Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Mùa Lá Rụng Trong Vườn - Ma Văn Kháng

Mùa lá rụng trong vườn là một tiểu thuyết của nhà văn Ma Văn Kháng, hoàn thành vào tháng 12 năm 1982 và được xuất bản lần đầu vào năm 1985. Lấy bối cảnh một gia đình truyền thống vào những năm 80 của thế kỉ XX, khi đất nước bắt đầu có những bước chuyển mình mạnh mẽ sau chiến tranh, gây ra nhiều thay đổi tốt có, xấu có; truyện đã phản ánh chân thực những biến động trong xã hội thời bấy giờ và những ảnh hưởng to lớn của nó tới gia đình - tế bào của xã hội. Truyện đã giành giải thưởng loại B của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1986. Mùa lá rụng trong vườn kể về gia đình ông Bằng, một nhân viên bưu điện đã nghỉ hưu tại Hà Nội. Ông Bằng có năm người con trai. Anh cả Tường đã hi sinh ngoài mặt trận, vợ anh là Hoài đã tái giá nhưng vẫn thường xuyên viết thư thăm hỏi gia đình. Đông là anh hai, trung tá đã xuất ngũ, sống cuộc sống đơn giản và thậm chí là hơi lười biếng với Lý, cô con dâu đảm đang, nhanh nhẹn. Con trai thứ ba của ông là Luận, một nhà báo có nhiều trăn trở, suy tư về cuộc sống. Vợ anh là Phượng, một người tốt bụng, luôn sẵn lòng giúp đỡ mọi người. Trái ngược với các anh em, người con thứ tư - Cừ, lại hư hỏng, không nghe lời cha mẹ, đã từng bị đuổi khỏi quân đội. Cuối cùng, em út Cần đang đi học ở Liên Xô, sắp về nước. Ông Bằng cùng với gia đình Đông và Luận sống trong căn nhà đầu phố tĩnh mịch, cách khá xa sự ồn ào, hỗn loạn của chốn thị thành. Tuy nhiên, trong ngôi nhà yên tĩnh ấy, bi kịch ập tới khi Cừ bỏ việc ở xí nghiệp, trốn ra nước ngoài, bỏ lại vợ và hai con nhỏ. Đối với ông Bằng, người cha vốn rất nghiêm khắc trong việc giáo dục con cái, vốn đề cao những giá trị tinh thần truyền thống, đề cao đạo đức thì đây là một cú sốc quá lớn. Sau khi trốn sang Canada, Cừ mới nhận ra lỗi lầm của mình thì đã muộn. Anh liền gửi bức thư cuối cùng về nhà trước khi uống thuốc tự tử. Nhận được thư, bệnh cao huyết áp của ông Bằng tái phát, khiến ông phải nhập viện, rồi qua đời. Đồng thời, vợ và hai con trai của Cừ vô cớ bị sa thải khỏi nông trường, phải đến ở nhờ nhà ông Bằng, rồi nhà chị Hoài. Trước tình cảnh khó khăn, Luận, Phượng và Hoài đã tỏ rõ mình là những người có tinh thần trách nhiệm cao đẹp, thương người như thể thương thân. Chuyện của Cừ chưa nguôi ngoai thì bi kịch khác lại đến. Lý cảm thấy quá mệt mỏi và chán chường khi sống cạnh Đông, người chồng lôi thôi, tối ngày chỉ biết đánh tổ tôm, không quan tâm tới vợ. Chị bị ông trưởng phòng vật tư ở cơ quan dụ dỗ. Vốn là con người ít học, nhiễm lối sống thị thành xô bồ từ nhỏ, Lý dần dần bị cám dỗ. Chị đã có lần đi công tác Sài Gòn gần tháng trời với ông ta, sống cuộc sống ăn chơi, hưởng lạc, bỏ bê gia đình. Rồi cuối cùng chị bỏ chồng, theo ông ta vào Sài Gòn hẳn. Chỉ tới lúc đã đi khỏi nhà chị mới nhận ra lỗi sai của mình, viết thư tỏ ý muốn quay trở về. Câu chuyện kết thúc vào một đêm giáp Tết, khi mọi người nhận được thư của Lý. *** Nhà văn Ma Văn Kháng (sinh ngày 1 tháng 12 năm 1936 tại làng Kim Liên, Đống Đa, Hà Nội) tên thật là Đinh Trọng Đoàn. Ông là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, học trường Sư phạm Hà Nội. Ông từng là giáo viên cấp hai, dạy môn Văn và là hiệu trưởng trường cấp 3 thị xã Lao Cai nay là tỉnh Lào Cai. Ông cũng là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1974. Từ năm 1976 đến nay ông công tác tại Hà Nội, đã từng là Tổng biên tập, Phó Giám đốc Nhà xuất bản Lao động. Từ tháng 3 năm 1995 ông là Tổng biên tập tạp chí Văn học nước ngoài của Hội Nhà văn Việt Nam. Ông đã 8 lần đệ đơn xin thôi vị trí này. Tác phẩm Đồng bạc trắng hoa xòe (tiểu thuyết, 1979 Vùng biên ải (tiểu thuyết, 1983) Trăng non (tiểu thuyết 1984) Phép lạ thường ngày Thầy Thế đi chợ bán trứng Mưa mùa hạ (tiểu thuyết 1982) Mùa lá rụng trong vườn (tiểu thuyết, 1985) Võ sỹ lên đài Thanh minh trời trong sáng Hoa gạo đỏ Côi cút giữa cảnh đời (tiểu thuyết 1989) Đám cưới không giấy giá thú Đám cưới không có giấy giá thú (tiểu thuyết, 1989) Chó Bi, đời lưu lạc (tiểu thuyết 1992) Ngày đẹp trời (truyện ngắn 1986) Vệ sĩ của Quan Châu (truyện ngắn 1988) Giấy trắng (tiểu thuyết) Trái chín mùa thu (truyện ngắn 1988) Heo may gió lộng (truyện ngắn 1992) Trăng soi sân nhỏ (truyện ngắn 1994) Ngoại thành (truyện ngắn 1996) Truyện ngắn Ma Văn Kháng (tuyển tập 1996) Vòng quay cổ điển (truyện ngắn 1997) Năm tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ thương (hồi ký 2009) Một mình một ngựa (Tiểu thuyết 2007) Một Chiều Dông Gió Một Nhan Sắc Đàn Bà Trốn Nợ ***   Chợt có ngày hai mẹ con đang đi giữa phố cái Nga bỗng kêu: "Mẹ ơi, khói ở đâu ra thế này?" và cả hai mẹ con chìm trong một làn sương xám như bụi tro bay. Cái cảnh tượng như chỉ thấy ở miền núi vào những ngày mù sa làm cho con bé ngỡ ngàng. Nó ngỡ ngàng với tất cả. Kể cả việc nó được về thành phố ở với mẹ và bố. Phải mất gần một năm trời, mọi việc mới thu xếp xong, Phượng mới đưa được nó về đây. Con bé bị thiệt thòi nhiều quá. Nhưng nó đã được đền bù ngay: nó về đến thành phố thì cái Tết vừa chớm tới. Tết đang chầm chậm về, càng chầm chậm càng vui nôn nao. Cái Tết đến theo tiếng pháo dẫn đường. Thoạt đầu, pháo nổ đì đẹt, thưa thớt, ở xa lắc. Rồi gần dần, đặc dầy dần. Tới khi đường phố đã lấm tấm xác giấy hồng hồng và ở các cổng chợ, các ngã ba ngã tư, các quầy lá dong dựng lều bán mái thì đã là hăm ba tháng chạp - cái Tết thật sự đã có hình bóng. Cái văn phòng Xí nghiệp In có bà trưởng phòng tính nết thất thường của Phượng - cái thế giới sinh động vui vẻ ấy đón nhận cái Tết sớm hơn hẳn nơi khác. Vì cách đó mấy tuần, những tính toán chi tiêu sắm sửa cho cái Tết dân tộc đã lầm rầm chen lẫn vào công việc thường ngày, rồi mỗi ngày tiếng nó càng to, đến nỗi đã có lúc nó lấn át cả tiếng nói công việc. Và bà trưởng phòng, đã phải liên tục mở miệng quát tháo để giảm bớt sự nhiễu loạn và kéo sự chú ý của các cô vào công việc. Câu nói cửa miệng của bà lúc này là: "Tết với nhất, tốn tiền, mệt xác! Rồi lại còn dửng mỡ nữa chứ! Tôi yêu cầu! Tết năm nay cô nào còn đẻ nữa sẽ cắt thưởng. Sao mà ham đẻ thế!” Phượng bận rộn với công việc cuối năm. Hăm nhăm, hăm sáu Tết rồi vẫn còn hàng đống chứng từ hoá đơn chưa thanh toán, vào sổ. Còn quyết toán cả năm. Còn báo cáo tài chính với Liên hiệp xí nghiệp, với Ngân hàng. Năm nay xí nghiệp hoàn thành kế hoạch trước gần tháng, tiền thưởng khá to, nhưng làm cách nào rút được tiền mặt. Các cô đi qua, ghé lại bàn Phượng: "Chị Phượng ơi, Tết năm nay vợ chồng con cái em trông cậy cả vào chị đấy!” Và hình như chỉ chờ có vậy là bà trưởng phòng giật lên đùng đùng: - Hỏi cô thủ quỹ nhà các cô kia kìa! Bụng đã vượt mặt thế kia, còn có mà chạy được tiền mặt khối ra đấy! Tết năm nay cứ chuẩn bị mà treo niêu! Chửa với đẻ gì mà cứ như gà thế! Tháng trước xí nghiệp đã đứng ra làm lễ cưới cô thủ quỹ lấy ông Trưởng phòng Kỹ thuật. Giờ bụng cô đã to sề sệ. Rõ ràng là chửa trước ngày cưới chứ còn gì. Và Phượng thì bước đi đã thấy kềnh kệnh. Bà trưởng phòng nhằm vào hai cô tha hồ ngấm nguýt, móc máy, nhưng ngấm nguýt móc máy mà bà ngấm ngầm hả hê. Nhất là với cô thủ quỹ. Chửa đẻ thế, bị công luận coi thường là cái chắc, thì làm gì còn khả năng mà dám ganh với cái chức Trưởng phòng của bà. Một hôm bà đến bàn Phượng lúc cô đang bận làm quyết toán. Phượng nghĩ, chắc bà lại cự nự về việc mình trừ lương ông giám đốc từ tháng tới, hoặc là phàn nàn việc mình tự động lên gặp giám đốc đề nghị một số cải tiến trong việc kinh doanh của xí nghiệp hôm vừa rồi. Nhưng, không. Nghiêng nghiêng đầu, nhìn Phượng, mặt bà lồ lộ vẻ hí hửng rất trẻ con: - Này, đã có tin tức gì thằng Cừ chưa? Hơi bị bất ngờ, Phượng lắc đầu thật thà buồn rầu khe khẽ đáp: - Chú ấy không còn nữa, chị ạ. - Cái gì? Cậu nói cái gì! Nó có mà chết khối ra đấy! - Hai con mắt nổi phồng như mắt sư tử giấy, bà trưởng phòng, bỗng như nổi cơn hùng hổ, tiếp. - Này, nói để cô biết, phải cảnh giác nhé. Thằng Tàu nó bắt bọn di tản huấn luyện biệt kích rồi tung về ta làm gián điệp ối ra kia kìa. Quái, Cừ ở Canađa, chú ấy đã thất vọng và đã tự tử rồi. Sao bà lại nhằng chuyện nọ sang chuyện kia thế? Bà nói vậy là có ý gì? Đã tưởng bà đi, Phượng cúi xuống quay cái máy tính. Nhưng bà cũng lại cúi xuống theo và chống khuỷu tay lên mặt bàn Phượng, ghé sát vào mặt Phượng, toang toang như cố tình để người khác nghe thấy: - Này, thế bà vợ tay Đông ra sao rồi? Tớ biết ngay là con mẹ ấy nó sẽ bỏ lão Đông mà. Này, hồi nó viết thư đến xí nghiệp tố cáo cậu lăng nhăng với lão Đông, tớ mà không đứng ra bênh cậu thì còn lôi thôi to. Mụ ấy giờ ở đâu rồi? ... Mời các bạn đón đọc Mùa Lá Rụng Trong Vườn của tác giả Ma Văn Kháng.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Hòn Đất
Review Hồng Khánh: “Hòn Đất” là một khúc nhạc kiêu dũng và bi tráng về miền quê hồn hậu và anh hùng trong thời kỳ thương đau của đất nước những năm kháng chiến chống Mỹ - Nguỵ. Đọc “Hòn Đất”, tôi đã mê mải lạc về nơi hang Hòn nơi 17 người du kích đã anh dũng, kiên cường chiến đấu và bám trụ, nơi những khóm ấp ấm áp ngập tràn tình yêu thương. Ở nơi ấy, họ sống, họ yêu thương và sát cánh bên nhau dẫu chết chẳng chia lìa. Nước mắt tôi ướt đầm trang giấy nhỏ bởi sự hi sinh lớn lao, bởi tình yêu nồng nàn thấm từng con chữ. “Chị Sứ yêu Hòn Đất bằng tình yêu hầu như là máu thịt” Chị “yêu biết bao nhiêu cái chốn này, nơi chị oa oa cất tiếng khóc đầu tiên, nơi quả ngọt trái sai đã thắm hồng da dẻ chị”. Và chị, cũng như tất cả người con của Hòn Đất đã chiến đấu tới cùng vì một tình yêu sâu nặng như thế. Dù kẻ thù có mạnh đến đâu, có bạo tàn đến đâu chúng cũng không khuất phục được, không dập tắt được ngọn lửa rừng rực cháy trong mỗi người dân Hòn Đất, trong má Sáu, Út Quyên, anh Ba Rèn, Cà Mỵ, Ngạn hay San... Điều tôi yêu thích nhất ở Hòn Đất là cách viết đầy nhân đạo với những người phụ nữ nơi đây. Tất cả đều sáng trong và đẹp đẽ: tấm lòng của người mẹ, người bà, người chị, người vợ hay người yêu đều lấp lánh như sao trời và dịu êm như ánh trăng đổ tràn bên bờ suối, tắm đẫm áng tóc mây của chị Sứ. Chị Sứ, người con ưu tú của Hòn Đất yên giấc trong lòng đất mẹ, nhưng tinh thần chiến đấu, tình yêu của chị vang vọng và tỏa lan đến từng nhành cây ngọn cỏ của Hòn Đất, cũng là nguyên nhân của biết bao sự kiện khiến lính Cộng Hoà run sợ mà đỉnh điểm là cái chết của thằng Xăm - kẻ trực tiếp xuống tay tàn độc với chị Sứ, cũng là hung thần của Hòn Đất. Chiến tranh, lúc nào cũng đau thương và khốc liệt, nhưng cảnh nồi da nấu thịt luôn khiến người ta đau đớn gấp vạn lần. Và người phụ nữ khiến tôi xót thương hơn cả chính là bà Cà Xợi - mẹ thằng Xăm. Ai cũng qua một thời tuổi trẻ, bà già gàn dở Cà Xợi xưa kia là người con gái đẹp Khơ Me xinh đẹp, uyển chuyển, dịu dàng nhất vùng. Chả thế mà bà bị ép lấy tên chủ Mưu độc địa và sinh ra thằng Xăm. Dẫu hắn giống cha, ảnh hưởng của cha mà trở nên ác ôn, dẫu cô Cà Xợi bị đuổi đi khi bụng mang dạ chửa đứa con thứ 2, dẫu bà Cà Xợi - người chịu ơn cứu tử, cưu mang của mẹ con chị Sứ- đã nhiều lần van xin dân làng đừng coi hắn là con bà thì sự thật cũng chẳng thể nào thay đổi. Dù thuộc lòng vị trí từng mô đất, viên đá, bà vẫn ngã dúi dụi trên con đường quen thuộc khi hay tin thằng Xăm chuẩn bị về càn, bà ngất lên ngất xuống khi thấy vệt máu nơi khoé miệng hắn, khi hắn vừa ăn xong 1 buồng gan Việt Cộng và trở nên ngây dại từ đó. Đúng là “Cho dù ở Hòn Đất hay là ở trên khắp thế gian, người mẹ nào mà chẳng có nỗi đau khổ của riêng mình, nhưng thật cũng ít có người mẹ nào lại có nỗi đau như bà Cà Xợi”. Bà không dám nhìn bà con chòm xóm, những người mở rộng vòng tay và lòng bao dung với mẹ con bà, bà không dám đối diện với bà Sáu trong tang lễ chị Sứ, bà ngất lịm trước di vật của chị... Nỗi đau cứ lần lượt xếp chồng lên, trĩu nặng trái tim bà. Có người mẹ nào không yêu thương con hơn chính bản thân mình, có người mẹ nào không muốn con sống một cuộc đời thật tốt đẹp. Thế nhưng bà Cà Xợi đã không dưới một lần ước đứa con mình chết đi. Cái hình ảnh bà cầm con dao đứng bên cạnh thằng con say giấc sau bữa cơm rượu mẹ nấu là một hình ảnh đầy bi thương và ám ảnh. Nếu như Anh Đức để bà tự tay kết liễu cuộc đời hắn - như một bà mẹ Liên Xô nào đó đã làm, có lẽ tính tuyên truyền của tác phẩm sẽ vang dội hơn. Nhưng tác giả đã nhân đạo, đã không để bà mẹ Việt Nam lòng đầy yêu và hận làm việc đó. Cũng chính vì điều này, mà tôi thấy tác phẩm đẹp đẽ, trọn vẹn và nhân văn hơn rất nhiều. Cuốn sách, dẫu đây đó vẫn còn những hạt sạn ở tính Logic trong một vài tình tiết (lí do tên chủ Mưu đuổi bà Cà Xợi khi bà mang trong mình giọt máu của hắn chưa thật thỏa đáng, khói chẳng lùa vào hang, mùa khô mà xuất hiện mưa rào, bà Cà Xợi dễ dàng tìm ra 2 người du kích đầy đủ vũ trang...) thì “Hòn Đất” vẫn là một tác phẩm thật đẹp, rực rỡ như bông hoa Sứ thắm tươi - tên người con gái huyền thoại của Hòn Đất. *** Review Kẻ Lang Thang:   Không có cuộc chiến tranh nào là không ác liệt, nhưng khủng khiếp nhất, có lẽ, là nội chiến. Hòn Đất nói về một thời kỳ như thế, khi những người lính Việt Nam, dù là Việt Nam Cộng hoà hay Việt Nam Dân chủ cộng hoà, buộc phải giương súng bắn vào chính đồng bào của mình. Bằng giọng văn truyền cảm, nhà văn Anh Đức đã đưa người đọc tham gia vào một trận đánh có thật xảy ra tại Hòn Đất-Kiên Giang tháng 1 năm 1962. Đắm mình vào tác phẩm, khó ai có thể nén nổi xúc động trước những bi kịch và sự thảm khốc của chiến trường miền Nam giai đoạn 1960-1965. Khi việc tiếp cận với kho tri thức khổng lồ của nhân loại là quá dễ dàng như hiện nay, thiết nghĩ, đôi khi cũng nên dừng lại để đọc một tác phẩm văn học Việt Nam như thế này, để cảm nhận, dù chỉ một phần nhỏ sự dữ dội của chiến tranh và trên hết, để trân trọng hoà bình của Tổ quốc.   Nắng sớm đẫm chiếu người Sứ. Qua đây để thấy đó rất tốt ! Ánh nắng chiếu vào đôi mắt chị, tắm rợp mái tóc, phủ đầy đôi bờ vai tròn trịa của chị. Cuộc đời thật khốn nạn với tôi. Có những lúc, bỏ lỡ hiện tại, vĩnh viễn không còn cơ hội nữa.. Đó quả là một lựa sáng suốt.”. Cứ nghĩ là dễ dàng.. Cảm thấy bất lực khi không thể làm được.Đọc tiếp Đã lâu rồi mới có 1 cuốn sách làm mình vừa đọc vừa khóc như thế này. Khóc vì cảm phục tinh thần quyết tử của các anh du kích, khóc vì thương cho số phận của người dân trong thời chiến tranh loạn lạc, đặc biệt là khóc cho số phận của người phụ nữ Việt Nam, như mẹ Sáu, chị Sứ, Út Quyên, Cà Mỵ, Năm Nhớ, Thím Ba… những người phụ nữ thân yếu tay mềm nhưng tinh thần vô cùng bất khuất, thà chết chứ không bao giờ đầu hàng. Càng đọc truyện lại càng thấm tội ác tột cùng của tụi Mỹ-Diệm. Nó uống máu đồng bào ta, mỏ ruột moi bụng, cưỡng hiếp phụ nữ… Thật sự mình đã khóc khi chị Sứ và Đạt hi sinh, khi mẹ Sáu đau khổ vì mất con và khi trận chiến kết thúc, mọi người lại được đoàn tụ. Thật sự thì đây là cuốn truyện vô cùng cảm động và rất đáng để đọc, ngoại trừ 2 điểm mình không hài lòng lắm. Thứ nhất là bìa quá mềm và dễ rách. Thứ 2 là tác giả nên thay thế những từ như “tôi, tụi tôi” thành ” tui, tụi tui”. Vì nếu đã viết theo phong cách miền Nam thì nên thống nhất kiểu xưng hô. Còn không nên gọi là “chúng tôi”, mỗi lần đọc “tụi tôi” nghe hơi buồn cười. *** Tôi bắt đầu viết tiểu thuyết "Hòn Đất" tại Hội Văn Nghệ Giải Phóng miền Nam đóng giữa những cánh rừng già thuộc Đông Nam Bộ vào cuối năm 1964. Sang đầu năm 1965 thì tôi viết xong. "Hòn Đất" gởi ra Hà Nội và Nhà xuất bản Văn Học xuất bản đầu tiên năm 1966, đồng thời ở miền Nam tác phẩm này cùng với tập truyện và bút ký "Bức thư Cà Mau" của tôi được tặng giải chính thức giải thưởng Nguyễn Đình Chiểu. Tính đến nay, "Hòn Đất" ra mắt bạn đọc đã trên ba mươi năm và được tái bản tới lần thứ tám. Sách cũng đã được dịch và xuất bản nhiều thứ tiếng: Anh, Pháp, Espéranto, Tây Ban Nha, Nga, Đức, Trung Quốc, Nhật Bản... Ngày viết "Hòn Đất" tôi còn rất trẻ, mới hăm chín. Câu chuyện Hòn Đất là một câu chuyện về một trận đánh trong hàng ngàn trận đánh xảy ra trên chiến trường miền Nam trong giai đoạn sau đồng khởi, Mỹ tiến hành chiến tranh đặc biệt. Cuộc chống cự diễn ra trong hang Hòn Đất và ngoài xóm, trong thế chênh lệch: bên ta có mười mấy người bị vây trong hang với vũ khí thô sơ, cũ kỹ, còn phía Mỹ - ngụy gồm tới gần hai ngàn quân với vũ khí tối tân. Vì sao tôi đã chọn trận đánh có thật xảy ra tại Hòn Đất - Kiên Giang vào cuối 1962 đó để viết thành một tiểu thuyết có cùng tên với địa danh ấy? Trước hết là do bản thân câu chuyện tựa như là cả miền Nam chiến đấu được thu nhỏ, có tính tiêu biểu - có khả năng từ cái tiêu biểu mà khái quát hóa, thể hiện ở các mặt: tinh thần quân dân đoàn kết chiến đấu bất khuất dưới sự lãnh đạo chặt chẽ của Đảng, vận dụng phối hợp ba mũi giáp công, lực lượng đôi bên chênh lệch, và điều quan trọng hơn cả là viết ra câu chuyện này như gióng lên tiếng chuông báo trước: chiến tranh đặc biệt nói riêng và chiến tranh xâm lược nói chung bất kể dưới hình thức nào do Mỹ tiến hành sẽ thất bại. Ngoài ra, về mặt dựng truyện, một yếu tố khiến tôi tin tưởng là ngay từ trong chuyện đã xuất hiện một người con gái, đã sống và đã chết như một nữ anh hùng. Đó là chị Phan Thị Ràng, mà trong tiểu thuyết tôi đặt tên là Sứ. Việc có được và hình thành vun đắp ra được một nhân vật phụ nữ như thế, từ lâu trong đời viết của tôi luôn là niềm khao khát muốn khắc họa, và đó là sự quen thuộc, gần gũi như trước kia tôi đã từng khắc họa chị Tư Hậu trong "Một chuyện chép ở bệnh viện". Bởi lẽ đó, "Hòn Đất" là một tiểu thuyết viết về một cuộc chiến đấu mà cũng là một tiểu thuyết về một đời người con gái. Tôi đã rút ra từ nhiều mẫu người con gái miền Nam anh hùng bất khuất trung hậu đảm đang để đúc lại thành một người. Đó là chị Sứ. Trong hơn ba mươi năm, tôi rất sung sướng về một chị Sứ trong Hòn Đất do tôi xây dựng nên từ một nguyên mẫu, đã trở thành nhân vật văn học đến cùng bạn đọc gần xa. Tôi hy vọng hình tượng chị Sứ sẽ sống lâu trong lòng bạn đọc, qua các thế hệ, nhất là đối với các em gái nhỏ sắp lớn lên thành những người con gái trên xứ sở xanh tươi yên bình của chúng ta hôm nay - đất nước đã thấm biết bao máu của những người cô người dì mình như Sứ. Giờ đây Hòn Đất vẫn còn đó. Trên đường đi từ Rạch Giá lên Hà Tiên, các bạn sẽ nhìn thấy trái núi xanh rì ấy mé tay trái, sát kề bên biển. Cách hang Hòn không xa là ngôi mộ chị Ràng, tức chị Sứ. Câu chuyện chiến đấu ác liệt ngày nào ở Hòn Đất đã qua lâu, nhưng chị Sứ vẫn còn. ở đó, bên vịnh biển Tây Tổ quốc ngày đêm sóng vỗ. 30 - 4 - 1998 Anh Đức Mời các bạn đón đọc Hòn Đất của tác giả Anh Đức.
Hồ Ly Háo Sắc
Giới thiệu: – Sách xuất bản: “Phụng thiên thừa vận, Hoàng đế chiếu viết. Lệnh cho Nhị Công chúa Tô quốc đến Nam triều địch quốc giết Thái tử Tần Liễm.” “Giết Thái tử, giết thế nào???” Tô Hi mờ mịt hỏi. “Nhị Công chúa người dáng dấp không tệ, cầm kỳ thi họa cũng thông, có thể lợi dụng mỹ mạo…” Tô Hi thuận lợi gả cho Thái tử Nam triều Tần Liễm, vốn tưởng rằng có thể giả heo ăn thịt hổ, ai ngờ Tần Liễm phúc hắc như một con hồ ly xảo quyệt, áp chế và phản kháng, đùa bỡn và bị đùa bỡn… Tại đông cung sắc xuân dạt dào, mỗi ngày đều diễn ra tiết mục heo bị hồ ly ăn, Tô Hi à Tô Hi, lần này hoàn toàn trốn không thoát, chỉ đành chờ hoa lê thấm hạt mưa cầu xin tha thứ thôi! Nhưng quân cờ tóm lại vẫn là quân cờ, sẽ có ngày bị vứt bỏ. “Tần Liễm, nếu có một ngày ta rời xa chàng, chàng sẽ làm sao?” Tần Liễm bình tĩnh nói: “Thiên hạ đều là của ta, nàng có thể đi đâu? Đi rồi bắt trở lại, càng bắt nạt thậm tệ hơn.” – Tấn Giang: Ta vẫn chưa bao giờ nghĩ rằng, ta sẽ thích Tần Liễm. Nhưng mà, đến lúc ta thích hắn, lại cũng là lúc ta phải rời khỏi hắn. Tỷ tỷ Tô Tư từng nói, nếu muội không muốn khổ sở vì một người, biện pháp đầu tiên là quên, biện pháp thứ hai là chết trước hắn. Nói tóm lại, đây là một câu chuyện mỹ nhân giả heo ăn thịt hổ. GHI CHÚ: Tác giả bảo HE, còn lại tuỳ vào cách nhìn độc giả  *** Thật ra REVIEW đã viết đc hơn phân nửa, nhưng cuối cùng lại ko đăng vì hình như nó… spoil gần hết truyện.Vì truyện ko phải giật gân kịch tính gì nên thôi, cũng ko nhất thiết phải nói nhiều, vì 2 cái văn án trên đã nói rõ hết rồi. Tính ra thì mình rất kén truyện viết ngôi 1, vì thường những truyện này mình rất khó nắm bắt diễn biến tâm lý nam chính. Hơn nữa mình ít khi edit truyện hài, vì mình rất sợ… hài nhảm. Rất nhiều bộ ngôn tình tràn lan bây giờ đều hài theo kiểu vớ vẩn, chỉ nghe tên là mình đã muốn drop chứ đừng nói là đọc. Nhưng sau khi vòng vèo mấy hồi thì mình cũng quyết định edit bộ này, vì nhiều lý do sau đây. - Nam chính – Tần Liễm là 1 con đại hồ ly, vô cùng phúc hắc, nữ chính ko có cơ hội phản kháng. Nữ chính – Tô Hi tuyệt đối ko phải tiểu bạch, nhưng lớn lên trong 1 hoàn cảnh ko đc sáng sủa mấy thì bản tình bị chèn ép cũng đc tạo nên. Vì sao ko đc sáng sủa, là vì bên cạnh cô nàng trước khi gặp nam chính còn có 1 con đại hồ ly khác. Cuộc đời nữ chính có thể tóm gọn như sau: Con mồi ko tự sinh ra cũng ko tự mất đi, nó chỉ chuyền từ tay con hồ ly này sang con hồ ly khác. - Thường khi đọc truyện, có 1 loại nam phụ mà nam chính luôn phải dè chừng, cái loại nam phụ này thường ko xơ múi đc gì, nhưng lại có sức đe dọa ko hề nhỏ với nam chính, là ai? Anh trai nữ chính – Tô Khải, con hồ ly còn lại. Thật ra trong bộ này, ng` đc lòng dân tình nhất ko phải nam chính, mà chính là Tô Khải. Bao nhiêu năm sống dưới sự chèn ép của ông anh này, tiền đồ nữ chính có thể nói là hoàn toàn ko còn hy vọng Mình dạo thử 1 vòng trên Tấn Giang, rất nhiều độc giả đã kêu gào tác giả vì sao ko viết… huynh muội luyến?  Hoặc là viết hẳn 1 bộ cho anh chàng này. Nói chung là #team_Tô_Khải hơi đông & hùng hậu. Chàng ta đáng yêu thế nào ư? Xin mời theo dõi truyện để biết thêm chi tiết lxhtouxiao_thumb Đặc biệt đừng bỏ lỡ những màn đấu khẩu “mạt cưa mướp đắng” của anh vợ – Tô Khải & em rể – Tần Liễm. - Về nội dung thì từ văn án có thể hình dung đc rồi Tuy rằng đây là truyện hài, nhưng vẫn có những đoạn u ám nặng nề do gánh nặng giang sơn. Với Tần Liễm và Tô Hi, ai trong 2 người họ yêu đối phương trước thì sẽ thua cuộc. Đứng trước chữ tình và chữ quốc, cả 2 đều chọn lối đi khác nhau cho mình. Có người đáng trách, có người đáng thương, nhưng số phận bọn họ sinh ra đã thế. Cả 2 đều là người lớn lên trong gia đình bậc đế vương, trước sau đều ko thể vẹn toàn. Như tác giả bảo HE, thì các bạn cứ có niềm tin là HE. Trọn vẹn hay ko sẽ tùy vào cách nhìn của độc giả. Nhưng nếu bạn là độc giả thân quen với những bộ edit trước của mình thì có thể lờ mờ suy đoán đc phong cách kết thúc mình khoái (vì khoái nên mới edit, nhể? ) Có 1 câu trong văn án thế này: “Tỷ tỷ Tô Tư từng nói, nếu muội không muốn khổ sở vì một người, biện pháp đầu tiên là quên, biện pháp thứ hai là chết trước hắn.” Nói để cho các bạn độc giả chuẩn bị tinh thần trước. Đây chính là hướng đi của truyện, đi hướng nào, truyện sẽ từ từ giải đáp. gza_thumb - Cá nhân mình đánh giá cao truyện này vì cách tác giả xây dựng mối quan hệ huyết thống trong tuyện. Trong truyện này, thật ra chẳng có nhân vật phụ nào đáng ghét cả. Dù cả 2 bên chiến tuyến đều là những người sinh ra trong gia đình đế vương, đều có những quyết định thân bất do kỷ nhưng nam chính có dàn anh trai rất dễ thương. Và nữ chính thì có 1 ông anh trai & 1 bà chị biến thái chả kém (2 người này có cách thương em gái út rất… dị, làm anh nam chính trầy trật lên xuống mấy bận heia_thumb, đặc biệt là ông anh, trấn lột đàn áp em gái thế chứ có thằng khác nhảy vào cuỗm đi là xù lông ngay. - 1 vài vấn đề ngoài lề: Bộ này có 1 mẩu truyện ngắn nhỏ đã đc đăng trên DĐLQĐ, có thể tóm gọn sự lưu manh vô sỉ của bạn Tần Liễm. Và còn chuyện anh ấy sạch hay ko, e hèm, nói thật là bình thường mình chả quan tâm vấn đề này, vì truyện mình edit chưa anh nào sạch cả & bạn Tần Liễm này là ngoại lệ đầu tiên. Mình chỉ đang cứu vớt hình tượng của anh ấy thôi, vì dự báo #Team_Tô_Khải sẽ rất hùng hậu. P/S: Vì truyện viết theo giọng hài, cho nên những đoạn tưởng chừng như bi kịch lại ko hề thấy buồn, mà có 1 chút cảm giác thanh thản Vì đc viết đan xen quá khứ & hiện tại nên nhiều đoạn hơi khó nắm bắt, nhưng nhìn chung mạch truyện thế với mình là ổn. Tác giả sáng tác bộ này từ 2011, đăng dần trên mạng đến tận 2014 (xuất bản vào tháng 5.2014), bìa truyện khá dễ thương nên cũng ko nặng nề quá đâu. Mời các bạn đón đọc Hồ Ly Háo Sắc của tác giả Chiết Hỏa Nhất Hạ.
Người Trong Đêm Hè
Người Trong Đêm Hè là cuốn tiểu thuyết đã góp phần đưa giải Nobel Văn học năm 1939 về cho Frans Emil Sillanpää và về cho đất nước Phần Lan. Chính Sillanpää đã gọi "đứa con tinh thần" này là "chuỗi thơ mang tính tự sự" bởi sự đan kết tự nhiên giữa bốn mươi tám văn khúc tả cảnh, đối thoại, độc thoại, có lúc đầy kịch tính, khi lại man mác, nên thơ. Tuy là một tác phẩm ngắn trong địa hạt tiểu thuyết, Người trong đêm hè vẫn dựng được tuyến nhân vật phong phú và sinh động. Trước hết, Sillanpää dành nhiều trang viết cho những phụ nữ ở miền quê: cô thiếu nữ Helka đang trải qua quãng đời thanh xuân yên bình; còn hai người vợ - Hilja và Santra - mỗi người đối diện với một hoàn cảnh, đeo nặng một tâm tư. Song hành cùng các nhân vật nữ, dĩ nhiên, là bóng hình những người đàn ông: chàng sinh viên Arvid hào hoa (bạn trai Helka); anh nông dân Jalmari ngu ngơ, vụng về (chồng Hilja); Jukka - người chồng thờ ơ của Santra. Họ cùng xuất hiện trên nền bối cảnh điền trang, một không gian tưởng chừng đơn sơ, yên ả song lại làm nảy lên bức tranh nội tâm sâu kín, đa chiều. *** Frans Sillanpää sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo, thuộc xứ đạo Hämeenkyrö. Cuộc sống vất vả khiến bố mẹ ông chỉ có thể nuôi ông ăn học trong 5 năm đầu tại trường trung học Tampere, 3 năm sau đó ông phải tự kiếm tiền để học tiếp. Năm 1908, ông đỗ vào Đại học Helsinki, ngành sinh vật học, với số điểm loại ưu. Nhưng chỉ theo học được một thời gian ngắn, ông đã phải bỏ, về nhà mở cửa hàng văn phòng phẩm kiếm sống. Ở nhà, ông bắt đầu viết truyện và ngay từ truyện ngắn đầu tiên, ông đã được tổng biên tập một tờ báo lớn đánh giá cao và mời cộng tác. Tiểu thuyết đầu tay của ông là Elämä ja aurinko (Cuộc sống và mặt trời), in năm 1916. Năm 1919, tiểu thuyết Hurskas kurjuus (Cái nghèo thanh cao) đã đưa ông vào hàng ngũ những nhà văn danh tiếng, khiến một nhà xuất bản nổi tiếng đề nghị ông viết sách cho họ và sẵn sàng ứng tiền để ông chuyên tâm vào công việc; từ năm 1920 ông được chính phủ Phần Lan trao một khoản trợ cấp trọn đời. Tiểu thuyết đỉnh cao giúp ông đoạt giải Nobel năm 1939 là Nuorena nukkunut (Thiếu nữ chết trẻ), kể về số phận bi thảm của những gia đình nông dân Phần Lan bị những mối quan hệ tư bản thâm nhập vào nông thôn tàn phá. Cuối đời ông viết nhiều tiểu luận và hồi ký tự thuật. Trong các tác phẩm của mình, Frans Sillanpää luôn khẳng định sức mạnh bản năng và tư tưởng thần bí, bi quan. Năm 1936, ông được Đại học Helsinki trao bằng Tiến sĩ Danh dự và năm 1939 được Viện Hàn lâm Thụy Điển trao giải Nobel. Do chiến tranh, buổi lễ trao giải không tổ chức được nhưng ông đã nhận bằng trong một cuộc họp của Viện Hàn lâm Thụy Điển vào tháng 12 năm 1939. Thời gian này, sức khỏe của ông giảm sút, ông rơi vào trạng thái trầm cảm nặng vì vợ mất và đất nước bị chiến tranh tàn phá, phải điều trị tại bệnh viện tâm thần đến năm 1943. Tác phẩm cuối cùng của ông là bộ hồi ký gồm ba cuốn xuất bản từ năm 1953 đến năm 1956. Frans Sillanpää được toàn thể nhân dân Phần Lan yêu quý, ông thường được mời phát biểu trên đài phát thanh. Ông mất ở Helsinki năm 66 tuổi. Tác phẩm: Elämä ja aurinko (Cuộc sống và mặt trời, 1916), tiểu thuyết Ihmislapsia elämän saatossa (Những con người trong đường đời,1917), tập truyện Hurskas kurjuus (Cái nghèo thanh cao, 1919), tiểu thuyết Rakas isänmaani (Tổ quốc yêu dấu, 1919), tiểu thuyết Hiltu ja Ragnar (Hiltu và Ragnar, 1923), tiểu thuyết Enkelten suojatit (Sự bảo trợ của các thiên thần, 1923), tiểu thuyết Omistani ja omilleni (Về chính tôi và cho chính tôi, 1924), tiểu thuyết Maan tasalta (Từ độ cao của Trái Đất, 1924), tiểu thuyết Töllinmäki (Ngọn đồi ổ chuột, 1925), tiểu thuyết Rippi (Xưng tội, 1928), tiểu thuyết Kiitos hetkistä, Herra... (Cảm ơn Chúa đến đúng lúc..., 1930), tiểu thuyết Nuorena nukkunut (Thiếu nữ chết trẻ, 1931), tiểu thuyết Miehen tie (Con đường của người đàn ông, 1932), tiểu thuyết Virran pohjalta (Dưới đáy sông, 1933), tiểu thuyết Ihmiset suviyössä (Người trong đêm hè, 1934), tiểu thuyết Viidestoista (Thứ mười lăm, 1936), tiểu thuyết Elokuu (Tháng Tám, 1944), tiểu thuyết Ihmiselon ihanuus ja kurjuus (Hạnh phúc và đau khổ của đời người, 1945), tiểu thuyết Poika eli elämäänsä (Cậu bé đã sống cuộc đời mình, 1953), hồi ký Kerron ja kuvailen (Tôi kể chuyện và tôi mô tả, 1954), hồi kí Päiva korkeimmillaan (Ngày cực điểm, 1956), hồi kí *** Review SP: Tác phẩm văn học “Người trong đêm hè” – bản giao hưởng cho mùa hạ trắng Phương Bắc.Tiểu thuyết cũng đã nhận được nhiều giải thưởng cũng như đánh giá tích cực của công chúng. “Mùa Hè phương Bắc gần như không có đêm, chỉ có ánh sáng mờ ảo ngập ngừng, chầm chậm trôi qua. Nhưng trong chạng vạng vẫn ngời lên tia sáng không ngôn từ nào có thể tả nổi. Đó chính là lời thì thầm của sáng Hè đang đến gần. Khi giai điệu hoàng hôn lắng lại thành nốt mềm xanh tim tím màu hoa violet, mê say dịu dàng ngân dài ngay trong quãng ngắt ngắn ngủi, là lúc violon chính bừng tỉnh và bắt vào giai điệu cao nghiêng nghiêng, để cho violon xen nhanh chóng hòa nhịp. Ta cảm nhận được từ trong sâu thẳm tâm hồn bức tranh giai điệu đó” trích Tiểu thuyết, tác phẩm văn học, “Người trong đêm Hè” của Frans Emil Sillanpää, (người dịch: Tiến sĩ Bùi Việt Hoa) Tiểu thuyết hay còn được gọi là “chuỗi thơ mang tính tự sự” với 48 bài văn dài ngắn khác nhau của nhà văn Frans Emil Sillanpää (1888 – 1964) cùng với những sáng tác trước đó đã đem giải Nobel văn học đầu tiên vào năm 1939 và cho đến giờ vẫn là giải Nobel duy nhất của Phần Lan. Mùa Hè, tháng Bảy ở Phần Lan, đất nước Cực Bắc của châu Âu, gần như không có đêm nên thường được gọi là mùa hạ trắng với những đêm trắng khi mặt trời gần như không ngủ và thiên nhiên được miêu tả đẹp như tranh vẽ. Tại vùng nông thôn, thiên nhiên êm đềm, không gian tĩnh lặng, trong lành, cũng có nhiều người không ngủ với nhiều lí do khác nhau. Có những lí do rất đẹp và lãng mạn như khi đôi lứa yêu nhau, cô gái mải suy tư mà không dỗ được giấc ngủ, có người mải chèo thuyền trên hồ và đi ngắm nghía đất đai, người đi dự tiệc đính hôn, người trò chuyện, khiêu vũ, người trở dạ sinh con, và có cả những thương đau như đứa trẻ không được chào đời hay người đàn ông mắc tội giết người, người chồng đi không trở về … Người kể chuyện, kể về các cảnh khác nhau với những giọng điệu khác nhau từ trẻ tới già, từ giàu tới nghèo, từ người không có học đến người học thức, có cả mặt tốt và mặt xấu. Ngôn ngữ của tác giả rất chân thật, biểu cảm và giàu chất thơ ngay từ những đoạn văn khởi đầu của cuốn tiểu thuyết mini đã tạo nên một tấm gương phản chiếu đời sống nông thôn điển hình của Phần Lan những năm 30’ nơi thiên nhiên và con người gần như hòa làm một, nơi mọi hoạt động đều chứa đựng nhiều xúc cảm, nơi trong sinh, yêu và tử có đan xen trong niềm vui, nỗi đau, sự trăn trở, tiếc nuối, những khát khao giới tính kỳ lạ… ”Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng trong Người trong đêm Hè thiên nhiên mới là nhân vật trung tâm xuyên suốt tiểu thuyết. Ánh sáng và âm thanh, mặt trời và đêm trắng, cánh đồng lúa, rừng cây, mặt hồ nước, trang viên… một vùng quê với đủ mọi thăng trầm và cuộc sống của những người dân đủ mọi tầng lớp trong ánh sáng mờ ảo của đêm Hè hiện lên thật hoàn hảo dưới ngòi bút của Sillanpää. Đây là tác phẩm văn xuôi mang tính trữ tình đậm đặc nhất, nhiều tính nhạc nhất của nhà văn”. Dịch giả Bùi Việt Hoa, người đã có nhiều năm sống và làm việc ở Phần Lan, nghiên cứu văn hóa và văn học Phần Lan, cho biết. Tác phẩm văn học không chỉ đem đến những áng văn tả cảnh tuyệt đẹp, những câu chuyện đời sinh động, chân thực mà còn nêu ra những triết lý vô cùng đơn sơ mà sâu sắc: “Trên thế gian này ai cũng có lúc nghĩ họ đau khổ nhất trần gian – khi không nghĩ đến người khác, mà chỉ chăm chăm nghĩ về mình”. Chỉ một năm sau khi ra đời, tác phẩm văn học Người trong đêm Hè đã được dịch và xuất bản ở Thụy Điển năm 1935 và hai năm tiếp theo được dịch và xuất bản ở Estonia (1936), Đan Mạch (1937), Na Uy (1937) và Latvia (1937), Anh (1966). Cho đến nay, tiểu thuyết này đã được dịch ra 17 thứ tiếng khác nhau trên thế giới. Tiểu thuyết được chuyển thể thành phim cùng tên vào năm 1948 và nhận được nhiều giải thưởng cũng như đánh giá tích cực của công chúng.   Mời các bạn đón đọc Người Trong Đêm Hè của tác giả Frans Emil Sillanpää.