Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bí Mật Đen Tối

Câu chuyện mở màn bằng một cuộc gọi đến sở cảnh sát. Roger Eriksson, một thiếu niên bị mất tích trong thị trấn thuộc tỉnh lị Västerås. Cuộc tìm kiếm nhanh chóng được tổ chức và một nhóm hướng đạo sinh trẻ tuổi trong lần khảo sát đầm lầy đã phát hiện ra sự thật khủng khiếp: Roger bị chết thảm. Cùng lúc đó, Sebastian Bergman - chuyên gia tâm lí học, điều tra viên hình sự đồng thời là chuyên gia hàng đầu Thụy Điển về các vụ giết người hàng loạt - đang ở Västerås thu xếp điền sản của mẹ mình sau cái chết của bà. Sebastian đã rút chân khỏi ngành cảnh sát sau cái chết của vợ và con gái trong trận sóng thần Ấn Độ Dương năm 2004. Khi Cục Điều tra Tội phạm nhờ Sebastian giúp sức trong vụ án mạng Roger, với tính kiêu ngạo của mình, ban đầu Sebastian tỏ ra xa cách với đồng đội. Nhưng rồi khi đi sâu vào vụ án, ông bắt xóa bỏ dần khoảng cách và cùng đội điều tra phát hiện ra những bất thường tại trường tư thục Roger đang theo học. *** Tác giả: Michael Hjorth & Hans Rosenfeldt. Dịch giả: Nguyễn Hữu Công. Thể loại: Trinh thám Thụy Điển, tâm lý xã hội . Mức độ ưa thích: 6/10. Cậu bé Roger Eriksson 16 được tìm thấy đã chết rất thảm ở vùng đầm lầy Listakarr. Quá trình điều tra diễn tiến chậm chạp với sự tắc trách của cảnh sát địa phương, do đó Riskmord – Đơn vị chống tội phạm giết người quốc gia được mời vào cuộc. Người phụ trách Riskmord là Torkel Hoglund vì cả nể tình bạn xưa cũ với Sebastian Bergman nên đã đồng ý để ông tham gia điều tra trong sự phản đối của các thành viên khác. Sebastian vốn là chuyên gia tâm lý học, điều tra viên hình sự đồng thời là chuyên gia hàng đầu Thụy Điển về các vụ giết người hàng loạt, nhưng lần này ông ở Vasteras chỉ để lo thủ tục bán nhà sau khi mẹ ông qua đời. Càng điều tra, họ càng thấy mình như đang bước vào một mê cung vô cùng rối rắm chứa đầy những bí mật đen tối. Khi biết quyển sách này hơn 700 trang, mình bị thôi thúc bởi ý nghĩ “phải đọc”. Vốn đã quen với các thể loại trinh thám Mỹ thiên về loại hình siêu anh hùng, tốc chiến tốc thắng, không quá lắt léo đau lòng nên khi đọc “Bí mật đen tối”, nhịp văn chậm kiểu trinh thám Bắc Âu, quá nhấn mạnh vào cảm xúc + hành động sai trái của nhân vật, đọc hoài không có tiến triển gì mới – khiến mình hơi chán. Có một chi tiết trong truyện sau 500 trang cảnh sát vẫn chưa đoán được thì mình đoán đúng từ sớm. Cũng sau 500 trang thì mình mới thấy câu chuyện bắt đầu thú vị hơn, nhưng lúc kết thúc quyển sách thì mình không có được cảm giác hài lòng quen thuộc sau khi đọc một tuyệt phẩm. Trong cả truyện, mình chỉ tìm được vài đoạn hài hước hiếm hoi, thường là hài hước kiểu châm biếm sâu cay. “…chiếc túi chứa thứ gì đó, mà ông đoán chừng chắc trước kia là phó-mát, nhưng giờ nó chẳng khác nào dự án nghiên cứu trong phòng thì nghiệm chuyên về nấm mốc rất thành công”. Sau khi đọc “Tàn thế” và “Dị chủng”, mình có một tư duy lối mòn là cuốn nào do hai tác giả chấp bút thì cuốn đó đều rất dày và rất hay, nhưng cốt truyện trong “Bí mật đen tối” không gây ấn tượng sâu sắc với mình. Có lẽ các tác giả muốn nhấn mạnh tính thực tế tàn nhẫn của xã hội, nên các nhân vật trong truyện đều bị mô tả đầy khuyết điểm, từ chính diện đến phản diện. Chưa bao giờ mình đọc quyển sách nào mà mình ghét tất cả các nhân vật như quyển này, đặc biệt ghét nhân vật chính vì cách ông ta [dùng tình dục để lãng quên nỗi đau mất vợ con trong quá khứ]. Dù xã hội ông đang sống có nghĩ thoáng đến đâu, dù những người phụ nữ hoàn toàn tự nguyện trong những chuyện tình một đêm của ông thì mình vẫn cho rằng hành động đó […] vẫn gây ra rất nhiều tổn thương cho người khác. Ngay trong quyển này, độc giả sẽ thấy Sebastian phải trả giá cho những chuyện ông đã làm. Bìa sách bình thường, giấy màu ngà rất đẹp, chữ in to rõ, không có lỗi in ấn, trình bày đẹp, có kèm bookmark cùng thiết kế với bìa sách. Với một tác phẩm đồ sộ như “Bí mật đen tối” thì phần dịch thuật quả thật rất được chăm chút, nhưng dường như vẫn còn một chỗ viết nhầm “Bergman” thành “Berman”. Vì mình không thích cốt truyện nên không thích quyển này nhưng đối với một số độc giả khác, nhất là những ai thích “Bạch Dạ Hành” hoặc các quyển của Donato Carrisi thì có lẽ “Bí mật đen tối” sẽ là một tác phẩm rất đáng đọc và sở hữu. (Sea, 21-7-2019) Camellia Phoenix *** Suốt chiều dài hơn 700 trang, tác phẩm có nhiều chi tiết thừa, những nhân vật có cũng được, không có cũng chẳng sao, chỉ có tác dụng tung hỏa mù làm cho người đọc bối rối, hoang mang. Tuy nhiên, cách dẫn chuyện vẫn có nét hấp dẫn riêng, khiến cho người đọc cứ phải lật hết trang này đến trang khác để xem tác giả đưa mình đến đâu. Mỗi nhân vật sẽ tự kể câu chuyện cuộc đời họ trong một chừng mực. Họ có riêng "sàn diễn" để mặc sức vẫy vùng. Câu chuyện mở màn bằng một cuộc gọi đến sở cảnh sát. Roger Eriksson, một thiếu niên bị mất tích trong thị trấn thuộc tỉnh lị Västerås. Cuộc tìm kiếm nhanh chóng được tổ chức và một nhóm hướng đạo sinh trẻ tuổi trong lần khảo sát đầm lầy đã phát hiện ra sự thật khủng khiếp: Roger bị chết thảm. Cùng lúc đó, Sebastian Bergman - chuyên gia tâm lý học, điều tra viên hình sự đồng thời là chuyên gia hàng đầu Thụy Điển về các vụ giết người hàng loạt - đang ở Västerås thu xếp điền sản của mẹ mình sau cái chết của bà. Sebastian đã rút chân khỏi ngành cảnh sát sau cái chết của vợ và con gái trong trận sóng thần Ấn Độ Dương năm 2004. Khi Cục Điều tra Tội phạm nhờ Sebastian giúp sức trong vụ án mạng Roger, với tính kiêu ngạo của mình, ban đầu Sebastian tỏ ra xa cách với đồng đội. Nhưng rồi khi đi sâu vào vụ án, ông bắt xóa bỏ dần khoảng cách và cùng đội điều tra phát hiện ra những bất thường tại trường tư thục Roger đang theo học. Một cách tiếp cận vấn đề khiến người đọc có phần… sốt ruột và thôi thúc việc đọc không thể ngừng nghỉ, chỉ với một mục đích: đọc đến trang cuối cùng để tìm thấy ánh sáng, để nhìn rõ sự thật. Bằng lối viết tinh tế, sắc sảo, Michael Hjorth và Hans Rosenfeldt dẫn dắt bạn đọc đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác. Những chi tiết được khéo léo cài cắm, đầy những nút thắt, mở và cũng rất nhiều chi tiết tưởng như không cần thiết nhưng đến cuối, bạn sẽ hiểu tại sao chi tiết ấy lại xuất hiện. Trong các tiểu thuyết trinh thám không thiếu những cảnh tra tấn và giết người, nhưng ở “Bí mật đen tối” thì quá trình đó được miêu tả chân thực và rùng rợn đến mức chúng ta không tưởng tượng được làm thế nào tác giả lại có thể nghĩ ra những chi tiết đó một cách tài tình đến như vậy. Quả tim của nạn nhân đã biến mất, chi tiết mở đầu tiểu thuyết đã đủ lôi cuốn trí tò mò của người đọc.  Tác giả đã rất biết cách xây dựng một vụ án vừa đáng sợ vừa hóc búa và gay cấn đến phút cuối cùng, khiến cho người đọc tuy sợ nhưng cũng phải mau chóng lia mắt đọc tới dòng tiếp theo vì họ hoàn toàn không muốn bỏ lỡ bất kỳ tình tiết nào trong chuyến hành trình tìm ra sự thật. Bên cạnh những chi tiết hấp dẫn, gây tò mò, độc giả cũng sẽ bắt gặp những dòng văn nhẹ nhàng nhưng không kém phần sâu sắc, giản dị. Con người gai góc của Sebastian cũng có lúc lắng sâu, thâm trầm khi ông nhận ra thứ đơn giản như nước mắt: "Những năm gần đây, đó là điều biến đổi. Nước mắt. Thật lạ lùng, ông nghĩ, từng tuổi này, mình lại phải phát hiện ra thứ đơn giản như nước mắt". Nếu bạn là một độc giả yêu thích thể loại truyện trinh thám, chắc chắn "Bí mật đen tối" sẽ không làm bạn thất vọng. *** Gàkhông phải là kẻ giết người. Gã lặp lại trong đầu khi kéo xác thằng bé xuống dốc: Mình không phải là sát nhân. Sát nhân là tội phạm. Sát nhân thật kinh tởm. Bóng tối đã nuốt chửng linh hồn họ, và vì nhiều lý do họ đã nương theo và chào đón nó, quay lưng lại với ánh sáng. Gã không kinh tởm. Ngược lại là đằng khác. Chẳng phải gần đây gã không chứng minh được điều hoàn toàn ngược lại sao? Chẳng phải gã đã không gạt cảm xúc, ao ước của riêng mình sang một bên, mà tự kiềm chế, tất cả vì hạnh phúc của người khác? Làm ngơ – đó là những gì gã đã làm. Chẳng phải sự hiện diện của gã ở bãi lầy này, giữa một nơi xa xôi hẻo lánh với thi thể thằng bé càng chứng tỏ rằng gã muốn làm điều lương thiện sao? Phải làm điều lương thiện? Như thể gã chẳng bao giờ muốn làm việc tốt một lần nào nữa? Gã dùng chân và thở ra một hơi dài. Dù thằng bé chưa thật sự trưởng thành nhưng nó rất nặng. Rắn chắc. Nhiều giờ đã đổ ra ở phòng tập thể hình. Nhưng quãng đường không còn quá xa. Gã túm lấy hai ống quần, từng mang màu trắng nhưng giờ đây hầu như đã chuyển sang đen trong bóng đêm. Thằng bé máu me đầm đìa. Đúng, giết người là sai. Điều răn thứ năm nói rằng: Ngươi không được giết người. Nhưng có những ngoại lệ. Ở nhiều nơi, Kinh Thánh thực ra biện hộ cho giết chóc. Có người xứng đáng được như thế. Sai có thể thành đúng. Không có gì tuyệt đối cả. Rồi thế nào đây nếu lý do đằng sau việc giết người không phải vì ích kỷ? Nếu mất đi một nhân mạng mà cứu được những người khác? Thì hãy cho những người đó cơ hội. Cho họ được sống. Vào hoàn cảnh này, hành động ấy chắc chắn không thể liệt vào loại tàn ác. Nếu có động cơ tốt. Gã dừng chân bên làn nước đen của cái ao. Thường ngày, ao sâu chừng vài thước, nhưng cơn mưa gần đây đã làm mặt đất úng thủy, và giờ đây nó giống cái hồ giữa bãi lầy ứ đọng hơn. Gã cúi xuống và túm lấy hai vai chiếc áo phông của thằng bé. Cũng khá nhọc công, gã vần cho đến khi xác chết gập lại. Trong thoáng chốc, gã nhìn thẳng vào mắt thằng bé. Nó đã nghĩ gì trước khi chết? Liệu có đủ thời gian cho ý nghĩ cuối cùng? Nó có biết mình sắp chết không? Có tự hỏi tại sao không? Nó đã nghĩ về những thứ chưa làm được trong cuộc đời ngắn ngủi của mình, hay về những thứ đã thật sự làm được? Không còn quan trọng nữa. Tại sao gã lại tra tấn bản thân thế này – hơn cả cần thiết? Gã không còn cách nào khác. Gã không thể làm họ thất vọng. Không một lần nào nữa. Tuy nhiên, gã đã do dự. Nhưng không, họ chẳng cảm thông đâu. Sẽ không tha thứ. Sẽ không làm ngơ, như gã đã làm. Gã đẩy thằng bé và thi thể nó rớt xuống nước, nghe rõ tiếng nước bắn tóe. Gã giật bắn người bởi thứ âm thanh không mong đợi vang lên trong khoảng không thinh lặng, mù mịt. Thi thể thằng bé chìm xuống nước và dần biến mất. Gã đàn ông không phải là sát nhân cuốc bộ về chiếc xe hơi của mình, đang đậu ở con đường mòn dẫn vào rừng, rồi lái xe về nhà. “Cảnh sát thành phố Västerås, Klara Lidman nghe đây.” “Tôi muốn báo con trai mình đã mất tích.” Giọng người phụ nữ nghe có vẻ ái ngại, như thể cô không chắc là mình gọi đúng số, hay cô không nghĩ là người ta tin mình. Klara Lidman với tay lấy xấp giấy ghi chú dù cuộc nói chuyện đang được ghi âm. "Vui lòng cho biết tên cô?" “Eriksson, là Lena Eriksson. Con trai tôi là Roger. Roger Eriksson.” “Con cô bao nhiêu tuổi?" “Mười sáu. Tôi vẫn chưa gặp lại nó kể từ chiều hôm qua." Klara chú ý đến độ tuổi thằng bé và nhận ra mình phải hành động ngay. Tất nhiên là nếu thằng bé đã mất tích. “Hồi mấy giờ chiều hôm qua?” “Nó dông mất lúc năm giờ.” Vậy là hai mươi hai giờ trước. Hai mươi hai giờ mấu chốt nếu đó là một vụ mất tích. “Cô có biết con mình đi đâu không?” “Có, đi gặp Lisa." “Lisa là ai?” “Bạn gái nó. Hôm nay tôi đã gọi cho con bé, nhưng nó bảo con tôi rời khỏi chỗ nó lúc mười giờ tối qua." Klara gạt bỏ con số “hai mươi hai” và thay bằng “mười bảy”. “Sau đó thằng bé đi đâu?" “Con nhỏ không biết. Nó nghĩ là về nhà. Nhưng con trai tôi vẫn chưa về nhà. Nó không hề về nhà cả đêm hôm qua. Và bây giờ sắp hết một ngày nữa rồi.” Và cô đã không gọi điện báo cho đến tận bây giờ, Klara nghĩ. Trong cô bỗng bật ra ý nghĩ rằng người phụ nữ ở đầu dây bên kia đã không cuống lên. Mà thờ ơ. Cam chịu. “Họ của Lisa là gì?” “Hansson." Klara ghi lại họ của con bé. “Roger có dùng điện thoại di động không? Cô thử gọi cho thằng bé chưa?” “Rồi, nhưng không ai trả lời.” "Và cô không biết nó có thể đi đâu? Liệu thằng bé có qua đêm ở chỗ bạn bè hay nơi nào đại loại như thế không?” “Không, như thế thì nó đã gọi cho tôi rồi.” Lena Eriksson ngưng lại một chút và Klara đoán chừng là người kia đang nghẹn ngào, nhưng khi nghe làn hơi rít vào ở đầu dây bên kia, cô nhận ra là cô ta đang kéo một hơi thuốc dài. Cô nghe thấy Lena thổi khói thuốc ra. “Nó đã biến mất.” Mời bạn đón đọc Bí Mật Đen Tối của tác giả Michael Hjorth & Hans Rosenfeldt & Nguyễn Hữu Công (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

2666 (Tiểu Thuyết)
2666 là tiểu thuyết cuối cùng của Roberto Bolaño. Cuốn sách được xuất bản năm 2004, một năm sau khi Bolaño qua đời. Chủ đề của nó vô cùng phong phú, xoay quanh một nhà văn người Đức bí ẩn và những vụ giết người vẫn không ngừng diễn ra ở Santa Teresa, một thành phố bạo lực mà nguyên mẫu đời thực là Ciudad Juárez và những vụ giết hại phụ nữ xảy ra ở đó.  Bên cạnh Santa Teresa, bối cảnh và chủ đề của tiểu thuyết còn có cả Mặt trận phía Đông trong Thế Chiến thứ Hai, thế giới học thuật, bệnh lý tâm thần, báo chí, tình bạn tan vỡ, sự nghiệp tiêu tán. 2666 khám phá sự suy thoái của thế kỷ 20 qua một loạt các nhân vật, địa điểm, giai đoạn và những câu chuyện nằm trong câu chuyện. Giới phê bình nhìn chung đánh giá cuốn sách hết sức tích cực. Ở Chile, nó thắng giải Altazor Award vào năm 2005. The New York Times Book Review đưa cuốn sách vào danh sách Mười cuốn sách hay nhất năm 2008; Tạp chí Time xem 2666 là Sách Hư Cấu Hay nhất Năm 2008; tiểu thuyết cũng thắng giải National Book Critics Circle Award for Fiction năm 2008. Các nhà phê bình so sánh 2666 với các tác phẩm của W. G. Sebald và ca ngợi tầm vóc và những tuyến truyện đan cài trong cuốn sách. Hiếm có cuốn tiểu thuyết nào mà từ khi đang còn trên bàn biên tập đã được một bộ phận độc giả văn chương “sành sỏi” háo hức mong đợi như vậy. Nếu Roberto Bolaño không mất sớm vào năm 2003 khi mới năm mươi tuổi, chắc hẳn ông sẽ là một trong những ứng viên nặng ký cho giải Nobel Văn chương.  TÓM TẮT:  Bốn người châu Âu nghiên cứu văn chương. Một giáo sư đại học ở Mexico. Một nhà báo Mỹ đưa tin về một trận quyền Anh. Một nhà văn Đức kiệt xuất, ẩn dật, từng là lính quốc xã. Cảnh sát, nhiều cảnh sát. Gái điếm. Và nhiều, rất nhiều câu chuyện riêng tư thoạt nhìn chẳng liên quan đến nhau. Nhưng rồi, đọc kỹ, ta sẽ thấy rằng tất cả các chuyện đó, giống như những thế giới rất khác nhau, chồng lớp lên nhau, thảy đều xoay quanh một lỗ đen khổng lồ, hắc ám: Santa Teresa. Thành phố bên rìa sa mạc phía bắc Mexico, giáp giới nước Mỹ. Một thành phố lớn, đầy sức sống. Một thành phố lớn, nơi hiểm họa xảy ra bất cứ lúc nào. Nhất là nếu bạn là phụ nữ. Phức tạp như bản thân thế giới, cuốn sách là cả một vũ trụ đủ màu hỉ nộ ái ố, đủ mùi triết lý, nực cười, lãng mạn, tục tằn, ngây thơ đến độ đui mù, ngoan ngoãn xoay quanh địa ngục lỗ đen và răm rắp tuân theo lệnh của lỗ đen.  *** TÁC GIẢ: Roberto Bolaño (1953-2003) nhà văn kiệt xuất người Chile, tác giả nhiều tiểu thuyết, truyện ngắn và tiểu luận văn chương. Năm 1999 ông đoạt giải thưởng Rómulo Gallegos cho tiểu thuyết Los detectives salvajes (tạm dịch: Trinh thám hoang dại), và năm 2008 ông được truy tặng Giải thưởng Hội Phê bình sách Toàn quốc (National Book Critics Circle Award) của Hoa Kỳ cho tiểu thuyết 2666. Marcela Valdes, một thành viên của ban chấm giải, mô tả 2666 là “một cuốn sách phong phú và chói sáng đến độ chắc chắn sẽ thu hút người đọc và giới học giả suốt nhiều đời sau.” Thời báo New York gọi Bolaño là “tiếng nói văn chương Mỹ la-tinh quan trọng nhất trong thế hệ của ông”. *** '2666' và câu chuyện xảy ra ở thành phố có 108 xác chết Cuốn sách "2666" của Roberto Bolaño là một vũ trụ đủ triết lý, nực cười, lãng mạn, tục tằn, ngây thơ và cả tội ác. 2666 là cuốn tiểu thuyết cuối cùng của nhà văn người Mỹ Latin Roberto Bolaño, được xuất bản một năm sau khi ông qua đời vì căn bệnh suy gan khi 50 tuổi.  2666 không chỉ là kiệt tác cuối đời của một tiểu thuyết gia, mà còn là kiệt tác đến từ "tiếng nói văn chương Mỹ Latin quan trọng nhất trong thế hệ của ông". Một kiệt tác đồ sộ  Cuốn sách xoay quanh rất nhiều nhân vật, nhưng tất cả chỉ đều dẫn đến Santa Teresa, thành phố bên rìa sa mạc ở bắc Mexico, giáp biên giới Mỹ.  Ở đó có người châu Âu nghiên cứu văn chương, một giáo sư đại học, một nhà báo Mỹ, một nhà văn Đức kiệt xuất nhưng sống ẩn dật. Rất nhiều cảnh sát, gái điếm và những nhân vật tưởng chừng chẳng có can hệ gì đến nhau.  Những vụ giết người cứ xảy ra hàng ngày trong cái thành phố đầy sức sống và cũng nhiều hiểm họa ấy. Trong cuốn sách, từ năm 1990 đến 1997, 108 xác chết đều là phụ nữ và các bé gái.  Xuyên suốt từ đầu đến cuối tác phẩm là một vũ trụ đủ màu hỉ, nộ, ái, ố, đủ mùi triết lý, nực cười, lãng mạn, tục tằn, ngây thơ đến độ đui mù, ngoan ngoãn xoay quanh địa ngục lỗ đen và răm rắp tuân theo lệnh của lỗ đen. Ngay từ khi ra mắt, cuốn sách đã được giới phê bình đón nhận tích cực và dành tặng nhiều lời khen ngợi. Tác phẩm chiến thắng giải "Altazor Award" năm 2005 tại Chile và khi được dịch sang tiếng Anh năm 2008 cũng chiến thắng luôn giải "National Book Critics Circle Award for Fiction" của Mỹ.  Tờ New York Times xếp cuốn sách là một trong 10 tác phẩm hay nhất năm 2008, trong khi tạp chí TIME cũng vinh danh 2666 là tiểu thuyết hư cấu hay nhất cũng trong năm đó.  Tựa đề cuốn sách là một điều bí ẩn, đến nay chưa ai giải đáp được. Con số 2666 không xuất hiện dù chỉ một lần trong suốt tác phẩm và Bolaño cũng chưa từng lên tiếng giải thích ý nghĩa của nó.  Tuy vậy, 2666 đã xuất hiện trong một vài các tác phẩm khác của Bolaño, có thể kể đến Amulet ('một nghĩa trang vào năm 2666) và The Savage Detectives ('khoảng năm 2600 gì đó').  Trong bản gốc tiếng Tây Ban Nha, tác phẩm 2666 dày hơn 1.100 trang. Sau khi chuyển ngữ, bản sách tiếng Việt có độ dày gần 900 trang, kết cấu 5 phần rõ ràng.  Để giúp độc giả hiểu rõ hơn về 2666, câu chuyện đằng sau cuốn sách, cũng như khi so sánh với các tác phẩm khác, công ty sách Nhã Nam tổ chức buổi tọa đàm trực tuyến "Nhìn thế giới từ phương Tây: Tiểu thuyết của Murakami và Bolano ở Việt Nam" vào tháng 5 vừa qua.  "Đừng bó buộc nhà văn trong định danh quốc tịch của họ" Ngay từ phần mở đầu của buổi tọa đàm, dịch giả Trần Tiễn Cao Đăng khẳng định ông không phải là nhà nghiên cứu Roberto Bolaño. Ông chỉ đơn giản là người đọc Bolaño sớm hơn so với độc giả Việt Nam.  Ông cũng là người gợi ý hai cuốn sách hay nhất của Bolaño để phía đơn vị xuất bản đem tác phẩm về với độc giả Việt, một trong hai tác phẩm đó là 2666.  Thực chất, cách đây 12 năm, Bolaño đã xuất hiện tại văn đàn Việt Nam với cuốn tiểu thuyết Đêm Chile nhưng chưa được chú ý nhiều. Đến năm 2020, khi tác phẩm 2666 được xuất bản, công chúng mới nghiêm túc nhìn nhận văn chương và tài năng của ông.  Trần Tiễn Cao Đăng biết đến Bolaño lần đầu năm 2007 với cuốn The Savage Detectives (tạm dịch: Trinh thám hoang dại) qua người bạn. Điều đáng nói là khi ấy cuốn sách 2666 vẫn chưa được dịch ra tiếng Anh. Phải khi sách được xuất bản tại Mỹ năm 2008, tên tuổi của Bolaño mới gây được tiếng vang lớn trên thế giới.  Tương truyền khi 2666 ra mắt tại thành phố New York, Mỹ, có hiệu sách còn bố trí riêng một người để lấy sách cho độc giả, bởi số người muốn mua cuốn sách của Bolaño rất lớn. Sức hút cũng không kém gì Haruki Murakami khi mới xuất hiện tại cộng đồng Anh ngữ. Một điều thú vị khi nhắc đến Bolaño, Murakami hay bất kỳ nhà văn nào khác, Trần Tiễn Cao Đăng khuyên độc giả đừng bó buộc họ trong định danh quốc tịch của chính họ như Chile hay Nhật Bản…, mà đơn giản hãy gọi họ là nhà văn.  Ví dụ, các tác phẩm của Murakami, khi loại bỏ hết tên riêng tiếng Nhật và thay bằng những cái tên trong bất cứ ngôn ngữ nào khác, câu chuyện vẫn không thay đổi. Điểm khác biệt lớn nhất giữa hai nhà văn vốn chẳng phải đến từ phương Tây, từ khu vực Âu - Mỹ, nhưng vẫn được yêu thích trên toàn thế giới, là tính hiện thực.  Ở Bolaño, tính hiện thực xuyên suốt trong từng trang sách. Ngay chính ở 2666, độc giả cũng có thể thấy rõ điều đó, như ở phần 4 của cuốn sách là chương mà các tội ác dày đặc, ta bị đông cứng người lại vì có quá nhiều việc ác hiển hiện đến như vậy.  Còn Murakami lại là những thế giới siêu thực, song song với nhiều yếu tố kỳ ảo. Hầu như các tác phẩm của Murakami đều có yếu tố phi thực như vậy, như trong Biên niên ký chim vặn dây cót, Kafka bên bờ biển, Cuộc săn cừu hoang… Các nhân vật của Bolaño và Murakami cũng trái ngược nhau. Bolaño luôn coi mình trước hết với vai trò nhà thơ, mặc dù thành công vang dội trong mảng văn chương. Vì thế, trong hầu hết sách của ông, nhân vật nhà thơ luôn xuất hiện, hiện thân cho cái tôi của chính ông.  Trong Trinh thám hoang dại, toàn bộ câu chuyện xoay quanh các nhà thơ và số phận của họ. Họ hướng tới cái đẹp mà chỉ có mình họ quan tâm đến.  Họ đi bán thuốc phiện để được làm thơ. Nhưng xã hội hiện đại không quan tâm đến họ, biến họ thành kẻ lạc loài. Trong 2666, tuýp nhân vật này lại xuất hiện, đó là anh nhà thơ trong nhà thương điên.  Còn với Murakami, các nhân vật chính lại chưa bao giờ là nhà thơ hay nghệ sĩ. Họ chỉ là những người bình thường, sống độc thân hoặc cô đơn, thường thích nấu ăn và thích nghe nhạc jazz.  Có thể nói hai nhà văn lớn được nhắc đến thuộc hai thế giới hoàn toàn khác nhau, nhưng cùng được xem là hai trong những tiểu thuyết gia quan trọng nhất của thời hiện đại. Với gần 900 trang, cuốn sách 2666 có sự tham gia của hai dịch giả giàu kinh nghiệm là Quân Khuê và Trần Tiễn Cao Đăng. Theo chia sẻ từ đại diện đơn vị xuất bản, cuốn sách cũng được gia hạn bản quyền đến hai lần, không chỉ bởi độ dày, mà còn bởi sự chỉn chu, cầu toàn của người dịch, biên tập viên với một kiệt tác văn chương.  Kết thúc buổi tọa đàm, dịch giả Trần Tiễn Cao Đăng khuyên độc giả đừng nản lòng trước sự đồ sộ của 2666. Văn chương của Bolaño được đánh giá tương đối dễ đọc, dễ hiểu. Ông cũng không phải là người thích chơi chữ nhưng lại có biệt tài kể chuyện cuốn hút. Độc giả hãy cứ kiên nhẫn, hãy cứ thoải mái tận hưởng cuốn sách từng chút một, và sẽ tìm thấy sự hài lòng khi gấp trang cuối cùng lại. *** "2666" tiểu thuyết hay nhất do tạp chí Time bình chọn có mặt tại Việt Nam Do nhà văn Roberto Bolano (Chile) chấp bút, cuốn tiểu thuyết "2666" đã lọt vào danh sách 10 cuốn sách hay nhất 2018 do The New York Times Book Review bình chọn, Tiểu thuyết hay nhất 2018 do tạp chí Time bình chọn. Và với những nỗ lực của công ty Nhã Nam, cuốn sách đã có mặt tại thị trường sách Việt Nam. Cuốn tiểu thuyết có bố cục gồm 5 phần và trọn vẹn như năm tiểu thuyết riêng biệt. Nhiều câu chuyện riêng tư thoạt nhìn chẳng liên quan đến nhau. Nhưng rồi đọc kỹ, độc giả sẽ thấy, tất cả các câu chuyện đó, giống như những thế giới rất khác nhau, chồng lớp lên nhau, và xoay quanh Santa Teresa, thành phố bên rìa sa mạc phía Bắc Mexico, giáp giới nước Mỹ. Một thành phố lớn, đầy sức sống. Một thành phố lớn, nơi hiểm họa xảy ra bất cứ lúc nào. 2666 là một màn trình diễn hoàn hảo mà bất cứ cuốn tiểu thuyết 900 trang nào cũng mong muốn có được. Viết nương theo những hoài nghi về khả năng của văn chương, về những gì văn chương có thể khám phá hay dám gọi tên những tai ách của thế gian, nhà văn Bolano đã chiến thắng cuộc đua tới vạch đích, cuộc đua viết ra điều ông, một bậc thầy ngôn từ mong muốn nói lên một cách giản dị. Roberto Bolano (1953 – 2003) là nhà văn người Chile, tác giả nhiều tiểu thuyết, truyện ngắn và tiểu luận văn chương. Năm 1999 ông đoạt giải thưởng Rómulo Gallegos cho tiểu thuyết Los detectives salvajes (tạm dịch: Trinh thám hoang dại), và năm 2008 ông được truy tặng Giải thưởng Hội Phê bình sách Toàn quốc (National Book Critics Circle Award) của Hoa Kỳ cho tiểu thuyết 2666. Marcela Valdes, một thành viên của ban chấm giải, mô tả 2666 là “một cuốn sách phong phú và chói sáng đến độ chắc chắn sẽ thu hút người đọc và giới học giả suốt nhiều đời sau.” Thời báo New York gọi Bolano là “tiếng nói văn chương Mỹ Latin quan trọng nhất trong thế hệ của ông”.   Mời các bạn đón đọc 2666 (Tiểu Thuyết) của tác giả  Roberto Bolaño & Trần Tiễn Cao Đăng (dịch) & Quân Khuê (dịch).
Tick Tock (Tiếng Việt)
Thám tử số 1 của Sở Cảnh sát New York - Michael Bennet đang gặp phải một vụ án nghiêm trọng: Con trai Sam, Ma cà rồng Brooklyn và Kẻ Đánh Bom Tâm thần đã đồng loạt trở lại. New York chưa bao giờ hỗn loạn hơn! Tick – Tiếng đồng hồ đếm ngược của kẻ thủ ác vang lên Những vụ án mạng thảm khốc reo giắc nỗi kinh hoàng khắp thành phố, và người đạo diễn nên chúng không phải kẻ nghiệp dư, mà là một tay sát nhân máu lạnh và cực kì thủ đoạn. Mục đích của hắn là gì? Vì muốn thỏa thú vui bệnh hoạn, vì tiền… hay vì điều gì khác? Tick – Michael Bennet nhập cuộc Thành phố trông cậy vào Michael Bennet. Đang trong kì nghỉ mát cùng bầy con đông đúc, ông nội, và cô trông trẻ Mary Catherine xinh đẹp, viên thám tử bị lôi đi truy tìm tay tội phạm nguy hiểm dưới cái thời tiết oi nồng của New York. Kì nghỉ đầu tiên của gia đình kể từ ngày vợ Bennet qua đời có thể hỏng bét! Tock – Hết giờ! Bennett cần đến sự hỗ trợ của cựu đồng nghiệp – nữ đặc vụ FBI Emily Parker. Cùng nhau, họ đã phát hiện ra một tình tiết mới, giúp phơi bày cả một âm mưu khủng khiếp. Hung thủ đứng sau những vụ án đẫm máu kia là ai, hắn hành động độc lập hay có đồng phạm? Câu trả lời đang đợi bạn trong những trang sách hồi hộp nhất về thám tử Michael Bennett. *** Nhà văn James Patterson sinh ngày 22 tháng 3 năm 1947 tại thành phố Newburgh, bang New York. Ông từng tốt nghiệp cử nhân về tiếng Anh ở trường cao đẳng Manhattan và tiếp theo, đã bảo vệ thành công luận văn thạc sĩ cũng về tiếng Anh ở Trường Đại học Tổng hợp Vanderbilt. Năm 1971, Patterson được nhận vào làm tại Công ty Quảng cáo James Walter Thompson. Chính ở đây nhà văn tương lai đã được thăng tiến rất mau lẹ trong công việc, từ một nhân viên bình thường lên tới giám đốc. Ngay khi đang làm quảng cáo, Patterson đã thử viết văn. Tiểu thuyết đầu tay của ông là Con số Thomas Berryman thoạt tiên đã bị nhiều nhà xuất bản từ chối. Mãi tới năm 1976, Con số Thomas Berryman mới được nhà xuất bản Little Brown nhận in và sau đó, chính nó đã trở thành sách best-seller và được trao giải thưởng mang tên nhà văn Edgar (mang tên nhà văn Mỹ nổi tiếng Edgar Poe) dành cho tác phẩm đầu tay xuất sắc. Trong gần hai mươi năm sau đó, Patterson đã kết hợp hoạt động của một giám đốc hãng quảng cáo với công việc của một ngôi sao mới nổi trong làng nghệ thuật giải trí. Và rất thành công. Các tác phẩm của James Patterson đã được xuất bản tại Việt Nam: - Hồng Rực Đỏ - Tuần Trăng Mật - Chuyến Đi Khủng Khiếp - Luật Sư và Bị Cáo - Ly Rượu Pha Vội - Cạm Bẫy Mong Manh - Nụ Hôn của Casanova - Kẻ Đầu Tiên Phải Chết - Cơ Hội Thứ 2 - Cấp Độ 3 - Ngày 4 tháng 7 - Kỵ sĩ thứ 5 - Mục Tiêu thứ 6 - Thiên Đường Thứ 7 - Cross - Nỗi Kinh Hoàng Trườn Tới - Tick Tock Mời các bạn đón đọc Tick Tock (Tiếng Việt) của tác giả  James Patterson & Michael Ledwidge.
Alex (Cơn Giận Dữ Của Địa Ngục)
"Tôi chỉ tìm cách viết những cuốn sách mà Hitchcock sẽ muốn dựng thành phim." - PIERR LEMAITRE -   Một cô gái hấp dẫn bị bắt cóc, lột trần rồi nhốt trong một cái lồng chật hẹp, xung quanh là bầy chuột đói. Cảnh sát tìm ra hung thủ ngay trước khi hắn định tự sát nhưng lại không thấy nạn nhân. Một sát thủ máu lạnh với hành trình như không hề định trước, giết những người như chỉ tình cờ gặp với cùng một cách thức: đập vào đầu rồi đổ nửa lít axit sunfuric đậm đặc vào cổ họng. Ai là nạn nhân, ai là đao phủ, hay đao phủ lại chính là nạn nhân? Có cần tìm ra sự thật, hay công lý mới là điều cốt yếu? Được viết bởi cây bút từng đoạt giải Goncourt năm 2013, ALEX sẽ khiến độc giả không thẻ buông lời một giây với đầy cảm xúc chất chứa, đi từ thái cực này đến thái cực khác... BẠN HÃY ĐỌC ĐI NHƯNG ĐỪNG ĐỂ BỊ ĐÁNH LỪA *** Alex khoái chí lắm. Đã gần một tiếng đồng hồ cô hết thử rồi lại ngần ngừ, hết đi ra rồi trở vào, thử đi thử lại. Những bộ tóc giả. Cô sẵn sàng nán lại đây hàng chiều, hàng chiều liền. Cách đây chừng ba bốn năm, cô tình cờ phát hiện cửa hàng này trên đại lộ Strasbourg. Cô không nhìn ngó kỹ mà chỉ bước vào vì tò mò. Cô choáng váng vô cùng khi đội bộ tóc hung lên đầu, mọi thứ ở cô đều thay đổi đến mức cô đã ngay lập tức mua bộ tóc giả ấy. Alex có thể mang trên người gần như bất cứ thứ gì vì cô thực sự rất xinh đẹp. Trước đây thì chưa phải như vậy điều đó chỉ bắt đầu từ khi cô bước vào tuổi thiếu niên. Hồi trước, cô là một con bé xấu tệ và gầy đét. Nhưng lúc đã được khởi động thì, cứ như một cơn sóng ngầm, cơ thể bỗng nhiên lột xác, giống như phim tua nhanh, chỉ trong vòng mấy tháng Alex trở nên đẹp rực rỡ. Bởi chẳng một ai, tính luôn cả cô, còn trông đợi điều đó nữa, nên cô chưa bao giờ thực sự tin nổi ân sủng bất ngờ này. Giờ vẫn chưa tin nổi. Chẳng hạn, cô chưa từng tưởng tượng một bộ tóc giả màu hung lại có thể hợp với mình đến thế. Đúng là cả một khám phá. Cô đã không ngờ đến tầm vóc và sức mạnh của sự thay đổi. Một bộ tóc giả thì thật giả tạo, nhưng khó mà giải thích nổi, cô thấy như thể đúng là có điều gì đó mới mẻ vừa xảy ra trong đời mình. Thật ra thì cô chưa bao giờ đội bộ tóc giả ấy. Về đến nhà, cô nhận ngay ra rằng chất lượng của nó hết sức tồi tệ. Trông nó rất giả, xấu xí, thảm hại. Cô đã vứt nó đi. Không phải vứt vào thùng rác mà vào một ngăn kéo tủ. Thỉnh thoảng cô mới lôi ra rồi ngắm mình đội nó. Bộ tóc giả này trông có khủng khiếp đến đâu, như thể muốn hét lên: “Tôi được làm từ ni lông tổng hợp rẻ tiền”, thì cũng không ngần Alex nhìn thấy trong gương một tiềm năng mà cô sẵn lòng tin tưởng. Cô đã quay lại đại lộ Strasbourg, bỏ thời gian nhìn ngắm những bộ tóc giả chất lượng tốt, đôi thứ hơi quá đắt với đồng lương y tá thời vụ của cô, nhưng là những bộ ta có thể thực sự đội trên đầu. Và thế là cô đã quyết. Lúc đầu, thật không dễ dàng, phải cả gan dấn bước. Khi mà bản tính con người ta, tức là Alex, chất chứa nhiều mặc cảm, thì phải mất đến nửa ngày trời mới gom đủ dũng khí làm việc đó. Trang điểm sao cho thật ngon lành, chọn quần áo, giày và túi xách cho thật hợp (tức là chọn ra những gì có thể sử dụng từ đống đồ có sẵn, chứ đâu thể mỗi lần đổi kiểu tóc là lại đi mua hết thảy đồ mới…) Nhưng sau đó ta đi ra phố và ngay lập tức trở thành một người khác. Không hoàn toàn là một người khác, chỉ gần như vậy thôi. Và, cho dù điều đó không làm thay đổi cuộc đời thì nó cũng giúp ta giết thời gian, nhất là khi ta chẳng còn trông chờ gì nhiều nữa. Alex thích những bộ tóc giả theo khuôn mẫu, những bộ tóc gửi đi các thông điệp rõ ràng như: “Tôi biết anh đang nghĩ gì” hay “Tôi cũng rất giỏi môn toán.” Bộ tóc cô đang đội hôm nay nói lên một điều gì đó như: “Anh sẽ không tìm thấy tôi trên Facebook đâu.” Cô cầm lên một mẫu mang tên “Urban choc”, đúng lúc đó thì nhìn thấy hắn qua cửa kính. Hắn đứng trên vỉa hè đối diện, đang làm ra vẻ đợi ai đó hoặc một điều gì đó. Đây là lần thứ ba trong vòng hai tiếng. Hắn đi theo cô. Giờ thì cô đã chắc chắn rồi. Tại sao lại là mình? Đó là câu hỏi đầu tiên cô tự đặt ra. Cứ như thể bất kỳ đứa con gái nào cũng có thể bị đàn ông theo đuôi, trừ cô. Cứ như thể chẳng phải cô vẫn thường xuyên cảm nhận được ánh mắt của bọn họ, ở khắp nơi, trên tàu xe, ngoài phố. Trong các cửa hiệu. Alex vừa mắt đàn ông mọi lứa tuổi, đó chính là lợi thế khi ta ở tuổi ba mươi. Dẫu vậy, cô vẫn luôn luôn thấy ngạc nhiên. “Có biết bao nhiêu cô gái khác khá hơn mình nhiều.” Luôn thiếu tự tin, Alex ấy, luôn ngập trong ngờ vực. Từ hồi còn bé. Cô mắc tật nói lắp mãi cho đến tuổi thiếu niên. Thậm chí giờ vẫn vậy, vào những lúc cô bối rối. Cô không biết tay kia, bởi nếu có biết thì một vẻ ngoài như thế hẳn đã để lại một dấu ấn sâu sắc, không, cô chưa bao giờ nhìn thấy hắn. Và rồi, một người đàn ông năm mươi tuổi đi theo một cô gái ba mươi… Chẳng phải cô khư khư với những nguyên tắc, mà chỉ là chuyện này làm cô thấy ngạc nhiên. Alex cúi xuống xem các mẫu khác, làm ra vẻ do dự rồi đi sang phía bên kia cửa hàng, đến một góc có thể quan sát vỉa hè. Hắn có dáng xì po, trông có vẻ khó cựa quậy bên trong bộ quần áo quá chật, dạng đàn ông nặng cân. Vừa vuốt vuốt một bộ tóc giả màu vàng hoe, gần như ngả sang bạch kim, cô vừa nhớ lại xem lần đầu tiên mình nhận ra sự hiện diện của hắn là khi nào. Trên tàu điện ngầm. Cô đã thấy hắn ngồi ở cuối toa. Ánh mắt họ giao nhau và cô đã kịp nhìn thấy nụ cười mà hắn gửi đến cho cô, nụ cười cố làm ra vẻ mơn trớn, làm thân. Điều cô thấy không thích trên khuôn mặt hắn là như thể trong cái nhìn của hắn có một định kiến nào đó. Nhưng nhất là, cặp môi hắn quá mỏng. Theo bản năng, cô lấy đó làm nghi ngại, cứ như thể tất cả những ai môi quá mỏng đều mang bên trong mình điều gì đó, những bí mật không thể giãi bày, những điều độc ác. Và cái trán dô của hắn nữa. Cô không kịp nhìn cặp mắt hắn, thật đáng tiếc. Theo cô, mắt thì không thể đánh lừa, cô vẫn luôn luôn đánh giá người khác như vậy, căn cứ vào ánh mắt. Lẽ dĩ nhiên là trên tàu điện ngầm, cô chẳng muốn mất thời gian với thể loại người như thế. Không tỏ ra quá phũ phàng, cô quay mặt sang hướng khác, quay lưng về phía hắn, lục tìm chiếc máy MP3 để trong túi xách. Cô bật bài Nobody’s Child, và đột nhiên nghĩ hình như đã nhìn thấy hắn hôm trước hoặc hôm trước nữa, ở dưới nhà. Hình ảnh quá mờ mịt, cô không chắc lắm. Chắc phải ngoái nhìn thêm một lần nữa thì mới hòng điều động lại được ký ức mờ ảo kia, nhưng cô không muốn tỏ vẻ khuyến khích hắn. Điều chắc chắn là sau khi chạm trán trên tàu điện ngầm, nửa tiếng sau đó cô lại thấy hắn trên đại lộ Strasbourg, đúng lúc cô quay lại chỗ này. Cô vừa đổi ý, cô muốn xem lại bộ tóc giả màu nâu dài vừa phải có nhiều lọn, đột nhiên cô quay phắt lại và nhìn thấy hắn, cách một quãng, trên vỉa hè, hắn dừng sững lại, làm ra vẻ đang nhìn một cửa kính. Sau cửa kính đó bày quần áo phụ nữ. Cho dù hắn có cố tỏ ra chăm chú đến đâu cũng vô ích… Alex đặt bộ tóc giả xuống. Chẳng có lý do gì, thế nhưng hai tay cô vẫn run lên. Ngốc thật. Hắn thích cô, hắn ta đi theo cô, thử vận may, dù thế nào thì hắn cũng sẽ không tấn công cô trên phố. Alex lắc đầu như thể muốn sắp xếp suy nghĩ cho ngay hàng thẳng lối và, khi cô lại nhìn ra vỉa hè, người đàn ông đã biến mất. Cô nghiêng đầu nhìn sang phải rồi sang trái, nhưng không, chẳng có ai, hắn không còn ở đó nữa. Cô cảm thấy nhẹ nhõm hẳn nhưng cảm giác ấy có phần hơi quá. Tuy cô cứ không ngừng tự nhủ “Ngốc thật” nhưng dù gì hơi thở của cô cũng trở lại bình thường hơn. Ra đến cửa, cô không thể ngăn mình dừng lại, kiểm tra thêm một lần nữa. Giờ thì như thể chính sự biến mất của hắn mới làm cô thấy lo lắng. Alex xem đồng hồ đeo tay, rồi ngước nhìn trời. Thời tiết dễ chịu, sẽ còn sáng ít nhất thêm một tiếng nữa. Không muốn về nhà. Chắc cô sẽ phải ghé một tiệm tạp hóa. Cô cố nhớ xem trong tủ lạnh còn những gì. Cô thực sự quá ít để tâm đến chuyện chợ búa. Mối bận tâm của cô dồn cả vào công việc, vào tiện nghi riêng (Alex hơi có chút ám ảnh vì những thứ ấy) và, mặc dù cô không muốn tự thú nhận điều này cho lắm, vào quần áo và giày dép. Và túi xách. Và những bộ tóc giả. Cô những muốn mối bận tâm của mình hướng vào tình yêu thì hơn, nhưng tình yêu là một chủ đề riêng biệt, cái khoảng buồn thảm trong đời cô. Cô từng hy vọng, từng mong muốn, thế rồi cô từ bỏ. Giờ cô không còn muốn nấn ná ở chủ đề này nữa, cô cố sao càng ít nghĩ đến nó càng tốt. Cô chỉ gắng sức để không biến nỗi tiếc nuối ấy thành chứng nghiện xem ti vi, khiến cô tăng cân, hay làm cô trở nên quá xấu xí. Dẫu vậy, tuy sống độc thân nhưng hiếm khi nào cô cảm thấy cô độc. Cô có những dự đồ mà cô hết sức thiết tha, chúng giúp cô tổ chức quỹ thời gian. Còn về phần tình yêu, thì xôi hỏng bỏng không rồi, nhưng cũng chỉ vậy mà thôi. Và cũng bớt khó khăn nhiều kể từ khi cô chuẩn bị sẵn tinh thần rằng mình sẽ ở vậy suốt đời. Dẫu có một thân một mình, Alex vẫn cố sống sao cho bình thường, tự tìm lạc thú. Ý nghĩ đó thường xuyên giúp cô, cái ý tưởng tự tìm cho mình những lạc thú nho nhỏ, ý tưởng cho rằng cả cô cũng có quyền được hưởng chúng, như những người khác. Chẳng hạn, cô đã quyết định tối nay sẽ quay lại quán Mont-Tonnerre trên phố Vaugirard để ăn tối. Cô đến hơi quá sớm. Đây là lần thứ hai cô tới đây. Lần đầu tiên là vào tuần trước, và đương nhiên người ta vẫn còn nhớ một cô gái tóc hung xinh đẹp ăn tối một mình. Tối nay, cô được chào hỏi như một khách quen, mấy anh phục vụ huých khuỷu tay vào nhau, vụng về tán tỉnh cô khách xinh đẹp đôi chút, cô mỉm cười, và các anh chàng thấy cô thật kiều diễm. Cô muốn ngồi đúng cái bàn hôm trước, lưng quay ra đường, nhìn vào phía trong phòng, cô cũng gọi nửa chai vang Alsace lạnh như lần trước. Alex thở dài, cô thích ăn, thậm chí cô còn phải dè chừng chuyện ăn uống, phải tự nhắc nhở mình điều đó suốt. Trọng lượng cơ thể cô cứ lên xuống chẳng khác gì con lắc yoyo. Tuy nhiên, cô vẫn kiểm soát khá tốt vấn đề này. Có lên đến mươi, mười lăm cân, biến dạng cả đi, thì cũng chỉ cần hai tháng là cô đã lại quay về với trọng lượng ban đầu. Vài năm tới, cô sẽ không còn chơi trò này được nữa. Cô rút quyển sách của mình ra và gọi thêm một cái dĩa để giữ trang trong lúc ăn. Cũng như tuần trước, ngồi đối diện cô, hơi lệch về phía tay phải, vẫn là anh chàng tóc hạt dẻ rất sáng màu. Anh ta ăn tối với các bạn. Họ mới có hai người, nghe họ nói chuyện với nhau thì những người khác sắp đến. Anh ta nhìn thấy cô ngay lập tức, lúc cô vừa bước vào, cô làm ra vẻ không quá để ý thấy anh ta đang nhìn mình rất khiếp. Sẽ như thế này suốt bữa. Ngay cả khi những bạn bè khác đã tới, ngay cả khi họ đã lao vào những cuộc trò chuyện bất tận về công việc, về các cô gái, về phụ nữ, lần lượt kể cho nhau nghe những câu chuyện trong đó họ là nhân vật chính, thì anh ta vẫn không ngừng nhìn cô. Alex rất thích tình huống này nhưng không muốn công khai khích lệ anh ta. Anh ta không tệ, chừng bốn mươi, bốn lăm tuổi, chắc từng đẹp trai, uống hơi quá nhiều rượu nên mặt mũi trông buồn thảm. Với Alex, khuôn mặt này tạo ra nhiều cảm xúc. Cô uống cà phê. Hành động nhượng bộ duy nhất, được tính toán rất kỹ lưỡng: một ánh mắt hướng về người đàn ông kia khi cô rời khỏi quán. Chỉ một cái nhìn. Alex rất giỏi làm chuyện này. Chỉ thoáng qua thôi nhưng cô thực sự cảm nhận được cảm giác đau đớn khi anh ta đặt lên cô ánh mắt thèm muốn ấy, nó làm bụng cô rộn lên, như một dấu hiệu của buồn bă. Alex không bao giờ tự nhủ thành lời, những lời lẽ có thực, khi đụng đến cuộc đời cô, như buổi tối hôm nay. Cô thấy rõ rằng trí óc mình đang đăm đắm vào những hình ảnh bất động, như thể cuốn phim đời cô bị đứt, cô không thể trở ngược, không thể tự kể lại chuyện, không thể tìm ra từ ngữ được nữa. Lần sau, nếu cô ở lại muộn hơn, có thể anh ta sẽ đứng đợi cô sẵn ở bên ngoài. Cứ đợi xem. Mà có chứ. Alex biết rất rõ chuyện sẽ xảy ra như thế nào. Vẫn cứ là gần như theo cùng một cung cách. Những lần cô tái ngộ với đàn ông chẳng bao giờ tạo nên câu chuyện thật đẹp, nhưng ít nhất thì đó cũng là một phần trong bộ phim cô từng xem và vẫn còn nhớ. Thế đấy, chuyện là vậy. Trời đã tối hẳn và thời tiết rất dịu mát. Một chiếc xe buýt vừa dừng ở bến. Cô rảo bước, tài xế nhìn thấy cô trong gương chiếu hậu nên đợi cô, cô khẩn trương hơn, nhưng đúng lúc bước lên thì, không, cô đổi ý, cô sẽ đi bộ một lúc, cô sẽ bắt một chiếc xe buýt khác trên đường, cô ra hiệu cho tài xế, anh ta đáp lại bằng một động tác tỏ vẻ nuối tiếc, như thể muốn nói rằng trên đời quả thật có số mệnh. Dù sao anh ta cũng mở cửa: — Sau xe tôi không còn xe nào khác nữa đâu, đây là chuyến cuối của tối nay rồi… Alex mỉm cười, phác một cử chỉ biết ơn. Kệ thôi, cô sẽ đi bộ vậy. Cô sẽ đi theo ngả phố Falguière, rồi sau đó là phố Labrouste. Cô đã ở khu phố này được ba tháng, bên phía cửa ô Vanves. Cô liên tục chuyển nhà. Trước đây, cô ở cửa ô Clignancourt, còn trước đó nữa là phố Commerce. Có những người ghét chuyển nhà, còn cô lại thấy đó là một việc cần thiết. Cô khoái lắm. Cũng có thể, cũng như với đám tóc giả, đó là cảm giác được thay đổi cuộc đời. Cứ lặp đi lặp lại như thế. Rồi đến một ngày, cô sẽ đổi cách sống. Trước mặt cô, cách vài mét, có một chiếc xe tải nhẹ màu trắng đang đỗ, hai bánh ghếch trên vỉa hè. Để đi qua, Alex nép sát vào tòa nhà, cô cảm thấy có ai đó, một người đàn ông, chưa kịp ngoảnh đầu lại cô đã lĩnh một cú đấm trời giáng vào khoảng giữa hai vai. Cô mất đà, ngã bổ nhào về phía trước, trán đập mạnh vào thân xe làm phát ra một âm thanh đùng đục, cô quăng mọi thứ đi để tìm chỗ bám nhưng không quờ được gì, hắn tóm lấy tóc cô nhưng vớ phải bộ tóc giả. Hắn bật chửi thề, câu chửi mà cô không hiểu, và điên cuồng dùng một tay túm cả một mớ tóc của cô, lần này là tóc thật, còn tay kia hắn nhằm thẳng vào bụng cô, cú đấm đủ sức giết chết một con bò. Alex còn không kịp hét lên vì đau, cô gập người lại, nôn thốc. Gã đàn ông khỏe thật, vì hắn xoay người cô về phía hắn dễ như xoay một tờ giấy. Hắn vòng tay quanh người cô, giữ chặt lấy và nhét một nắm vải vào sâu trong miệng cô, đến tận cổ họng. Là hắn, gã đàn ông ở tàu điện ngầm, trên phố, chỗ cửa hàng, là hắn. Trong một tích tắc, mắt họ giao nhau. Cô gắng sức lấy chân đá hắn nhưng giờ hắn đã siết chặt lấy hai cánh tay cô, như một cái ê tô, cô không tài nào làm được gì hòng chống lại sức mạnh này, hắn giật cô chúi xuống, hai đầu gối cô không trụ nổi, cô ngã xuống sàn thùng sau xe. Hắn co chân đạp mạnh vào đoạn thắt lưng cô, Alex bắn vào trong thùng xe, má chà xuống sàn. Hắn leo lên sau cô, sỗ sàng xoay người cô lại, tì đầu gối lên bụng cô và tung một cú đấm vào mặt. Hắn ra đòn cực mạnh… Hắn thực sự muốn làm cô đau, hắn thực sự muốn giết cô, đó là ý nghĩ chạy qua óc Alex vào lúc cô phải nhận cú đấm ấy, đầu cô dộng xuống sàn, nẩy lên, một cú va chạm khủng khiếp, đúng chỗ đó, đằng sau đầu, chẩm, đúng rồi, Alex tự nhủ, chỗ đó gọi là chẩm. Ngoài từ ấy ra, cô chỉ có thể nghĩ được rằng mình không muốn chết, không phải như thế này, không phải bây giờ. Cô nằm co quắp ở tư thế bào thai, trong miệng đầy thứ mửa ra, đầu chực nổ tung, cô cảm thấy hai bàn tay mình bị giật thật mạnh ra sau lưng, bị trói lại, cả hai cổ chân nữa. Mình không muốn chết bây giờ, Alex tự nhủ. Cửa thùng xe đóng sập lại, máy nổ, vù một cái chiếc xe rời khỏi vỉa hè, mình không muốn chết bây giờ. Alex bất tỉnh nhưng vẫn ý thức được chuyện đang xảy đến với mình. Cô khóc, nghẹn cả thở vì khóc. Tại sao lại là mình? Tại sao lại là mình? Mình không muốn chết. Không phải là bây giờ. Mời các bạn đón đọc Alex (Cơn Giận Dữ Của Địa Ngục) của tác giả Pierre Lemaitre & Cao Việt Dũng (dịch).
Tay Sát Thủ Mù
Giữa những sát thủ mù, người thằn lằn, ma nữ, tiểu thư thượng lưu, nghệ sĩ hiện đại, tư sản học làm sang, cựu  chiến binh, thủ lĩnh công đoàn, tài phiệt… Margaret Atwood cuốn người đọc qua một câu chuyện trải hơn một thế kỷ,  hai lục địa và vài hành tinh. Từ những mảnh tưởng chừng rời rạc, Atwood đã dệt nên một tiểu thuyết đáng kinh ngạc,  thêm một lần nữa khẳng định vị thế của bà như một trong những tiểu thuyết gia đương đại hàng đầu, người kể những  câu chuyện ly kỳ một cách xuất chúng.   Nhận định   “Nghệ thuật kể chuyện vĩ đại trên quy mô lớn… Tuyệt hay.” - The Washington Post Book World   Hãy tưởng tượng vị hãn Agha Mohammed, kẻ đã lệnh đem hạ sát hoặc chọc cho mù mắt toàn bộ dân thành Kerman, không từ một ai. Đội cận vệ hăm hở bắt tay vào việc. Chúng gom cư dân thành hàng, người lớn cắt đầu, trẻ con khoét mắt… Về sau, đàn đàn lũ lũ trẻ con mù rời khỏi đô thành. Một số, sau khi xiêu dạt nơi thảo dã, lạc đường trong sa mạc mà chết khát. Số khác tìm được tới nơi người ở… hát những bài ca về cuộc tận diệt gái trai già trẻ Kerman… - RYSZARD KAPUŚCIŃSKI   Ta bơi, biển khơi vô tận, nhìn chẳng thấy bờ. Tanit nguyệt thần không biết xót thương, ta nguyện cầu, người đền đáp. Hỡi kẻ kia chìm trong bể ái, hãy nhớ về ta. - KHẮC TRÊN BÌNH TRO THỜI CARTHAGE   Lời là lửa cháy trong lòng kính tối. - SHEILA WATSON *** TAY SÁT THỦ MÙ – BẤT CẦN VÀ SAY ĐẮM Có rất nhiều điều để nói về văn chương Margaret Atwood, một tên tuổi lớn khác của văn chương Canada hiện đại (cùng với Alice Munro). Chẳng hạn như lối viết hết sức chi tiết, nghệ thuật kể chuyện tự nhiên, sống động, cách dẫn dắt tài tình hay ngôn ngữ sắc lạnh và có phần giễu cợt nhưng chứa chan tình cảm. Tuy nhiên, đáng chú ý nhất có lẽ là tính nữ đậm đạc trong các tác phẩm của bà. NHỮNG CÂU CHUYỆN CỦA BÀ GIÀ IRIS “Bà Iris Chase Griffen đã đột ngột tạ thế thứ Tư tuần trước, thọ 83 tuổi, trong ngôi nhà của mình ở cảng Ticonderoga. Bà Griffen là chị gái nữ tác giả danh tiếng người thị trấn là Laura Chase. Bên cạnh đó bà còn là con gái Đại úy Norval Chase, chắc chắn sẽ được thị trấn ghi nhớ lâu dài, và cháu nội Benjamin Chase, người sáng lập công ty Công nghiệp Chase, đã mở Nhà Máy Cúc cùng nhiều cơ sở khác. Thêm vào đó, bà là vợ ngài Richard E. Griffen quá cố, nhà công nghiệp và chính trị gia lừng danh, cũng như chị dâu bà, Winifred Griffen Prior, nhà hảo tâm Toronto vừa qua đời năm ngoái, để lại quỹ tiền thưởng hào phóng cho trường trung học thị trấn ta. Gia đình còn lại cháu gái bà là Sabrina Griffen, cô vừa về nước và nghe đồn là sắp tới thị trấn lo liệu công việc cho bà ngoại” (tr. 469) Đó là những dòng trích bản tin về cái chết của bà Iris Chase Griffen mà tờ Sứ điệp và Tinh kỳ thuộc Cảng Ticonderoga đã đưa, trong chương cận kề chương cuối cuốn tiểu thuyết Tay sát thủ mù của Margaret Atwood (An Lý dịch; Nhã Nam & NXB Hội Nhà văn ấn hành 2015). Một bản tin tóm lược, giới thiệu ngược trở lại các nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết. Laura Chase: em gái của Iris người đã qua đời ở tuổi 25, sau một tai nạn ô tô, hay có thể nói là tự lái xe lao xuống vực, để lại một bản thảo dở dang: Tay sát thủ mù. Iris, khi về già, lọm khọm, đơn độc, bị bệnh tim, luôn sống trong trạng thái bị phơi bày sự tan hoang của tuổi tác. Bà muốn náu mình, muốn quên lãng. Nhưng việc tình cờ tìm thấy bản thảo của Laura khiến quá khứ sống dậy. Từng trang bản thảo, mỗi khi giở ra, khiến bà nhớ lại, liên tưởng, ráp nối và “ngoan cường viết” như hiệu đính (những phần trong bản thảo dang dở của cô em Laura), bình luận và hoàn thiện, một cách tinh tế, hài hước, thậm chí có phần độc địa. Một thiên truyện trải dài gồm ba câu chuyện đan cài vào nhau như dệt vải kiểu ngẫu hứng, rất phong phú và bất ngờ. Từ thời thơ ấu, với những biến cố lớn lao như chuyện chiến tranh và những rung động đầu đời. Tưởng chẳng là bao, chẳng có nghĩa lý gì, nhưng khi chạm vào sột soạt trang giấy, khi chữ dẫn đường cho cảm xúc, thì Iris nhớ lại, cảm xúc cứ dâng mãi lên như nước dâng lên lòng hồ, rồi tràn bờ đập lai láng, miên man. Và dần dần hé lộ những bí mật trong cuộc đời từng nhân vật. Cấu trúc “truyện lồng trong truyện” Atwood sử dụng không phải tân kỳ gì. Nhưng đây không phải là cuốn sách đặt nặng vấn đề kỹ thuật hay cấu trúc (mặc dù nó được tác giả tính toán khá thông minh). Đây có lẽ là một tuyệt tác về văn phong, cách hành văn điêu luyện chỉ có ở những bậc thầy. Cho nên, câu chuyện dẫu dằng dặc, đôi khi có cảm giác lê thê, ảm đạm như bánh xe lửa rin rít trên đường ray ngày mưa vẫn khiến người đọc bị mê hoặc, chìm đắm. Từng câu chữ được viết ra, từng trang văn được bày biện ngập tràn cảm xúc, tỉ mẩn đến từng chi tiết. Tuy nhiên, không chỉ có vậy, văn chương Atwood vừa viễn tưởng về phía tương lai vừa phảng phất chút phong vị cổ điển u hoài. Giở bất kỳ trang văn nào, người đọc cũng có thể bắt gặp những câu, đoạn văn hay và lạ, tỉa ra những đoạn kinh điển. Một đoạn tả thời tiết: “Cái nóng mùa Hè đã về đầy đủ, vánh lại trên thị trấn như súp kem. Tiết trời sốt rét, một thời; tiết trời thổ tả. Hàng cây che đường tôi đi xòe những tán ô rũ rượi, giấy ẩm nhớp dưới tay, chữ viết đâm râu tua tủa như son môi rỉ vào đường chân chim ven khuôn miệng già cỗi. Chỉ cần leo thang đã trổ một hàng ria mồ hôi”… (tr. 48) Hoặc: “Thảm dệt ra đời này sang đời khác đều nhờ trẻ con nô lệ, bởi chỉ có ngón tay trẻ con mới đủ nhỏ cho những động tác tinh vi đến thế. Nhưng những giờ dằng dặc sít sao khiến đám trẻ lên tám hay chín là thảy mù lòa, và người bán thảm dựa vào đó mà tính toán cũng như quảng bá giá trị hàng hóa. Tấm thảm này đã khiến mười đứa trẻ mù đấy, họ rao thế”. (tr. 24) Những câu văn đầy bi phẫn và hài hước, bóc trần tất cả, từ chuyện tình yêu, hôn nhân đến chính trị, nghệ thuật, tài phiệt qua giọng kể cay độc, tưởng như vô cảm của bà già “khó ưa” Iris. Không dễ gì tìm được một tác giả có giọng văn vừa ngầu đời, bất cần mà vừa lại thi vị và say đắm như vậy. Nó dường như lột tả hết tính cách nhân vật, cô gái tên Iris với một vẻ nhu mì cam chịu nhưng ẩn chứa một nội tâm nổi loạn, cá tính ngang ngạnh tiềm tàng với khát vọng tự do. Không tâm sự hay thở than, không một chút ai oán, Iris chính là hiện thân của tính nữ, mềm mại dịu dàng nhưng không bao giờ đầu hàng hay bỏ cuộc, với sự bền bỉ âm thầm và khôn khéo. Iris là kiểu phụ nữ bao nhiêu sức mạnh lặn cả vào trong để sự nhún nhường ra mặt chiến đấu. Cô kiên cường nhưng không lộ liễu, mạnh mẽ nhưng không phô phang, nữ tính nhưng không ẻo lả. Và vì bà là một nhà thơ, nên chúng ta có một cuốn sách đầy chất thơ và tính ẩn dụ, đồng thời có một cuốn sách gai góc, đầy những vết thương. Tấm vải mà Margaret dệt nên vừa mềm mại vừa thô nhám, vừa êm ái vừa đầy vết cứa. Nó chính là thế giới được chiếu rọi từ ánh sáng phát ra phía tâm hồn những người phụ nữ, đầy nhạy cảm nhưng rất can trường. Không nhiều, nhưng đủ để quàng chiếc khăn lên mình như khát vọng của chính họ, được cuộc đời ôm ấp và vỗ về đầy dịu dàng và đau đớn. Như khoác lên mình thứ mà thế giới này ưu ái dành cho họ, là tình yêu. Một tác phẩm đáng thưởng thức, như lời Margaret mượn của Sheila Watson đề từ: Lời là lửa cháy trong lòng kinh tối. *** Mười ngày sau khi chiến tranh kết thúc, Laura em tôi lái xe lao khỏi cầu. Cầu đang sửa, nó phi thẳng qua biển báo Nguy hiểm. Chiếc xe rơi ba chục mét xuống vực, bổ qua những ngọn cây lơ thơ trổ lá, rồi cháy đùng đùng lăn xuống lòng con suối nông choèn dưới đáy. Từng tảng ván cầu lả tả rơi lên trên. Em tôi không còn lại gì ngoài tro tàn than vụn. Tôi được tin từ một viên cảnh sát: xe là xe tôi, họ tra ra biển số. Anh ta tỏ ra lễ độ: hẳn nhiên anh ta nhận ra họ Richard. Anh ta nói có lẽ bánh bị kẹt vào rãnh xe điện hoặc phanh bị hỏng, nhưng anh cũng có bổn phận báo tôi biết có hai người - một luật sư về hưu và một thu ngân ở nhà băng, toàn những người đáng tin tưởng cả - tự nhận đã chứng kiến từ đầu đến cuối. Họ cho biết Laura đã chủ động quành xe rất gắt, và đâm qua tường cầu thản nhiên cứ như đang bước trên hè xuống. Họ có nhận ra tay em tôi vẫn đặt trên vô lăng nhờ đôi găng trắng. Không phải tại phanh, tôi nghĩ. Nó có những lý do riêng. Không bao giờ giống lý do của ai khác. Về mặt đó nó tàn nhẫn vô cùng. “Tôi nghĩ các anh cần người nhận dạng,” tôi nói. “Tôi sẽ cố gắng xuống đó ngay khi được.” Tôi nghe giọng mình vang lên bình tĩnh, như từ xa vọng lại. Thực tế tôi hầu như không thốt được thành lời; miệng tôi tê dại, mặt sắt lại vì đau. Cảm giác như vừa đi nhổ răng. Tôi tức muốn điên vì việc Laura đã làm, và còn vì viên cảnh sát cả gan ám chỉ nó đã làm thế. Một luồng gió nóng đang cuộn quanh đầu tôi, những cọng tóc bị bốc lên ngoằn ngoèo trong gió, như mực loang trong nước. “Tôi e rằng sẽ có điều tra, thưa bà Griffen,” anh ta nói. “Tôi hiểu mà,” tôi đáp. “Nhưng đây là tai nạn thôi. Em gái tôi chưa bao giờ lái xe thành thạo cả.” Tôi hình dung khuôn mặt trái xoan của Laura, búi tóc cài trâm gọn, chiếc áo chắc hẳn nó mặc lúc ấy: áo chẽn eo cổ tròn khoét hẹp, một màu nghiêm nghị - xanh nước biển hoặc xám ánh thép, hoặc lá cây thứ màu hành lang bệnh viện. Những màu thống hối - nhìn không giống đồ tự chọn, mà như đồ ép mặc trước khi nhốt lại. Nụ cười nửa miệng nghiêm trang; đôi mày nhướng lên kinh ngạc, như là nó đang chiêm ngưỡng khung cảnh trước mắt. Găng tay trắng - cử chỉ học của Pontius Pilatus[1]. Nó đang rửa tay cho sạch khỏi tôi. Khỏi tất cả chúng tôi. Nó nghĩ gì khi chiếc xe bay bổng khỏi cầu, lơ lửng giữa hoàng hôn đầy nắng, lấp loáng như cánh chuồn trong khoảnh khắc nín hơi trước lúc bổ nhào? Nghĩ tới Alex, tới Richard, tới lòng man trá, tới cha chúng tôi và cuộc lụn bại của ông; có lẽ là tới Chúa, và cuộc thỏa thuận tay ba chết người của nó. Hay tới tập vở học trò rẻ tiền hẳn nó đã giấu vừa sáng hôm ấy, trong ngăn để tất của tôi, vì biết tôi sẽ là người tìm thấy. Khi viên cảnh sát đi rồi tôi lên lầu thay áo. Muốn tới nhà xác tôi cần găng tay, và mũ có mạng. Để che đôi mắt. Có thể sẽ có nhà báo. Tôi sẽ phải gọi tắc xi. Cũng cần báo trước cho Richard lúc này đang ở văn phòng; chắc sẽ muốn chuẩn bị trước vài lời ai điếu. Tôi vào phòng thay đồ: cần có đồ đen, và khăn tay nữa. Tôi mở ngăn kéo, nhìn thấy tập vở. Tôi tháo nắm chun chằng chịt buộc ngoài. Tôi nhận ra răng mình đang va lập cập, người mình đang lạnh từ đầu đến chân. Chắc đang bị sốc, tôi kết luận. Trong đầu tôi lúc đó nhớ lại Reenie, từ hồi chúng tôi còn nhỏ. Luôn là Reenie lo lấy bông băng, băng những vết trầy xước hay đứt tay và các thương tích lặt vặt khác: mẹ đang nghỉ, hoặc đi làm việc thiện ở đâu đó, nhưng Reenie thì luôn có mặt. Chị sẽ túm lấy chúng tôi đặt ngồi lên bàn men trắng trong bếp, cạnh chỗ bột làm bánh đang nhào hay con gà đang chặt hoặc con cá đang làm ruột, và dúi cho cục đường đen để chúng tôi ngậm miệng. Nói xem đau ở đâu nào, chị bảo. Đừng có rú lên nữa. Bình tĩnh lại rồi bảo cho tôi đau ở đâu. Nhưng có những người không thể nói được đau ở đâu. Không thể bình tĩnh lại. Thậm chí không thể ngừng rú lên. Mời các bạn đón đọc Tay Sát Thủ Mù của tác giả Margaret Atwood & An Lý (dịch).