Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ma Cà Rồng Ở Dallas

Khi chàng ma cà rồng Bill Thompton tiếp nhận vị trí Điều tra viên khu vực Số Năm, Sookie Stackhouse mặc nhiên được những ma cà rồng quyền lực nhất vùng bảo vệ. Nhưng, được coi như món đồ thuộc quyền sở hữu của Bill, cô buộc phải sử dụng khả năng đọc tâm trí của mình để phục vụ những kẻ khát máu. Với điệp vụ đầu tiên trong vai trò một tay lính đánh thuê, cô phải lặn lội cùng Bill tìm lời giải đáp cho sự mất tích bí ẩn của một ma cà rồng đồng tính tận Dallas. Cô những tưởng mình chỉ cần đọc tâm trí một vài người thường nào đó. Cô cũng đã tưởng mình có thể bảo vệ những con người liên quan đến vụ việc. Chỉ có điều, mối nguy hiểm không phải lúc nào cũng chỉ đến từ phía ma cà rồng. Và, lý thuyết bao giờ cũng đơn giản hơn thực tế… Một lần nữa, chính mạng sống của cô lại bị treo trên đầu sợi tóc… Charlaine Harris (sinh 25/11/1951) sinh ra và lớn lên tại Tunica, Mississippi và hiện giờ đang sống ở Arkansas cùng chồng và ba người con. Bà sáng tác thơ, truyện ngắn, kịch và tiểu thuyết. Chết trước hoàng hôn (Dead Until Dark) là tập đầu tiên trong bộ tiểu thuyết ăn khách The Southern Vampire Mysteries (Bí ẩn ma cà rồng miền Nam), từng giành được giải Anthony Award cho Tác phẩm thần bí xuất sắc nhất 2001. Bộ tiểu thuyết này cũng được đạo diễn Alan Ball chuyển thể thành series phim truyền hình ăn khách nhiều năm liên tiếp True Blood. “Thật khó tưởng tượng ra cảnh ma cà rồng và người sói cùng lượn lờ ở mỗi góc đường, nhưng Harris đã biết cách khiến người đọc yêu thích, bị lôi cuốn và cuối cùng là mê mệt những câu chuyện của bà.” – The Monroe News-star “Một cuốn sách bạn muốn đọc trước giờ đi ngủ, chắc mẩm sẽ chỉ theo dõi hết chương đầu tiên, nhưng hóa ra lại chỉ dừng lại được khi đã đi đến trang cuối cùng.” – Alan Ball, biên kịch American Beauty và đạo diễn True Blood “Bằng sự hòa quyện của những pha hành động, tình cảm và các chi tiết hài hước, Harris đã tạo ra một thế giới sống động đầy tính hiện thực, tất nhiên, nếu không kể đến ma cà rồng và những sinh vật siêu nhiên khác.” – The Toronto Stars *** Andy Bellefleur đã say khướt. Chuyện này chẳng bình thường với Andy chút nào - tin tôi đi, tôi biết hết mấy tay nát rượu ở Bon Temps. Nhờ nhiều năm làm việc trong quán bar của Sam Merlotte, tôi đã quen mặt tất cả bọn họ. Nhưng Andy Bellefleur, người gốc địa phương và là thanh tra trong lực lượng cảnh sát ít ỏi ở thị trấn Bon Temps, thì trước giờ chưa từng say xỉn ở quán Merlotte. Tôi cực kỳ tò mò muốn biết vì sao tối nay lại là ngoại lệ. Vì Andy và tôi chẳng hề quen thân nên tôi không thể hỏi thẳng anh ta được. Nhưng vẫn còn vài cách khác mà, thế là tôi quyết định dùng các cách ấy. Mặc dù tôi luôn cố hạn chế sử dụng khiếm khuyết, hay tài năng của mình, muốn gọi sao cũng được, để tìm ra những thứ có thể ảnh hưởng đến tôi hoặc những thứ thuộc về tôi, nhưng đôi lúc sự tò mò lại thắng thế. Tôi hạ rào chắn tâm trí xuống để đọc suy nghĩ của Andy. Rồi tôi lại thấy hối hận. Sáng nay Andy đã tóm một tên bắt cóc. Gã đàn ông đó đã bắt cóc cô bé hàng xóm mới mười tuổi mang vào rừng hãm hiếp. Cô bé đó hiện đang ở bệnh viện, còn gã kia đang ở trong tù, nhưng tổn hại mà hắn đã gây ra thì chẳng thể nào khắc phục được. Tôi buồn đến phát khóc. Tội ác ấy chạm vào sâu thẳm quá khứ của chính tôi. Sự trầm uất của Andy làm tôi thấy thích anh ta hơn một chút. “Này Andy Bellefleur, đưa chìa khóa xe anh đây,” tôi nói. Gương mặt to bành của Andy ngước lên nhìn tôi, ngơ ngác. Sau một hồi lâu ngẩn ngơ để cho lời tôi nói thẩm thấu vào trí óc rối bời của mình, Andy thò tay lục túi quần kaki rồi đưa tôi một chùm chìa khóa nặng trịch. Tôi đặt thêm một ly bourbon pha coca trên quầy bar trước mặt anh ta. “Tôi mời,” tôi nói, rồi lấy điện thoại ở cuối quầy bar gọi cho Portia, em gái Andy. Hai anh em nhà Bellefleur sống ở một căn biệt thự lớn kiểu tiền Nội Chiến hai tầng màu trắng trước đây hẳn rất tráng lệ nhưng giờ đang xuống cấp, nằm trên con phố xinh xắn nhất trong khu vực đẹp nhất thị trấn Bon Temps. Trên đường Magnolia Creek, mọi ngôi nhà đều quay mặt ra phía dải công viên có dòng suối nhỏ len qua, bắc rải rác ngang con suối là những cây cầu hoa hòe hoa sói chỉ dành riêng cho người đi bộ; đường lộ chạy dọc hai bên công viên. Trên đường Magnolia Creek còn có vài căn nhà xưa khác nữa, nhưng tất cả đều được chăm chút hơn nơi ở của gia đình Bellefleur, căn Belle Rive. Việc duy tu căn nhà Belle Rive vượt quá khả năng chi trả của Portia, một luật sư, và của Andy, một cảnh sát, vì số tiền để duy trì căn nhà cùng đất đai vườn tược chung quanh đã hết từ lâu rồi. Nhưng bà của họ, Caroline, lại gàn bướng không chịu bán. Portia nhấc điện thoại sau hồi chuông thứ hai. “Portia à, tôi là Sookie Stackhouse đây,” tôi phải lên giọng để át đi âm thanh ồn ã trong quán bar. “Hẳn là cô vẫn đang ở chỗ làm.” “Phải rồi. Andy đang ở đây, say mèm rồi. Tôi đã thu chìa khóa xe của anh ấy. Cô đến đón Andy được không?” “Andy quá chén à? Hiếm nhỉ. Được rồi, tôi sẽ đến đó trong vòng mười phút,” cô ta hứa, rồi cúp máy. “Cô tốt bụng quá, Sookie,” tự nhiên Andy thốt lên. Anh ta đã nốc cạn ly rượu tôi vừa rót. Tôi gạt cốc ra chỗ khuất mắt, mong rằng anh ta không đòi thêm nữa. “Cảm ơn anh, Andy,” tôi nói. “Anh cũng là người tốt bụng mà.” “Bạn trai… đâu ấy nhỉ?” “Ngay đây này,” một giọng nói lạnh lùng đáp lại, và Bill Compton xuất hiện ngay đằng sau Andy. Tôi mỉm cười với anh qua đầu Andy lúc này đang gục xuống. Bill cao khoảng một mét tám, tóc và mắt cùng một màu nâu sẫm. Anh có bờ vai rộng và đôi cánh tay cuồn cuộn cơ bắp như của người đã lao động chân tay suốt nhiều năm liền. Trước khi đi lính, Bill đã làm việc ở trang trại, đầu tiên là cùng bố, sau đó làm một mình. Trong cuộc Nội Chiến thì phải. “Chào M.B.!” Micah, chồng của Charlsie Tooten, cất tiếng. Bill phẩy tay đáp lại, Jason, anh trai tôi, thì chào hỏi vô cùng lịch sự, “Chào buổi tối nhé, ma cà rồng Bill.” Jason, trước đây không mấy sẵn lòng đón chào Bill bước vào gia đình nhỏ của chúng tôi, nhưng giờ lại thay đổi thái độ hoàn toàn. Trong thâm tâm tôi gần như vẫn nín thở chờ xem thái độ được cải thiện này có tồn tại mãi không. “Này Bill, anh là một tay hút máu tốt bụng đấy,” Andy nói vẻ đánh giá, rồi xoay người đối mặt Bill. Tôi lại nâng cấp quan điểm của mình về Andy khi say xỉn, vì khi tỉnh táo có bao giờ anh ta tỏ ra sẵn lòng chấp nhận ma cà rồng vào xã hội con người trên đất nước này đâu cơ chứ. “Cảm ơn anh,” Bill đáp bằng giọng khô khốc. “Với một tay nhà Bellefleur thì anh cũng đâu quá tệ.” Anh rướn người qua quầy hôn tôi. Đôi môi anh cũng lạnh như chính giọng nói. Phải làm quen với điều này thôi. Như khi ngả đầu lên ngực anh, chẳng ai nghe thấy được nhịp tim đập trong ấy. “Chào buổi tối, cưng à,” anh nói nhỏ. Tôi đẩy qua quầy bar một ly B trừ, loại máu nhân tạo được Nhật Bản phát chế, anh ngửa cổ nốc cạn rồi liếm môi. Gần như ngay lập tức trông anh hồng hào hẳn. “Cuộc họp sao rồi cưng?” tôi hỏi. Bill đã ở Shreveport hầu như cả đêm hôm nay. “Anh sẽ kể cho em sau.” Tôi hy vọng những chuyện liên quan đến công việc của anh không quá bi thương như chuyện của Andy. “Được thôi. Em mong là anh sẽ giúp Portia dìu Andy ra xe cô ấy. Cô ấy đến kia kìa,” tôi nói, hất đầu về phía cửa. Đấy là lần đầu tiên tôi không thấy Portia vận bộ đồng phục váy công sở, sơ mi, áo khoác, tất dài cùng giày đế bệt. Portia đã thay quần jean xanh và một chiếc áo lạnh Sophie Newcomb nhàu nhĩ. Thân hình Portia to cao như người anh mình, nhưng cô có mái tóc màu hạt dẻ dài và dày. Chăm sóc cho mái tóc mình đẹp đẽ là một nét đặc trưng của bản thân mà Portia chưa muốn từ bỏ. Cô chỉ đưa mắt khắp đám đông om sòm chăm chăm tìm một thứ. “Ôi, anh ấy xỉn quá rồi, hay nhỉ,” cô thốt lên, thẩm định tình trạng ông anh trai của mình. Portia cố phớt lờ Bill, người đang làm cô thấy hết sức khó chịu. “Chuyện này không xảy ra thường xuyên đâu, nhưng nếu đã muốn uống thật là anh ấy sẽ uống quắc cần câu luôn.” “Portia này, Bill có thể dìu anh ấy ra ngoài xe giúp cô,” tôi nói. Andy cao và đậm người hơn Portia, rõ ràng là nặng quá sức cô em gái. “Tôi nghĩ mình có thể tự lo được,” Portia quả quyết với tôi, vẫn không thèm nhìn qua Bill, lúc này đang nhướn mày nhìn tôi. Thế là tôi để cô vòng tay qua người ông anh trai, cố nhấc anh ta ra khỏi ghế. Andy vẫn ì ra đó. Portia liếc nhìn quanh tìm Sam Merlotte, chủ quán bar, tuy anh này có vẻ ngoài nhỏ thó gầy gò nhưng thật ra lại rất khỏe. “Sam đang đi pha chế rượu cho một buổi tiệc kỷ niệm ở câu lạc bộ ngoại ô mất rồi,” tôi nói. “Tốt hơn hết là cứ để Bill giúp đi.” “Ừ thôi cũng được,” cô luật sư cứng nhắc đáp, mắt nhìn chăm chăm lên mặt gỗ quầy bar bóng loáng. “Cảm ơn rất nhiều.” Trong chớp mắt Bill đã xốc Andy lên đi ra phía cửa, mặc cho hai chân Andy cứ muốn nhũn như chi chi. Micah Tooten bật dậy mở cửa, để Bill có thể dìu Andy thẳng ra ngoài bãi đỗ xe. “Cảm ơn cô, Sookie,” Portia nói. “Tiền rượu anh ấy đã trả hết chưa?” Tôi gật đầu. “Được rồi,” cô nói, vỗ nhẹ tay xuống bàn để ra hiệu là cô về đây. Cô phải nghe hàng đống lời khuyên đầy thiện chí khi theo bước Bill ra khỏi cửa chính của quán Merlotte. Đó là lý do vì sao mà chiếc Buick cũ kỹ của thanh tra Andy Bellefleur lại đỗ trong bãi xe quán Merlotte suốt đêm đến tận ngày hôm sau. Sau này hẳn anh ta sẽ thề rằng dĩ nhiên không có ai trong chiếc Buick ấy khi mình bước ra khỏi xe đi vào quán. Hẳn anh ta cũng sẽ khai rằng trước đó do quá bận tâm về cơn hỗn loạn nội tâm nên đã quên khóa cửa. Đâu đó trong khoảng thời gian từ tám giờ tối, khi Andy bước vào quán Merlotte, đến mười giờ sáng hôm sau, khi tôi đến để giúp mở cửa tiệm, xe của Andy đã có thêm một hành khách mới. Người này chắc chắn sẽ gây ra một nỗi xấu hổ trầm trọng cho viên cảnh sát. Hắn đã chết. Đáng lẽ ra tôi không nên đến đây làm gì. Đêm trước tôi đã làm ca khuya, và nhẽ ra tối hôm sau tôi lại phải làm ca khuya nữa. Nhưng Bill đã yêu cầu tôi đổi ca với một đồng nghiệp khác, bởi anh cần tôi đi cùng đến Shreveport, và Sam đã không phản đối. Tôi đã nhờ chị bạn Arlene đổi ca với tôi. Hôm ấy là ngày nghỉ của chị, nhưng Arlene luôn muốn kiếm những món tiền boa hậu hĩnh hơn khi làm việc ca tối, nên chị đồng ý đến quán vào lúc năm giờ chiều. Kỳ thực, lẽ ra Andy đã phải đến lấy xe buổi sáng hôm đó, nhưng anh ta vẫn còn quá váng vất không đủ sức làm trò buộc Portia cho quá giang đến quán Merlotte, quán này thì không nằm trên đường tới đồn cảnh sát. Cô bảo buổi trưa sẽ đến đón anh ở chỗ làm, và cả hai sẽ dùng bữa ở quán. Sau đó thì anh ta có thể lấy xe. Thế nên chiếc Buick, cùng vị hành khách câm lặng của mình, đã phải chờ lâu hơn thời gian cần thiết mới được phát hiện. Tôi đã ngủ khoảng sáu tiếng đêm trước đó, nên cảm thấy trong người khá khỏe khoắn. Hẹn hò với ma cà rồng có thể sẽ làm khó cho sự cân bằng của bạn nếu bạn thực là người sống về ban ngày, như tôi đây này. Tôi giúp mọi người đóng cửa quán, rồi về nhà với Bill trước một giờ sáng. Hai chúng tôi cùng tắm trong bồn tắm nước nóng nhà anh, rồi làm vài chuyện khác nữa, nhưng tôi đã đi ngủ sau hai giờ một chút, và mãi đến gần chín giờ sáng mới thức dậy. Lúc đó thì Bill đã xuống lòng đất từ lâu rồi. Tôi uống thật nhiều nước, nước cam cùng một viên vitamin tổng hợp và một viên bổ sắt vào bữa sáng, đó là chế độ dinh dưỡng của tôi kể từ khi Bill bước vào đời tôi và mang theo (cùng với tình yêu, trò phiêu lưu, lẫn sự phấn khích) mối đe dọa triền miên của chứng thiếu máu. Thời tiết đang dần trở nên mát mẻ hơn, tạ ơn Chúa, khi tôi ngồi trước hiên nhà Bill, mặc áo len móc dài tay và chiếc quần dài màu đen mà chúng tôi vẫn mặc làm việc ở quán Merlotte mỗi khi trời quá lạnh không thể mặc quần soóc được. Chiếc áo sơ mi đánh gôn trắng của tôi có thêu chữ BAR MERLOTTE’S bên ngực trái. Khi đang đọc lướt qua tờ báo buổi sáng, một phần tâm trí khác của tôi giúp tôi nhận ra một thực tế rõ ràng là cỏ mọc không nhanh như trước kia. Có vẻ như một vài ngọn cỏ bắt đầu ngả màu dần. Tình trạng sân bóng trong trường trung học chắc hẳn sẽ khá xấu vào tối thứ Sáu tới đây. Mùa hè ở Louisiana cứ dùng dằng mãi không dứt, kể cả ở miền Bắc Louisiana cũng thế. Mùa thu đến rất miễn cưỡng, cứ như thể bất cứ lúc nào mùa thu cũng có thể bỏ cuộc để lại nhường chỗ cái nóng hầm hập của tháng Bảy vậy. Nhưng tôi vốn mẫn cảm, và có thể điểm mặt được những dấu hiệu của mùa thu vào buổi sáng hôm nay. Mùa thu và mùa đông đến có nghĩa là đêm được dài hơn, thời gian ở bên Bill được lâu hơn, và giấc ngủ được thêm vài giờ nữa. Nên tôi đi làm với tâm trạng vui vẻ. Khi thấy chiếc Buick vẫn còn đỗ một mình trước quán bar, tôi nhớ lại chầu rượu say bí tỉ bất thường của Andy tối qua. Phải thú thật rằng, tôi đã mỉm cười khi nghĩ đến cảm giác của anh ta sáng nay. Ngay khi chuẩn bị vòng xe ra đằng sau để đỗ xe cùng với những nhân viên khác, tôi nhác thấy cửa sau của xe Andy mở he hé. Nếu cứ để như vậy thì đèn trần chắc chắn sẽ sáng hoài, phải không nào? Và ắc quy xe anh ta sẽ cạn mất. Và chắc hẳn anh ta sẽ cáu điên lên, rồi phải vào trong quán bar mà gọi xe đến cẩu đi, hoặc nhờ ai đó làm nóng xe cho mình… nên tôi đỗ xe vào bãi rồi ra khỏi xe, cứ để máy nổ. Hóa ra đây lại là một sai lầm tai hại vì lạc quan quá mức. Tôi ẩy cánh cửa vào, nhưng nó chỉ nhích tới có một phân. Thế nên tôi tì cả người vào cánh cửa, nghĩ rằng nó sẽ dập khóa lại và tôi có thể đi làm việc khác. Nhưng một lần nữa, cánh cửa không chịu sập lại. Tôi sốt ruột giật toang cửa ra để xem thứ gì kẹt trong cửa xe. Một luồng hôi thối ùa tràn ra bãi đỗ xe, một mùi hôi thối chết chóc. Tôi nghẹn họng mất hết tinh thần, vì tôi chẳng xa lạ gì với mùi hôi thối ấy. Tôi thò đầu vào trong băng ghế sau của xe, tay bịt chặt miệng, dù rằng làm thế cũng chẳng ngăn được thứ mùi này. “Ôi, trời ơi,” tôi thì thào. “Ôi, chết tiệt.” Lafayette, tay bếp làm một ca ở quán Merlotte, đã bị nhồi vào ghế sau. Trần truồng. Chính bàn chân nhỏ màu nâu của Lafayette với những móng chân sơn màu mận chín đã ngăn không cho cánh cửa đóng sập lại, và chính cái xác của Lafayette đã tạo ra thứ mùi xóc cả óc đó. Tôi vội nhảy phắt ra sau, lẩy bẩy leo vào xe mình rồi lái vòng ra phía sau quán, bấm còi inh ỏi. Sam chạy ra từ phía cửa dành cho nhân viên, tạp dề cột quanh eo. Tôi tắt máy xe và lao bắn ra ngoài nhanh đến nỗi chính bản thân còn không nhận thức được mình đã ra khỏi xe, và tôi ôm choàng lấy anh như một chiếc tất tích điện. “Chuyện gì thế?” Tiếng Sam vang lên trong tai tôi. Tôi ngửa người ra sau ngước nhìn anh, chẳng phải ngước lên quá cao làm gì vì Sam hơi nhỏ con. Mái tóc vàng hoe hoe đỏ của anh lấp lánh dưới ánh mặt trời buổi sớm. Cặp mắt xanh biêng biếc đang mở to khiếp đảm. “Lafayette đó,” tôi nói, bắt đầu thút thít. Khóc lóc thì kỳ cục, ngớ ngẩn và vô tích sự thật, nhưng tôi không kìm lại được. “Anh ấy chết rồi, trong xe của Andy Bellefleur ấy.” Vòng tay của Sam siết chặt sau lưng tôi khi anh lại kéo tôi sát vào lòng. “Sookie, thật tiếc là em đã phải nhìn thấy cảnh ấy,” anh bảo. “Chúng ta sẽ gọi cảnh sát. Lafayette tội nghiệp.” Việc làm đầu bếp ở quán Merlotte không nhất thiết đòi hỏi tay nghề bếp núc cao siêu gì, vì Sam chỉ bán vài món sandwich và khoai tây chiên, nên vị trí này thay người luôn. Nhưng bất ngờ thay, Lafayette lại là người làm việc ở đây được lâu nhất. Lafayette là người đồng tính, đồng tính kiểu hoa hòe hoa hoét, kiểu trang-điểm-và-để-móng-tay-dài. Người dân miền Bắc Louisiana vẫn còn khó chấp nhận được chuyện này hơn dân ở New Orleans, nên tôi ngờ rằng Lafayette, một người da màu, đã phải hứng chịu khó khăn gấp đôi. Mặc cho - hay nhờ vào - những khó khăn đó, anh ấy vẫn luôn vui vẻ, lém lỉnh khôi hài, thông minh, và là đầu bếp giỏi thực thụ. Anh ấy đã chế một loại xốt đặc biệt để ướp hamburger, và người ta gọi món burger Lafayette khá thường xuyên. “Anh ấy có người thân nào ở đây không nhỉ?” tôi hỏi Sam. Chúng tôi tự giác rời nhau ra và rảo bước về phía tòa nhà, vào văn phòng của Sam. “Anh ấy có một tay anh em họ nào đó,” Sam vừa nói vừa nhấn 9-1-1. “Làm ơn đến quán Merlotte trên đường Hummingbird ngay,” anh nói với người trực tổng đài. “Có một xác chết đàn ông trong xe ở đây. Phải, trong bãi đỗ xe, ngay trước cửa quán. À, chị cũng làm ơn báo cho Andy Bellefleur đi. Xe của anh ta đấy.” Từ chỗ đang đứng, tôi có thể nghe thấy tiếng trả lời bai bải ở phía đầu dây bên kia. Danielle Gray và Holly Cleary, hai phục vụ bàn ca sáng, bước vào qua cửa sau, cười hô hố. Hai cô này đều đã ly dị lúc hai lăm hai sáu tuổi, là bạn với nhau từ thuở thiếu thời, có vẻ như đều khá hài lòng với công việc này miễn là được làm việc cùng nhau. Holly có một cậu con trai năm tuổi đang học mẫu giáo, còn Danielle có một cô con gái bảy tuổi và một cậu con trai chưa đến tuổi đi học để ở nhà cho bà trông khi cô ấy đến quán Merlotte làm việc. Tôi chẳng bao giờ gần gũi được với hai người phụ nữ này - dù rằng họ cũng sàn sàn tuổi tôi - bởi họ luôn chăm chắm quan tâm tới nhau mà thôi. “Có chuyện gì vậy?” Danielle hỏi khi cô ta nhìn thấy mặt tôi. Khuôn mặt choắt và đầy tàn nhang của cô ta lập tức trở nên lo lắng. “Sao xe của Andy ở trước cửa quán vậy?” Holly hỏi. Có thời cô ấy đã cặp kè với Andy Bellefleur, tôi chợt nhớ ra. Holly có mái tóc vàng tém ngắn lòa xòa quanh mặt như những cánh hoa cúc dại héo rũ, và làn da đẹp nhất mà tôi từng thấy. “Anh ta ngủ qua đêm trong xe à?” “Không phải,” tôi đáp, “mà là người khác kia.” “Ai?” “Lafayette ở trong xe.” “Andy để một tay lập dị da đen ngủ trong xe của mình sao?” Câu này của Holly, người khi nào cũng thẳng thừng vô duyên. “Chuyện gì đã xảy ra với anh ta thế?” Câu này của Danielle, người thông minh hơn trong hai cô. “Tụi này không biết nữa,” Sam đáp. “Cảnh sát đang trên đường đến đây.” “Ý anh là,” Danielle nói, thật chậm rãi từng chữ một, “anh ta đã chết.” “Phải,” tôi bảo cô ta. “Đó chính xác là ý của tụi này.” “Này, một giờ nữa là chúng ta phải mở cửa rồi,” Holly chống tay lên bờ hông tròn trịa của mình. “Chúng ta sẽ xử lý chuyện này ra sao đây? Nếu cảnh sát cho chúng ta mở cửa, ai sẽ làm bếp chứ? Mọi người vào quán, họ sẽ muốn dùng bữa trưa.” “Tốt hơn là cứ chuẩn bị sẵn sàng đi, để đề phòng thôi,” Sam nói. “Dù tôi đang nghĩ là mãi đến chiều mình mới được phép mở cửa kia.” Anh vào văn phòng để bắt đầu gọi cho mấy tay đầu bếp thay thế. Thật lạ lẫm khi phải làm những việc chuẩn bị thường ngày trước khi mở cửa quán, cứ như thể Lafayette sẽ đi vào bất cứ lúc nào cùng một câu chuyện về buổi tiệc nào đó mà anh ấy đã tham dự, như mới vài ngày trước đây anh cũng đã đi vào như thế. Tiếng còi hụ của xe cảnh sát vang vọng từ con đường chạy ngang qua trước quán Merlotte. Tiếng bánh xe nghiến lạo xạo trên bãi xe rải sỏi của Sam. Đến khi chúng tôi hạ hết ghế xuống, bày biện bàn ăn, cuộn thêm vài bộ dao nĩa dự phòng vào khăn ăn để sẵn sàng thay thế cho những bộ dao nĩa đã được dùng đến, thì cảnh sát bước vào. Quán Merlotte nằm ngoài phạm vi thị trấn, nên viên cảnh sát trưởng địa phương, Bud Dearborn, sẽ đảm trách vụ này. Bud Dearborn là một người bạn rất thân của ba tôi trước kia, giờ đây mái tóc đã điểm bạc. Ông có khuôn mặt bèn bẹt, như người mang mặt chó Bắc Kinh, và đôi mắt nâu mờ đục. Khi ông bước vào cửa trước quán, tôi nhận ra Bud vẫn còn đang đi đôi bốt nặng nề và đội chiếc mũ lưỡi trai đội bóng Saints. Chắc hẳn ông bị gọi đến khi vẫn đang làm việc ngoài nông trại. Bud đi cùng Alcee Beck, viên thanh tra da màu duy nhất trong lực lượng cảnh sát địa phương. Da Alcee đen đến nỗi chiếc sơ mi trắng của anh ta sáng lóa lên vì tương phản. Chiếc cà vạt được thắt ngay ngắn, bộ vét hết sức chỉnh tề. Còn đôi giày da thì được đánh bóng loáng lấp lánh. Bud và Alcee thay phiên nhau coi quản trong vùng… ít nhất thì cũng có vài người quan trọng hơn để giữ cho khu vực này còn hoạt động. Mike Spencer, giám đốc công ty mai táng kiêm nhân viên pháp y của địa phương, cũng là người có vai vế trong địa phương, là bạn thân của Bud. Tôi sẵn sàng đánh cuộc rằng lúc này Mike đã ra ngoài bãi xe, tuyên bố Lafayette tội nghiệp đã chết. Bud Dearborn hỏi, “Ai là người phát hiện ra cái xác?” “Tôi đây.” Bud và Alcee liếc nhìn nhau đầy ẩn ý và bước về phía tôi. “Sam à, bọn tôi mượn văn phòng của cậu được chứ?” Bud hỏi. Không cần đợi Sam trả lời, ông ta hất đầu ra dấu cho tôi đi vào. “Chắc chắn rồi, thẳng vào trong ấy đấy,” ông chủ của tôi đáp khô khốc. “Em ổn chứ, Sookie?” “Không sao đâu mà, Sam.” Tôi không chắc điều này có thật hay không, nhưng Sam có phản ứng kiểu gì với cái yêu cầu này thì cũng gặp rắc rối hết, vô ích thôi. Mặc dù Bud ra dấu cho tôi ngồi xuống, tôi lắc đầu khi ông ta và Alcee an vị trên hai cái ghế trong văn phòng. Bud, tất nhiên là ngồi trên cái ghế to bành của Sam, còn Alcee thì giành lấy chiếc ghế phụ vẫn còn ngon, chiếc ghế vẫn còn lại chút ít nệm lót ấy. “Kể cho chúng tôi nghe về lần cuối cùng cô gặp Lafayette còn sống đi,” Bud gợi ý. Tôi suy nghĩ. “Anh ấy không làm việc tối qua,” tôi nói. “Mà là Anthony. Anthony Bolivar.” “Ai thế nhỉ?” Vầng trán rộng của Alcee nhăn lại. “Không nhận ra cái tên đó.” “Anh ta là bạn của Bill. Anh ta đang lang bạt qua vùng này, và cần một công việc. Anh ta có kinh nghiệm.” Anh ta đã làm việc tại quán ăn trong thời kỳ Đại Khủng hoảng. “Ý cô là tay đầu bếp tạm thời ở đây là một ma cà rồng? “Thì sao chứ?” tôi hỏi lại, khóe miệng cong lên ương bướng, lông mày nhíu lại, và tôi biết rằng khuôn mặt mình đang dần toát lên vẻ giận dữ. Tôi đang cố hết sức để không phải đọc tâm trí của họ, cố bằng mọi giá để hoàn toàn không thông tâm gì cả, nhưng việc này không dễ dàng. Bud Dearborn thì thường thường thôi, nhưng Alcee thì phóng suy nghĩ ra cứ như kiểu ngọn hải đăng truyền phát tín hiệu vậy. Ngay lúc này đây anh ta đang tỏ vẻ ghê tởm và kinh sợ. Trong thời gian trước khi gặp Bill, và nhận ra anh quý trọng khiếm khuyết của tôi - là tài năng, như cách anh nhìn nhận - tôi đã cố hết sức để dối gạt bản thân và lừa phỉnh mọi người rằng tôi thực sự không biết “đọc” tâm trí. Nhưng kể từ khi Bill giải thoát tôi khỏi lao tù nhỏ bé mà tôi tự xây lên cho bản thân, thì tôi đã thực tập và trải nghiệm, trong sự khuyến khích của Bill. Vì anh, tôi đã mô tả thành lời những thứ mà mình đã và đang cảm nhận suốt hàng mấy năm trời. Có vài người gửi đi những thông điệp hết sức mạnh mẽ, rõ ràng, như Alcee đây. Còn đâu thì hầu hết mọi người lúc này lúc khác, như Bud Dearborn vậy. Theo như những gì tôi biết thì chuyện này phụ thuộc rất nhiều vào việc cảm xúc của họ mãnh liệt đến đâu, mức độ tỉnh táo của họ ra sao, thời tiết như thế nào. Còn có vài người thì kín như bưng đến nỗi gần như không thể biết được họ đang nghĩ gì. Có lẽ tôi có thể đọc được tâm trạng của họ, nhưng tất cả chỉ có vậy. Tôi đã thừa nhận rằng nếu được chạm vào người khác khi cố đọc tâm trí họ, thì bức tranh trở nên sáng sủa hơn - như sử dụng đường truyền cáp sau khi dùng ăng ten ấy. Và tôi cũng phát hiện ra rằng nếu mình “gửi” những hình ảnh thư giãn cho người ta, thì tôi có thể len lỏi vào tâm trí của họ dễ như bỡn. Tôi thì không muốn thâm nhập vào suy nghĩ của Alcee Beck chút nào. Nhưng tôi đang hoàn toàn miễn cưỡng đón nhận bức tranh toàn cảnh về phản ứng mê tín đến độ cực đoan của Alcee khi anh ta nhận ra có một ma cà rồng làm việc ở quán Merlotte, về nỗi khiếp sợ của anh ta khi phát hiện ra tôi là người phụ nữ mà anh ta đã nghe nói đang hẹn hò với ma cà rồng, về lời kết tội từ trong sâu thẳm của anh ta cho rằng tên đồng tính công khai Lafayette là một nỗi ô nhục cho cộng đồng người da màu. Alcee đoán rằng ai đó hẳn là muốn chơi khăm Andy Bellefleur, khi tống xác của một gã đồng tính da màu vào xe của Andy. Alcee đang băn khoăn không rõ Lafayette có bị nhiễm AIDS không, rồi liệu làm sao đấy mà con virút ấy có thấm vào ghế xe Andy và cứ tồn tại ở đó không. Alcee sẽ bán xe ngay, nếu đó là xe của anh ta. Nếu chạm vào Alcee, hẳn là tôi sẽ biết được luôn cả số điện thoại và cỡ áo ngực của vợ anh ta nữa. Bud Dearborn nhìn tôi kỳ kỳ. “Chú vừa nói gì ạ?” tôi hỏi. “Phải. Ta thắc mắc không biết cháu có gặp Lafayette ở đây suốt tối qua không. Anh ta có ghé vào quán uống ẩm gì chăng?” “Cháu chẳng bao giờ gặp anh ấy ở đây cả.” Ngẫm lại chuyện này, thì tôi chẳng bao giờ thấy Lafayette uống rượu. Lần đầu tiên, tôi mới nhận ra rằng mặc dù đám người đến ăn trưa có cả người da màu và người da trắng, nhưng những vị khách đến quán buổi tối hầu như rặt là người da trắng. “Anh ta hay tụ tập ở đâu?” “Cháu chịu.” Tất cả những câu chuyện Lafayette kể đều được thay đổi tên họ để bảo vệ danh tính những người vô tội. À ừ, thực ra, là những kẻ có tội thì đúng hơn. “Lần cuối cùng cháu gặp anh ta là khi nào?” “Đã chết, nằm trong xe.” Bud cáu kỉnh lắc đầu. “Lúc còn sống cơ, Sookie à.” “Hừmm, cháu nghĩ là… cách đây ba ngày. Anh ấy vẫn ở đây khi cháu đến làm ca của mình, và bọn cháu chào nhau. À, anh ấy có kể cho cháu nghe về một buổi tiệc mà mình đã đến dự.” Tôi cố nhớ lại chính xác những lời của anh. “Anh ấy bảo đã đến một ngôi nhà nơi diễn ra đủ kiểu làm tình hoang đàng trụy lạc.” Hai người đàn ông há hốc nhìn tôi. “Vâng, anh ấy đã bảo thế đấy! Cháu cũng không biết chuyện đó có bao nhiêu phần sự thật.” Tôi hình dung ra khuôn mặt của Lafayette khi anh ta kể tôi nghe chuyện này, cái cách anh ta điệu đà đặt ngón tay ngang môi ngụ ý rằng anh ta sẽ không nói cho tôi biết bất kể cái tên hay địa điểm nào cả. “Cháu không nghĩ là người khác phải biết chuyện này à?” Bud Dearborn trông bàng hoàng. “Đó là một bữa tiệc riêng tư. Sao cháu phải kể cho người khác chứ?” Nhưng kiểu tiệc tùng như thế không được phép diễn ra trong địa phận của hai người này. Hai người đàn ông vẫn chằm chằm nhìn tôi. Bud hỏi qua kẽ răng, “Lafayette có kể cho cháu nghe gì về chuyện sử dụng ma túy trong buổi gặp gỡ ấy không?” “Không, theo cháu nhớ thì không.” “Bữa tiệc đó được tổ chức ở nhà người da trắng hay người da đen?” “Da trắng,” tôi đáp, rồi lại ước gì mình đã lấy cớ không biết. Nhưng Lafayette đã thật sự ấn tượng với ngôi nhà - mặc dù không phải vì căn nhà mỹ miều hay to lớn gì. Thế sao anh ấy bị ấn tượng đến thế? Tôi không chắc Lafayette sẽ thấy ấn tượng với những thứ gì, anh đã sinh ra, lớn lên và mãi đến bây giờ vẫn trong cảnh nghèo khó, nhưng tôi chắc chắn rằng anh ấy đã kể về nhà của một người da trắng nào đó, vì anh ấy có nói, “Tất cả ảnh trên tường đều chụp những người trắng như hoa huệ và mỉm cười như cá sấu.” Tôi không kể lời nhận xét đó ra cho đám cảnh sát, và họ cũng không hỏi gì thêm. Rời khỏi văn phòng của Sam, sau khi giải thích lý do trên hết vì sao xe của Andy lại ở trong bãi xe, tôi trở ra đứng sau quầy. Tôi không muốn quan sát những gì đang diễn ra ở bãi đỗ xe, và chẳng có khách hàng nào để phục vụ cả, vì mọi lối vào bãi đỗ xe đã bị cảnh sát chặn hết rồi. Sam đang sắp xếp những chai rượu đằng sau quầy, vừa đi vừa phủi bụi chúng, còn Holly và Danielle đã ngồi phịch xuống một bàn ở khu vực hút thuốc để Danielle có thể hút một điếu. “Mọi chuyện thế nào?” Sam hỏi. “Cũng chẳng có gì nhiều. Họ không thích nghe chuyện Anthony làm việc ở đây, và họ cũng không ưa những gì em kể về bữa tiệc mà Lafayette cứ lải nhải hôm trước ấy. Anh có nghe thấy anh ấy kể với em không? Cái vụ làm tình tập thể ấy?” “Có, anh ta cũng kể mấy chuyện đó với anh nữa. Buổi tối hôm đó với anh ta hẳn là đã lắm. Nếu quả thật là có bữa tiệc kiểu đó.” “Anh nghĩ rằng Lafayette bịa chuyện sao?” “Anh không nghĩ ở Bon Temps lại có nhiều buổi tiệc kiểu tạp chủng, lưỡng tính thế đâu,” anh đáp. “Nhưng đó chẳng qua là vì không có ai mời anh cả thôi,” tôi nói thẳng ra. Tôi băn khoăn không hiểu liệu mình có biết tí gì về những chuyện diễn ra nơi thị trấn nhỏ bé này không. So ra với tất cả mọi người ở Bon Temps thì tôi phải là người biết rõ mọi thứ từ trong ra ngoài, vì mọi thông tin ít nhiều gì cũng sẵn ra đấy, nếu tôi muốn bới móc tìm hiểu, “Ít nhất thì, theo em đây là lý do chứ nhỉ?” “Ừ đấy là lý do đấy,” Sam đáp, khẽ mỉm cười với tôi trong lúc chùi một chai whiskey. “Em nghĩ thiệp mời của em cũng bị thất lạc ở bên bưu điện mất rồi.” “Em có nghĩ rằng Lafayette trở lại đây tối hôm qua là để kể cho anh hoặc em nghe về bữa tiệc đó không?” Tôi nhún vai. “Có lẽ anh ta chỉ hẹn gặp ai đó ở bãi đỗ xe thôi. Dù sao thì, ai cũng biết quán Merlotte ở đâu mà. Mà anh ấy đã lấy lương chưa?” Đã cuối tuần rồi, thường thì đây là lúc Sam trả tiền cho bọn tôi. “Chưa. Có lẽ anh ấy đến cũng vì chuyện đó, nhưng anh định hôm sau mới đưa cho anh ta. Hôm nay này.” “Em thắc mắc không biết ai đã mời Lafayette đi dự tiệc.” “Câu hỏi hay đấy.” “Anh không nghĩ rằng anh ta ngu đến nỗi cố tống tiền ai đó chứ nhỉ?” Sam cọ cọ lớp gỗ giả trên mặt quầy bằng một chiếc giẻ sạch. Quầy đã sạch bóng lên rồi, nhưng anh vẫn cứ thích luôn chân luôn tay, tôi nhận thấy thế. “Anh không nghĩ vậy,” anh nói sau một hồi suy nghĩ. “Không thể nào, họ hẳn đã chọn nhầm người rồi. Em biết Lafayette tám đến cỡ nào mà. Anh ta không chỉ kể cho chúng ta nghe việc mình đi đến một buổi tiệc như thế - anh dám cá là anh ta không được phép kể - mà còn muốn lợi dụng buổi tiệc để làm tiếp những chuyện mà mấy người khác, à ừ, mấy người tham gia ấy, sẽ phải khó chịu.” “Kiểu như là, giữ liên lạc với những người cũng từng tham gia bữa tiệc ấy? Nháy mắt đưa tình với họ ở chốn đông người?” “Đại loại như thế.” “Em nghĩ rằng nếu ta có làm tình với ai đó, hoặc xem họ làm tình với nhau, ta sẽ cảm thấy rằng mình ngang hàng với họ.” Tôi không quả quyết lắm khi nói ra điều này, vì không có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực ấy lắm, nhưng Sam lại đang gật gù. “Điều Lafayette mong muốn nhất là được mọi người chấp nhận bản chất con người mình,” anh nói, và tôi buộc phải đồng ý. Mời các bạn đón đọc Ma Cà Rồng Ở Dallas của tác giả Charlaine Harris & Thiện Hoàn (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Trên Con Tàu Hướng Tới Bình Minh - C. S. Lewis
CHUYẾN DU HÀNH ĐẾN NƠI TẬN CÙNG CỦA THẾ GIỚI Narnia… nơi người ta có thể hóa thành rồng, nơi các vì sao có thể di trên mặt đất… và nơi mà mọi chuyện có thể xảy ra. Nhà vua trẻ tuổi Caspian sau khi giành lại được ngôi báu, đã tiến hành chuyến đi tìm lại những cận thần bị ông chú chiếm ngôi vua lưu đày. Chuyến đi càng xa, những người trong đoàn, Trên con tàu Hướng tới Bình minh càng thấy vượt quá sức tưởng tượng của mình. Bởi vì, NƠI TẬN CÙNG THẾ GIỚI cũng chính là nơi bắt đầu… *** Biên niên sử về Narnia viết về một thế giới tưởng tượng, những phép màu và một thế giới song song cùng tồn tại với thế giới của chúng ta. Biên niên sử về Narnia dựng nên một thế giới tưởng tượng, kỳ ảo nhưng có những cơ sở của hiện thực - điểm khác biệt với Harry Potter. Biên niên sử về Narnia là một tác phẩm hư cấu có giá trị nghệ thuật cao trên nhiều phương diện: Một tác phẩm có cấu trúc cân đối, hoàn chỉnh, tính tư tưởng quán xuyến từ đầu đến cuối ; là tinh thần đấu tranh cho chính nghĩa, cho con người, đặc biệt là một tình yêu thiên nhiên, hoà mình với thiên nhiên, coi cỏ cây hoa lá, muông thú cũng có tính bản thiện và có nhu cầu được cộng sinh trong thế giới của muôn loài và cho muôn loài. Một tư tưởng rất nhân bản và đang được nhân loại đề cao. Bộ sách Biên niên sử về Narnia giúp bạn đọc có ý thức tốt hơn về môi trường thiên nhiên cũng như môi trường văn hoá. Và đặc biệt có thể nhìn cuộc đời với một đôi mắt " ngây thơ " hơn. Biên niên sử về Narnia hấp dẫn nhờ một cốt truyện cổ điển, có mâu thuẫn, cao trào và giải quyết mâu thuẫn, thể hiện một trí tưởng tượng rất cao, mang dấu ấn của cá tính sáng tạo của nhà văn. Từ tập 1 đến tập 7 của Biên niên sử về Narnia, thế giới tưởng tượng được xây dựng và phát triển một cách vừa khác biệt vừa nhất quán với toàn bộ và theo cấp độ tăng tiến, khiến người đọc đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác với những hình tượng độc đáo, kỳ thú không hề bị lặp lại. Bộ sách Biên niên sử về Narnia gồm có: Tập 1: Cháu trai Pháp Sư Tập 2: Sư Tử Phù Thủy và cái Tủ Áo Tập 3: Con Ngựa và Cậu Bé Tập 4: Hoàng Tử Caspian Tập 5: Trên con tàu hướng tới Bình Minh Tập 6: Chiếc ghế Bạc Tập 7: Trận chiến cuối cùng Biên niên sử về Narnia đưa ra một hệ thống nhân vật phong phú, có cá tính : không có nhân vật nào lẫn với nhân vật nào, dù là con vật hay con người đều có những nét đặc biệt đáng ghi nhớ. Lối giải quyết mâu thuẫn của tác giả, tự nhiên, không gượng ép và đặc biệt là nhẹ nhàng, thoải mái không gây nên những cảnh quá dữ dội có thể ảnh hưởng đến tâm hồn trẻ thơ. Theo bình chọn của tạp chí Big Reader : Biên niên sử về Narnia có tên trong danh sách 21 cuốn sách được độc giả Anh yêu thích nhất (trong danh sách 100 tiểu thuyết thế giới). Bộ truyện được chuyển thể sang tác phẩm điện ảnh trở thành là bộ phim ăn khách của thế kỷ 21. *** Clive Staples Lewis sinh năm 1898 tại Belfast. Ông làm nghiên cứu sinh và là trợ giảng bộ môn Văn học Anh tại trường Magdalen, Oxford và sau này là giáo sư bộ môn Văn học thời kỳ Trung cổ và Phục hưng tại Đại học Cambridge, nơi ông làm việc cho đến khi qua đời vào năm 1963. Clive Staples Lewis viết rất nhiều sách về phê bình văn học và Đạo cơ đốc, với tác phẩm nổi tiếng “The Screwtape Letters”, cùng với bốn cuốn tiểu thuyết khác dành cho người lớn. Bộ truyện “Biên niên sử Narnia”, gồm 7 tập, là bộ truyện duy nhất ông viết cho trẻ em. *** Eustace không thích những anh em họ nhà Pevensie là Peter, Susan, Edmund và Lucy. Nhưng nó rất khóai chí khi nghe tin Edmund và Lucy sẽ đến nhà nó ở ít ngày. Bởi vì sâu thẳm trong lòng, nó khoái được lên mặt chỉ huy và bắt nạt người khác. Mặc dầu nó chỉ là một oắt con, đứng mới chỉ đến tai Lucy, nó gì đến chuyện là đối thủ của Edmund trong một trận ẩu đả, nhưng nó biết có khối cách làm cho người khác phải khốn đốn nếu nguwofi ấy ở trong nhà mình với tư cách là một người khách bất đắt dĩ. Edmund và Lucy thật lòng không muốn đến nhà dượng Harold và dì Alberta . Nhưng không thể tránh được chuyện này. Bố được mời thỉnh giảng ở Mỹ trong vòng 16 tuần vào mùa hè này và mẹ cần phải đi với bố bởi vì bà chưa có một kỳ nghỉ thực sự nào trong suốt 10 năm qua. Peter phải dùi mài kinh sử cho một kỳ thi tuyển và anh sẽ phải học suốt cả mùa hè dưới sự kèm cặp của giáo sư Kirke, chủ của ngôi nhà mà bốn anh em đã có những cuộc phiêu lưu tuyệt vời vào năm chúng đi sơ tán. Nếu giáo sư vẫn còn sống trong dinh thự đó ông sẽ muốn tất cả bốn anh em đến với ông. Nhưng sau dạo ấy bằng một cách nào đó ông đã trở nên nghèo túng và bây giờ phải sống trong một ngôi nhà nhỏ tí chỉ có một phòng ngủ. Sẽ tốn kém lắm nếu cho cả ba đứa trẻ sang Mỹ nên chỉ có mình Susan được đi. Người lớn trong nhà nghĩ rằng Susan là một cô gái xinh nhất nhà và sẽ không phải lắm nếu bắt cô làm thêm trong dịp hè (mặc dù ở một khía cạnh nào đó làm việc vào kỳ nghỉ hè không phải là điều gì mới mẻ đối với những cô gái tuổi Susan). Mẹ bảo Susan đáng được thưởng một chuyến đi Mỹ, Edmund và Lucy cố không ganh tị với may mắn của chị nhưng thật không có gì chán bằng việc phải trải qua một mùa hè ở nhà dì Alberta . - Đối với anh mọi chuyện còn tồi tệ hơn nhiều, - Edmund nói, - ít nhất em cũng còn có phòng riêng, anh lại phải ở chung với cái thằng lỏi đạt kỷ lục bốc mùi, cái thằng Eustance ấy. Câu chuyện này bắt đầu vào một buổi chiều khi Edmund và Lucy tìm được một vài phút quý giá để ngồi bên nhau. Tất nhiên chúng nói chuyện vè Narnia, một đề tài bí ẩn và riêng tư giữa bọn chúng. Tôi cho rằng hầu hết chúng ta đều có một nơi chốn bí mật nào đó, nhưng đối với hầu hết mọi người đó chỉ là một vùng đất tưởng tượng. Edmund và Lucy may hơn những người khác trong khía cạnh này. Đất nước bí mật của chúng là có thật. Chúng đã đến đấy tới hai lần, không phải trong một trò chơi hay một giấc mơ mà trong hiện thực. Tất nhiên, chúng đã đến đấy nhờ vào một phép màu, đó là cách thức duy nhất để đến được Narnia. Có một lời hứa hoặc gần như một lời cam kết đã đưa ra ở Narnia rằng một ngày nào đó chúng sẽ quay lại đây. Bạn có thể hình dung là mỗi khi có dịp hai đứa lại thao thao không biết chán về đề tại này như thế nào. Hai anh em đang trong phòng Lucy, ngồi trên mép giường ngắm nghía bức tranh treo trên bức tường đối diện. Đó là bức tranh duy nhất trong nhà mà chúng thích. Dì Alberta lại không ưa nó chút nào (đó là lý do tại sao nó được treo trên tường một phòng gác xép phía sau) tuy vậy dì không thể vứt đi bởi đó là quà mừng cưới của một người mà dì không muốn làm mếch lòng. Bức trang vẽ một con tàu – một con tàu đang giương buồm lướt thẳng về phía bạn. Mũi tàu mạ vàng có dáng dấp như một cái đầu rồng với cái miệng há to. Con tàu có một cột buồm vuông rất lớn màu tím đậm. Hai bên hông tàu – cái mà bạn có thể nhìn thấy nơi đôi cánh mạ vàng của con rồng chấm dứt – có màu xanh lá cây. Tàu đang chồm lên một cột song lớn màu xanh da trời và cái dốc của con sóng đang đổ về phía bạn, dềnh lên với bọt nước và bọt song. Rõ ràng con tàu đang lao đi rất nhanh, một trận gió xám làm cho nó hơi lạng sang mạn tàu bên trái (Nếu bạn định đọc câu chuyện này và nếu bạn không biết rõ, hãy hình dung trong đầu, phía trái con tàu khi bạn nhìn thẳng vào nó là mạn trái, còn phía bên phải là mạn phải. ) Ánh nắng màu mật ong đổ lên tàu từ phía bên trái và dòng nước ở phía này có màu xanh lá cây pha sắc tím. Phía bên kia có màu xanh đậm hơn do bóng con tàu hắt xuống. - Vấn đề là, - Edmund nói, - nếu không cải thiện được tình hình thì Lu ạ, em hãy ngắm nhìn con tàu Narnia khi em không có cách gì đi đến đấy. - Đúng thế, ít ra còn hơn không cò gì để làm. – Lucy nói. – Nó đúng là một con tàu rất Narnia. Mời các bạn đón đọc Trên Con Tàu Hướng Tới Bình Minh của tác giả C. S. Lewis.
Hoàng Tử Caspian - C. S. Lewis
Narnia...vùng đất có những con thú biết nói...nơi mà những cái cây biết đi... và một trận chiến sắp bùng nổ. Hoàng tử Caspian, trong lúc tuyệt vọng, đã thổi tù và để kêu gọi sự trợ giúp đến từ quá khứ. Nhưng cuối cùng, đó là trận chiến vì danh dự giữa hau người đàn ông mà sẽ quyết định số phận của cả thế giới. *** Biên niên sử về Narnia viết về một thế giới tưởng tượng, những phép màu và một thế giới song song cùng tồn tại với thế giới của chúng ta. Biên niên sử về Narnia dựng nên một thế giới tưởng tượng, kỳ ảo nhưng có những cơ sở của hiện thực - điểm khác biệt với Harry Potter. Biên niên sử về Narnia là một tác phẩm hư cấu có giá trị nghệ thuật cao trên nhiều phương diện: Một tác phẩm có cấu trúc cân đối, hoàn chỉnh, tính tư tưởng quán xuyến từ đầu đến cuối ; là tinh thần đấu tranh cho chính nghĩa, cho con người, đặc biệt là một tình yêu thiên nhiên, hoà mình với thiên nhiên, coi cỏ cây hoa lá, muông thú cũng có tính bản thiện và có nhu cầu được cộng sinh trong thế giới của muôn loài và cho muôn loài. Một tư tưởng rất nhân bản và đang được nhân loại đề cao. Bộ sách Biên niên sử về Narnia giúp bạn đọc có ý thức tốt hơn về môi trường thiên nhiên cũng như môi trường văn hoá. Và đặc biệt có thể nhìn cuộc đời với một đôi mắt " ngây thơ " hơn. Biên niên sử về Narnia hấp dẫn nhờ một cốt truyện cổ điển, có mâu thuẫn, cao trào và giải quyết mâu thuẫn, thể hiện một trí tưởng tượng rất cao, mang dấu ấn của cá tính sáng tạo của nhà văn. Từ tập 1 đến tập 7 của Biên niên sử về Narnia, thế giới tưởng tượng được xây dựng và phát triển một cách vừa khác biệt vừa nhất quán với toàn bộ và theo cấp độ tăng tiến, khiến người đọc đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác với những hình tượng độc đáo, kỳ thú không hề bị lặp lại. Bộ sách Biên niên sử về Narnia gồm có: Tập 1: Cháu trai Pháp Sư Tập 2: Sư Tử Phù Thủy và cái Tủ Áo Tập 3: Con Ngựa và Cậu Bé Tập 4: Hoàng Tử Caspian Tập 5: Trên con tàu hướng tới Bình Minh Tập 6: Chiếc ghế Bạc Tập 7: Trận chiến cuối cùng Biên niên sử về Narnia đưa ra một hệ thống nhân vật phong phú, có cá tính : không có nhân vật nào lẫn với nhân vật nào, dù là con vật hay con người đều có những nét đặc biệt đáng ghi nhớ. Lối giải quyết mâu thuẫn của tác giả, tự nhiên, không gượng ép và đặc biệt là nhẹ nhàng, thoải mái không gây nên những cảnh quá dữ dội có thể ảnh hưởng đến tâm hồn trẻ thơ. Theo bình chọn của tạp chí Big Reader : Biên niên sử về Narnia có tên trong danh sách 21 cuốn sách được độc giả Anh yêu thích nhất (trong danh sách 100 tiểu thuyết thế giới). Bộ truyện được chuyển thể sang tác phẩm điện ảnh trở thành là bộ phim ăn khách của thế kỷ 21. *** Clive Staples Lewis sinh năm 1898 tại Belfast. Ông làm nghiên cứu sinh và là trợ giảng bộ môn Văn học Anh tại trường Magdalen, Oxford và sau này là giáo sư bộ môn Văn học thời kỳ Trung cổ và Phục hưng tại Đại học Cambridge, nơi ông làm việc cho đến khi qua đời vào năm 1963. Clive Staples Lewis viết rất nhiều sách về phê bình văn học và Đạo cơ đốc, với tác phẩm nổi tiếng “The Screwtape Letters”, cùng với bốn cuốn tiểu thuyết khác dành cho người lớn. Bộ truyện “Biên niên sử Narnia”, gồm 7 tập, là bộ truyện duy nhất ông viết cho trẻ em. *** Mời các bạn đón đọc Hoàng Tử Caspian của tác giả C. S. Lewis.
Con Ngựa Và Cậu Bé - C. S. Lewis
Narnia… một vùng đất có những con thú biết trò chuyện… một mụ phù thuỷ ẩn nấp… và là nơi mà một thế giới mới sắp được tạo ra. Trong một cuộc trốn chạy tuyệt vọng, hai kẻ bỏ trốn gặp nhau và hợp sức với nhau. Dù chỉ định trốn chạy khỏi những khó khăn và thiếu thốn trong cuộc sống, song họ sớm nhận ra mình đang lạc vào giữa một trận chiến khủng khiếp. Một trận chiến sẽ quyết định số phận của họ và số phận của Narnia. *** Biên niên sử về Narnia viết về một thế giới tưởng tượng, những phép màu và một thế giới song song cùng tồn tại với thế giới của chúng ta. Biên niên sử về Narnia dựng nên một thế giới tưởng tượng, kỳ ảo nhưng có những cơ sở của hiện thực - điểm khác biệt với Harry Potter. Biên niên sử về Narnia là một tác phẩm hư cấu có giá trị nghệ thuật cao trên nhiều phương diện: Một tác phẩm có cấu trúc cân đối, hoàn chỉnh, tính tư tưởng quán xuyến từ đầu đến cuối ; là tinh thần đấu tranh cho chính nghĩa, cho con người, đặc biệt là một tình yêu thiên nhiên, hoà mình với thiên nhiên, coi cỏ cây hoa lá, muông thú cũng có tính bản thiện và có nhu cầu được cộng sinh trong thế giới của muôn loài và cho muôn loài. Một tư tưởng rất nhân bản và đang được nhân loại đề cao. Bộ sách Biên niên sử về Narnia giúp bạn đọc có ý thức tốt hơn về môi trường thiên nhiên cũng như môi trường văn hoá. Và đặc biệt có thể nhìn cuộc đời với một đôi mắt " ngây thơ " hơn. Biên niên sử về Narnia hấp dẫn nhờ một cốt truyện cổ điển, có mâu thuẫn, cao trào và giải quyết mâu thuẫn, thể hiện một trí tưởng tượng rất cao, mang dấu ấn của cá tính sáng tạo của nhà văn. Từ tập 1 đến tập 7 của Biên niên sử về Narnia, thế giới tưởng tượng được xây dựng và phát triển một cách vừa khác biệt vừa nhất quán với toàn bộ và theo cấp độ tăng tiến, khiến người đọc đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác với những hình tượng độc đáo, kỳ thú không hề bị lặp lại. Bộ sách Biên niên sử về Narnia gồm có: Tập 1: Cháu trai Pháp Sư Tập 2: Sư Tử Phù Thủy và cái Tủ Áo Tập 3: Con Ngựa và Cậu Bé Tập 4: Hoàng Tử Caspian Tập 5: Trên con tàu hướng tới Bình Minh Tập 6: Chiếc ghế Bạc Tập 7: Trận chiến cuối cùng Biên niên sử về Narnia đưa ra một hệ thống nhân vật phong phú, có cá tính : không có nhân vật nào lẫn với nhân vật nào, dù là con vật hay con người đều có những nét đặc biệt đáng ghi nhớ. Lối giải quyết mâu thuẫn của tác giả, tự nhiên, không gượng ép và đặc biệt là nhẹ nhàng, thoải mái không gây nên những cảnh quá dữ dội có thể ảnh hưởng đến tâm hồn trẻ thơ. Theo bình chọn của tạp chí Big Reader : Biên niên sử về Narnia có tên trong danh sách 21 cuốn sách được độc giả Anh yêu thích nhất (trong danh sách 100 tiểu thuyết thế giới). Bộ truyện được chuyển thể sang tác phẩm điện ảnh trở thành là bộ phim ăn khách của thế kỷ 21. *** Clive Staples Lewis sinh năm 1898 tại Belfast. Ông làm nghiên cứu sinh và là trợ giảng bộ môn Văn học Anh tại trường Magdalen, Oxford và sau này là giáo sư bộ môn Văn học thời kỳ Trung cổ và Phục hưng tại Đại học Cambridge, nơi ông làm việc cho đến khi qua đời vào năm 1963. Clive Staples Lewis viết rất nhiều sách về phê bình văn học và Đạo cơ đốc, với tác phẩm nổi tiếng “The Screwtape Letters”, cùng với bốn cuốn tiểu thuyết khác dành cho người lớn. Bộ truyện “Biên niên sử Narnia”, gồm 7 tập, là bộ truyện duy nhất ông viết cho trẻ em. *** Đây là câu chuyện phiêu lưu xảy ra ở Narnia, Calormen và những miền đất ở giữa hai đất nước này vào thời đại Vàng khi Peter Đại đế trị vì xứ Narnia cùng vua Edmund, nữ hoàng Susan và nữ hoàng Lucy. Ngày ấy, ở miền nam xa xôi của xứ Calormen, bên một cái vịnh nhỏ ăn ra biển, có một người đánh cá nghèo khổ tên là Arsheesh, ở cùng với lão có một thằng bé gọi lão là cha. Tên thằng bé là Shasta. Hầu như ngày nào Arsheesh cũng chèo thuyền ra khơi đánh cá từ lúc trời tờ mờ sáng, đến chiều tối, lão thắng con lừa của mình vào một cỗ xe, chất lên xe đầy cá tươi và đi một chặng đường chừng một dặm hoặc xa hơn một chút về phía nam vào trong làng  bán cá. Nếu việc buôn bán diễn ra suôn sẻ, lão sẽ về nhà với tâm trạng vui vẻ và chẳng nói gì với Shasta, nhưng nếu việc buôn bán ế ẩm, lão sẽ moi ngay ra lỗi của nó và có thể sẽ thượng cẳng chân, hạ cẳng tay với nó. Bao giờ chẳng dễ tìm ra lỗi của nó vì mọi việc trong nhà đều đến tay nó: vá và giặt lưới này, nấu cơm nấu nước này, quét dọn, lau chùi ngôi nhà nhỏ mà hai người cùng chung sống này. Shasta chẳng hề quan tâm đến bất cứ cái gì nằm ở phía nam ngôi làng của nó, bởi vì nó đã từng đi với ông Arsheesh một hoặc hai lần đến đó và nó biết rằng chẳng có cái gì thú vị ở đấy hết. Ở đó nó cũng gặp những người đàn ông giống như cha nó mặc những chiếc áo choàng dài, nhơ bẩn, đi những đôi guốc mộc để tòe cả những ngón chân ra ngoài, đầu đội khăn, râu để dài, nói nhẩn nha từng tiếng một về những chuyện chán ngắt. Nhưng Shasta lại quan tâm đến tất cả những gì nằm ở phía bắc bởi vì chưa từng có ai đi về hướng này và nó cũng không được phép đi đến đấy. Khi nó ngồi ở ngoài sân vá lưới một mình, nó thường háo hức nhìn về hướng bắc. Bạn sẽ chẳng nhìn thấy bất cứ thứ gì ngoài một cái dốc cỏ mọc um tùm dẫn đến một đỉnh đồi trọc và xa hơn nữa là bầu trời, có lẽ còn có một vài con chim bay qua liệng lại trên đầu. Đôi khi nếu có Arsheesh ở đây Shasta khẽ hỏi: - Ôi cha ơi, có cái gì ở phía sau quả đồi kia vậy? Khi ấy, nếu lão đánh cá ở trong một tâm trạng bực bội lão sẽ cho nó một cái bạt tai và bảo nó hãy chú tâm vào công việc. Còn nếu đang cao hứng hoặc khoan khoái trong long thì lão lại nói: - Ôi con trai, đừng cho phép đầu óc mình trở nên lộn xộn vì những câu hỏi vô ích. Bởi vì có một nhà thơ đã nói: Tập trung cho công việc là cội rễ của sự giàu có còn những ai hỏi những câu bâng quơ chẳng liên quan gì đến mình chỉ giống như lái con tàu của sự điên rồ đâm vào dải đá ngầm của sự bần cùng. Mời các bạn đón đọc Con Ngựa Và Cậu Bé của tác giả C. S. Lewis.
Hậu Duệ Thần Đèn Tập 5: Mắt Rừng - Philip Ballantyne Kerr
Trong quyển thứ năm của bộ sách bán chạy nhất trên New York Times - Hậu duệ Thần đèn - cặp song sinh John và Philippa lại vướng vào một rắc rối bí hiểm mới khi bộ sưu tập các cổ vật quí hiếm của người Inca bị đánh cắp. Djinn Xanh Babylon đã giao nhiệm vụ truy tìm cho John, Philippa cùng cậu Nimrod của chúng. Cuộc hành trình đã dẫn họ đi sâu vào trái tim của rừng mưa Amazon, đến với cánh cửa thần bí được bảo vệ bởi lời nguyền Inca. Một thế lực vô hình nào đó đang sử dụng những cổ vật kia để mở cánh cửa, và kiểm soát nguồn sức mạnh vô song đang bị chặn lại đằng sau nó… ngay cả khi điều đó có thể phá hủy rừng mưa, kinh động đến vương triều thần bí của người Inca đã ngủ yên suốt hàng trăm năm. Liệu cặp sinh đôi có thể ngăn chặn thảm họa trước khi quá muộn màng hay không? Mời các bạn cùng khám phá qua tập truyện. *** “Hậu Duệ Thần Đèn” không chỉ dành cho bạn đọc thiếu nhi mà còn dành cho cả những độc giả trưởng thành yêu thích truyện phiêu lưu viễn tưởng.  John và Philippa là hai anh em sinh đôi. Chúng nghĩ rằng, chúng là những đứa trẻ bình thường, nhưng từ khi bà giúp việc của gia đình trúng số độc đắc, chúng phát hiện ra một sự thật đáng kinh ngạc: chúng là Djinn - hậu duệ thần đèn, và chính năng lực kỳ diệu của chúng đã giúp bà giúp việc trúng số. Nhưng năng lực djinh rất nguy hiểm và rắc rối, chúng phải học cách kiểm soát những ký năng mới mẻ này và chú chó Nimord lập dị trở thành thầy dạy chúng. Ông đã lôi kéo chúng đến Ai Cập để cùng ông tìm ngôi mộ của một pharaoh bị thất lạc, và thế là cả ba người tìm ngôi mộ của một cuộc chiến khủng khiếp chống lại Iblis – tên djinh ác độc nhất thế giới.  *** Hậu Duệ Thần Đèn gồm có: Truy Tìm Akhenaten Djinn Xanh Babylon Hổ Mang Chúa Kathmandu Ngày Tái Sinh Những Chiến Binh Đất Nung Mắt Rừng Năm Tu Sĩ Khổ Hạnh Xứ Faizabad *** P.B. Kerr nhận ra ông muốn trở thành nhà văn gần như ngay khi ông vừa biết đọc. Tác phẩm đầu tay của ông Chiếc phi cơ biến mất được viết khi ông lên mười. Ông đã nói về tuổi thơ của mình ở Scotland như sau: "Không có ti vi màu hay chương trình truyền hình dành cho trẻ em, không có máy vi tính, không có sân chơi. Vậy nên những trò tiêu khiển của chúng tôi có khuynh hướng ở ngay tại gia. Thật dễ để tôi trở nên ghiền sách, vì thực sự đâu còn gì khác cho tôi làm. Tôi cảm thấy tiếc cho lũ trẻ nhà tôi, có quá nhiều thú vui khác cạnh tranh nhau để giành được sự chú ý của chúng." Hiện Kerr đang sống cùng vợ và ba người con ở London. Tác giả P.B. Kerr sinh ra ở Edinburgh, Scotland, nơi ông được nuôi dưỡng niềm ham thích đọc sách đến tận bây giờ. Mặc dù Hậu duệ thần đèn là bộ sách dành cho thiếu nhi đầu tiên của P.B. Kerr, ông đã rất nổi tiếng trong thế giới truyện trinh thám qua cái tên Philip Kerr, tác giả của bộ truyện ba cuốn Berlin Noir, Một vụ điều tra triết học, Toà nhà Gridiron, Phát súng, cùng rất nhiều bộ tiểu thuyết ăn khách khác. Ông hiện đang sống cùng gia đình ở London. *** Mở đầu Bác sĩ Kowalski “Tất cả những gia đình hạnh phúc đều giống nhau, nhưng những gia đình bất hạnh lại bất hạnh theo những cách khác nhau.” Đó là câu mở đầu một tiểu thuyết vĩ đại có tên Anna Karenina của nhà văn Nga Leo Tolstoy. Tolstoy, tác giả của một số tiểu thuyết nổi tiếng, có tình yêu đặc biệt đối với văn học thiếu nhi và đã viết nhiều truyện ngụ ngôn, cổ tích cho chúng. Nhưng ngay cả với trí tưởng tượng phong phú của mình, Tolstoy vẫn khó có thể giải thích rõ về lý do bất hạnh của gia đình nhà Gaunt sống trên đường 77 phía Đông, thành phố New York. Nói ngắn gọn thì đó là một gia đình không giống như những gia đình bình thường khác, với một ông bố loài người – Edward, một bà mẹ djinn - Layla, cùng hai đứa con djinn sinh đôi - John và Philippa. Sự pha trộn giữa djinn – hay được gọi ít chính xác hơn là “thần đèn” – và người thường này, không phải là nguyên nhân trực tiếp khiến gia đình nhà Gaunt bất hạnh, dù dĩ nhiên, nó cũng có liên quan đôi chút. Trong một thời gian dài, gia đình Gaunt đã sống rất hạnh phúc và, dưới con mắt của những người xung quanh, họ được coi như một gia đình kiểu mẫu với một bà mẹ xinh đẹp tuyệt trần, một ông bố đặc biệt giàu có, và hai đứa con lễ phép, đáng yêu. Nếu có một lời phàn nàn nào về gia đình nhà Gaunt, thì đó là: họ có lẽ giàu hơn mức cần thiết – tuy nhiên, điều đó cũng khó có thể trách họ, vì thật khó mà tưởng tượng ra một gia đình nào đó có ít nhất một thành viên là djinn lại không giàu nứt đố đổ vách. Mời các bạn đón đọc Hậu Duệ Thần Đèn Tập 5: Mắt Rừng của tác giả Philip Ballantyne Kerr.