Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Người Lữ Hành Kỳ Dị - Harold Robbins

Đọc lại "Người lữ hành kỳ dị" của Harold Robbins, thấy mình cũng kỳ dị chẳng kém. Cuốn truyện dày gần 900 trang, đã được đọc đi, đọc lại trong nhiều năm nay. Mỗi lần đọc lại phát hiện ra những thông điệp mới của cuốn truyện.  Kỳ lạ, cuốn truyện đầy ngập những xác chết, rất nhiều người chết, trai có, gái có, già có, trẻ có, đột tử có, phải nằm liệt trước khi chết có, chết bệnh có, mà tự tử cũng có nữa. Thế mà tuyệt nhiên không ở trang nào có chỗ cho sự bi quan. Bao trùm cả cuốn truyện là sự phấn đấu liên tục, bền bỉ, kiên trì, dũng cảm, khôn ngoan và đầy mưu lược để chiến thắng số phận, giành và giữ lấy những thứ của mình. Càng kỳ lạ hơn, là chỉ đến hôm nay, mình lần đầu tiên chú ý tới triết lý sống rõ ràng ấy. Mình đã từng yêu "Người lữ hành" vì nó là cuốn truyện đậm đặc màu sắc tâm lý, miêu tả tinh tế về mâu thuẫn nội tâm, để rồi lý giải đầy thuyết phục, đầy tính người về bản năng, về đạo đức, về ranh giới thiện ác.  Rồi về cái đẹp nữa chứ. Ca ngợi cái đẹp nhiều đến thế là cùng.  Cuốn truyện sẽ khiến bạn phải đứng trước gương, phải nhìn ngắm bản thân kỹ hơn và cảm ơn tạo hóa nhiều hơn vì đã sinh ra bạn như bạn đang có.  Đọc những dòng này, các bạn chớ có đi tìm mua "Người lữ hành", vì cuốn truyện sẽ nhanh chóng làm bạn thất vọng, bởi rất nhiều lý do: nó quá dày, văn phong của nó khá dài dòng, cốt truyện và nhân vật phức tạp, cách kể truyện không liền mạch, lối viết bất chấp thời gian, thậm chí luôn bỏ rơi nhân vật.  Đừng vội đọc cuốn truyện, cho đến khi bạn có một bản lĩnh đủ kiên cường, một tâm lí đủ bình tĩnh và một trái tim đủ nhân hậu. ANN *** Harold Robbins là một tác giả người Mỹ của tiểu thuyết nổi tiếng. Một trong những nhà văn bán chạy nhất mọi thời đại, ông đã viết hơn 25 cuốn sách bán chạy nhất, bán được hơn 750 triệu bản bằng 32 ngôn ngữ.  *** “Người lữ hành kỳ dị” bản dịch tiếng Việt của Mạnh Hà, Thanh Sơn, theo tôi là một bản dịch dở, người dịch có lẽ chưa từng sống ở Mỹ và cũng ít hiểu biết về văn hóa Mỹ. Ngay cả cái tựa, chỉ nên dịch là “những kẻ lữ hành”, tôi không hiểu sao lại thêm chữ “kỳ dị” vào đây, nghe rất là lá cải. Bản dịch tiếng Việt có lẽ đã làm mất gần hết tính văn học (vốn rất ít ỏi) của tiểu thuyết này, nhưng khổ nỗi, vì câu chuyện mà Harold Robbins kể, nó cực kỳ hấp dẫn, đến nỗi người đọc bị câu chuyện cuốn đi từ những trang đầu tiên cho đến trang cuối cùng mà không thèm quan tâm đến những cái tên chuyển ngữ rất kệch cỡm, kiểu như: Giônơx, hoặc những đoạn tả cảnh được dịch sượng sạo, hay những đối thoại đậm chất Mỹ bị biến dạng khi chuyển ngữ. Harold Robbins không kể một câu chuyện, không có một cốt truyện xuyên suốt như bản dịch “Người lữ hành kỳ dị” muốn ám chỉ. Harold Robbins viết lại một phần lịch sử nước Mỹ, từ sau thế chiến thứ nhất đến hết thế chiến thứ hai, xảy ra trong một vùng đất rộng lớn kéo dài từ NY đến phía tây. Harold Robbins không kể một cuộc đời, ông viết về nhiều cuộc đời, mà từ góc nhìn của họ, lịch sử và những biến động lịch sử được nhìn thấy và tương tác một cách khác nhau: một nhà tư bản thành công, một cô đào nổi danh, một tiểu thư khuê các, một đạo diễn tài năng, một gã da đỏ nổi tiếng, một cô điếm sang trọng, một kẻ cơ hội chuyên nghiệp…. tất cả đều là nhân vật chính, họ đều là “những kẻ lữ hành”, nếu dịch theo tựa của tôi. Lịch sử của Harold Robbins là lịch sử của ngành dầu mỏ, vũ khí, hàng không, điện ảnh…, là người Do Thái và cuộc thế chiến thứ hai, là cuộc khủng hoảng tài chính kinh hoàng… và các nhân vật nổi tiếng trong giai đoạn đó lần lượt xuất hiện đầy ấn tượng trong “những kẻ lữ hành”, vẫn nhắc lại là nếu dịch theo tựa của tôi. Tôi không thích cái tựa, tôi chưa hài lòng bản dịch, tính văn học của tiểu thuyết không cao, lịch sử Mỹ không hấp dẫn tôi, những cuộc đời cũng không làm tôi ngưỡng mộ… vậy tiểu thuyết này có gì khiến tôi lấy cái tựa (rất dở) của nó làm tiêu đề cho blog mình. Tất nhiên là tôi có lý do, một lý do rất cá nhân. Trong suốt câu chuyện lịch sử, xuyên qua và kết nối những cuộc đời, chủ đạo và kết cục cho những biến cố, làm gút thắt mở cho những sự kiện… là một không khí giản đơn và đậm chất miền tây, miền tây nước Mỹ cũng giống miền tây nước Việt: một không khí phóng khoáng, hào sảng, đậm đà tình nghĩa… tôi đã hít thở trong bầu không khí đó, nó cho tôi ô xy, nuôi tôi lớn lên và sống với nó… Tôi muốn mình sẽ luôn như vậy, blog mình sẽ là một chốn như vậy, một lần nữa xin cảm ơn bạn Land đã tặng tôi bản sách cũ, có lẽ là bản in đầu tiên, vô cùng giá trị.  Mời các bạn đón đọc Người Lữ Hành Kỳ Dị của tác giả Harold Robbins.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Chữ Trinh Và Đời Người Phụ Nữ - Hạ Thu
- Đám cưới. A, đám cưới! - A! Cô dâu đẹp quá! Tiếng trẻ nít reo vang ngoài ngõ. Dạ Thảo? Buông cái chén đang rửa xuống, lau nhanh tay vào một chiếc khăn treo trên vách, rồi vọt theo đám trẻ ra ngõ xem đám cưới. Bà Tư nhìn theo con lắc đầu cười vui: - Cái con, hai mươi mấy tuổi rồi mà cứ như con nít hổng bằng. Hễ nghe có đám cưới là lật đật chạy đi coi cô dâu, làm như lạ lùng lắm vậy? Người ta như nó, ít ra cũng con bồng con ẵm trên tay rồi. Nói xong mấy câu đó, bà bỗng dưng thở dài buồn bã: “Tội nghiệp cho con bé, nhà nghèo nên nó mới phải háo hức chạy đi xem cô dâu như vậy. Chứ phải nhà bà dư dã như người ta thì giờ đây nó cũng lên kiệu hoa làm cô dâu mới như ai “ Bà hất chiếc khăn tay lên vai, khẽ ngồi xuống chiếc gường tre với lấy ô trầu nghĩ tiếp: So về nhan sắc con bà có thua kém gì ai. Chỉ tội quần áo mà bần hàn làm át hẳn đi vẻ đẹp tự nhiên trời phú. Gía mà nó có áo lụa quần là như bạn bè trang lứa thì nó đâu phải thui thủi một mình.” Nói thì nói vậy chứ bà cũng tự hào về con lắm. Cả cái xóm này không có đứa nào được thằng bồ như nó, vừa đẹp trai, vừa khá giả, đàng hoàng, lại có học thức hơn người, nghe đâu nó học cái gì về dược thì phải. Mai sau ra trường làm ông dược sĩ chớ chơi đâu. Rồi bà lại mỉm cười so sánh. Đời đôi lúc cũng lạ lùng, làm sao mà một ông sinh viên đẹp trai học rộng như vậy lại có thể yêu một cô gái nhà nghèo chưa học hết lớp ba. - Bà Tư ơi! Chị Thảo chỉ bị xỉu rồi nè. Có tiếng con nít kêu lên nheo nhéo, bà Tư giật mình ngẩng dậy, chợt hồn phách rụng rời khi thấy con gái của mình mặt mày tái mét nằm lả người trong tay bọn trẻ. - Trời ơi! Thảo con, con làm sao vậy nè? Quýnh quáng bà đỡ con nằm xuống chiếc chõng tre ọp ẹp, giật tóc mai gọi con rối rít: - Thảo, Thảo ơi tỉnh dậy đi con Thằng Tèo đứng trước sân đang giải thích oang oang cho mọi người trong xóm: - Tự nhiên, vừa thấy mặt chú rể là chỉ xỉu liền hà. Ai mà biết sao … Mời các bạn đón đọc Chữ Trinh Và Đời Người Phụ Nữ của tác giả Hạ Thu.
Cái Cười của Thánh nhân - Nguyễn Duy Cần
Cái Cười Của Thánh Nhân không chỉ là một quyển biên khảo về văn chương u mặc phương Đông, mà còn hàm chứa trong nó những giá trị nhân văn. Những câu chuyện cổ, những bài văn u mặc trong quyển sách cho ta thấy cuộc đời dưới một lăng kính khác hài hước hơn, thú vị hơn và sâu sắc hơn. Một cuốn sách không chỉ để mua vui mà còn khiến người đọc phải suy ngẫm. "Cái cười của Thánh nhân" là tiếng cười của người thoát vòng tục lụy, tiếng cười vang của con người tự do, tiếng cười vang vọng ngàn năm khắp mấy cõi trời... Đó là tiếng cười của Lão Tử, của Trang Tử và của bao hiền nhân khác biết tung tăng đùa chơi với cuộc đời. Nguyễn Duy Cần đã mượn chuyện ngàn xưa để cười chuyện thời nay đó! Chúng ta đang ở trong một thế giới vật chất đầy đủ nhờ tiến bộ khoa học kỹ thuật, nhưng tinh thần của chúng ta mệt lắm, khổ lắm bởi tầm nhìn, tầm nhận thức của chúng ta. Chúng ta đang sống vì những việc mà mình cho là quan trọng lắm, giá trị lắm, cần thiết lắm và những cuộc tranh giành, chiến tranh, đau khổ cũng vì đó mà diễn ra... Dường như cuộc sống đang thiếu vắng dần sự bình yên, thiếu vắng dần hạnh phúc! Đọc Cái cười của Thánh Nhân để chúng ta biết cười mình, biết xót xa thân phận của mình và biết tự giải thoát để có tiếng cười đầy hoan lạc trong cuộc đời. - Bác sĩ Trương Thìn, 27/02/2012 *** Một nhà văn tây phương có viết: “Tình yêu là một vị thần bất tử, U mặc là một lợi khí, Cười là một sự bổ ích. Không có ba cái đó, không đủ nói đến văn hóa toàn diện” Cười đùa quả là một sự bổ ích, u mặc quả là một lợi khí căng thẳng, ngột ngạt, cái khô khan của những chủ thuyết một chiều, cái máy móc của tâm hồn do văn minh cơ khí điều khiển uốn nắn… đang biến loài người thành những bộ máy vô hồn, không dám nói những gì mình nghĩ, không dám làm những gì mình muốn… mà chỉ thở bằng cái mũi của kẻ khác, nhìn bằng cặp mắt của kẻ khác, nghe bằng lỗ tai của kẻ khác… theo nghệ thuật tuyên truyền siêu đẳng của văn minh cơ khí ngày nay! Một con người hoàn toàn là sản phẩm của xã hội, chưa biết sống và dám sống theo ý mình… đó là mục tiêu chính mà u mặc nhắm vào. Chính u mặc đã khiến cho bà Roland, khi lên đoạn đầu đài đã “cười to” với câu nói bất hủ này: “Ôi Tự Do, người ta đã nhân danh mi mà làm không biết bao nhiêu tội ác!” Lâm Ngữ Đường, mà trí thức Trung Hoa tặng cho danh hiệu “u mặc đại sư” có nói: “U mặc là một phần rất quan trọng của nhân sinh, cho nên khi mà nền văn hóa của một quốc gia đã đến một trình độ khá cao rồi ắt phải có một nền văn hóa u mặc xuất hiện”. U mặc xuất hiện là để đặt lại mọi nghi vấn về các giá trị thông thường của xã hội mà đời nào cũng tự do là “văn minh nhất” lịch sử! Nhà văn Georges Duhamel khuyên người Tây Phương, trong hoàn cảnh hiện thời, cần phải đặt lại tất cả mọi giá trị của văn minh, vì chưa có xã hội nào trong văn minh lịch sử mà người trong thiên hạ điêu linh thống khổ bằng! Ở xã hội Trung Hoa ngày xưa, thời Xuân Thu Chiến Quốc, một thời đại điêu linh nhất đã phải sinh ra một ông Lão, một ông Trang, để đặt lại tất cả mọi giá trị của xã hội đương thời. Nhà văn họ Lâm cho rằng: “Tinh thần ở u mặc Trung Hoa ngày xưa cũng đã thấy bàng bạc ngay trong kho tàng ca dao Trung Quốc. Trong Kinh Thi, Thiên Đường Phong, một tác giả vô danh, vì thấy rõ cái “trống không” của cuộc đời hết sức vô thường của con người, đã trào lộng hát lên: Ngài có xe ngựa, sao không cưỡi, không tế… Đợi lúc chết rồi, kẻ khác hưởng đi mất thôi! Đó là một phần nào đã bộc lộ cái trạng thái u mặc. ... Mời các bạn đón đọc Cái Cười của Thánh nhân của tác giả Nguyễn Duy Cần.
Bức Thư Của Người Đàn Bà Không Quen - Stefan Zweig
Nhớ lần đầu đọc Bức thư của người đàn bà không quen do bạn giới thiệu, đọc không thể dứt và đọc xong buốt lạnh cả sống lưng! Thật không thể hình dung được một chuyện như vậy lại có thể xảy ra và người ta (cô gái, ông nhà văn, thượng đế hay thánh Allah, Phật tổ) có thể để nó xảy ra như vậy. Tôi cố gắng hình dung và gọi tên mối tình của người con gái ấy nhưng không sao làm được, nó khác tất cả mọi mối tình từng được mô tả trong sách báo, thơ văn và cả ngoài đời. Không phải chỉ là lãng mạn vì cô gái hiểu rõ người đàn ông kia, rõ từ cái hay, cái dở, cho đến từng giây từng phút trong thói quen sinh hoạt của ông ta. Phải, khi cô còn bé, sống trong sự thiếu thốn tình cảm, có thể tình cảm đó xuất phát từ sự lãng mạn + ngưỡng mộ + nhu cầu giao cảm. Nhưng rồi cô lớn lên, cô trải nghiệm cuộc sống, cô hiểu bản thân và hiểu người tình của mình rất rõ, tình yêu của cô vẫn như vậy, thậm chí còn nồng nàn hơn bởi nó đã mang dáng dấp tình yêu của một người phụ nữ với tư cách là một người phụ nữ hoàn chỉnh. Từ chỗ không thể gọi tên mối tình câm lặng ấy, tôi đâm ra nghi ngờ không biết liệu có thể có thật hay không - một tình cảm trong bối cảnh như vậy. Tôi đọc lại bức thư, đọc lại nhiều lần nữa và nhận thấy, nó có thể, có thể có thật vì tất cả diễn ra đều rất logic và có thể hiểu được. Tuy nhiên, tôi vẫn không thể nào gọi tên hay mô tả tình yêu của cô gái một cách ngắn gọn được. Đã có lúc tôi tự hỏi tay nhà văn kia có phải người xấu không, có xứng đáng được nhận một tình cảm như vậy hay không? Có lẽ nếu tay nhà văn đó không xứng đáng thì tôi cũng nhẹ đi một chút, có chỗ để mà xỉ vả cho bõ tức - thói xấu muốn trút tình cảm vào một cái gì đó mà. Nhưng đọc đi đọc lại, tay nhà văn đó cũng chả có gì xấu hết. Bác ấy sống phóng túng trong tình cảm, sống trong sự đầy đủ về vật chất, viết văn, và chả hề có ý định che dấu các điểm hay, điểm dở trong phong cách của mình. Lúc nào cũng thế, tình cảm và phớt lạnh, nồng nàn và hời hợt - không che giấu chút nào. Và cô gái yêu đúng con người đó, không phải một hình tượng mà nhà văn cố tình tạo ra để thu hút, cũng không phải cô gái chủ động vẽ lên để mê hoặc bản thân. Đoạn kết, nhà văn nhìn bình hoa và không thể nào hình dung ra rõ rệt bất cứ điều gì về người con gái ấy. Một mình trong căn phòng vắng lặng với bình hoa mà trong những năm trước, có một hình bóng âm thầm cắm những bông hoa trắng cho ngày sinh nhật của ông. Không hiểu nhà văn cảm nhận sự mất mát đó như thế nào khi mà ông chưa bao giờ biết rằng mình có để mà biết mình có thể mất... Cuốn sách này gồm 2 truyện vừa, bên cạnh Bức thư của người đàn bà không quen là 24 giờ trong đời một người đàn bà, đều đã được dựng thành phim. Bên cạnh nguyên tác văn học, cuốn sách còn cung cấp thông tin và hình ảnh đẹp về các bộ phim làm theo hai câu chuyện đầy bi kịch về tình yêu đơn phương không được đền đáp của những người phụ nữ. 24 giờ trong đời một người đàn bà là hồi ức của một người phụ nữ lớn tuổi kể về mối quan hệ tình cờ và kỳ dị với một chàng trai mê cờ bạc. Giằng co giữa niềm tin đạo đức và sự tha hóa của con người, những nhân vật trong truyện dường như tuyệt vọng trong việc chiến thắng định mệnh, để rồi số phận đẩy đưa đến những lối rẽ không dừng được. Một trích đoạn nhỏ trong 24 giờ trong đời một người đàn bà, thay cho lời kết của bài viết này: “… Và bây giờ ông đã hiểu tại sao tôi bỗng quyết định kể về số phận của tôi cho ông nghe khi ông bênh vực bà Hawngrriet say sưa giữ ý kiến rằng hai mươi bốn giờ có thể làm thay đổi hoàn toàn cuộc đời người đàn bà, tôi cảm thấy như những lời đó nhằm vào tôi: Tôi biết ơn ông vì đây là lần đầu tiên, có thể nói là tôi được minh oan và thế là tôi nghĩ rằng, có lẽ giải thoát tâm hồn mình bằng cách thú tội, cái gánh nặng và nỗi ám ảnh vĩnh cửu của quá khứ sẽ mất đi và mai đây, tôi có thể sẽ trở lại nơi đó, đi vào gian phòng mà tôi đã gặp số phận của tôi, không còn oán hận cả anh lẫn tôi. Thế là khối đã đè nặng tâm hồn tôi sẽ được nhấc lên, tất cả sức nặng của nó sẽ đè xuống quá khứ, đè chặt lấy quá khứ không cho nó thức dậy nữa, như trong hầm mộ”… *** Stéfan Zweig (28 tháng 11, 1881 - 22 tháng 2, 1942) là một nhà văn, nhà báo, nhà viết kịch và nhà viết tiểu sử người Áo nổi tiếng trên thế giới. Ông sinh ra trong một gia đình khá giả gốc Do Thái ở thành phố Viên, Áo. Không tìm thấy động lực rõ ràng, ông bỏ học sớm. Việc học của ông chỉ bắt đầu khi ông đi qua nhiều nước ở châu Âu và kết giao với nhiều nhân vật quan trọng vào thời đại của ông. Ông có nhiều chuyến đi đến Ấn Độ, châu Phi, Bắc và Trung Mỹ, cũng như Nga. Trong Thế chiến thứ nhất, vì lý do sức khỏe yếu, ông không phải ra mặt trận mà được làm thủ thư, phụ trách quản lý tư liệu chiến tranh. Nhưng chỉ đến khi sống một thời gian ngắn gần trận tuyến, ông mới nhận ra sự điên rồ của chiến tranh, và từ đó trở thành người cổ vũ mạnh mẽ cho hoà bình. Là một nhà văn có sức làm việc mạnh, ông đã viết nhiều tập tiểu sử (như quyển Ba bậc thầy bàn về Honoré de Balzac, Charles Dickens và Fyodor Dostoyevsky, xuất bản năm 1920), thêm truyện dài và truyện ngắn. Ông được ca ngợi là có óc phân tích tâm lý độc đáo, và có tài chắt lọc bỏ ra những tiểu tiết khiến cho những tập tiểu sử của ông đọc hấp dẫn như tiểu thuyết. Đến thập niên 1930 ông là một tác giả có tác phẩm được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất. Tháng 2 năm 1942 , trong thời gian lễ hội ở Rio de Janeiro ( Brasil), vì tâm trạng cô đơn và mệt mỏi, Stéfan Zweig và vợ Lotte cùng nhau tự tử. Năm 1948  truyện Bức Thư Của Người Đàn Bà Không Quen Biết đã được dựng thành phim có tựa “Letter from an unknown woman", với Joan Fontaine thủ vai cô gái nhân vật chính, Howard Koch viết kịch bản và John Houseman là nhà sản xuất. *** Lời Dịch Giả: Với tôi, cái tên Stéfan Zweig, ngoài biểu tượng văn chương tuyệt đỉnh của loài người, còn gợi cho tôi nhiều kỉ niệm về quá khứ, về tuổi trẻ, về chiến tranh... Tôi “biết” Stéfan Zweig từ khá sớm: Thuở mười tám đôi mươi, tức là hơn sáu mươi năm trước. “Biết” đây tất nhiên không hiểu theo nghĩa cụ thể - quen biết - bởi chúng tôi cách nhau bao xa cả về thời gian lẫn không gian, mà là có cơ hội tiếp xúc với tác phẩm của ông. Năm 1951, trong chiến dịch Hà Nam Ninh, tôi “gặp” Stéfan Zweig: Tôi tìm thấy trên bàn giấy của viên đồn trưởng một cuốn sách nhan đề Amok, ou le fou de Malaisie (Amok hay gã điên ở Malaysia). Đó là một tập gồm 3 truyện vừa: Amok, Bức thư của người đàn bà không quen và Ngõ hẻm dưới ánh trăng. Tôi bắt đầu “mê” Zweig từ dạo ấy.  Tôi chọn “Bức Thư Của Người Đàn Bà Không Quen" của S. Zweig. Tôi dịch ngay tại chỗ, tại phòng đọc của thư viện. Tôi viết thẳng vào một cuốn sổ tay, ngòi bút cứ như tự động lia đi. Liền một mạch 3 ngày. Những trang cuối, tôi vừa dịch vừa khóc. Dịch xong, đọc lại, hầu như không sửa một đoạn nào. Lúc ấy, tôi không nghĩ đến việc đưa xuất bản, mà chỉ làm như để giải toả một kìm nén. Sau này, khi nhà xuất bản đề nghị in, tôi cứ đưa nguyên cuốn sổ tay cho đánh máy lại. Cho tới nay, bản dịch đã được tái bản có lẽ không dưới 10 lần, theo nhiều dạng khác nhau: In riêng, gộp cùng một, hai truyện khác. in với hình ảnh minh hoạ trích từ phim dựng theo truyện, tuyển tập...Cho tới nay, trong số gần 60 tác phẩm dịch “Bức Thư Của Người Đàn Bà Không Quen" vẫn là một trong những bản dịch tôi hài lòng nhất.   Mời các bạn đón đọc Bức Thư Của Người Đàn Bà Không Quen của tác giả Stefan Zweig.
Bão đồng - Cao Năm
Nhà văn Cao Năm đã sáng tác hàng chục truyện ngắn, phần nhiều về nông thôn; cùng thời gian này, anh lặng lẽ đặt bút viết tiểu thuyết. Đeo đuổi suốt 25 năm qua, cuối cùng một cuốn tiểu thuyết dầy dặn của Cao Năm cũng đã ra mắt bạn đọc với nhan đề tập truyện "Bão Đồng". Đọc truyện bạn đọc sẽ được dẫn dắt đến những miền cảm xúc mới mẻ, lạ kỳ những thân thương.  Ý tưởng nghệ thuật nảy ra từ một cơn gió lốc dữ dội không kém một trận bão mạnh tràn qua một vùng thôn quê rộng lớn, gây nhiêu thiệt hại. Nhưng chính cơn lốc kinh hoàng ấy đã lật tẩy tất cả những gì từng được coi là tốt đẹp mà bấy lâu được sơn phết bằng những từ ngữ mĩ miều, trong những bản báo cáo dài thượt luôn luôn khẳng định thành tích năm sau bao giờ cũng cao hơn năm trước. Ẩn sau những gì màu mè hoa mĩ ấy là không ít chuyện xấu xa, trụy lạc, tha hoá, biến chất, và đi liền với nó là những thói hư, tật xấu, lợi dụng chức quyền, cấp đất sai nguyên tắc nhằm chiếm dụng đất công... Viết tiểu thuyết "Bão đồng", nhà văn Cao Năm không chỉ phê phán kịch liệt những mặt xấu xa, thói hư tật xấu ở một bộ phận cán bộ, đảng viên - những người đang giữ chức vụ chủ chốt ở xã, ở huyện - mà quan trọng hơn, còn giúp bạn đọc thấy được nhiều người dân, nhiều cán bộ, đảng viên tốt ở nông thôn, như bố con cụ Mải, anh Cải, cô Dậm, anh Túc,... một lòng một dạ gắn bó với tập thể, với cộng đồng làng xã, đêm ngày lo làm sao cho mọi người có bát ăn bát để, quên đi quyền lợi, và cả danh dự cá nhân, để bảo tồn sự trong sạch, uy tín của tổ chức Đảng ở địa phương. Đúng là trong gian nan mới thấy người ngay kẻ gian, người hiền kẻ hèn, còn bình thường cũng khó mà biết người tốt, kẻ xấu.  Truyện khắc hoạ được những nhân vật góc cạnh và đầy tính biến hoá, hiểu theo cả nghĩa tích cực và tiêu cực, với một chuỗi tình huống bất ngờ, đan xen, mà nhiều chỗ đã nâng lên thành kịch tính. Tỉ như chuyện tấm ảnh của liệt sĩ Bao - hi sinh ở chiến trường năm 1968 - được ông Thàng ở Bắc Cạn cất giữ. Sau cơn bão, Bính - con trai ông Bao - cùng Điền và Liểu được xã cử đi mua sắn về cứu đói cho dân, lại tình cờ nhìn thấy ảnh bố mình trên ban thờ nhà ông Thàng, rồi xin mang ảnh bố mình về... Hoặc tình huống Cải đến nhà vợ chồng Thuật. Thuật hiện là chủ tịch xã, được người em rể là chủ tịch huyện che đỡ, đã lấy hàng nghìn mét vuông đất công lập sinh phần gia tộc. Lợi dụng lúc giáp hạt đói kém, hắn mượn xã viên đào đất vượt sinh phần không phải trả công. Cải vốn là tình địch của Thuật. Hồi Thuật đi chiến trường, đơn vị pháo cao xạ của Cải về lập trận địa ở xã. *** Điền và Cải len vào được một chỗ thuận lợi thì đứng như chôn chân ở đó, nhìn dán mắt vào mấy người đàn ông cởi trần, chỉ mặc mỗi chiếc quần đùi màu nâu thẫm, ngang lưng thắt mảnh vải hồng điều. Hai anh em len vào được một chỗ mãi phía vòng trong, thế mà không biết có phải do cái áo sơ mi trắng cộc tay rất nổi của Điền mách lối, mà Dậm và một cô bạn, cũng người ngoài Phương Lưu, chẳng biết bằng cách nào cũng chen vào được gần, đứng đằng sau. Rồi cũng chẳng biết bằng cách nào, hay có con mắt để sau gáy, Điền bỗng nhiên thấy nhồn nhột phía sau, liền quay lại, nhận ngay ra Dậm. Em cũng vào mãi trong này xem à? Đi với ai thế? Điền nhìn Dậm nhỏ nhẹ hỏi. Dậm đánh mắt nhìn Điền, giọng mềm đi, định bảo vào mãi trong này xem mới gặp được anh chứ, hỏi thế mà cũng hỏi. Lại thao thiết nói, không vào mãi trong này xem thì còn xem ở đâu. Rồi hai tay như đẩy vai cô bạn về phía Điền, hỏi, anh không nhận ra chị Lư à. Điền nhìn lại một thoáng, nói thác, tối trời, nhìn mãi không nhận ra ai. Cải nghe tiếng người nói lào thào phía sau lưng, quay lại, nhưng tối trời, không nhận ra cô Đội trưởng Phương Lưu. Vả lại, Cải nghe tiếng người nói lào thào phía sau lưng thì quay lại theo cảm tính, chứ thực, còn mải để tâm theo dõi hai người đàn ông đang tay năm tay mười nhào lặn đất, vo tròn thành bánh pháo to bằng cái mâm. Khi hai người đàn ông nhào lặn xong đống đất, vo tròn thành bánh pháo bằng cái mâm, thì thình lình Cải nghe ba tiếng trống "thùng, thùng, thùng" như ba tiếng súng thần công khai hoả cất lên vang trời dậy đất. Bỗng tất cả mọi người trên sân như nín thở, hàng trăm cặp mắt đổ dồn về chỗ hai người đàn ông ngang lưng thắt dải hồng điều, đang lấy hết sức gượng nhẹ hai tay bốc bánh pháo đất lên khỏi mặt sân, nâng lên ngang người, đẩy lên ngang đầu, rồi dồn hết sức lực giơ thẳng hai tay bê bánh pháo cho cao lên, cao nữa, cao mãi. Cao nữa, cao mãi đến hết cỡ tay, hai người đàn ông bất ngờ tung mạnh bánh pháo lên không trung. Trong tích tắc, một tiếng nổ dễ ngang tiếng sấm đánh bùng một phát, làm hàng trăm người trên sân như cũng bùng cả lên. Sau tiếng nổ là một vành pháo đất văng ra như con trăn nằm cuộn trên sân, rồi tiếng người hò reo, tiếng trống thúc bật lên vang dậy, tưởng vỡ vụn cái sân gạch rộng đến mấy sào. Giữa tiếng reo hò của người xem, hai người trong ban tổ chức cầm thước dây chạy đến chỗ bánh pháo vừa văng xuống, chăm chú, cẩn trọng đo từng vết nứt, chỗ gấp, khoảng văng xa của pháo. Cũng giống như nhảy cao, chạy xa trong điền kinh, luật chơi pháo đất lấy độ văng xa của vành bánh pháo làm kết quả cuối cùng để đánh giá tài nghệ của người chủ pháo. Hết đợt pháo của hai người đàn ông thắt dải hồng điều, đến lượt hai người đàn ông cũng chỉ mặc chiếc quần đùi nâu, nhưng ngang lưng thắt dải vải xanh màu lá mạ, như để phân biệt với hai người thắt vải hồng điều ban nãy. ... Mời các bạn đón đọc Bão đồng của tác giả Cao Năm.