Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đó Đây

Lãng Tử Hồi Đầu   Trúc Chi, tác giả "đó đây" (tùy bút, nhà xuất bản Văn Học, Hoa Kỳ, 1999), tên thật là Tôn Thất Kỳ. Sinh năm 1934. Học ở Huế và Đà Lạt. Vào ngành thông tin báo chí từ năm 1960. Biên tập viên ban Việt ngữ đài BBC. Tiếp tục làm cho đài này sau khi rời Luân Đôn vào năm 1967. Làm cho thông tấn xã Reuters, tại Singapore. Cho tới năm 1975, thông tín viên cho Reuters tại Việt Nam và một số các quốc gia Đông Nam Á.  Người viết giới thiệu dài dòng về tiểu sử của ông, là vì một câu hỏi mà bất cứ ai đã từng làm quen với những tuỳ bút của Trúc Chi, đều phải tự hỏi: cả cuộc đời trẻ trung của ông, là liên quan tới báo chí, với lối viết tin "ngắn gọn, trình bầy sự kiện...", tại sao về già, ông chọn lối viết gần như trái ngược hẳn với "thói quen" của ông? Tại sao lối viết "cà kê, dê ngỗng" đó? Liệu nó có thực "cà kê, dê ngỗng"â không? Liệu có thể sử dụng một lối văn khác, để viết về những chuyện "đó đây" đó?  Sau đây là một số đề nghị, nhằm lý giải câu hỏi nêu trên.  "Không ai bắt mình viết cả, nhưng mà tôi lại phải ngồi vào bàn..." (Một Nét Thu). Và ông giải thích cái lý do phải ngồi vào bàn: Tự nhiên mà không để ý đến ngày tháng, không nhìn tờ lịch, tôi đã biết thu đã lẩn quẩn đâu đây rồi.  W. Faulkner cho rằng, con người là tổng số những kinh nghiệm về thời tiết. Nhưng ở một chỗ khác, ông thêm vô: con người là tổng số những kinh nghiệm về khổ đau.  Thành thử cái lý do ngồi vào bàn của tác giả, có cả hai.  Chao ôi binh lửa ôi binh lửa/Ai giẹp giùm ta trận giặc này... Còn lòng tôi, nghĩ đến thân nhân, bạn bè quê hương xứ sở, lúc này là cả một trận phong ba... (Cành Phượng Tím).  Ai giẹp giùm ta? Trận giặc nào?  George Steiner, qua một cuộc phỏng vấn, được hỏi, ông còn mê viết tiểu thuyết hay không, đã trả lời: Tôi cứ loay hoay với một đề tài nó làm tôi đứt ruột đứt gan. Tôi cứ bắt đầu hoài một câu chuyện nho nhỏ như vầy: Chúng ta đang ở tại một hòn đảo xứ Hy Lạp, thời kỳ mấy ông tướng đang làm mưa làm gió, hay ở Thổ Nhĩ Kỳ, hoặc Nam Mỹ... Bất cứ nơi nào trên trái đất, nhưng phải là một nhà nước cảnh sát. Một người đàn ông trở về nhà với vợ, với con, và... đúng vào lúc họ ngồi vào bàn ăn, hoặc đi vô giường ngủ, là bà vợ "ngửi" ra cái mùi hôi hám đồ tể ở nơi anh chồng (anh ta đã tra tấn người suốt buổi). Anh chồng chưa hề nói với vợ, nhiệm vụ của anh ở trong ngành, vậy mà bà vợ biết.  Đề tài này, theo Steiner, cội nguồn của nó, là từ Lysistrata, của Aristophanes, về những người vợ không chịu ngủ với chồng, chỉ khi nào anh ngưng chém giết, thì mới cho anh "động phòng"! Ở đây, với Steiner, còn là vấn đề: một căn bịnh khủng khiếp đã tác động vào chính cái hành vi ân ái, sau cùng những người vợ bắt đầu "làm thịt" mấy ông chồng...  (Đề tài này, như tôi biết, được Phạm Thị Hoài sử dụng ngược lại, trong một dụ ngôn, viết về những chàng trai tơ trước khi ra chiến trường, được hưởng mùi đời lần đầu tiên, và có thể là lần cuối cùng. Và họ cứ thế lao vào cái chết. Liệu có một trùng hợp thú vị ở đây, theo đó, Phạm Thị Hoài đã được gợi hứng từ Lysistrata?)  Vẫn Steiner, đã chỉ ra sự khác biệt của văn chương Tây Phương, giữa hai Cuộc Chiến Lớn. Cuộc chiến 1914-1918 đưa tới những tác phẩm cổ điển như "Thôi Đừng Diễn Hành" (No More Parades), của Ford Madox Ford, "Lửa" (Feu), của Barbusse, "Phòng Lớn" (Enormous Room) của Cummings, "Giã Từ Vũ Khí" (Farewell to Arms) của Hemingway, âm hưởng chiến trường và thái độ của người dân ở chương cuối của Proust. Những tác phẩm lớn về thảm họa thứ nhì là phóng sự và chứng nhân tức thời: "Bay Đêm" (Vol de Nuit) của Saint-Exupéry, "Hiroshima" của Hersey, "Nhật Ký" của Anne Frank, "Ghi Chú từ Ghetto Warsaw" của Emmanuel Ringleblum. Không một nhà thơ, không một tiểu thuyết gia nào, cho tới nay, có thể đem đến cho thực tại trại tập trung, sự sáng suốt nghiêm ngặt, làm chủ kinh nghiệm, như là chúng ta nhận thấy ở trong nghiên cứu xã hội "Trái Tim Biết" (The Informed Heart), của Bruno Bettelheim. Giả tưởng ngậm câm trước tính lớn lao của sự kiện; trước uy quyền lồng lộng như thế, chỉ có phóng sự không hoa hòe hoa sói mới có thể làm bật ra được.  Đọc Trúc Chi, tuy ông nói chuyện cà kê dê ngỗng, nhưng lúc nào tôi cũng ngửi thấy cái mùi toát ra từ những bản tin ngắn gọn ngày nào, ngày nào...  Cũng có thể giải thích, Trúc Chi rất mê Nguyễn Tuân của tuỳ bút. Và khi ông viết, ông đã viết lại những trang sách của Nguyễn Tuân, nhưng với một sự khác biệt. Trong tuỳ bút của Nguyễn Tuân, chỉ có Nguyễn Tuân. Ông bầy biện người này, cảnh nọ, thì cũng liên quan đến Nguyễn Tuân. Những Cô Tơ, Con Vượn Gầy, Bá Nhỡ... đều mang hơi hám Nguyễn Tuân. Với Trúc Chi, những nhân vật của ông là do cơ may, ông gặp được, khi làm nghề phóng viên đi đây, đi đó. Ý nghĩa của tập tùy bút, là tính không gian đó đây, và những sự kiện, và những nhân vật của nó. Không có họ, không có "đó đây". Sự khác biệt thật là lớn lao. Độc giả đọc bất cứ trang sách nào của "đó đây", cũng có thể làm quen với một nhân vật, hoặc dễ thương, hoặc ngậm ngùi, hoặc có thể đáng giận nhưng không đáng ghét... Tôi đã có lần viết về nhân vật Hương Cơ, và tiếng đàn "thuyền mấy lá, đông tây lặng ngắt" của người đẹp. Nhưng Hương Cơ không được may mắn như nàng kỹ nữ bến Tầm Dương: không phải thuyền mấy lá lặng ngắt vì tiếng đàn, mà là: tiếng đàn lặng ngắt, trước tính dã man của sự kiện, của biến cố Mậu Thân. Của cuộc nồi da nấu thịt. Bạn đọc khó có thể quên được một nhân vật như vậy. Làm sao có thể quên chi tiết về một trận pháo kích: "Hôm trước, khi đến xem vụ pháo kích trường tiểu học Cai Lậy tôi thấy anh không lăng xăng quan sát, hỏi tin tức như thường lệ mà lại đứng thừ người nhìn tử thi mấy đứa trẻ tội nghiệp có vẻ như ... đang cầu nguyện".  Phải nói là nhiều nhân vật như vậy. Nhiều chi tiết như vậy. Độc giả đã làm quen với một chị Hoài của Nguyễn Tuân, làm sao không muốn làm quen thêm một chị Đàn. Đứa bạn trai của đứa em, khi rời "thiên đường tuổi thơ ở Đà Lạt", lớn lên lăn lộn với đời, có thói quen nhắc ly rượu lên uống là phải để đúng vào cái dấu trôn để lại, nhờ vậy mà không thể nào quên hai từ "tĩnh lự", bữa ăn khoai lang nghẹn thở, thói dễ ghét của người chồng chị Đàn (cái tật duy nhất của anh mà tôi biết là anh cứ đứng chỉ nước cho cả hai bên mỗi khi xem Đạt và tôi đánh cờ tướng. Dễ ghét lạ.) Ba từ "dễ ghét lạ", như để giải thích những câu sau đó (Chưa kịp cám ơn, chị đã cốc nhẹ vào đầu tôi), hay là đoạn cuối: "... Cái người chỉ những điều sơ đẳng về phép tĩnh lự cho chị Đàn, là bồ cũ của chị... Toa kể chuyện đời một người nhiều tình cảm như chị Đàn mà lại không nhắc nhở chi đến tình yêu là vụng lắm. Dù là tình học trò vớ vẩn...".  Tôi nghĩ, phần lớn những nhân vật ở trong "đó đây", đều là tri âm của tác giả. Trong đời sống, ông đã từng gặp họ, rồi không thể quên được họ. Nào là người sĩ quan tên Duy, câu chửi đổng (Đ.M. tin tức nào mà chờ mấy thằng báo chí đi trễ), cử chỉ (nhét quyển sách chưởng vào túi), bữa cá nướng hết xẩy, tí nhạc sống, nữ ca sĩ tài tử tên Huyền, và buổi hát "trùng phùng": "Bây giờ là đỡ rồi, hồi trước cứ hát xong bài Buồn Tàn Thu là chỉ khóc ròng... Không biết thiếu tá có để ý không, chứ hồi nãy đến cái chỗ "nhưng năm tháng qua dần mùa thu chết bao lần" chỉ còn rơm rớm nước mắt đó. Em sợ chỉ khóc lớn thì hư cả buổi tối hôm nay. May quá!". Nào là cái ông bạn tên Pháp (Nguyễn Nhược Pháp), và câu trả lời (Cũng chỗ quen biết cũ), trong lần tác giả ghé thăm Hà Nội...  Vả chăng, tuỳ bút, ở thời đại Nguyễn Tuân, vẫn nằm trong dạng "tĩnh" của nó, chưa thực sự va chạm với đời sống, và đời sống cũng chưa "ròm rỏ" nhiều đến nó. Tôi muốn nói, xã hội thuộc địa hồi còn thực dân Pháp, trước năm 1945, và những nhân vật "nhà văn, nhà báo" như Nguyễn chẳng hạn; họ không thể tưởng tượng ra một nơi chốn mơ tưởng nào khác, bên ngoài những cuốn sách: nhà hát ả đào, cuộc bù khú với bạn bè kế bên một ngọn đèn. Nhân vật, ngôn ngữ, thể loại (tùy bút), đều cảm thấy thật "an toàn", trong môi trường khép kín như vậy.  Phải tới sau Cuộc Chiến Lớn, và cùng với nó là những điều "không thể nói được", mọi vấn đề của ngôn ngữ, thể loại văn học mới cảm thấy mất đi sự an toàn "đời đời" của chúng. Ngày nay, thật khó mà gọi, một thể loại viết như ở trong "đó đây", là "tùy bút", với tất cả những quan niệm cũ kỹ về nó, từ thời Nguyễn Tuân. Tôi nghĩ, nên gọi chúng là "tiểu luận" (essay).  Sẽ có người bực mình. Tiểu luận, là phải có "vấn đề", (viết về cái gì, mở đề ra sao, thân đề thế nào, kết luận có không....). Cái kiểu viết đầu cua tai nheo, "viễn mơ", hoặc nhắc tới hết ông này bà nọ, hoặc khi người đời đang bận rộn với những vấn đề nóng bỏng, nào con bọ, nào tận thế... vậy mà nhân vật xưng tôi lại đâm ngang một câu, rằng làm sao có một chút khói cho một buổi chiều đẹp như thế này, ở nơi quê người!  Trong bài viết Mở Đầu cho tập "Những bài tiểu luận hay nhất ở Mỹ trong năm 1998", Robert Atwan kể lại thời gian ông dạy đại học, và để ý sinh viên nào cũng thuộc nằm lòng, cách viết một bài essay, mà họ gọi là theme (nghị luận, chủ đề). Một Nghị Luận Hoàn Hảo (Perfect Theme), là như thế này: một đoạn mở đầu, có một câu thuộc loại "Đức Khổng Tử nói", một thứ định nghĩa, definition, (someone named Webster). Sau đó là thân bài, mở rộng câu phán, tư tưởng chính (the main idea). Rồi tới kết luận (tóm lại đoạn thân bài), và nó thường bắt đầu như vầy: Như vậy, chúng ta thấy rằng...  Kinh nghiệm trên, tôi đã từng trải qua, khi đi học, dốt tiếng Tây, học thuộc lòng mấy câu, khi làm bài Nghị luận đạo đức (Dissertation morale). Theo Atwan, những sinh viên của ông không hề để ý đến chuyện, viết là một hành động khám phá, một cơ hội để nói về một điều mà trước đây chưa từng có ai nói. Ông trích dẫn Robert Frost; nhà thơ Mỹ này cho rằng, với rất nhiều người, suy nghĩ có nghĩa là bỏ phiếu, đi bầu. Tại sao lại lao tâm khổ trí với ba chuyện viết lách về một vấn đề, trong khi chỉ cần, một cuộc thăm dò dư luận (opinion poll)?  Theo Atwan, một essay hay đưa tới một kết luận "chẳng kết luận gì hết" (a "conclusion in which nothing is concluded"). Cứ lửng lơ con cá vàng. Muốn hiểu sao thì hiểu. (Tôi nhớ có lần, khi còn đi học, cả đám bạn bè xúm quanh nhà thơ Thanh Tâm Tuyền, truy ông tới cùng về một câu thơ trong bài Phục Sinh: Buổi chiều sao vỡ vào chuông giáo đường. Sao là tại sao, hay sao là những ngôi sao, hay sao là làm sao... Thi sĩ cười: muốn hiểu sao thì hiểu!)  Với "đó đây", bạn chỉ cần chú tâm một chút, là nhận ra sợi dây dẫn nằm bên dưới những câu chuyện tưởng như tào lao, đầu ngô mình sở đó. Sợi dây dẫn, là mượn thuật ngữ phê bình Tây Phương (fil conducteur). Mấy nhà phê bình ở trong nước thường gọi là sợi chỉ đỏ xuyên suốt, ngụ ý cần phải có đảng tính, có "máu" ở trong đó. Đông Phương ta gọi là: rắn nằm trong cỏ. Cỏ ở đây, có thể là ba cái mớ bòng bong mà người ta gọi là cuộc nồi da nấu thịt, vẫn còn dây dưa tới bây giờ. Rắn là chuyện đó đây, giữa một số người có mắc míu tới nó. Hoặc rắn, chính là kỹ thuật viết của Trúc Chi.  Liệu có một cách viết khác, cho "đó đây"? Vẫn Steiner, sau khi chỉ ra sự khác biệt về thể loại văn chương giữa hai cuộc chiến lớn, ông cho rằng: "có vẻ như chúng ta đang ở trong giao thời, nếu nói về tài liệu mang chất thơ (poetic documentation), một thời mà những kỹ thuật và những qui ước của tiểu thuyết được sử dụng để bầy ra chất liệu mang tính tâm lý, xã hội và khoa học. Thể loại phóng sự và cách trình bầy sự kiện như hiện nay, là kế thừa những tự do của tiểu thuyết." Nguyễn Tuân, trong suốt cuộc chiến, khi để cho tùy bút đụng đầu với thực tế, nó đã mất đi sức tưởng tượng (của tác giả: một người mê đọc sách, thèm giang hồ...) , sự an toàn (của tầng lớp nhà báo, trung lưu, sống bên trong sự bảo hộ của nhà nước Đại Pháp...) và cuối cùng trở thành (thể loại) ký. Ký, theo tôi, là một tiền-tùy bút. Khi nhà văn xuất hiện, nó biến thành tuỳ bút, giả tưởng, hoặc gì gì đó. Tôi tin rằng, những chi tiết ở trong "đó đây", chắc chắn đã được tác giả lưu giữ trong những cuốn "sổ nhật trình" từ những ngày nào, ngày nào; bây giờ được tác giả đem ra, tẩm vào chúng cái con người tình cảm, tế nhị, hóm hỉnh, và cũng thật lãng đãng là chính mình...  Lãng Tử Hồi Đầu, là "biệt hiệu" của nhân vật xưng tôi, khi trở về Việt Nam, và được cô em gái (quê hương?) ban tặng. Nó gợi nhớ Sự Trở Về của Đứa Con Hoang Đàng, trong Kinh Thánh. Và nó cũng liên can tới "lịch sử" Việt Nam. Huy Cận, với Lửa Thiêng (1943), đã nói lên cú hồi đầu "đầu tiên":  Hồn lưu lạc không hề thờ một chúa  Yêu một người, ta dâng cả tình thương.  Trong khi đó Vũ Hoàng Chương, đã không chấp nhận "yêu một người":  Biển vô tận sá gì phương hướng nữa  Thuyền ơi thuyền, theo gió hãy lênh đênh.  Phương hướng, ý nghĩa về một lịch sử tuyến tính, hướng tới một ngày mai ca hát...: không có ta!  [Như người viết được biết, thời kỳ 1946, một số thi sĩ như Vũ Hoàng Chương, Vũ Hoàng Định (?) - em Vũ Hoàng Chương - Đinh Hùng, Trần Dần, đã thành lập một nhóm thơ tượng trưng, ra số báo đầu tiên tháng 11/1946, có tên là "Địa Ngục". Tháng Chạp 1946: toàn quốc kháng chiến. Trần Dần, thi sĩ (chủ trương thơ tự do), họa sĩ (lập thể), ở lại, và dính vào vụ Nhân Văn. Tinh thần của nhóm theo Vũ Hoàng Chương vào Nam. Nhóm Sáng Tạo, một phần thoát thai từ Miền Bắc, là theo nghĩa này. Thanh Tâm Tuyền rất "nể" Vũ Hoàng Chương, nhất là chi tiết thú vị: về già ông còn làm một tập thơ (hay một bài thơ?) lấy tên là Ngồi Quán].  Từ "Lãng Tử" còn gợi nhớ từ "Lãng Nhân" (Phùng Tất Đắc rất "tâm đắc" từ này). Lãng Nhân, là từ "Ronin", dùng để chỉ một võ sĩ Nhật Bản, đã mất chúa, trở thành "lính đánh thuê" (mercenaire, hit man). Nó còn là tên một chiêu thức võ công của Kim Dung. (Nếu gọi cách viết của ông là Lăng Ba Vi Bộ, như vậy ông thuộc môn phái Kim Dung!) Lãng Tử Hồi Đầu còn làm chúng ta liên tưởng đến mấy câu hát ru con, của một bà vợ trong tùy bút Nguyễn Tuân, nhân ngày trùng phùng với ông chồng chỉ mong "khi chết đi, người đời sẽ thuộc da mình, để làm một chiếc vali" (Paul Morand):  Ba năm lưu lạc giang hồ  Một ngày gây dựng cơ đồ, vẫn nên.  Chúng ta cũng có thể giải thích trường hợp "đó đây", qua tác phẩm "Trái Tim Biết" (The Informed Heart), đã nói ở trên. Khi làm phóng viên, Trúc Chi đã nhận được những thông tin (information). Do cũng được quen biết tác giả, ông có lần tâm sự, ông có cái may là lâu lâu được nhẩy ra khỏi lò lửa, để suy nghĩ về nó. Những thời gian quí báu này, mở ra một trái tim biết; "đó đây", là một essay, về cuộc chiến, là như vậy: Qua cái mớ bòng bong "cà kê dê ngỗng" đó, có đủ sự thực, để cứu vớt một kẻ dạn dầy. (1)  Với riêng tôi, với "đó đây", là một anh chàng lãng tử phóng viên, hồi đầu với tuỳ bút. Với văn chương.  Xin chúc mừng!  Nguyễn Quốc Trụ  Chú thích: Mô phỏng Conrad, trong "Trái Tim của Bóng Đen" (Heart of Darkness): "There was surface-truth enough in these things to save a wiser man." Một người đàn ông khôn ngoan hơn (a wiser man), là từ dòng chót "Bài thơ của Người Thủy Thủ Già", của Coleridge: A sadder and wiser man He rose the morrow morn. [Theo ghi chú của Catherine Pappo-Musard, khi dịch Trái Tim của Bóng Đen qua tiếng Pháp.] (Một người đàn ông buồn hơn, dạn dầy hơn, Buổi mai thức giấc).   NQT *** Nghĩ xa thôi lại nghĩ gần Làm thân con nhện mấy lần vương tơ. Ca dao Lời vào tập Trong văn chương Việt Nam hiện đại, số người viết tùy bút thành công không được bao nhiêu! Nói tới thể loại này, người ta nghĩ ngay đến Nguyễn Tuân. Ông là một bậc thầy trong loại tùy bút. Sau Nguyễn Tuân, những người viết tùy bút, không nhiều thì ít, đều chịu ảnh hưởng của ông. Ngoài Bắc, có lẽ “chủ nghĩa cá nhân” bị lên án dữ dội nên không thấy có người nào đi theo Nguyễn Tuân. Trong Nam, viết tùy bút giỏi có Võ Phiến và Mai Thảo. Ở hải ngoại, suốt một phần tư thế kỷ, chỉ có hai người viết tùy bút thành công, là Nguyễn Bá Trạc với Ngọn Cỏ Bồng, và Trúc Chi với cuốn sách này. Vì sao ít người viết tùy bút như thế? Câu trả lời khá đơn giản: Viết tùy bút khó! Viết truyện ngắn hay truyện dài, tác giả mặc sức “giả dạng vô danh” núp đằng sau các nhân vật để nói cho đã miệng, mà khỏi phải chịu trách nhiệm gì hết. Nhân vật nói được những lời vàng ngọc: tác giả nhận ngay mình mới là người thực sự nghĩ ra những lời cao siêu ấy. Ngược lại, nhân vật lỡ phun những lời ngu xuẩn ngược ngạo, người viết đổ hết mọi trách nhiệm cho hư cấu. Những người viết kịch cũng có lợi-thế như người viết truyện. Anh ta đóng vai người đạo diễn núp đằng sau cánh gà, nhắc nhở, quan sát diễn tiến của vở kịch. Cùng một câu thoại, diễn viên này diễn tả xuất sắc hơn diễn viên kia, thế là người viết kịch có vô số những câu “tại vì…” để biện hộ cho cái bất tài của mình. Có những thể loại văn chương gần gũi với tùy bút ở chỗ tận dụng chủ quan của người viết, như thế “ký”, và “hồi ký”. Trong hai thể loại này, người viết phải bắt buộc xưng “tôi” và chịu trách nhiệm hoàn toàn về những gì mình viết ra. Nguyên tắc đạo đức căn bản của “ký” và “hồi ký” là sự thành thật, người viết hồi ký phải tôn trọng sự thật mặc dù được phép viết một cách chủ quan. Nhưng viết bút ký và hồi ký cũng chưa phải là trò chơi nguy hiểm. Người viết ký chỉ cần công nhận mình chủ quan trong cách ghi chép sự việc là ngay lập tức mọi lỗi lầm được tha thứ. Người viết hồi ký còn rộng chân rộng tay hơn nữa. Vì chỉ những người đã may mắn “có một chút danh gì với núi sông” mới viết hồi ký. Trong ánh hào quang của danh vọng và sự an toàn của người đã ra ngoài cuộc, người viết hồi ký chiếm được nhiều tiện nghi. Có cái sang trọng hấp dẫn của “miệng nhà quan”, và vì ông quan “có gang có thép” một thời ấy bây giờ đã “từ quan”, nên không còn là đối tượng của những ghen ghét, đố kỵ. Nói hay người ta khen, nói dở người ta thông cảm. Chỉ còn những người liều lĩnh chọn viết một thể loại nguy hiểm, là tùy bút. Vì người viết tùy bút phải đem cái tôi ra nói từ đầu chí cuối, như là một người khỏa thân ngay giữa chợ. Chẳng những thế, tuy được phép nói về mình, nhưng tùy bút không cho phép nói có đầu có đuôi, có thắt có mở như người viết truyện. Tùy bút cũng không cho phép ăn nói nghiêm trọng. Trong một cuộc hội họp bù khú cuối tuần, người được Trời ban cho cái giọng thiên phú, thu hút thiên hạ bằng những lời hiệu triệu chính trị hùng hồn hoặc những bài hát karaoke. Người có tài kể chuyện cũng là chúa tể của một nhóm khác. Riêng các anh chị viết tùy bút, trong những dịp ấy, họ chẳng khác nào những người có tài tán gẫu, nói những chuyện có vẻ bông lơn chẳng có gì trầm trọng nhưng ai nghe cũng thích thú. Khi chia tay, cảm giác thích thú ấy cứ còn hoài, tuy cố nhớ thì cũng không thấy anh chàng ăn nói lan man có duyên ấy nói những chuyện gì. Trong The Importance of Living (Nguyễn Hiến Lê dịch thành cuốn Một Quan Niệm Về Sống Đẹp), Lâm Ngữ Đường bàn về những cái thú ở đời. Lâm tiên sinh có bàn về một cái thú rất dễ tìm nhưng ít ai lưu ý: cái thú tán gẫu. Những lúc đó, vô phúc gặp phải những tay hùng biện thao thao bất tuyệt về những chuyện vá trời lấp biển, thì phí mất một ngày cuối tuần. Hoặc gặp phải một ông thầy tu dạy dỗ những điều phải làm, ngồi nghe phải kính cẩn xếp hai bàn tay ngay ngắn trên đầu gối, miệng đánh nhịp “bạch thầy” với “lạy cha” thì cũng chán chết. Kẻ may mắn mới gặp được những chuyên gia tán gẫn trong những tối cuối tuần, hoặc đọc được những tập tùy bút có duyên. “Tán gẫu” không phải là “tán thán”, lại càng không phải là “tán nhảm”. Chuyện đem ra bàn không phải là chuyện có đầu có đuôi, một người xướng rồi những người nói sau phụ họa như một giàn hợp xướng đơn điệu. Ở đây, không có ai dẫn đạo, không có ai theo đuôi. Đề tài được mở rộng, cái gì hứng khởi thì cho tới luôn, đang tới mà thấy cái gì lạ thì bẻ ngoặc rẽ sang hướng khác cũng không sao. Võ hiệp gọi là “vô chiêu”. Người tán gẫu giỏi hay người viết tùy bút hay, không lụy vào bất cứ khuôn thước nào, cứ tùy hứng mà bay nhảy thoải mái. Trúc Chi viết tùy bút như thế! “Trong cuộc sống hàng ngày, tôi vẫn thích có được mươi mười lăm phút ngồi một mình như vậy. Ngồi im vậy thôi chứ không có bận tâm gì về cái thiên hình vạn trạng của hai chữ xuất xứ của người nay và người xưa. Đời tôi kể cũng có một đôi lúc khá xui, nhưng chưa bao giờ phải xuất, phải bất hạnh mà gánh lấy việc quân quốc trọng sự như ông quân sư đầy mưu thần chước quỷ nọ, ngồi một mình bên hồ cá nghĩ kế chận năm đạo quân xâm lược đang rục rịch tiến vào Thành Đô. Còn về chữ xử, thì hình như tôi vẫn chân trong chân ngoài. Tôi ngồi trong một tư thế rất thoải mái cho cơ thể tôi, không phải kiết già kiết trẻ chi, mà cũng không phải để thiền thiếc gì. Những lúc ấy đầu óc tôi bận rộn lắm, nhảy hết chuyện này sang chuyện khác, cứ loạn xà ngầu cả lên như là màn ảnh ti-vi chớp từ đài này sang đài kia. Cứ ngồi vậy thôi, để cho bộ máy thần kinh hoàn toàn độc lập, tự do, nhảy từ ý nghĩ này sang ý nghĩ khác. Những lúc ấy, hình như tôi… hạnh phúc lắm. Không biết đó có phải là hạnh phúc thật không, nhưng riêng tôi, tôi lấy đó làm một cái thú thường nhật”. Lúc cô độc một mình, Trúc Chi thích nghĩ lan man. Cho nên khi viết, anh cũng thích viết lan man. “Ấy, cái lối viết lách của tôi nó vậy đó. Định viết về một chuyện mà rồi lại nhảy sang chuyện khác. Nó cứ giống như thói quen của các bà nội trợ tham con diếc tiếc con rô mà tôi vẫn thường thấy trong các siêu thị ở đây. Thấy bó rau muống tươi, sắp sửa mua thì lại bị mấy quả xoài đầu mùa nhập cảng từ Mễ Tây Cơ nó cám dỗ. Thành ra cái rổ chợ (đúng ra thì phải nói cái xe chợ) nhiều khi có phần… đa mang. Thành ra bài vở của tôi cũng vậy, nhét quá nhiều thứ, mà lại không có đầu đuôi gì cả. Hỏng!”. Đọc tùy bút của Trúc Chi, không thể không nghĩ tới tùy bút của Nguyễn Tuân. Phong cách tùy bút của hai người có nhiều điểm giống nhau: giọng thiết tha khi nói đến thanh đến sắc, niềm xót thương cho những thân phận ca kỹ về chiều, chút khinh bạc dành cho những kẻ tối mặt vì những thứ phù vân. Những trang tùy bút hay nhất của Trúc Chi, cũng như Nguyễn Tuân, là những trang “thương hoa tiếc ngọc”. Đọc những trang viết ấy tôi cứ liên tưởng đến mấy câu của Chu Mạnh Trinh viết trong Bài Tựa Truyện Kiều (qua bản dịch): “Ta cũng nói tình thương người đồng điệu, cái kiếp không hoa lẩm cẩm, còn hồn xuân mộng bâng khuâng. Đã toan đúc sẵn nhà vàng chờ người quốc sắc, lại muốn mượn chùm phương thảo hú vía thuyền quyên…”. Nhưng tôi cũng nhận ra được điểm khác biệt lớn lao giữa Nguyễn Tuân và Trúc Chi. Lấy lại hình ảnh những buổi tán gẫu trên kia. Trong những dịp họp mặt thích thú đó, một người như Nguyễn Tuân dĩ nhiên là cái đinh của cuộc vui. Tùy bút Nguyễn Tuân hay, điều đó khỏi cần bàn cãi. Qua cái ảo diệu uyển chuyển của ý và lời, trong tùy bút Nguyễn Tuân, tôi vẫn lờ mờ thấy có cái phần “biểu diễn”, cái phần “muốn lấn lướt” để vượt lên trên đám nhân sinh lổn nhổn đang vây quanh ông. Ngyễn Tuân không hề che giấu lòng khinh mạn lũ người ngợm dung-thường đang trố mắt thán phục ông, cho nên trong cái ngang tàng ngất ngưởng của Nguyễn Tuân, có chen nhiều chất “kịch”. Trong buổi tán gẫu có mặt Nguyễn Tuân, tôi nghĩ chỉ có Nguyễn Tuân xướng, và ông cũng không muốn cho ai khác hơn ông được xướng. Tùy bút Trúc Chi không có cái phần “kịch” ấy. Trúc Chi là một người biết rõ cốt tủy của thú tán gẫu: sự bình đẳng. Ông hòa đồng chứ không muốn nổi bật. Ông tỉ tê lan man chứ không cao giọng. Nguyễn Tuân nói rõ những kẻ đáng khinh đáng ghét. Trúc Chi chia nhân loại làm hai hạng: đáng yêu chiếm đa số; thiểu số còn lại là những người đáng thương. Hãy nghe Trúc Chi “tán gẫu” về một người chồng phụ bạc: “… Bởi vì nó đang đưa tôi về với một buổi chiều hè trong một quán rượu ở đường Montparnasse, có Hoài, có tôi, có nhiều mất mát. Vẫn biết, như câu chuyện cũ trong sách giáo khoa, mình mất người khác được, nhưng những thứ mà Hoài và tôi từng bị đời cướp mất, lại không ai buồn lượm cả. Thành ra cái buổi hội ngộ sau tháng Tư 75 ấy, nó nhuốm một chút bùi ngùi, đượm một chút chua chát. Hôm ấy là lần đầu tiên Hoài nói thật với tôi rằng Nhân quyết định ở lại Việt Nam, không phải vì Nhân thích “bên kia” như tôi vẫn tưởng, mà chính vì Nhân không thể xa người đàn bà ấy, vốn cũng là bạn của tôi. Trong cái nháo nhào, trong cái tuyệt vọng của số đông vào cái ngày 30 tháng Tư năm ấy, có hai tâm hồn tự tách rời ra khỏi những biến cố trọng đại của lịch sử để mà xây một cái tổ ấm trên cái đống tro còn nóng của một thời khói lửa. Kể cũng can đảm. Mà cũng đẹp chứ không phải không. Cái anh chàng Nhân bạn học của tôi, tôi nghĩ mà thương. Ngày còn thanh niên, Nhân vui vẻ, hay đùa giỡn, trêu thầy, chọc bạn. Ra đời nhờ bẩm sinh thông minh lanh lẹn, lại thành công sớm trong ngành thầu xây cất. Tôi biết rõ Nhân lắm, con người hoạt bát và lịch lãm ấy hẳn không phải là không nát óc, không nát ruột khi phải chọn giữa bên vợ và bên bồ. Tôi nghĩ đến những vở kịch thời cổ bên Hy Lạp mà cốt chuyện được dựng trên cái xung đột nội tâm của nhân vật chính. Tôi nghĩ đến cái dằng co giữa Hiếu và Tình, giữa Trung và Hiếu trong một đôi tuồng hát bộ. Phải rồi: Song phủ cứu lai chánh hậu Ngửa vái trời soi thấu lòng ngay Xét thân hổ với cao dày Phơi gan giúp chúa, chau mày phụ cha. Xót xa lắm chứ. Tôi còn thấy được hình ảnh khổ đau của nhân vật này trong tuồng Sơn Hậu, nếu tôi không lầm, đôi lông mày nhíu lại cơ hồ chỉ còn có một đường ngang dưới trán, hai tay dang ra với một vẻ sững sờ hầu như là tuyệt vọng khi kẹt trong một cái thế lưỡng nan: giết cha hay phò chúa. Vậy nhưng mà trong lòng những con người thời trước, có cao dày, có trời đất chứng giám cho, còn ở trong lòng người bạn hiền mang tên Nhân, mà tôi biết là không tin ở một đấng nào trong cõi siêu hình cả, động cơ nào đã thúc đẩy anh đi đến quyết định bỏ Hoài mà ở lại với người đàn bà rất tài hoa kia? Hình như nó là cái chữ Tình thì phải. Chữ Tình mà người đời trước đã tự hỏi xem nó là cái chi chi!”. Một phong cách thật sự thoải mái, thư giãn, đi chung với một tâm hồn nhân hậu, tôi nghĩ đó là kết hợp tuyệt vời tạo ra vẻ đẹp trong tùy bút của Trúc Chi. Xin bạn đọc gác tạm những lo toan vướng víu sang một bên, và cùng Trúc Chi hưởng cái thú tán gẫu bằng những trang tùy bút sau đây. Nguyễn Mộng Giác - Đó Đây, tùy bút của Trúc Chi, nhà xuất bản Văn Học, 1999 Nguồn: Tạp Chí Văn Học, số 164. Mời các bạn đón đọc Đó Đây của tác giả Trúc Chi.

Nguồn: dtv-ebook.com

Đọc Sách

Viết Và Đọc Tiểu Thuyết
Ðây là một cuốn sách viết để bất cứ người nào cũng có thể hiểu được miễn là biết đọc chữ Quốc ngữ. Vì vậy tôi cố tránh dùng những từ khó hiểu, những câu ý nghĩa tối tăm. Đây không phải là một cuốn sách bàn luận khô khan chỉ dành riêng cho một số người ít ỏi, có học thức cao, và quen thuộc với những danh từ triết lý. Sở dĩ tôi viết cuốn Viết và đọc tiểu thuyết này là vì tôi tin tưởng một cách rất chắc chắn rằng: 1. Bất kỳ ai biết chữ Quốc ngữ, cho dẫu người đó viết văn sai mẹo hay không có học thức cao rộng, cũng có thể viết ra những tiểu thuyết có giá trị. Cái chính là cần có khiếu riêng, cái khiếu ấy có thể có ở bất cứ giới nào, người làm thợ hay người làm ruộng, nhưng xưa nay không nảy nở ra được chỉ vì cái thành kiến trưởng giả cho văn nghệ tiểu thuyết là một thứ cao siêu dành riêng cho một hạng người. 2. Phần đông người viết tiểu thuyết (nổi tiếng hay vô danh) có những quan niệm sai lầm làm cho họ đi vào những con đường chật hẹp hoặc lạc hướng nên văn nghệ của nước nhà vì thế mà sút kém. Sau gần bốn mươi năm kinh nghiệm viết tiểu thuyết, trải qua bao nhiêu phen lầm lỗi và tìm tòi, tôi tự thấy cái trách nhiệm giúp đỡ một phần nào vào sự cố gắng của hàng nghìn hàng vạn các anh chị em có chí muốn tiến trên đường văn nghệ. Cuốn sách này không thể làm cho bất kỳ ai cũng thành văn sĩ một cách dễ dàng, nhưng - tôi mong thế - sẽ giúp đỡ: 1. Những người mới bước chân vào làng văn khỏi bỡ ngỡ, mất công tìm kiếm và mất rất nhiều thì giờ vì bước lầm đường. 2. Một số người đã có nhiều tác phẩm, suy xét lại về lối viết của mình và tìm ra con đường mới hợp với tài năng của mình hơn. 3. Những thiên năng ở những người ít học bị cái hàng rào thành kiến bấy lâu ngăn cản, được thoát ra ngoài để giúp cho nền văn hóa nước nhà thêm phong phú (chỉ có những người thợ, người dân quê mới dễ viết tiểu thuyết về đời sống của họ). Đó là đối với những người viết tiểu thuyết, còn đối với độc giả tôi cũng tin rằng: Trình độ độc giả cao thì nền văn hóa cũng cao. Độc giả sáng suốt, có quan niệm đúng về nghệ thuật sẽ giúp đỡ rất nhiều cho những tài năng chân chính, và sẽ có thêm nhiều thú thanh cao mà trước kia không được hưởng vì không biết đến. Tuy chỉ là độc giả nhưng cũng cần đọc đoạn nói về cách viết tiểu thuyết để có sự nhận chân về nghệ thuật. Cuốn sách này lại có thể giúp ích cho các học sinh khi học văn và khi viết văn. * Xin nhớ là cuốn sách này tôi chỉ viết về tiểu thuyết thôi chứ không nói đến các loại văn khác như loại thơ, nghị luận, phê bình, giáo khoa v.v... hoàn toàn khác hẳn tiểu thuyết (cũng như văn của ông Phạm Quỳnh, ông Trần Trọng Kim, ông Phan Văn Hùm khác hẳn văn tiểu thuyết). Nếu trong bài khảo luận này có dùng đến những chữ “văn”, “văn sĩ”, “văn nghệ”, “sách” v.v.. cũng chỉ là nói về văn hoặc sách tiểu thuyết thôi. Cũng có nhiều khi tôi trích làm thí dụ một câu của nhà văn này mà không trích của nhà văn khác, đó không phải là vì thiên vị mà chỉ vì trong hiện tình không kiếm được sách để trích ra. Cũng có khi tôi trích trong những truyện của tôi (có lẫn cả chê khen), đó cũng chỉ vì những cái dở, cái hay ấy nó dễ đến ngay trong ý nghĩ khi tôi muốn lấy một thí dụ thích hợp mà không kịp tìm thấy ở trong truyện của các nhà văn khác. Tác giả *** Những điều lầm lỗi Trước hết tôi nói về ý định của một người muốn viết một cuốn sách có nghệ thuật cao siêu, bền mãi với thời gian, như những cuốn Hoà bình và chiến tranh, Anna Kha Lệ Ninh, Tình nghĩa vợ chồng, Một bản đàn của Tolstoï, cuốn Những linh hồn chết của Gogol, cuốn Mấy anh em Karamazov, cuốn Những người bị ám ảnh của Dostoïevsky, cuốn Đỉnh gió hú của nữ văn hào Anh Emily Brontë, những tiểu thuyết của nữ văn hào Anh G. Eliot v.v... và độ hơn trăm cuốn sách khác, mỗi cuốn một vẻ, nhưng đều là những sách hay của nhân loại, đời đời công nhận. Đó là lý tưởng muốn noi theo của phần đông những người viết tiểu thuyết. Hoặc có người muốn viết tiểu thuyết loại trinh thám, phiêu lưu v.v... nhưng nghệ thuật của những cuốn đó cũng không khác nghệ thuật của những cuốn kể trên. Bây giờ tôi chỉ nói đến. Tiểu thuyết hay (không phân biệt loại gì) Tôi tự đặt mình vào một địa vị những người muốn viết tiểu thuyết và lần đầu lấy giấy bút ra suy nghĩ. Người ta định viết để làm gì và viết những gì? - Có người viết để ghi lên giấy một chuyện riêng (thí dụ: câu chuyện tình, một sự nhớ nhung, một cảnh vui vẻ hoặc sầu thảm trong gia đình v.v...) - Có người viết để ghi một câu chuyện nghe thấy hoặc một cảnh nhìn thấy đã làm họ cảm động. - Có người viết để đả đảo một sự bất công, để tán dương một cái gì tốt đẹp, để nêu lên một lý thuyết và đặt ra một câu chuyện để thực hiện ý đó (loại tiểu thuyết này gọi là luận đề tiểu thuyết). - Có người viết chỉ để cám dỗ người đọc, viết những tiểu thuyết có cốt truyện ngoắt ngoéo, những trường hợp éo le ly kỳ, nhiều chỗ bất ngờ, hồi hộp. - Có người viết chỉ thấy mình cần phải viết. Viết để làm gì, viết về thứ gì, cái đó không quan trọng. Cái quan trọng nhất là viết có hay không, tức là nghệ thuật có cao không (còn thế nào là hay, là nghệ thuật cao, sẽ bàn sau). Điều rất giản dị này, giản dị gần như là một sự cố nhiên, điều mà tôi đã biết từ khi viết những cuốn sách đầu tiên năm mười sáu, mười bẩy tuổi (cuốn Thôn dã, Hai chị em không hề xuất bản lần nào), điều mà bất cứ văn sĩ hay độc giả nào cũng biết, thế mà sau hơn hai mươi năm viết văn, tôi mới nhận ra và chính tôi đã nhiều lần phạm lỗi không cho sự viết hay là cái chính. Sự lầm lỗi này đa số tiểu thuyết gia có, nhưng trước hết tôi đem tôi ra làm thí dụ: 1) Sự lầm lẫn thứ nhất của tôi là lúc mới viết sách tôi chỉ để ý đến các ý thích của riêng mình. Tôi thích những truyện về đời riêng của tôi mà tôi thấy rất là lý thú, chỉ việc đem viết lên giấy và viết xong thấy nó hay ngay. Nhưng nếu đưa một người khác xem thì người ấy không thấy hay ở chỗ nào. Tôi đã bị cái tính yêu riêng những việc mình viết nó huyễn hoặc làm hoa mắt, không nghĩ đến sự tìm tòi cái hay. Tôi đã đứng vào vị trí chủ quan, nghĩ là mình đứng làm chủ mà nhận xét, chứ không đứng vào địa vị khách quan, nghĩa là mình biến thành một người khách đứng ngoài nhìn vào bằng con mắt sáng suốt hơn không bị cái yêu cái ghét riêng làm cho thiên vị. 2) Sự lầm lẫn thứ hai là cái thích những câu văn vẻ. Tôi bị ảnh hưởng tai hại của sự học ở nhà trường của văn chương Pháp và của văn chương Tàu hay ta hồi ấy (quãng 1922 - 1930); tôi thích những câu đọc lên nghe êm tai, nhịp nhàng đăng đối (nhưng trống rỗng) thành thử tôi chỉ cốt viết ra những câu như thế và cho ngay là truyện của tôi hay. Tôi còn nhớ một lần viết truyện Hồng Nương (không xuất bản), tôi viết xong một câu rồi đứng lên, đi đi lại lại trong phòng, trong lòng sung sướng mê man, thỉnh thoảng lại ngừng lại đọc to câu đó lên: “Hồng Nương! Hồng Nương! Sao đêm nay ta đọc đến tên nàng”và tôi quên cả đi ngủ. Đến bây giờ thỉnh thoảng tôi cũng đọc lại nhưng chỉ để tự giễu mình sao một câu như thế lại có thể cho là hay đến mê man. Ngay đến khi viết truyện đăng báo Phong hóa 1932 - 1933 (năm đó tôi đã hăm bảy, hăm tám tuổi) mà vẫn còn bị câu “văn vẻ” nó quyến rũ. Thí dụ như câu cuối cùng trong truyện Nắng Mới Trong Rừng Xuân: “Đôi bạn tay cầm tay, nhìn nhau yên lặng, trên đầu gió rì rào trong cành thông như tiếng than vãn của buổi chiều”. Tuy câu ấy không phải hoàn toàn dở nhưng bây giờ đọc lại tôi vẫn ao ước rằng không có thì hơn, hoặc có nhưng đừng “văn vẻ”, “sáo” quá như thế, giản dị hơn như những câu trong các tiểu thuyết sau này của tôi, viết chỉ cốt tả đúng cảm giác, đúng những nhận xét của mình; điều cần không phải là câu văn hay mà ở chỗ cảm giác, nhận xét của mình có gì hay không, đặc biệt không. Mời các bạn đón đọc Viết Và Đọc Tiểu Thuyết của tác giả Nhất Linh.
Du Ký Xanh - Hành Trình Cứu Biển
Ghi lại hành trình đi chụp ảnh rác thải nhựa gây ô nhiểm khắp Việt Nam của nhiếp ảnh gia Lekima Hùng. Hùng Lekima đã đi gần 7000km trong đó có 3.269km bờ biển từ Bắc chí Nam bằng xe máy. - Bố cục: Gồm 3 phần: Trước hành trình; Chặng đầu của hành trình; Chặng thứ hai của hành trình. - Văn phong: Giản dị, chân thực. *** Có những cuộc hành trình khám phá những miền đất mới đem đến cho con người những kỷ niệm vô cùng đẹp thế nhưng khác với những du ký khám phá đó thì Lekima Hùng lại đem đến cho bạn đọc một góc nhìn về “thực trạng” ô nhiễm môi trường biển ở Việt Nam thông qua cuộc hành trình mà anh tự mình thực hiện một tháng rưỡi qua 3.260km bờ biển Bắc Chí Nam. Mời bạn đọc cùng Lekima Hùng khám phá hành trình đầy ý nghĩa qua cuốn sách “Du ký xanh – hành trình cứu biển” “Ở Thụy Điển, rác thải của họ dường như được tái sử dụng mãi mãi. Lượng rác thải ở Thụy Điển chiếm cần phải chôn lấp chiếm 1%, rác thải được tái chế là 47% và 52% được đốt để sản xuất nhiệt và điện” Nếu chúng ta trân trọng hơn nữa từng đồ vật, quan tâm hơn nữa đến không chỉ là nhu cầu của con người là cả sự sống của tất cả sinh vật, động vật trên Trái Đất này thì có lẽ đã không có quá nhiều rác thải không thể xử lý khiến chúng ngày một chiếm lấy không gian sống của những sinh vật dưới biển hay tình trạng ô nhiễm ảnh hưởng đến sức khỏe của con người. “Cái vòng luẩn quẩn của rác thải nhựa sẽ bám lấy cuộc sống của người dân miền Trung” Những cảnh đẹp thiên nhiên khi chưa bị con người tác động đến mang một vẻ đẹp rất tuyệt diệu nhưng dường như nó chỉ còn trong ký ức như cách mà Lekima Hùng đã tận mắt chứng kiến. Con sông được hiện lên trong từng câu thơ của nhà thơ Tế Hanh: “Quê hương tôi có con sông xanh biếc Nước gương soi tóc những hàng tre Tâm hồn tôi là một buổi trưa hè Tỏa nắng xuống lòng sông lấp loáng” Nếu không chịu thay đổi ý thức để bảo vệ môi trường, chắc chắn trong tương lai khi rác thải bị quá tải, chúng ta sẽ phải gánh chịu những “tai họa” do mình tự tạo ra. Rác thải nhựa trôi nổi trên biển, những sinh vật dưới biển ăn nhựa và con người lại đánh bắt thủy, hải sản để ăn. Chúng ta sẽ không thể thoát khỏi vòng tròn luẩn quẩn ảnh hưởng đến sức khỏe của chính mình. Từng chặng đường anh đi qua, vẻ đẹp thiên nhiên cùng sự giản dị của những con người trên khắp mọi miền tổ quốc Việt Nam được anh viết lại rất sinh động. Nhưng cầm trên tay cuốn sách, bạn đọc cũng mang một cảm xúc đau đáu về sự ô nhiễm đến mức báo động của môi trường biển. Từng sinh vật sinh sống ở biển đã và đang gồng gánh rác thải do chính con người thải ra mỗi ngày, bởi chúng ta không xử lý hết được. Đáng buồn hơn nữa là thực trạng này chẳng thuyên giảm đi mà còn tăng lên mỗi ngày chỉ vì phục vụ “nhu cầu sống tiện lợi của chính con người”. Chúng ta có thể “ba hoa” với người khác về một điều gì đó qua những lời nói của mình nhưng chắc chắn rằng không có gì có thể thật hơn “thực trạng”, đó là những bức ảnh tác giả đã chụp Rác trùm lên rác ở làng chài Việt Nam, đổ rác ven kênh tại Tiền Giang,…là thực tế vô cùng đau buồn, là tiếng kêu cứu của mẹ thiên nhiên. Đã đến lúc chúng ta phải nhìn vào thực tế để điều chỉnh hành vi tiêu dùng cùng lối sống thân thiện hơn với môi trường. Lối sống nhanh đã khiến chúng ta chỉ quan tâm đến cuộc sống của chính mình mà hiếm ai chọn cho mình những lối sống giảm thiểu ít rác thải. Khác hẳn so với những chuyến du ký thông thường, Lekima Hùng lại muốn dùng chuyến đi “để đời” này của mình để cống hiến, để lan tỏa hơn nữa thông điệp về bảo vệ môi trường. Thức tỉnh bạn đọc nhìn vào thực tế, hướng đến lối sống bền vững để cải thiện những thực trạng ô nhiễm đáng báo động. Hãy thay đổi từ nhận thức đến hành động để cứu lấy sự sống của hàng triệu sinh vật dưới biển, sức khỏe của chính mình cùng sự sống của con cháu chúng ta. Cuộc chiến giảm thiểu rác thải nhựa cần đến ý thức của tất cả chúng ta, chung tay vì môi trường để “mẹ thiên nhiên” bớt đi phần nào nỗi đau đang gồng gánh vì cuộc sống của con người. Hội An xả 100 tấn rác/ ngày, trong khi nhà máy xử lý rác ở xã Cẩm Hà chỉ xử lý tối đa 30 tấn/ ngày. Nhựa chiếm 50%-80%  rác thải biển. Ước tính, hơn 80% nhựa có nguồn gốc đất liền, phần còn lại là nhựa được xả trực tiếp trên biển. Hiện có tới 3,5 tấn triệu rác được thải ra mỗi ngày. Con số này cao gấp 10 lần so với 100 năm trước và dự kiến sẽ xảy tăng lên 11 triệu tấn vào cuối thế kỷ 21. Chúng ta sẽ xử lý chúng ra sao? Trái Đất đã bị tổn thương rất nhiều bởi sự tác động của con người. Đã đến lúc chúng ta phải thay đổi để cứu lấy hành tinh xanh này. Đọc “Du ký xanh – Hành trình cứu biển” của Lekima Hùng, bạn đọc như được tiếp thêm động lực để bảo vệ môi trường. Mỗi một cá nhân đều mang trên mình trách nhiệm sống thân thiện hơn với môi trường, hãy thay đổi từ những điều nhỏ nhất ngay từ hôm nay để góp một phần tuy nhỏ nhưng ý nghĩa với sự sống của cả Trái Đất nhé. Review bởi Dương Hà *** Lời giới thiệu   Tôi đã từng đọc nhiều tác phẩm du ký trong nước và nước ngoài kể về những hành trình khác nhau trên thế giới. Con người, lịch sử, xã hội và văn hóa hiện lên một cách sinh động qua từng trang sách, câu chữ của các tác giả. Nhưng tôi chưa từng đọc một cuốn sách du ký nào kể lại một hành trình đặc biệt như của Lekima Hùng, với các cung đường rác từ Bắc tới Nam. Đó không phải là hành trình như bản thân tôi đã từng đi trên các nẻo đường thế giới, tìm hiểu về văn hóa và con người trên các điểm đến, thưởng thức văn hóa và những trải nghiệm vui buồn. Đó là một hành trình hoàn toàn khác, đau đáu, buồn nhiều hơn vui và mỗi chặng đường đi qua là những khám phá về mức độ ô nhiễm mà chính chúng ta đã gây ra cho những bờ biển, vùng đất, tác động trực tiếp và lâu dài lên chính cuộc sống của mình. Có người mà Lekima Hùng gặp và nói chuyện hiểu được điều gì đang xảy ra. Nhưng nhiều người thì không, chặc lưỡi không quan tâm. Qua từng trang sách, bức tranh ô nhiễm càng hiện ra một cách rõ ràng, nhức nhối và đau đớn, trong một cuộc tự hoại mang tính tập thể theo suốt chiều dài đất nước. Cuốn sách do đó đánh động cho chúng ta rằng, hiểm họa môi sinh không ở đâu xa xôi cả, không ở một nơi nào đó chỉ được tiếp cận qua tivi hay internet, mà đang ở ngay bên chúng ta rồi. Lekima Hùng đi và chụp. Thực ra anh không phải nhà văn, cũng không phải là một người lữ hành. Do đó, cuốn sách được viết một cách chân thực nhất, không lãng mạn mà giản dị, nhưng rất sinh động. Anh là một nhiếp ảnh gia và với chủ đề thực hiện, anh là một người cầm máy rất khác với nhiều người chụp ảnh chỉ thường chú ý đến các yếu tố đơn thuần về thẩm mỹ và hay ca ngợi cái đẹp tôi đã quen. Lekima Hùng chụp rác thải nhiều, và anh còn có biệt danh là “Hùng rác”. Chụp về môi trường không chỉ là một thể loại mang tính “xanh”, đó còn là một tuyên ngôn của nhiều người có lương tri và trái tim trên thế giới. Cuốn sách này chỉ đơn giản là ghi lại một phần những gì đáng chú ý nhất trong những hành trình đi chụp của Hùng trong những năm qua và đọc nó đã thấy nhức nhối rồi. Nó không chỉ là phản ánh, mà còn thúc đẩy những hành động cho cả cộng đồng. “Du ký xanh” là để bảo vệ và nhân lên những màu xanh, trước tiên ở trong chính suy nghĩ và sau đó là hành động của tất cả mọi người. Tôi có thể làm và sẽ làm. Còn bạn? TRƯƠNG ANH NGỌC Nhà báo, nhà lữ hành, tác giả du ký Mời các bạn đón đọc Du Ký Xanh - Hành Trình Cứu Biển của tác giả Lekima Hùng.
Trái Tim Trên Những Con Đường
"Thành thị đôi khi làm người ta ngột ngạt dù ở châu Âu, cuộc sống rất thảnh thơi, có sự thanh bình, chậm rãi ngay ở những thành phố lớn... Thế nhưng sau tất cả, thiên nhiên vẫn nhiều sức vẫy gọi nhất, về với những cánh đồng, những con đường, những ngôi làng hoặc những thành phố nhỏ bé. Có rất nhiều vẻ đẹp tiềm tàng ở đó, không chỉ trong cảnh sắc dân dã mà còn trong bầu không khí thật tươi mới, trong những con người hiền lành - những con người thật sự Pháp, Ý hay Đức. Tôi sẽ kể một tẹo về những hành trình ấy - những hành trình sẽ đưa bạn đi giữa bát ngát hoa cỏ, núi rừng, mặt trời, chạy theo những vòng quay, những nỗi nhớ biển, những câu chuyện không thể lãng quên, và tình yêu chưa bao giờ lụi tàn trên con đường tít tắp". *** Review sách Trái Tim Trên Những Con Đường  Phan Thị Thu Thảo đã review       28 tháng 12, 2018 Tôi biết đến tác giả Mai Thanh Nga qua cuốn sách Paris trong hộp giày, rồi sau cuốn sách này tôi mới tìm đến Trái tim trên những con đường. Tôi thích cả hai cuốn sách này nhưng có lẽ tôi thích Trái tim trên những con đường hơn, có lẽ vì tôi thích thể loại du ký, cũng có thể vì hình ảnh một Mai Thanh Nga lạc quan, vui vẻ hơn hiện lên qua cuốn sách này. Nếu Paris trong hộp giày chỉ lấy bối cảnh riêng về thành phố Paris vừa cổ kính lại vừa hiện đại thì Trái tim trên những con đường lại là hành trình chạy dọc xuyên suốt các thành phố của Châu Âu từ những thành phố lớn như Paris, London hay Venice rồi đến những thành phố nhỏ, cả những thành phố mà đến bây giờ tôi vẫn chẳng nhớ tên. Trái tim tôi cứ lửng lơ theo từng hành trình, cứ theo dấu chân của tác giả mà băng qua biển, qua rừng, hòa mình với thiên nhiên và với mong ước được một lần đặt chân đến những thành phố Châu Âu đó để đi, để yêu và để trải nghiệm. Trái tim trên những con đường được tác giả Mai Thanh Nga viết theo lối văn du ký, giọng văn nhẹ nhàng nhưng mang đầy sự lạc quan và mang hơi thở của thiên nhiên đem đến cho người đọc những cung bậc cảm xúc giản dị và chân thành nhất. Thật sự đây là một cuốn sách rất tuyệt vời cho những ai đam mê xê dịch, không gượng ép, cứ trôi theo dòng chảy của trái tim như vậy. *** Đời vẽ tôi tên mục đồng, rồi vẽ thêm con ngựa hồng Từ đó tôi nguyện suốt đời rong chơi.* *Câu gốc: “Đời vẽ tôi tên mục đồng, rồi vẽ thêm con ngựa hồng. Từ đó lên đường phiêu linh” trong bài “Chỉ có ta trong cuộc đời” của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Bạn nói ôi trời, hát sai lời rồi kìa, tôi nói tôi có hát nhạc Trịnh đâu, tôi đang nói về kim chỉ nam cuộc sống của mình lúc này. Tôi không biết liệu cách sống ấy sẽ còn đúng tới bao giờ, khi tôi qua tuổi 20? Khi tôi đầu bốn? Khi tôi tóc bạc, cháu quấn chân? Hay khi tôi không còn tự ngồi dậy mỗi sáng được nữa? Tôi nghĩ nó sẽ thực sự chấm dứt khi tôi đủ lười, đủ lười để trái tim hết cảm giác với những bước chân. Khi căn bệnh nan y và đáng sợ ấy tới, tôi sẽ bước đi chỉ là bước, không nghĩ suy, không hoài bão, không tò mò, không xao động, và không trăn trở trong những giấc ngủ đêm. Dĩ nhiên tôi vẫn sống tốt khi không di chuyển, chỉ là cuộc sống sẽ hơi thiêu thiếu, thiếu một cái gì đó như là chính bản thân mình. Giờ thì tôi vẫn thích đi, thích điên lên được, bởi đi làm tôi hết đau lưng. Cái ghế đang làm tôi biến dạng cột sống, lại còn cài thêm mấy cái gai tinh túy vào, dĩ nhiên giết dần cơ thể và tâm hồn. Thật đấy! Người ta bảo “Con người hình thành khi khỉ đi hai chân”, đạo diễn Lê Hoàng phản pháo theo đúng kiểu đanh đá của ông: “Con người hình thành khi họ bắt đầu di chuyển”. Di chuyển ở đây chắc không chỉ nói về tình trạng địa lý mà còn trong tư duy. Nếu ta đi, không nghĩ suy, chỉ rong chơi, đơn giản đó là kẻ hành khất, giống người Gipsy một đời không nơi nương náu. Nếu ta đi, mang theo suy nghĩ khám phá vùng đất mới, say mê phiêu lưu thì sẽ thành như Gristoforo Colombo tìm thấy châu Mỹ hay James Cook cập bến châu Úc. Nếu ta đi, lòng chất đầy ham muốn chiếm đoạt thì sẽ thành thực dân Anh, Pháp, Bồ. Còn nếu ta đi, vì không có nơi nào để sống, khát khao tìm vùng đất của mình, xã hội của mình, thì sẽ thành những người Do Thái khôn ngoan. Thực chất, khi họ đến với châu Âu, ngày đó người ta coi giao thương là nhơ nhớp, dân Do Thái làm việc đó và thành công xuất sắc, có tiền nhưng không địa vị. “Tiền nước Mỹ nằm trong túi người Do Thái”. Họ là những người sáng lập nên mô hình ngân hàng, mà sau này cả thế giới phải đi theo. Vậy mới là đi, thực sự là đi bằng chân và bằng đầu. Chủ nghĩa xê dịch đang “làm loạn” thế giới này, trong cộng đồng những người trẻ có nhiệt huyết, đam mê, và hơn cả là dũng cảm. Cuộc sống của con người có sinh, lão, bệnh, tử, trong đó quá trình “lão” kéo dài nhất: trẻ nhỏ, niên thiếu, trưởng thành, người già. Nhưng ở thế kỷ XXI, có thêm giai đoạn nữa gọi là hậu niên thiếu, tiền trưởng thành - quá độ Peter Pan* . Về cơ bản, giai đoạn này nằm trong quá trình “lão” bất di bất dịch, nhưng già thể xác mà trẻ tâm hồn. Bạn có thể gặp họ ở hình thái ông cụ Benjamin Button* tập nhảy, chơi đu quay, khóc oe oe gọi mẹ. Tôi nằm trong thế hệ này, thích rong chơi, vô lo vô nghĩ, không gò bó bản thân trong gia đình, nhà cửa, xe cộ, coi mình là trẻ con. Mà thế hệ này ngày càng nhiều người sống với khẩu hiệu “Forever Young”. Thật sự không biết đó là tốt hay xấu nữa? Sống theo bản năng, tự do với xã hội, bứt mình ra mọi khuôn khổ, nâng cao nhân quyền, sống thế thật tuyệt, nhưng có phần ích kỉ với gia đình. Hòa hợp giữa sống vì mình và vì gia đình khó như xã hội hiện đại cố gắng giữ bản sắc truyền thống. * Peter Pan - nhân vật hư cấu của nhà văn J.M.Barrie - mang hình hài của một thiếu niên 15-16 tuổi biết bay, luôn muốn vui chơi và hưởng thụ cuộc sống, luôn chối bỏ “sự trưởng thành”. * Nhân vật trong phim “Dị nhân Benjamin Button” (tên gốc “The Curious Case of Benjamin Button) - một cậu bé có chu trình sinh học ngược với bình thường, sinh ra đã già, dần dần trẻ ra. Phim do David Fincher đạo diễn, dựa trên một truyện ngắn cùng tên của nhà văn Mỹ F. Scott Fitzgerald xuất bản năm 1992. Dù thế nào tôi và vô số người vẫn đang xê dịch, đi chỉ vì muốn đi, hoặc đi vì chán ngồi một chỗ. Đi thì cứ đi, làm thì cứ làm, vui cứ vui, miễn sao thoải mái, chỉ đừng hô khẩu hiệu: “Người ta chỉ sống khi xê dịch”. Ông bà tôi, bố mẹ tôi nghìn đời vẫn sống, sống đẹp là đằng khác. Nhiều người lại thích câu “Đừng nói với tôi bạn giỏi thế nào, hãy nói với tôi bạn đi những đâu”. Thomas Edison cả ngày chỉ ngồi trong phòng và ông ấy mang văn minh cho toàn nhân loại. Ông Mạc Ngôn chỉ ngồi yên ở huyện Cao Mật để vẽ lên toàn bộ hiện thực Trung Quốc, giật về giải Nobel. Ngày xưa có bài báo nói vui rằng nếu nhà văn Tô Hoài lên Tây Bắc trước khi viết truyện thì “Truyện Tây Bắc” đã không hay như thế. Mỗi người một cách sống, hãy để mình tự do trong suy nghĩ về người khác. Chúng ta về cơ bản chỉ khác nhau ở đam mê. Chỉ hy vọng rằng mỗi vùng đất mình tới, mỗi trải nghiệm mình có, mỗi bước chân mình đi sẽ làm con người lớn lên. Người ta khổng lồ trong tư duy, còn tư duy khổng lồ lại nằm trong hình hài đơn giản. Đi cho sự ngu xuẩn giảm bớt, can đảm tăng lên, trí tuệ rèn giũa để đương đầu với một cuộc sống ổn định trong xã hội bất ổn phía trước. Tôi đi không hẳn đã nhiều, chỉ đủ để viết cho mình một cuốn cẩm nang nho nhỏ, có những bức ảnh, những tranh vẽ về ngày tháng tuổi trẻ ít biếng lười. Thông thường những chuyến đi sẽ bắt đầu từ các thành phố lớn: Paris, London, Prague, Venice… lâu dần con đường hẹp về những thành phố nhỏ hơn như Torino, Strasbourg, Heidenberg… rồi lại dẫn tới những thành phố kém tiếng hơn như Echallens, Founteinbleau, Biella… cứ thế đi về phía những cánh rừng, những bãi biển, những ngọn núi, về với thiên nhiên. Thành thị đôi khi làm người ta ngột ngạt dù ở châu Âu, cuộc sống rất thảnh thơi, có sự thanh bình, chậm rãi ngay cả ở những thành phố lớn. Nếu không phải chen lấn nhiều tại tàu điện ngầm thì người ta sẽ thấy cuộc sống ở nơi hỗn độn như Paris cũng còn yên lành lắm. Thế nhưng sau tất cả, thiên nhiên vẫn nhiều sức vẫy gọi nhất, về với những cánh đồng, những con đường, những ngôi làng, hoặc những thành phố nhỏ bé. Có rất nhiều vẻ đẹp tiềm tàng ở đó, không chỉ trong cảnh sắc dân dã mà còn trong bầu không khí thật tươi mới, trong những con người hiền lành - những con người thật sự Pháp, Ý hay Đức. Tôi sẽ kể một chút về những hành trình ấy - những hành trình sẽ đưa bạn đi giữa bát ngát hoa cỏ, núi rừng, mặt trời, chạy theo những vòng quay, những nỗi nhớ, biển, những câu chuyện không thể lãng quên, và tình yêu chưa bao giờ lụi tàn trên con đường tít tắp. Mời các bạn đón đọc Trái Tim Trên Những Con Đường của tác giả Mai Thanh Nga.
Hồi Ký Trần Vàng Sao
Lời người sưu tầm: Tài liệu mà tôi gởi tới độc giả sau đây là một tập hồi ký, dày 134 trang A4 đánh máy vi tính chữ nhỏ xuất hiện dưới hình thức samizdat được photocopy (thứ văn chương chuyền tay khá phong phú ở Việt Nam sau những năm “đổi mới”) cách đây có hơn 10 năm [1] . Tác giả của nó là Trần Vàng Sao (tên thật là Nguyễn Đính), một người làm thơ ở miền Nam, nhưng vào những năm 60 của thế kỷ trước, đã cùng với nhiều bạn bè đồng lứa đứng lên chống lại chế độ chính trị của miền Nam lúc đó bằng cách “đi lên núi” để cuối cùng, sau khi thoát khỏi bom đạn Mỹ, anh đã vướng phải một tai hoạ cực kỳ tệ hại. Cuốn hồi ký này kể lại cái tai hoạ đó khi từ chiến khu, anh được đưa ra miền Bắc trị bệnh: ở nơi đây, sau một thời gian quan sát, anh đã ghi lại những suy nghĩ của mình về cái gọi là “hậu phương xã hội chủ nghĩa” đó bằng nhật ký và chính vì những suy nghĩ ghi thành chữ viết này anh bị các đồng chí của mình truy bức, nguyền rủa, phỉ nhổ, cô lập, đến chỗ như anh cho biết anh không còn được coi là con người mà đã thành “một con vật, một con chó”. Trong rừng, tôi đã nghe biết một số trường hợp những trang nhật ký bị tố cáo, nhưng chưa thấy có trường hợp nào sự tố cáo lại dẫn đến một cuộc hành hạ, trừng trị độc địa như trường hợp của Trần Vàng Sao. Những ai đã đọc Đặng Thuỳ Trâm cùng những bàn tán về nhật ký của chị, khi đọc xong hồi ký của Trần Vàng Sao, sẽ thấy rất khó mà coi các tài liệu chiến tranh này là những “bản chứng nghiệm chân thực của lịch sử” – như có một tác giả nào đó đã cho là vậy. Tuy cùng “chung một chiến hào”, thuộc cùng một thế hệ những người đi vào chiến tranh (Trần Vàng Sao cũng sinh năm 1942 như Đặng Thuỳ Trâm), nhưng những giá trị mà Đặng Thuỳ Trâm tin tưởng một cách “chân thực” để sống và để chết thì đối với Trần Vàng Sao lại chỉ là những điều huyễn hoặc đơn thuần. Không thể nói là không “chân thực” nỗi thất vọng của một trí thức như anh, một người đi qua máu lửa để tìm đường chợt thấy trước mắt mình hiện ra một khoảng hư vô mù mịt. Với tai hoạ ấy, anh đã bị đẩy vào tình thế đứng giữa hai lằn lửa. Là người miền Nam, nhưng anh đã phủ định cái huyền thoại ngô nghê về một “một miền Nam đúng nghĩa” dưới một chính thể mệnh danh “dân chủ, tự do, no ấm” để chọn lựa đi về “phía bên kia”, cuối cùng đã bị cả “phía bên kia” lẫn “phía bên này” kết án. Ngày nay, với sự xuất hiện lại của hồi ký này, không thể loại trừ những tố cáo ấy sẽ tái diễn, và nếu như vậy thì cũng chẳng có gì khó hiểu. Như có người đã nói rồi, cuộc chiến đã chấm dứt 30 năm nhưng những vết thương mà nó để lại trong lòng người còn quá sâu đậm: bên cạnh hàng triệu người vui vẫn còn hàng triệu người buồn. Những vướng mắc trong quá khứ vẫn chưa tìm được cơ sở chung để tháo gỡ một cách thanh thản, hoà bình. Dù sao, tôi thấy giới thiệu lại những trang hồi ức của Trần Vàng Sao như dấu tích của một thời đã qua vẫn là cần thiết, nhất là với những ai chợt thấy có mong muốn nhìn lại cái thời đã qua ấy một cách nhiều mặt hơn: ngoài những tiếng nói của hai phe đối nghịch có đủ lý do (Bắc/Nam, quốc/cộng…) để tố cáo nhau một cách ác liệt, còn có tiếng nói của những người cũng có đủ lý do để không còn phải đứng về phe nào trong hai phe ấy nữa. Có thể chẳng giải quyết được gì: nhiều lắm cũng chỉ là trải nghiệm của một cuộc dấn thân máu lửa, cần được nhắc đến để rọi sáng thêm một cuộc máu lửa mà những hệ luỵ của nó chưa chịu nằm yên trong những nấm mồ. Sự chân thực mang tính chất nhân chứng ở đây không có lý do nào chính đáng để nâng mình thành sự chân thực của bản thân lịch sử, dù đó là sự chân thực của một niềm tin hay là sự chân thực của một hận thù. Sài Gòn ngày 2.11.2005 Lữ Phương *** Trần Vàng Sao tên thật là Nguyễn Đính, sinh năm 1941 (Tân Tỵ) ở Thừa Thiên Huế. Năm 1961 ông thi đỗ tú tài rồi vào Đại học Huế, tham gia các phong trào đấu tranh của sinh viên cùng thế hệ với Hoàng Phủ Ngọc Tường, Trần Quang Long, Ngô Kha. Từ 1965 đến 1970, ông lên chiến khu và công tác tại Ban Tuyên huấn Thành uỷ Huế, viết báo với các bút danh Nguyễn Thiết, Lê Văn Sắc, Trần Sao. Năm 1970 ông được đưa ra miền Bắc an dưỡng, chữa bệnh. Ở nơi đây, ông có viết nhật ký gồm những suy nghĩ của ông về cái gọi là "hậu phương xã hội chủ nghĩa" và sau đó bị tố cáo, đấu tố và cô lập [2] đến nỗi ông có cảm giác không còn được coi là con người mà đã thành "một con vật, một con chó, theo như Hồi ký "Tôi bị bắt (Nhớ lại những năm tháng tôi bị bắt rồi được thả ra và sống như tù)" sau này của ông[3]. Sau khi Việt Nam thống nhất (tháng 4 năm 1975), Trần Vàng Sao xung phong về quê công tác nhưng không được chấp nhận; ông tự trở lại Huế làm liên lạc ở xã, sau đó được bố trí công tác tại Phòng Văn hóa thành phố Huế rồi được điều về làm liên lạc ở xã Hương Lưu (nay là phường Vỹ Dạ), Huế cho đến khi nghỉ hưu năm 1984. Ông sống tại thành phố Huế và mất hồi 14h45 phút ngày 09/5/2018. Ông hầu như không cho xuất bản thơ nhưng vẫn nổi tiếng với "Bài thơ của một người yêu nước mình" ký bút danh Trần Vàng Sao sáng tác tháng 12 năm 1967 và được chọn trong 100 bài thơ xuất sắc nhất Việt Nam thế kỷ 20. Theo nhà phê bình văn học Đặng Tiến hiện định cư ở Pháp: Năm 1993 nhà xuất bản Tân Thư (California, Hoa Kỳ) in tập “Bài thơ của một người yêu nước mình” của nhà thơ Trần Vàng Sao. Năm 2008, Nhà xuất bản Giấy Vụn đã cho in tập thơ "Bài thơ của một người yêu nước mình" của ông [2]. Tháng 8/2020 tập thơ BÀI THƠ CỦA MỘT NGƯỜI YÊU NƯỚC MÌNH của nhà thơ Trần Vàng Sao do Nhà xuất bản Hội Nhà văn và Công ty Nhã Nam hợp tác xuất bản. Một ấn phẩm đặc biệt về thơ và mỹ thuật. Sách được bán trên toàn bộ hệ thống của Công ty Nhã Nam. Ngày 12/11/2021, tập thơ được trao thưởng Giải thưởng sách Quốc gia 2021.   Mời các bạn đón đọc Hồi Ký Trần Vàng Sao của tác giả Trần Vàng Sao.