Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ngôi Nhà Mũi Tên

Bà Harlowe - một người phụ nữ giàu có qua đời. Di chúc của bà không hề đề cập đến người em rể. Như một lẽ tất nhiên, người đàn ông này bực tức cáo buộc người thừa kế - Betty Harlowe, đã giết bà Harlowe nhằm chiếm đoạt tài sản. Jim Frobisher, cộng sự tại công ty, lập tức đến Pháp để bảo vệ quyền lợi cho Betty. Tham gia cùng anh còn có thám tử Hanaud lừng danh của Sở Cảnh sát Pháp. Liệu tất cả mọi chứng cứ được phơi bày có giống như vẻ bề ngoài của nó? Liệu đây có đơn thuần chỉ là một vụ tống tiền lộ liễu hay là một âm mưu được dàn dựng công phu? Liệu Hanaud danh nổi như cồn đó có hoàn thành sứ mệnh của mình một cách xuất sắc giống như mọi người vẫn hằng khen ngợi?... *** Review: Ngôi nhà mũi tên - A.E.W.Mason Dịch giả: Nguyễn Thành Long Người viết Hà Quang Huy #trinh_thám_cổ_điển #ngôi_nhà_mũi_tên Nếu các bạn thích trinh thám cổ điển thì không nên bỏ qua cuốn này, cái twist khá ấn tượng . Cái thủ pháp thấy tuy là đơn giản, nhưng ngộ ra nó quả là cao siêu khó lường  Mở đầu là cái chết của bà Harlowe - người phụ nữ giàu có ra đi không để lại tý di chúc nào cho ông em rể, ông ta liền viết thư tống tiền trắng trợn cho Haslitt đồng thời đâm đơn kiện Betty bé nhỏ đã đầu độc bà Harlowe. Nhận được thư, Haslitt điều phụ tá của mình là Jim đến bảo vệ quyền lợi cho thân chủ là Betty xinh đẹp quyến rũ. Hanaud - vị thám tử trứ danh của sở cảnh sát Pháp được đặc quyền điều tra vụ án khó khăn nhất trong cuộc đời của ông. Một vị thám tử toát lên vẻ trang nghiêm, chói loà rất thân thiện ân cần và khâm phục trước vị thần May Rủi. Căn biệt thự được thiết kế tinh xảo trang nhã lại ẩn giấu âm mưu u tối xám xịt chết chóc lạnh lẽo. Một tội ác đã xảy ra trong ngôi nhà bất hảo vào cái đêm 27/4 định mệnh dưới bàn tay của "Kẻ gieo tai hoạ". Thứ thuốc độc quỷ quyệt hoang dã giết người không để lại dấu vết được trưng bày qua bao năm tháng đã phát tác mạnh bạo. Hanaud cùng Jim lần mò trong bóng tối mờ mịt vô phương để tìm ra mạnh mối, giải đáp các bí ẩn dưới đôi bàn tay tội lỗi...Những gì ông cần làm đều đã được đào tạo qua đấu trường bò tót, ông đã quá chai sạn với những bất ngờ, điều khiến ông bất ngờ chỉ là thần May Rủi. Ông đã sống trong thế giới tội ác và tội phạm nên ông hiểu chúng một cách thanh tao, nhìn thấu chúng bằng ánh mắt lạnh lùng sắt đá. Bằng suy luận sắc bén của một kẻ lập dị ông phải diễn trò trên cái sân khấu bất đắc dĩ để lấp đầy nỗi buồn chán và cô độc của bản thân! Đánh giá khách quan: 8.5/10 *** Trong số các thân chủ của công ty Frobisher & Haslitt, một công ty tư vấn luật nằm tại mạn đông quảng trường Russell, rất nhiều người sở hữu doanh nghiệp tại Pháp; và họ rất lấy làm tự hào về điều ấy. “Nhờ đó mà chúng tôi trở nên có chỗ đứng trong lịch sử,” ông Jeremy Haslitt vẫn hay nói. “Mọi chuyện bắt đầu từ năm 1806, khi ông James Frobisher, cộng sự cấp cao rất nhiệt huyết thời bấy giờ của chúng tôi, đã tổ chức cho hàng trăm công dân Anh bị giam giữ theo sắc lệnh của Napoleon Đệ Nhất thoát khỏi Pháp. Công ty được Chính phủ bệ hạ bày tỏ lòng cảm ơn và vẫn may mắn duy trì được mối quan hệ ấy. Tôi đích thân coi sóc mảng đó của công ty.” Bởi thế, trong số thư từ ông Haslitt nhận được hàng ngày, lúc nào cũng có một lượng lớn thư dán con tem xanh thẫm của Pháp trên phong bì. Tuy nhiên, vào buổi sáng đầu tháng Tư hôm nay, chỉ có duy nhất một bức như vậy. Chữ viết trên đó trông ngoằn ngoèo, nguệch ngoạc, và ông Haslitt không nhận ra là chữ ai. Nhưng nó mang dấu bưu điện Dijon, thế nên ông Haslitt nhanh chóng xé bao thư ra. Ông có một thân chủ ở Dijon, một góa phụ, bà Harlowe, và như ông nghe kể thì tình trạng sức khỏe của bà đang tệ lắm. Chắc chắn bức thư được viết tại nhà bà ấy, biệt thự Grenelle, nhưng không phải do đích thân bà viết. Ông lật sang phần chữ ký. “Waberski?” Ông vừa nói vừa cau mày lại. “Boris Waberski?” Và rồi ông thốt lên ngay khi nhận ra người viết thư, “À, phải rồi, phải rồi.” Ông ngồi xuống ghế và đọc. Phần đầu của bức thư chỉ đơn thuần là mấy câu văn hoa và khen ngợi, nhưng đọc được đến nửa trang hai thì mục đích của nó trở nên vô cùng rõ ràng. Đây là thư yêu cầu vay năm trăm bảng. Ông Haslitt mỉm cười và tiếp tục đọc, vừa đọc vừa độc thoại với người viết. “Tôi đang rất cần chỗ tiền đó,” Boris viết, “và…” “Hẳn là như thế rồi,” ông Haslitt nói. “Bà chị yêu quý của tôi, Jeanne-Marie…”, bức thư ghi tiếp. “Chị dâu,” ông Haslitt chỉnh lại. “… không thể sống lâu hơn được nữa, mặc dù tôi đã cố gắng chăm sóc chị ấy hết mực,” Boris Waberski tiếp tục trình bày. “Chắc hẳn ông cũng đã biết, chị ấy đã để lại cho tôi một phần lớn gia sản của mình. Vậy tức là nó đã thuộc về tôi rồi, đúng không? Có nói như vậy thì cũng sẽ không bị ai hiểu lầm ý cả. Chúng ta phải nhìn thẳng vào sự thật. Bởi vậy, xin hãy ứng trước cho tôi bằng thư đảm bảo một khoản nhỏ từ phần vốn đã thuộc về tôi, và cho tôi xin được gửi lời chào trân trọng nhất.” Nụ cười của Haslitt nở rộng hẳn ra. Bên trong chiếc hộp thiếc của ông là một bản sao tờ di chúc của Jeanne-Marie Harlowe, được công chứng viên người Pháp của bà tại Dijon viết lại theo đúng thể thức. Theo di chúc, mọi gia sản bà sở hữu sẽ được truyền lại vô điều kiện cho cháu gái chồng bà và con gái nuôi của bà, Betty Harlowe. Jeremy Haslitt thiếu chút nữa thì đã đem bức thư đi hủy. Ông gập nó lại; ngón tay giật giật trên nó; thậm chí phải đến khi xuất hiện cả một vết rách bên mép mấy tờ giấy thì ông mới đổi ý. “Không,” ông tự nhủ. “Không! Với cái tay Boris Waberski này thì không ai mà lường trước được,” và ông nhét bức thư vào một ngăn trong két riêng, sau đó khóa lại. Ba tuần sau, ông rất lấy làm mừng vì đã làm như vậy. Đó là lúc ông đọc được mẩu tin thông báo bà Harlowe đã qua đời trong cột cáo phó của tờ The Times, và nhận được một tấm thiệp lớn với viền đen rất đậm theo phong cách Pháp từ Betty Harlowe, ngỏ ý mời ông đến dự đám tang tại Dijon. Tấm thiệp mời này chỉ mang tính hình thức. Ông sẽ chẳng thể nào đến kịp Dijon để tham dự, kể cả nếu có khởi hành ngay tức khắc. Ông chấp nhận chỉ viết một vài dòng thành kính phân ưu với cô gái, và gửi một bức thư đến cho ông công chứng viên người Pháp, ghi rằng công ty ông sẽ hỗ trợ Betty. Thế rồi ông đợi. “Mình sẽ lại nghe tin từ cái tay Boris kia cho xem,” ông nói, và nội trong tuần đó, ông lại nhận được thư. Chữ viết trong thư thậm chí còn loằng ngoằng và nguệch ngoạc hơn hồi trước; sự hoảng hốt và phẫn nộ đã khiến cho câu từ của Waberski loạn hết cả lên; đồng thời hắn đã đòi lượng tiền lớn gấp đôi. “Thật không thể nào tin nổi,” hắn viết. “Chị ấy chẳng để lại chút gì cho người em trai tận tụy của mình. Có trò gì đó đang diễn ra, và tôi không ưa chút nào. Giờ số tiền sẽ phải là một ngàn bảng, gửi theo đường thư đảm bảo. ‘Boris tội nghiệp của chị, em luôn bị cả thế giới này quay lưng,’ chị ấy nói trong lúc mắt ngấn đầy lệ. ‘Nhưng chị sẽ bù đắp cho em trong di chúc.’ Và giờ thì chẳng có gì cả! Tất nhiên, tôi đã nói chuyện với cô cháu gái của tôi; ôi, con bé thật cứng đầu! Nó búng ngón tay vào mặt tôi! Hành xử theo cái thể thống gì vậy cơ chứ? Một ngàn bảng, thưa ông! Bằng không là sẽ có chuyện khó xử xảy ra! Vâng! Không ai búng ngón tay vào mặt Boris Waberski mà không trả tiền cả. Thế nên hãy trả tôi một ngàn bảng gửi theo đường thư đảm bảo, không là sẽ có chuyện khó xử”; và lần này Boris Waberski không buồn gửi lời chào nào đến cho ông Haslitt cả, cho dù có là trân trọng nhất hay không, chỉ đơn giản ký bằng một nét bút ngoáy tít, nhập nhằng khắp mặt thư. Ông Haslitt không mỉm cười với bức thư này. Ông nhẹ nhàng xoa hai lòng bàn tay vào với nhau. “Thế thì chúng ta đành phải để cho chuyện khó xử xảy ra vậy,” ông nói nhanh, và rồi cất bức thư thứ hai vào cùng chỗ với bức thư thứ nhất. Nhưng ông Haslitt cảm thấy hơi khó tập trung vào công việc. Bên trong cái ngôi nhà to lớn tại Dijon là một cô gái đơn côi, và không có người đồng hương nào ở bên cô ấy cả! Ông bất chợt đứng dậy khỏi ghế và băng qua hành lang, vào trong văn phòng của người cộng sự cấp thấp. “Jim, mùa đông này cậu đã đi Monte Carlo nhỉ,” ông nói. “Đi một tuần,” Jim Frobisher đáp. “Tôi nhớ mình có nhờ cậu đến thăm một thân chủ của chúng ta, người sở hữu một biệt thự ngoại ô tại đó - bà Harlowe.” Jim Frobisher gật đầu. “Tôi đã ghé. Nhưng bà Harlowe ốm rất nặng. Có một cô cháu gái, nhưng cô ta lúc ấy đang đi vắng.” “Thế tức là cậu không gặp ai cả?” Jeremy Haslitt hỏi. “Không, không phải,” Jim chỉnh lại. “Tôi thấy một nhân vật kỳ lạ ra mở cửa và xin lỗi thay bà Harlowe. Một ông người Nga.” “Boris Waberski,” ông Haslitt nói. “Đúng cái tên đó rồi.” Ông Haslitt ngồi xuống một cái ghế. “Kể cho tôi nghe về ông ta đi, Jim.” Jim Frobisher nhìn vào hư vô một vài giây. Anh là một thanh niên hai mươi sáu tuổi, mới chỉ tham gia làm cộng sự kể từ năm ngoái. Mặc dù rất nhanh nhẹn khi cần hành động gấp, anh lại hết sức cẩn trọng khi đánh giá bản chất người khác; và anh còn rất kính nể ông Jeremy Haslitt già, thế nên cứ mỗi khi làm gì liên quan đến công việc của công ty là lại cẩn trọng gấp đôi. Một lúc sau anh trả lời. “Ông ta là một người cao lớn, đi đứng trông có vẻ nặng nhọc, bên trên một vầng trán ngắn và một cặp mắt hoang dại là một mớ tóc bạc dựng thẳng đứng như dây kẽm gai. Ông ta gợi cho tôi nhớ đến một con rối không được gắn dây tử tế lên chân tay. Tôi tin con người này có bản chất khá ngông cuồng và dễ bị kích động, ông ta cứ liên tục miết bộ ria mép với mấy ngón tay dài ngoằng, ố màu thuốc lá. Đây là cái kiểu người có thể nổi điên bất cứ lúc nào.” Ông Haslitt mỉm cười. “Đúng như những gì tôi nghĩ.” “Ông ta gây rắc rối gì cho ông à?” Jim hỏi. “Chưa đâu,” ông Haslitt nói. “Nhưng bà Harlowe đã chết, và tôi tin rằng rất có khả năng ông ta sẽ giở trò gì đó. Ông ta có hay bài bạc gì không?” “Có, chơi rất khát,” Jim nói. “Tôi đoán là ông ta sống bám vào bà Harlowe.” “Tôi cũng nghĩ thế,” ông Haslitt nói, và ông im lặng ngồi đó một lúc. Thế rồi ông nói: “Thật đáng tiếc là cậu không được gặp Betty Harlowe. Tôi từng một lần ghé thăm Dijon trên đường đi qua miền Nam nước Pháp năm năm trước, hồi Simon Harlowe, chồng bà ấy, hãy còn sống. Betty hồi đó là một cô bé chân dài gầy gò, đi tất lụa đen, sở hữu một gương mặt trắng, sáng sủa, và mái tóc đen sẫm cùng cặp mắt lớn, xinh xắn lắm.” Ông Haslitt dịch người trên ghế một cách không thoải mái. Cả một ngôi nhà cổ với khu vườn lớn đầy dẻ và sung, trong khi cô gái kia thì một thân một mình, sống cùng với một tay đầu óc có vấn đề, đang bực bội và muốn gây chuyện khó xử cho cô. Ông Haslitt không thích cái hình ảnh đó chút nào! “Jim,” ông bất chợt nói, “cậu có thể thu xếp công việc sao cho nếu cần thiết thì sẽ có thể rời đi ngay lập tức được không?” Jim ngước nhìn lên, tỏ vẻ ngạc nhiên. Loạn cào cào, như kiểu dân sân khấu hay nói, không phải là chuyện hay xuất hiện tại công ty Frobisher & Haslitt. Dù cho đồ nội thất của họ hơi xỉn màu, tác phong của họ rất trang nghiêm; thân chủ có thể gặp chuyện khẩn, nhưng vội vã và gấp gáp là những từ công ty không bao giờ sử dụng. Chắc chắn đâu đó quanh đây sẽ có một luật sư chịu hiểu cho họ. Ấy nhưng giờ đây, đích thân ông Haslitt, cùng với mớ tóc bạc trắng và gương mặt tròn trịa khác thường, nửa trẻ con, nửa thông minh xuất sắc, lại đang đề nghị cộng sự cấp thấp của mình chuẩn bị sẵn sàng để đi thẳng sang đại lục châu Âu ngay khi có lệnh. “Tôi chắc chắn có thể làm vậy,” Jim nói, và ông Haslitt nhìn anh với vẻ hài lòng. Jim Frobisher sở hữu một nét tính cách rất khác người. Ngay cả người quen của anh, cho dù có là bạn bè thân thuộc, cũng mới chỉ từng biết đến các dấu hiệu anh để lộ ra bên ngoài. Anh là một người cô độc. Cho tới nay, anh chỉ quan tâm đến một số rất ít người, và ngay cả những người ấy anh cũng chẳng thiết tha gì mấy. Đam mê của anh là được cảm thấy rằng cuộc đời mình và ý nghĩa cuộc đời mình không phụ thuộc vào người khác. Trong những tháng được rảnh rang, anh luôn theo đuổi dam mê ấy. Một chiếc thuyền buồm nửa boong* chỉ cần một người lái, một cây rìu phá băng, một khẩu súng trường, một vài cuốn sách dài bất tận, chẳng hạn như Chiếc nhẫn và cuốn sách*. Đó chính là những người bạn đồng hành của anh trên biết bao chuyến thám hiểm cô đơn, bên cạnh các vì sao và những suy tư của riêng mình. Hệ quả là anh đã tự tạo cho bản thân mình một vẻ lạnh nhạt khác thường, khiến cho anh lập tức trở nên nổi trội giữa đám đông. Đây là một diện mạo đầy vẻ dối lừa, bởi lẽ nó dễ gợi lên sự tin tưởng cho người khác, mặc dù có khi chẳng có lý do nào để họ đặt lòng tin như vậy cả. Chính cái vẻ ngoài ấy bấy giờ đã thuyết phục ông Haslitt. “Đây đích thị là một người thích hợp để đối đầu với cái ngữ như Boris Waberski,” ông nghĩ thầm, có điều không nói hẳn ra như vậy. • Thuyền buồm nửa boong; loại thuyền half-deck, phần boong chỉ kéo dài bằng nửa thân tàu, có thể nằm ở cuối hoặc đuôi tàu. • Chiếc nhẫn và cuốn sách: tức The Ring and the Book, một tiểu thuyết dài được viết dưới dạng thơ của Robert Browning. Điều ông nói là: “Có khi cũng chẳng cần thiết phải làm vậy đâu. Betty Harlowe có một luật sư người Pháp. Chắc chắn anh ta sẽ đủ sức giải quyết. Ngoài ra…” - và ông mỉm cười lúc nhớ lại một câu trong bức thư thứ hai của Waberski - “Betty có vẻ là người rất có khả năng tự bảo vệ mình. Cứ để rồi xem.” Ông quay trở lại văn phòng của mình, và suốt một tuần liền ông không nhận được thêm bất cứ tin tức gì từ Dijon nữa. Lúc ông đã gần quên đi sự lo lắng của mình thì bất thình lình, một tin động trời xuất hiện, và nó được truyền đến thông qua một kênh rất bất ngờ. Jim Frobisher là người báo tin cho ông biết. Anh xộc vào văn phòng của ông Haslitt đúng lúc người cộng sự cấp cao đang đọc cho anh thư ký ghi lại lời phúc đáp cho mấy bức thư buổi sáng của mình. “Ông Haslitt!” Jim la lên, và ngưng bặt khi nhìn thấy viên thư ký. Ông Haslitt nhìn lướt qua gương mặt người cộng sự trẻ của mình và nói: “Godfrey, lát nữa chúng ta sẽ tiếp tục trả lời thư sau.” Viên thư ký mang cuốn sổ tay tốc ký ra khỏi căn phòng, và ông Haslitt quay sang Jim Frobisher. Mời các bạn đón đọc Ngôi Nhà Mũi Tên của tác giả A. E. W. Mason.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Trở Lại Địa Đàng - James Rollins
Sau khi Baghdad sụp đổ, hai cậu bé người Iraq tình cờ chạm trán nhóm người có vũ trang đang cướp phá sở thú thành phố, mở các cửa cống để buôn lậu hàng trăm động vật quý hiếm sang các nước phương Tây. Nhưng tội ác này còn che giấu một bí mật sâu bên trong. Trong cơn mưa đạn, một phòng thí nghiệm vũ khí bí mật dưới lòng đất đang bị lục soát - và một thứ, thậm chí còn kinh khủng hơn, đã thoát ra ngoài. Bảy năm sau, bác sĩ thú y Lorna Polk ở bang Louisiana tình cờ tìm thấy một tàu cá bị đắm mang theo một thứ hàng hóa đáng sợ gồm những sinh vật lạ kỳ, rõ ràng thuộc một phần của giới buôn lậu chợ đen. Nhưng những con thú này có gì đó không bình thường, những dị dạng ấy đáng lo ngại đến khó hiểu: một con vẹt trụi lông, một cặp khỉ mũ châu Phi dính liền với nhau ở hông, một con báo đốm có bộ răng của loài hổ nanh kiếm. Tất cả có chung một đặc điểm kỳ lạ - một trí tuệ được tăng cường đến mức đáng lo ngại. Để khám phá ra sự thật về nguồn gốc của thứ hàng hóa kỳ lạ này và mối hiểm họa khủng bố nó tạo ra, Lorna phải hợp tác với anh chàng có cùng quá khứ bi thảm như cô và hiện là một đặc vụ của đội Tuần Tra Biên Giới Mỹ, Jack Menard. Cả hai phải cùng nhau vén bức màn bí mật gắn liền với khoa học chiết hình và công nghệ biến đổi gen, phơi bày một bí mật khủng khiếp có liên hệ đến nguồn gốc xa xưa của nhân loại. Nhưng liệu Lorna có thể ngăn chặn những gì sắp được sinh ra trước bàn thờ cõi thiên đường trước khi nó đe dọa không chỉ thế giới mà còn cả nền tảng khái niệm về con người? *** James Rollins là tác giả viết truyện hành động nổi tiếng của Mỹ, lâu nay được ví như ông hoàng tiểu thuyết li kì, người luôn làm mưa làm gió trên bảng danh sách tiểu thuyết bán chạy nhất của New York Times mỗi lần tiểu thuyết của ông ra mắt. Series truyện chính của ông là về đội đặc nhiệm SIGMA đứng đầu là Gray Pierce. Truyện của Rollins là những cuộc phiêu lưu mạo hiểm kịch tích lồng ghép với những sự kiện lịch sử thời xa xưa. Quyển ”Trật tự đen” nói về âm mưu đánh cắp quyển Kinh thánh của Darwin từ đó hé lộ những thí nghiệm khủng khiếp từ thời Đức quốc xã; “Địa đồ di cốt” nói về âm mưu cướp báu vật vô giá là di cốt của 3 vị tiên tri có khả năng thay đổi trật tự thế giới, để thực hiện âm mưu này, nhóm vũ trang khoác áo thầy tu đã xả súng giết tất cả những người có mặt trong nhà thờ, và một lần nữa lực lượng SIGMA lại vào cuộc. Hội thư viện Mỹ đã đánh giá “Cuốn sách này viết về một tổ chức bí mật từ thời Trung cổ và cuộc tranh đua tìm kiếm những báu vật cổ đại vô giá… chắc chắn có thể so sánh với cuốn Mật mã Da Vinci của Dan Brown, nhưng thực ra về mọi phương diện hay hơn nhiều”. Quyển “Bão cát” là một cuộc hành trình tìm kiếm thành phố với hàng ngàn cây cột bằng thủy tinh bị vùi sâu trong lòng sa mạc A-rập, một thế giới chưa bao giờ được hình dung đã từng tồn tại. Tất cả bắt đầu từ một vụ nổ lớn tại Bảo tàng Anh ở London. Một trái tim nằm trong pho tượng bằng sắt bị nung chảy tại đây chứa đựng lời giải đáp đầu tiên cho câu hỏi vị trí của thành phố nằm ở đâu. Lực lượng Sigma có nhiệm vụ bảo vệ an toàn cho các phát hiện này và đã vấp phải các nhóm đánh thuê tàn nhẫn cũng đang tìm kiếm nguồn sức mạnh hủy diệt từ thành phố dưới lòng đất này. Lịch sử khảo cổ va phải một nền khoa học với những phát minh tân tiến nhất có khả năng đe dọa sự an toàn của thế giới. Lực lượng SIGMA sẽ vượt qua vấn đề này ra sao? hành trình khám phá, đối đầu với tội phạm như thế nào? Tất cả đã cấu thành một tác phẩm lớn. Trong siêu phẩm hấp dẫn đến nghẹt thở mới “Trở lại địa đàng” Rollins tạm rời xa những cuộc phiêu lưu của lực lượng SIGMA, sự kết hợp giữa khoa học, lịch sử và sự hồi hộp đến chóng mặt và một bí mật gắn liền với sách Sáng Thế kỷ. Các bí mật của phòng thử nghiệm, quái thú biến đổi gien và các bí mật khác góp phần cấu thành tác phẩm kinh điển này. Mời các bạn đọc và khám phá các bí ẩn và hành trình phiêu lưu mạo hiểm, kết hợp các yếu tố khoa học, văn minh, lịch sử đầy thú vị từ các tác phẩm của James Rollins!   Mời các bạn đón đọc Trở Lại Địa Đàng của tác giả James Rollins.
Người Đàn Ông Đến Từ Bắc Kinh - Henning Mankell
Tôi, Birgitta Roslin, xin thề danh dự sẽ làm tất cả bằng tâm hồn và lương tâm để xét xử công bằng dựa trên luật pháp và hiến pháp Thụy Điển với kẻ giàu cũng như người nghèo; không bao giờ làm sai hoặc lách luật vì lợi ích của gia đình tôi, của gia đình chồng tôi hoặc bạn bè tôi, vì ghen tuông, ác ý hay sợ hãi, để đổi lấy tiền hoa hồng, quà cáp hay vì bất cứ lý do nào khác; xin thề xét xử công tâm tất cả những ai cần bị xét xử; nghiêm túc giữ bí mật nghị án, trước cũng như sau khi kết án. Tôi sẽ tuân thủ lời thề này tuyệt đối như một thẩm phán trung thực và có phẩm cách. LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ, Chương 4, đoạn 11. Lời tuyên thệ của thẩm phán. *** Thụy Điển, một ngày mùa đông lạnh lẽo năm 2006, mười chín người bị sát hại dã man tại một ngôi làng hẻo lánh ở miền Bắc, đa số nạn nhân đều là người già. Dấu vết duy nhất còn lại trên hiện trường là một dải lụa đỏ. Trung Quốc, năm 1863, ba anh em Sáng khởi hành cuộc hành trình dài tới miền đất hứa. Nhưng chờ đợi họ phía trước lại là kiếp sống con vật ở nước Mỹ xa xôi, sống không bằng chết. Một sợi dây mỏng manh, thoắt ẩn thoắt hiện liên kết hai câu chuyện. Một hung thủ tưởng như rõ mặt nhưng bị những lý tưởng, những vấn đề của xã hội Trung Quốc hiện đại che lấp. Nữ thẩm phán Birgitta Roslin không theo đuổi một cuộc điều tra gấp gáp, nghẹt thở mà trải dài từ quá khứ với những lắt léo của lòng người. Được mệnh danh là ông hoàng trinh thám Thụy Điển, Henning Mankell quả là biết cách khiến độc giả phải trăn trở! *** Đây là một cuốn tiểu thuyết: những gì tôi viết ra đều dựa vào thực tế, nhưng không phải tất cả mọi chi tiết đều là sự tái hiện chân thực các sự kiện có thật. Tôi cho rằng ngôi làng Hesjövallen hoàn toàn không tồn tại, tôi hy vọng là mình đã xem rất kỹ bản đồ. Nhưng vào thời điểm cuốn tiểu thuyết này được viết, tổng thống Zimbabwe đúng là có tên Robert Mugabe. Nói cách khác, tôi đã viết ra những điều lẽ ra có thể đã xảy ra chứ không phải những điều đã thực sự xảy ra. Đó là nền tảng của sự hư cấu. Ngay cả trong một cuốn tiểu thuyết, các tình tiết cũng nên mang dấu thực tế. Dù đó chỉ là những cánh chim trên bầu trời Bắc Kinh, hay việc liệu một thẩm phán có thể được Bộ Tư pháp cấp cho một chiếc sofa để trong phòng làm việc của mình hay không. Rất nhiều người đã giúp đỡ tôi trong khi tôi viết cuốn tiểu thuyết này. Đương nhiên trước hết là Robert Johnsson, người đã kiên trì thu thập, tìm kiếm thông tin. Và còn nhiều người khác, nếu viết hết ra sẽ là một danh sách rất dài. Đặc biệt là những người ở châu Phi mà tôi đã có dịp trao đổi với họ. Cho phép tôi không nêu tên mà chỉ xin được nói lời cảm ơn đến tất cả những người đã giúp đỡ tôi. Tuy vậy trách nhiệm đối với câu chuyện này thuộc về cá nhân tôi. Maputo, tháng Giêng 2008 Henning Mankell Mời các bạn đón đọc Người Đàn Ông Đến Từ Bắc Kinh của tác giả Henning Mankell.
Vòng Tròn Ma Thuật - N. Mơrgiêannu
Vòng Tròn Ma Thuật này của tác giả là người Rumani, N. Mơrgiêannu. Vòng Tròn Ma Thuật là thể loại truyện điều tra hình sự được thẩm mỹ hoá, lời văn ví von tao nhã, ngay cả cái chết cũng được nhìn nhận ở một góc độ thẩm mỹ độc đáo Cuộc khám nghiệm tử thi vừa được tiến hành xong. Thân thể nạn nhân để trần được đặt trên nền đá hoa, nó toả một màu trắng toát dưới ánh đèn nêông. Tôi đứng trong căn phòng lạnh ngắt đó khoảng hai ba phút, cái căn phòng có không gian bốn chiều mà trong đó chiều thứ tư là chiều của cõi chết... Đột nhiên tôi có cảm giác như mình đang đứng trong một căn nhà kính ươm cây, bên ngoài là đêm tối và bão tuyết, còn trước mặt tôi là một nhành hoa loa kèn với những cánh hoa trắng ngần đang rụt rè hé nở...Có thể nói Vòng Tròn Ma Thuật có những giá trị nghệ thuật độc đáo bởi những hình tượng nghệ thuật tinh tế, phương pháp phân tích tâm lý sâu sắc, và khả năng tái hiện lịch sử một cách hiện thực.  Vòng Tròn Ma Thuật có thể thoả mãn thị hiếu của những độc giả văn học bởi giá trị thẩm mỹ không thể phủ nhận được của nó. *** Có hai vụ án mạng mà kẻ tình nghi ở cách xa hiện trường cả trăm cây số (có chứng cứ ngoại phạm). Thật ra họ tổ chức giết chéo. Người A giết kẻ thù của người B và ngược lại người B giết kẻ thù của người A. Giữa người A và kẻ thù của người B không quen biết, không có động cơ giết người và ngược lại cũng vậy. Nên việc điều tra gặp nhiều khó khăn. Mời các bạn đón đọc Vòng Tròn Ma Thuật của tác giả N. Mơrgiêannu.
Đêm Vô Tận - Agatha Christie
Anh chàng Michael Rogers của tầng lớp lao động kể về chuyện mình gặp và cưới Ellie, một nữ thừa kế giàu sụ đến từ Mỹ. Khi họ định cư trong ngôi nhà ước mơ ở đồng quê, rõ ràng không phải là ai cũng vui. Một truyện có vẻ rất không giống Christie, vụ trả thù tàn nhẫn này dần lên đến đỉnh điểm khủng khiếp khi án mạng có đến 5 người. Mỗi đêm và mỗi ngày Lại có người sinh ra để chịu Khổ đau Mỗi ngày và mỗi đêm Có người sinh ra để hưởng Lạc thú Có người sinh ra để hưởng Lạc thú Có người sinh ra để chịu đêm dài vô tận. -William Blake- *** Đất Digan là một điểm trên cao tuyệt đẹp có tầm nhìn trông ra biển – và nó khuấy động trong lòng Michael Rogers trò chơi tưởng tượng kiểu trẻ con. Ở đó, dưới bóng cây linh sam, anh lên kế hoạch xây một ngôi nhà, tìm một cô gái và sống hạnh phúc mãi về sau. Nhưng, lúc anh rời làng, một cái bóng đe dọa treo lơ lửng trên vùng đất này. Vì đây là nơi tai nạn thường xảy ra. Đáng lẽ Michael nên lưu ý đến những lời cảnh báo của dân địa phương: ‘Không có may mắn cho những ai dính líu tới Đất Digan đâu.’ Michael Rogers là người sắp sửa biết được câu ngạn ngữ ‘Khi tôi kết thúc cũng là lúc tôi bắt đầu’ thực sự nghĩa là gì. Tác phẩm Đêm vô tận (Endless Night) của Agatha Christie được xuất bản lần đầu năm 1957. Không như nhiều cuốn tiểu thuyết khác thường mất ba đến bốn tháng mới viết xong, Agatha Christie hoàn tất Đêm vô tận trong sáu tuần. Mười lăm năm sau ấn bản năm 1972, Agatha Christie miêu tả Đêm vô tận là ‘là tác phẩm bà yêu thích lúc này’ khi trả lời dịch giả chuyển ngữ tốp 10 tiểu thuyết của Christie sang tiếng Nhật.  Câu chuyện được kể theo lời nhân vật Michael Rogers, chàng trai độ tuổi 20. Mặc dù khi viết Đêm vô tận, Agatha Christie ở vào độ tuổi 70, nhưng bà nói trong một phỏng vấn rằng nhập vai Michael, người kể chuyện tuổi 20, “không khó. Suy cho cùng, ta nghe những người như anh chàng này nói năng suốt ấy mà.” Tựa cuốn tiểu thuyết này lấy từ bài thơ của William Blake, Auguries of Innocence (tạm dịch: Những dấu hiệu của sự vô tội).  Đêm vô tận đã được chuyển thể  thành phim năm 1972, với Hayley Mills và Britt Ekland đóng chính. *** Agatha Christie sinh năm 1890 tại Torquay, Anh. Cha bà tên là Frederick Miller, nên tên khai sinh của bà là Agatha Miller. Hồi còn nhỏ, Agatha không được tới trường mà chỉ được gia đình thuê gia sư về dạy dỗ tại nhà.    Là một đứa trẻ nhút nhát, khó có thể diễn tả chính xác ý kiến của mình, ban đầu bà tìm đến âm nhạc như một cách giải tỏa tâm sự và sau này là viết sách. Năm 1914, bà kết hôn với Archie Christie, một phi công chiến đấu. Trong khi đức lang quân bận rộn chiến đấu ngoài chiến trường thì bà làm y tá trong bệnh viện. Chính trong thời kỳ này, ý tưởng viết tiểu thuyết trinh thám đã nảy sinh trong tâm trí bà. Chỉ một năm sau bà đã hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Những bí ẩn vùng Styles, nhưng phải tới 5 năm sau nó mới được xuất bản (1920). Agatha Christie được mọi người tôn vinh là Nữ hoàng truyện trinh thám. Trong suốt cuộc đời mình, bà đã sáng tác 66 tiểu thuyết, rất nhiều truyện ngắn, kịch và hàng loạt tiểu thuyết tình cảm lãng mạn với bút danh là Mary Westmacott. Vở kịch Chiếc bẫy chuột của bà có lẽ là vở kịch trinh thám hay nhất thế giới. Một số tác phẩm của bà đã được chuyển thể thành phim, nổi bật là bộ phim Murder on the Orient Express (Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông) đã đoạt giải thưởng Hàn lâm năm 1974. Tác phẩm của bà được dịch ra hơn 100 thứ tiếng.    Trong suốt cuộc đời mình, nữ nhà văn Agatha Christie luôn căm ghét bạo lực và máu. Bà thường thú nhận rằng không biết gì về những công cụ giết người thông thường. Thậm chí bà cũng chưa từng một lần tiếp xúc với một kẻ giết người. Mời các bạn đón đọc Đêm Vô Tận của tác giả Agatha Christie.