là tiểu thuyết "Đỏ và đen" của Stendhal. Stendhal tên thật là Marie - Henri Beyle. Ông sinh ngày 23/1/1783 tại Grenoble, một thị trấn nằm ở miền Đông nước Pháp, cách biên giới Italia 100 km. Bởi mẹ mất sớm, bố có tư tưởng bảo thủ, ngay từ nhỏ, ông đã được giao phó cho một linh mục Gia tô kèm cặp. Chính sự hà khắc trong cách giáo dục của vị linh mục đã khiến trong trái tim thơ trẻ của ông luôn đầy ắp ác cảm với nhà thờ. Stendhal trưởng thành trong một thời đại có nhiều biến động dữ dội, gắn với vai trò thắng - bại của Napoleon (Stendhal từng làm thư ký cho Bộ trưởng Bộ Chiến tranh Pháp trong cuộc chiến tranh Pháp - Italia thời Đế chế I). Sinh thời, mặc dù Stendhal thường phát biểu rằng việc viết văn với ông chỉ là một thú tiêu khiển, song thực tế ông đã dành rất nhiều tâm huyết cho việc sáng tạo. Tác phẩm đầu tiên ông viết tại Milan là một công trình biên khảo: "Tiểu sử của Haydn, Mozart và Metastasio" (1814). Ba năm sau, cuốn "Lịch sử hội họa Italia" được in thành hai tập. Năm 1827, tiểu thuyết đầu tay của ông ra đời, đó là cuốn "Armance". Khi Stendhal còn sống, cuốn ''Bút ký của một du khách" viết năm 1838 được coi là tác phẩm đặc sắc nhất của ông. Hai cuốn khác, "Laniel" và "Lucien Lenowen" chỉ được xuất bản sau khi ông mất. "Đỏ và đen" là cuốn tiểu thuyết trứ danh nhất của Stendhal, được xuất bản vào năm 1830. Tác giả dựa trên một sự việc có thật đăng trên nhật báo Tòa án từ ngày 28 đến ngày 31/12/1827. Tiểu thuyết có phụ đề "Ký sự của năm 1830" và lời đề từ: "Sự thật, sự thật cay nghiệt". Nhân vật chính của tiểu thuyết - chàng thanh niên Julien Sorel (có nhiều bóng dáng của Stendhal) là một người đàn ông giàu nghị lực và rất thông minh. Anh ta luôn nuôi dưỡng trong mình những ảo tưởng lãng mạn nhưng rồi cuối cùng trở thành nạn nhân của các mưu đồ chính trị. Stendhal dùng hình ảnh một người hùng bị thất bại để đả phá cái giả trá của tầng lớp quý tộc trong xã hội Pháp thời đó. Tiểu thuyết "Tu viện thành Parme" được xuất bản năm 1839, chỉ ít năm trước khi tác giả tạ thế. Và điều gì xảy ra sau đó? Ông viết "Đỏ và đen", "Tu viện thành Parme". Những tác phẩm cực kỳ tao nhã". Không biết có phải vì sự nhân văn, "tao nhã" này mà trong thời gian Giang Thanh lộng hành ở Trung Quốc, bà ta tỏ ra không thích "Đỏ và đen" của Stendhal. Và đó là một trong những lý do khiến nhiều độc giả ở đất nước đông dân nhất hành tinh này càng thêm tò mò muốn tìm đọc cuốn sách? Mời các bạn đón đọc Đỏ và Đen của tác giả Stendhal.
Bỉ Vỏ - Nguyên Hồng
Bỉ vỏ là tác phẩm đầu tay của Nguyên Hồng được Tự Lực Văn Đoàn tặng giải nhì năm 1937. Bính là cô gái nghèo làng Sòi. Vì nhẹ dạ, yêu một gã Tham đạc điền và bị hắn bỏ rơi giữa lúc bụng mang dạ chửa. Cô bị cha mẹ hắt hủi, đay nghiến và đứa bé sinh ra phải đem bán đi vì sợ làng bắt vạ. Đau đớn, Bính trốn nhà đi Hải Phòng mong tìm được người tình. Sau mấy ngày đêm lang thang đói khát, có lần suýt bị làm nhục ở một vườn hoa, Bính gặp một gã trẻ tuổi nhà giàu. Gã lừa cô vào nhà hãm hiếp và đổ bệnh lậu cho cô. Vợ gã bắt gặp, đánh đập Bính tàn nhẫn và lôi cô ra Sở cẩm, vu là gái đĩ. Thế là Bính bị đưa vào nhà “lục xì”, sau đó rơi vào nhà chứa của mụ Tài sế cấu. Sống ê chề cực nhục ở nơi bẩn thỉu hôi hám, Bính ốm nặng. Đau khổ, tuyệt vọng, Bính toan tự tử nhưng được Năm Sài Gòn, trùm lưu manh ở Hải Phòng, chuộc ra khỏi nhà chứa, đem về chăm sóc hết lòng. Nhưng rồi Năm bị bắt. Tuy túng bấn nhưng Bính nhất định không nhận tiền “bồi” (tiền bọn ăn cắp trích nộp “đàn anh”) mà sống bằng buôn bán lương thiện, hy vọng khi Năm trở về sẽ khuyên y từ bỏ cái nghề bất lương và nguy hiểm. Năm được tha nhưng dứt khoát không nghe lời khuyên của Bính. Thế là, bất đắc dĩ, Bính cũng bị lôi kéo vào con đường lưu manh, trở thành một “bỉ vỏ” – người đàn bà ăn cắp. Do một sự hiểu lầm và ghen tuông, Năm Sài Gòn đuổi Bính đi. Bính về Nam Định, gồng thuê gánh mướn kiếm ăn. Được tin bố mẹ ở gặp tai họa có thể bị tù, Bính không còn cách nào khác, đã phải nhận lời lấy một viên mật thám để có tiền gửi về cứu bố mẹ. Đang sống yên ổn nhàn hạ bên người chồng mới này thì một biến cố xoay chuyển cuộc đời Bính: Năm Sài Gòn bị bắt bởi chính tay người chồng Bính. Không chút do dự, cô đã lẻn xuống trại giam, mở khoá cứu Năm rồi cùng y đi trốn. Từ đó, Bính lại trở lại cuộc sống ngoài vòng pháp luật với Năm Sài Gòn, nhưng trong lòng vẫn day dứt khát khao cuộc đời lương thiện. Nhất là sau lần Năm giết Ba Bay, tên “đàn em” đã hớt tay trên của Năm một món “hàng”, Bính càng bị hối hận và sợ hãi giày vò. Cuối cùng, cái kết cục bi thảm đã đến: một lần, Năm cướp được một đứa bé đeo vòng vàng trên tàu thuỷ. Bính hốt hoảng nhận ra đó chính là đứa con mà bao lâu Bính nhớ thương, khắc khoải mong tìm lại. Nhưng nó đã chết! Giữa lúc đó, đội xếp, mật thám ập vào, Năm và Bính đều bị bắt. Chính người mật thám chồng Bính trước đây đã bước tới xích tay cô… Mời các bạn đón đọc Bỉ Vỏ của tác giả Nguyên Hồng.