Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ai Là Ai Của Ai (Tiên Chanh)

Ai là ai của ai, là câu chuyện tình yêu của những người trẻ trong thế giới hiện đại do Tiên Chanh tạo nên. Một thế giới có gần 8 tỉ người, một thành phố tấp nập, hối hả, một cuộc sống có rất nhiều người gặp bạn, cũng có rất nhiều người đi qua bạn, khiến bạn rất mơ hồ, đâu mới là mảnh ghép của mình. Ai là ai, của ai?

Bạn có chắc chắn người yêu hiện tại của mình sẽ là người đi cùng mình đến suốt cuộc đời? Bạn có chắc một người qua đường xa lạ hôm nay, sẽ không phải là một nửa của mình ngày mai?

Viên Hỷ, là một cô gái mơ hồ như thế. Xinh đẹp, hiếu thảo, cô mang trong mình nỗi day dứt, với mối tình đã tan vỡ cách đây 4 năm. Tan Có lẽ cũng không hẳn là tan vỡ, chỉ là người cô yêu đã đi tới một nơi rất xa, nơi cô không thể theo cùng. Nhưng Viên Hỷ vẫn luôn chờ, chờ ngày anh quay về, cũng ôm ấp thứ tình cảm, mà sau 4 năm, không biết vẫn còn là tình yêu, hay đã biến chất, trở thành một hồi ức đẹp nhưng vô vọng?

Cuộc đời Viên Hỷ thay đổi, khi cô gặp Bộ Hoài Vũ. Anh đẹp trai, xuất sắc, giàu có, anh trách nhiệm, trầm ổn, đáng tin, anh cũng đã từng có người yêu, một cô gái giỏi giang, tự lập, kiên cường, gia cảnh khó khăn, giống như…Viên Hỷ. Hai người đến với nhau rất tự nhiên, trên mức tình bạn, nhưng còn rất xa mới là tình yêu.

Anh đưa cô đi làm hàng ngày, đón cô tan sở, cô thỉnh thoảng nấu canh cho anh, món canh tốt cho bệnh dạ dày. Họ luôn trầm lặng ở bên nhau như thế, im lặng nhưng rất hòa hợp. Nhưng trong suy nghĩ của cả hai người, họ không phải là “ai của ai”, nhưng nếu không thể tìm thấy người phụ hợp hơn, có lẽ qua một thời gian nữa, họ cũng sẽ kết hôn, an an ổn ổn sống qua ngày. Tìm mua: Ai Là Ai Của Ai TiKi Lazada Shopee

Mọi thứ tưởng chừng như suôn sẻ, cho đến khi Hà Thích_người yêu cũ của Viên Hỷ quay về. Bộ Hoài Vũ tự động rút lui, vì anh nghĩ, mình sẽ không cho cô được thứ tình cảm toàn tâm toàn ý như thời còn trẻ, còn cô, cũng ngại ngùng gặp lại anh, trốn tránh vì điều gì, chính cô cũng không rõ.

Viên Hỷ lâng lâng trong thứ cảm xúc vui vẻ, không nỡ buông tha hồi ức đẹp đẽ của những năm tháng sinh viên, cũng không nỡ quên đi tình cảm đầu đời của mình, nhưng ở đâu đó trong tim, tình cảm không rõ với Bộ Hoài Vũ, cô cũng không bỏ xuống được, chỉ là tự lừa mình dối người, tránh gặp anh mà thôi.

Từ đây, truyện dần dần mở ra bí ẩn về hoàn cảnh của Viên Hỷ. Một gia đình nghèo ở thôn quê. Một người cha là cô nhi, luôn nghe lời vợ hết mực. Một bà mẹ thời trẻ vô cùng xinh đẹp, tính tình đanh đá, chua ngoa. Một người anh trai trí tuệ lại chỉ như một đứa trẻ. Tất cả gánh nặng, đổ lên hai vai Viên Hỷ. Bốn năm trước, vì mẹ dọa tự tử, sợ cô bỏ rơi anh trai, cô phải nuốt nước mắt chia tay với mối tình đầu, không thể theo anh sang Mỹ. Bốn năm sau, cũng chính vì mẹ, vì anh trai, mở ra mâu thuẫn không thể xóa bỏ giữa cô và anh.

Mẹ cô quá đáng tới mức tận cùng. Nhiều khi, cô cũng không biết bà có phải là mẹ của cô không. Bà lại còn đòi cưới vợ cho anh trai, dẫn cô vợ hờ cùng anh trai lên căn nhà thuê của cô, bắt cô đi mua sắm cho cô gái nọ. Bà lấy chiếc nhẫn kim cương Hà Thích tặng cô đưa cho cô vợ hờ. Bà trách móc cô không thương anh trai, trách cô chưa đủ cô gắng, bà dồn mọi gánh nặng, mọi nỗi bực tức lên đầu cô. Vì bà là mẹ cô, cô vẫn luôn nhẫn nhịn. Và vì Hà Thích, nghĩ tới tương lai giữa cô và anh, cô cố gắng. Ước mong về một tương lai tươi sáng cùng với Hà Thích, là thứ động lực duy nhất giúp cô trụ vững lúc này.

Nhưng đôi khi số phận lại đem đến quá nhiều tai ương. Anh trai bị đau ruột thừa, đưa vào viện cấp cứu. Mẹ cô chỉ biết khóc và trách mắng. Cô vợ hờ nằng nặc đòi về. Thiếu tiền, tinh thần căng thẳng, Viên Hỷ như gục ngã, còn Hà Thích, anh trốn tránh, cũng quá vô tâm. Anh là công tử nhà giàu, anh chưa từng trải qua khó khăn, anh chỉ biết mình yêu Viên Hỷ, một tình yêu có lẽ chưa đủ tinh tế, cũng chưa đủ bao dung và chở che. Đau đớn hơn, Viên Hỷ lại phải tận mắt chứng kiến một màn Hà Thích ôm một cô gái chân đang bó bột trong bệnh viện, cô như chết sững.

Ella, cô tiểu thư con nhà danh giá, thanh mãi trúc mã với Hà Thích, từ Mỹ đuổi theo anh tới tận đây. Họ cũng đã từng có một thời gian, thậm chí Hà Thích đã phát sinh quan hệ với cô ta, nhưng cuối cùng lại quyết định chia tay. Ella không phục, tự tôn trong cô không cho phép cô từ bỏ, tình yêu của cô với anh càng khiến cô quyết tâm theo đuổi. Vì cớ gì, cô lại thua? Cô ta không tin. Ella đủ mặt dày,đủ vô sỉ, Hà Thích cũng đủ mập mờ, đủ thiếu quyết đoán. Khi Viên Hỷ đang chơi vơi giữa rất nhiều khó khăn, rất nhiều mệt nhọc, cái Hà Thích cho cô, chỉ là lời tỏ tình sáo rỗng. Anh yêu cô thật, nhưng không cho cô đủ quan tâm, anh không cho được cô cái cảm giác an toàn khi có một bờ vai để dựa, anh không đủ sức chống đỡ bầu trời của cô. Cái anh cho cô, là nỗi lo lắng vô cớ với Ella, là một lần đưa cô ra biển, có nến, có hoa nhưng không có áo ấm, giữa tiết trời đông rét mướt, là hồi ức đẹp đẽ 4 năm trước, đẹp mà không thực.

Hà Thích vẫn cố chấp, Viên Hỷ cũng cố chấp, họ cố gắng để vượt qua chặng đường đã mệt mỏi đến cùng cực này, để kết thúc với bản kết quả xét nghiệm được làm giả của Ella, con của Viên Hỷ, khi sinh ra, rất có khả năng cũng sẽ gặp vấn đề về trí não. Viên Hỷ sụp đổ. Cô chọn buông tay. Cũng chọn cách làm Hà Thích dễ dàng chết tâm nhất, cô nói cô yêu Bộ Hoài Vũ.

Hà Thích nói đúng, cô và anh, không phải do Ella, không phải do hoàn cảnh gia đình cô, không phải sự ngăn cản của gia đình anh, mà tan vỡ. Nguyên nhân chỉ đơn giản là họ không còn đủ yêu, không còn đủ tin tưởng, để đến với nhau, hay cùng đi qua khó khăn. Hà Thích bỏ về Mỹ.

Khi Viên Hỷ khóc tới tê tâm liệt phế ở trong phòng, khi cô bất lực, run rẩy tới nỗi muốn hút thuốc lá để bình tĩnh lại, khi cô tuyệt vọng nhất, đau thương nhất, là Bộ Hoài Vũ ở bên cô. Là anh không ngại anh trai cô có vấn đề, nghiêm túc dẫn anh trai cô đi chơi. Là anh hiểu ý rời đi cô khi Hà Thích quay về. Là anh luôn đứng sau cô khi cô cần. Là anh chống đỡ cả bầu trời của cô khi cha cô mất. Là anh đưa bờ vai cho cô dựa vào, là anh cho cô mượn áo lau nước mắt, Bộ Hoài Vũ chưa từng nói yêu cô, nhưng lại làm cho cô nhiều hơn điều một người yêu có thể làm.

Viên Hỷ từ có cảm tình, ngại ngùng, đến trốn tránh, cảm kích, rồi yêu anh lúc nào không hay. Từ người xa lạ, đến dần thân quen, từ bình lặng, đến cuồng nhiệt, hòa hợp, họ đi cùng nhau trên chặng đường Ai là ai của ai, để cùng nhau đi đến bến đỗ hạnh phúc.

Nhưng câu chuyện, lại chưa dừng ở đó. Viên Hỷ, có lẽ là một trong những cô gái bất hạnh nhất mà tôi gặp. Hóa ra, mẹ của cô, thời trẻ lỡ yêu một thầy giáo đã có vợ, rồi mang thai. Cơn lũ quét qua, vợ chồng người đàn ông đó mất, để lại một đứa bé bị thiểu năng, chính là anh trai cô. Đủ nực cười, cũng đủ đau xót. Hóa ra, cô hy sinh mối tình đầu vì một người không liên quan, cô nai lưng kiếm tiền nuôi một người xa lạ, cha cô vì đi khuân vác kiếm tiền cho “anh trai cô” mà trượt chân ngã chết, cô và cha, là công cụ để bà mẹ thánh nhân của cô đền bù tội lỗi của mình.

Chưa đủ, còn chưa đủ, cô thế nhưng lại có một người chị, là kết tinh tình yêu của mẹ cô và người đàn ông kia, bị cho đi lúc còn bé. Mẹ cô day dứt với chị cô, vì bà không thể nuôi nấng, còn chưa từng cho chị cô uống dòng sữa ngọt lành từ mẹ ruột. Chị ta “khổ sở” vô cùng. Cha mẹ nuôi là gia đình quyền quý, thương yêu như con ruột, được ăn sung mặc sướng từ bé, là tiểu thư chính hiệu, nực cười hơn, chị cô, lại là Ella. Ella sau khi về Mỹ kết hôn với Hà Thích, rồi phát hiện bị suy thận, mẹ cô, muốn cô, một cô gái mới kết hôn, đang có thai 5 tháng, nạo thai, hiến thận cho chị cô. Trên đời, còn thứ gì nực cười hơn thế này không?

Dùng một câu của Bộ Hoài Vũ: “Một người mẹ như thế, không có cũng chẳng sao”.

Là Bộ Hoài Vũ, nắm tay cô đi đến phòng bệnh của Ella, nói ra hết những nỗi uất ức trong lòng:

“Không thể? Khi bà yêu một người đàn ông đã có vợ, sao bà chưa từng nghĩ bà không thể? Khi bà vì anh trai mà phớt lờ tôi, sao bà chưa từng nghĩ là bà không thể? Khi bà lấy cái chết ra uy hiếp tôi, sao bà chưa từng nghĩ là bà không thể? Bà mở to mắt nhìn tôi vì ông anh trai khờ khạo mà bị Hà gia xua đuổi, bà có không thể không? Khi bố tôi làm việc đến chết vì một thằng con không liên quan đến mình, sao bà chưa bao giờ nói bà không thể? Khi bà nhìn thấy vợ chồng tôi lo lắng đau khổ sợ thai nhi có vấn đề, sao bà chưa từng nghĩ là bà không thể? Hả? Bây giờ tôi không thể à? Sao tôi lại không thể được?”

Cũng là anh, Bộ Hoài Vũ, bế cô lên khi cô gục ngã. Là anh, là anh đã nói với cô: “Người ích kỷ không phải chúng ta, mà là họ, chúng ta không nợ họ tí gì.”

Đúng, họ không nợ ai, họ đã hy sinh, tha thứ, cho đi quá nhiều. Có lẽ ai đó nói tôi độc ác, nhưng tôi rất hài lòng với kết cục của Ella, của bà mẹ Viên Hỷ. Có ai đó đã nói, khi trồng một cái cây, bạn phải gieo hạt, ươm mầm, chăm sóc, đợi cây lớn, ra hoa, rồi kết tinh thành quả, cần phải có thời gian, nhân quả cũng vậy. Nhân quả thường không đến sớm, nên nhiều người bỏ qua nó, còn tôi, tôi luôn tin là có, và tôi cũng tin, không ai có trách nhiệm phải hy sinh mãi cho người khác.

Kết lại Ai là ai của ai, là hình ảnh đôi vợ chồng cùng một bé trai kháu khỉnh,

Sau lưng họ, tịch dương đang trôi xuống thành một đường thẳng, ráng chiều đang chiếu đỏ rực như lửa, khiến nửa bầu trời phía tây nhuộm thành một màu đỏ son. Họ, cuối cùng, cũng đến được bến đỗ hạnh phúc của cuộc đời.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Tiên Chanh":Bản Sắc Thục NữAi Là Ai Của AiNữ Tặc Giang BắcThái Tử Phi Thăng Chức Ký (Tập 2)

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Ai Là Ai Của Ai PDF của tác giả Tiên Chanh nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Võ Sĩ Lên Đài - Ma Văn Kháng
Võ sĩ lên đài là tiểu thuyết với những câu chuyện và chi tiết có thật, hấp dẫn... ít ai biết về tuổi trẻ của một thời hào hùng. Chuyện xảy ra tại Hà Nội những năm chống thực dân Pháp sau ngày toàn quốc kháng chiến. Cuộc đấu tranh của các thanh thiếu niên Việt Nam yêu nước chống bọn thực dân cùng những kẻ cơ hội thông qua môn thể thao quyền Anh, âm thầm và quyết liệt. Các thiếu niên, theo năm tháng dần trở thành thanh niên, giàu tình cảm và sâu sắc, một mặt chăm chỉ học hành, mặt khác bí mật tham gia các hoạt động yêu nước, chống xâm lược và việt gian ngay trong thành phố. Trong cuộc chiến vì cái đẹp của môn quyền Anh, một biểu trưng của tinh thần thượng võ, lòng can đảm, tinh thần bất khuất của ông cha đã được thấm nhuần và thể hiện qua các cuộc giao đấu của Nhân và Tùng, có cả thắng và thua, nhưng họ đã tìm thấy bài học lớn: có thể thất bại để tìm lại sức mạnh nội lực của mình. Tiểu thuyết dựa trên những chi tiết có thật về cuộc đời của Phạm Xuân Nhàn, võ sĩ quyền Anh nổi tiếng những năm 50 của thế kỷ trước (ông đã từng là võ sĩ vô địch quốc gia, tham dự Á vận hội năm 1954 tại Manila, Philipinnes). Một giai đoạn kháng chiến với cách thể hiện sinh động cuộc sống học đường của thiếu niên học sinh Hà Nội đô thành trong thời kỳ Pháp tạm chiếm, các hoạt động thể thao, thi đấu, những câu chuyện và chi tiết có thật ít ai biết vì chưa có tài liệu sách báo nào nói tới…, tất cả đã làm nên giá trị đặc biệt cho cuốn tiểu thuyết mới của nhà văn Ma Văn Kháng. *** Cuốn sách đã được hoàn thành với sự giúp đỡ nhiệt thành, đặc biệt về mặt cung cấp và hiệu đính các tư liệu chuyên môn, kỹ thuật của bác sĩ y học thể dục thể thao Phạm Xuân Nhàn, cựu võ sĩ quyền Anh, vô địch Quốc Gia, tham dự Á Vận Hội năm 1954 tại Manila-Philippin. Được xuất bản lần này, cuốn sách một lần nữa là lời tri ân của tác giả với bác sĩ - võ sĩ Phạm Xuân Nhàn. *** Ma Văn Kháng lao động văn chương như một người H'Mông trồng bắp trên núi, lặng lẽ, cần cù, kiên nghị. Không ồn ào to tiếng với ai. Nét mặt anh cũng có cái vẻ chất phác núi rừng, ít nói, ít tranh luận, nghe ai nói nhiều chỉ gật đầu, hơi như ngơ ngác nữa. Độc giả văn chương quen biết anh bằng tập Xa phủ (1969), tập truyện đầu tay, xinh xinh và đáng yêu như những chú thỏ non trong rừng rậm. Và sau đó thì đều đặn, năm in một tập, năm in hai tập, ở các Nhà xuất bản Văn học, Thanh niên, Phụ nữ, Công an nhân dân, Lao động và Kim đồng. Tính đến Đồng bạc trắng hoa xòe là ấn phẩm thứ mười một của anh trong vòng thập niên trở lại đây, thuần về miền núi. Văn học miêu tả dân tộc miền núi, nói nghiêm túc, mới chỉ có sau Cách mạng tháng Tám, trong kháng chiến Việt Bắc. Những tiểu thuyết đường rừng của Lan Khai trước kia (Tiếng gọi của rừng thẳm, Truyện đường rừng, Suối đàn), ít nhiều của Thế Lữ (Vàng và Máu, Một đêm trăng), chỉ là những truyện mượn rừng núi nhằm gây một cảm giác ly kỳ rùng rợn. Người đặt nét bút đầu tiên khai phá vùng núi cao trong văn học Việt Nam phải kể là Nam Cao với Ở rừng (1948). Đấy mới chỉ là những phác thảo trong những trang nhật ký duyên dáng của anh, nhưng bóng dáng người miền núi hiện ra đã thật là có tình và đáng yêu. Rồi Nam Cao mất, chưa kịp làm gì thêm cho miền núi nữa. Cùng sống với Nam Cao là Tô Hoài, có Núi Cứu quốc (1948). Vẫn chỉ là những nét phác thảo. Phải đến năm 1953, cái vùng đất biên cương núi non trùng điệp vòng phía Tây Bắc Tổ quốc mới lấp lánh trong văn học Việt Nam với Mường Giơn giải phóng và Vợ chồng A Phủ. Và sau nữa thì tiểu thuyết Miền tây (1967) khẳng định mảng văn học miền núi trong bức tranh toàn cảnh văn học cách mạng Việt Nam là không thể không chú ý được, là đã đóng chốt vào rồi. Nhà văn Tô Hoài với ngọn bút lão luyện và tài hoa, đã chấm phá bức tranh thủy mạc về người về cảnh miền núi chinh phục chúng ta từ nhiều năm nay. Con dế mèn phiêu lưu đã xòe cánh trên vùng Tây Bắc... một lời khen rất có duyên về anh, và chứng tỏ cái uy thế tuyệt đối của anh về địa bàn miền núi. Lúc ấy Ma Văn Kháng vẫn còn là cậu học trò cần cù học, đọc và lầm lũi như chú bé dân tộc theo mẹ đi chợ, đi theo con đường của Nam Cao, Tô Hoài khai phá. Tiếp bước cha anh... đấy là truyền thống dân tộc. Tác phẩm Đồng bạc trắng hoa xòe (tiểu thuyết, 1979 Vùng biên ải (tiểu thuyết, 1983) Người Thợ Mộc Và Tấm Ván Thiên Gặp Gỡ Ở La Pan Tẩn Trăng non (tiểu thuyết 1984) Phép lạ thường ngày Thầy Thế đi chợ bán trứng Mưa mùa hạ (tiểu thuyết 1982) Mùa lá rụng trong vườn (tiểu thuyết, 1985) Võ sỹ lên đài Thanh minh trời trong sáng Hoa gạo đỏ Côi cút giữa cảnh đời (tiểu thuyết 1989) Đám cưới không giấy giá thú Đám cưới không có giấy giá thú (tiểu thuyết, 1989) Chó Bi, đời lưu lạc (tiểu thuyết 1992) Ngày đẹp trời (truyện ngắn 1986) Vệ sĩ của Quan Châu (truyện ngắn 1988) Giấy trắng (tiểu thuyết) Trái chín mùa thu (truyện ngắn 1988) Heo may gió lộng (truyện ngắn 1992) Trăng soi sân nhỏ (truyện ngắn 1994) Ngoại thành (truyện ngắn 1996) Truyện ngắn Ma Văn Kháng (tuyển tập 1996) Vòng quay cổ điển (truyện ngắn 1997) Năm tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ thương (hồi ký 2009) Một mình một ngựa (Tiểu thuyết 2007) Một Chiều Dông Gió Một Nhan Sắc Đàn Bà Trốn Nợ Mời các bạn đón đọc Võ Sĩ Lên Đài của tác giả Ma Văn Kháng.
Đường Một Chiều - Nguyễn Mộng Giác
Đường Một Chiều là một cuốn tiểu thuyết tình cảm, phản ảnh một góc nhỏ xã hội miền Nam trong thời chinh chiến, tất cả xoay quanh câu chuyện về một vụ thảm sát khó hiểu diễn ra ngay trong nhà của thiếu tá Lộc.  Nhân vật chính là một sĩ quan cấp tá của quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Ông đồn trú xa nhà với chức vụ Tiểu Đoàn Trưởng một tiểu đoàn tác chiến. Gia đình ông gồm Thúy, vợ ông, bé Ly, 14 tuổi con riêng của bà Thúy và 2 đứa con nhỏ. Ngoài ra, hạ sĩ Ninh, được vợ chồng ông xem như em, ở chung nhà, vừa làm nhiệm vụ tài xế vừa làm quản gia cho gia đình. Chính Ninh là người mở ra thảm kịch gia đình cho thiếu tá Lộc. Toàn bộ nội dung cuốn sách là những phiên xử, những góc khuất trong mối quan hệ của Ninh với các thành viên trong gia đình Lộc, những suy nghĩ của người nhà nạn nhân cũng như bị can, những tình tiết giả thiết mà báo chí, luật sư thêm vào trong vụ thảm sát. Sự việc cuối cùng rồi sẽ ra sao? Liệu Lộc có tha thứ cho cấp dưới của mình? Liệu Ninh có bị xử đúng tội theo như pháp luật? Liệu các con của Thúy có thôi ám ảnh trước cái chết của mẹ mình? Đường Một Chiều là một tác phẩm khá nổi bật của Nguyễn Mộng Giác và xứng đáng là một trong những tác phẩm xuất sắc của nền văn học chế độ Sài Gòn cũ. *** Nguyễn Mộng Giác (1940 - 2012) là nhà văn Việt Nam. Năm 1981, ông rời quê hương, định cư tại Hoa Kỳ vào cuối năm 1982, và rồi mất tại đây vào tháng 7 năm 2012. Ông sinh ngày 4 tháng 1 năm 1940 tại thôn Xuân Hòa, xã Bình Phú, quận Bình Khê (nay là huyện Tây Sơn), tỉnh Bình Định, miền Trung Việt Nam. Thời kháng chiến chống Pháp 1946 đến 1954, ông học tiểu học và trung học tại vùng kháng chiến. Sau Hiệp định Genève 1954, ông tiếp tục học tại trường Cường Để (Quy Nhơn), trường Võ Tánh (Nha Trang), rồi học năm chót của bậc trung học tại trường Chu Văn An (Sài Gòn). Sau khi học một năm ở Đại học Văn Khoa Sài Gòn, ông ra Huế học Đại học Sư phạm ban Việt-Hán. Năm 1963, ông tốt nghiệp thủ khoa, khóa Nguyễn Du. Ngay năm ấy, ông được điều đến giảng dạy tại trường Đồng Khánh ở Huế. Năm 1965, đổi ông vào Quy Nhơn làm Hiệu trưởng trường Cường Để. Năm 1973, thăng ông làm Chánh sở Học chánh tỉnh Bình Định. Năm 1974, chuyển ông vào Sài Gòn làm chuyên viên nghiên cứu giáo dục Bộ Giáo dục Việt Nam Cộng hòa cho đến 1975. Về sự nghiệp văn chương, ông bắt đầu viết văn từ năm 1971, đã cộng tác với các tạp chí: Bách Khoa, Văn, Thời Tập, Ý Thức. Năm 1974, truyện dài Đường một chiều của ông được giải thưởng Văn Bút Việt Nam dưới thời Việt Nam Cộng hòa . Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, việc sáng tác của ông tạm gián đoạn. Đến năm 1977, ông cầm bút trở lại, và bắt đầu viết bộ trường thiên tiểu thuyết Sông Côn mùa lũ, và hoàn thành vào năm 1981. Tháng 11 năm đó (tức sau khi vừa viết xong bộ truyện trên), ông cùng con trai vượt biển. Chuyến vượt biển thành công, ông đã đến được đảo Kuku của Indonesia. Trong mấy tháng ở đây, ông đã viết được một số truyện ngắn mà sau này xuất bản thành cuốn Ngựa nản chân bon, và tập I của bộ trường thiên tiểu thuyết Mùa biển động. Tháng 11 năm 1982, ông đến Hoa Kỳ, định cư tại Nam California[3], rồi cộng tác với các báo: Đồng Nai, Việt Nam Tự Do, Người Việt, Văn, Văn Học Nghệ thuật ở nước ngoài. Từ năm 1986, ông làm Chủ bút tạp chí Văn Học ở California, Hoa Kỳ. Đến tháng 8 năm 2004, ông phải ngưng công việc làm báo vì phát hiện mình bị ung thư gan. Sau nhiều năm dài chống chọi với căn bệnh hiểm nghèo, ông đã qua đời lúc 22 giờ 15 phút ngày 2 tháng 7 năm 2012 (ngày giờ địa phương ở California, tức sáng ngày 3 tháng 7 năm 2012 giờ Việt Nam) tại tư gia ở thành phố Westminster (Orange County, California, Hoa Kỳ), thọ 72 tuổi.   Mời các bạn đón đọc Đường Một Chiều của tác giả Nguyễn Mộng Giác.
Bức Chân Dung - Nikolai Gogol
Nikolai Vasilyevich Gogol (tiếng Ukraina: Микола Васильович Гоголь, tiếng Nga: Николай Васильевич Гоголь, tiếng Ba Lan: Nikołaj Wasiljewicz Gogol; 1 tháng 4 năm 1809 – 4 tháng 3 năm 1852) là một nhà văn, nhà viết kịch nổi tiếng Nga và Ukraina. Tác phẩm tiêu biểu nhất của ông Những linh hồn chết, được xem là cuốn tiểu thuyết hiện đại đầu tiên của văn học Nga và Ukraina. Trong các tác phẩm của mình, ông không chừa ai cả, từ hoàng đế đến quan lại, từ trí thức đến bình dân, từ giới địa chủ đến giới nông nô, tất cả đều là mục tiêu châm chích cho ngòi bút ông. Người ta đã gọi những tác phẩm đó là "những bức hí họa về nước Nga và người Nga". Tuy nhiên cũng nhờ tính sinh động và sức thuyết phục nảy sinh từ ngòi bút, ông đã làm mờ nhạt đi bộ mặt thật kinh khủng của nó, để lôi cuốn không ngừng đôi mắt độc giả theo một mặt trái ẩn tàng những hình nét đáng cảm động hơn. Vào những ngày cuối đời, ông bị một căn bệnh kỳ lạ ở mũi và phải dùng đỉa để chữa bệnh cho mình. Ông đã phải chịu đựng sự đau đớn vì kiểu chữa bệnh đó cho đến lúc chết. Ba nhân vật vĩ đại nhất của văn học Nga thế kỷ 19 từng định đoạt sự phát triển tinh thần của nhân dân trong thế kỷ 19 và 20 là Gogol, Fyodor Mikhailovich Dostoevsky, Lev Nikolayevich Tolstoy - không chỉ là những nhà văn cực lớn của nước Nga, của nhân loại, mà còn là những nhà tư tưởng lớn nhất của nước Nga thế kỷ 19. *** Không có nơi nào đông người đứng lại xem như trước gian hàng bán tranh trong khu chợ lợp Shchukin. Đúng thế, ở đây tập hợp hết sức linh tinh đủ các thứ lạ mắt, phần lớn là những bức tranh dầu, phủ một lớp tráng bóng màu lục thẫm, trong những chiếc khung hào nhoáng màu vàng đậm. Mùa đông với những cây trắng xóa, cảnh mặt trời lặn đỏ ối trong như ánh lửa rực lên từ một đám cháy, một bác nông dân xứ Flandre, mồm ngậm tẩu, cánh tay cong vẹo, trông giống một con gà tây mặc áo hơn là một con người – đề tài của những bức tranh ấy thường là như vậy, thêm vào đấy là mấy bức tranh khắc gỗ: Chân dung Khozrev-Mirza[1] đội mũ lông cừu, chân dung mấy vị tướng đội mũ ba sừng, cái mũi cong lệch. Ngoài ra, cánh cửa loại gian hàng này thường lấp kín sau những tập tranh dân gian rộng khổ, in thứ tranh ảnh thể hiện cái thiên tư của người dân Nga. Một bức vẽ nàng công chúa Miliktrisa Kirbitievna; một bức vẽ thành Jerusalem, màu đỏ tràn lên mấy ngôi nhà và nhà thờ, quệt đỏ ngầu cả một khoảng đất, và hai người mu gích[2] Nga đang cầu nguyện, tay đeo bao. Người mua những bức tranh này thường chẳng có mấy nhưng người xem thì đông vô kể. Trong đám này thế nào cũng có một gã hầu phòng nát rượu đứng xem, mồm há hốc, tay cầm thức ăn vừa mua ở hiệu về cho chủ: chủ nó chắc chắn sẽ không phải bỏng mồm vì món xúp. Lại thế nào cũng có một anh lính, nhân vật chính của các chợ tầm tầm, tay cầm vẻn vẹn chỉ có hai con dao nhíp để chào khách, hoặc giả một chị bán hàng rong bưng một hộp đầy ních những giày. Mỗi người thưởng thức tranh một cách riêng; mấy bác mu gích giơ tay chỉ trỏ, mấy anh lính xem xét tận nơi, vẻ nghiêm trang; mấy thằng bé đi ở, mấy chú học nghề cười đùa chỉ trỏ cho nhau xem những bức biếm họa để rồi trêu nhau; những bác hầu phòng có tuổi khoác áo dạ thô thì chỉ cốt đứng lại để ngáp; còn những cô bán hàng rong, đúng kiểu các bà mẹ nhà quê Nga, do bản năng cũng chạy đến để nghe thiên hạ bàn tán và xem người ta đang làm gì. Đúng lúc ấy, Chartkov, một họa sĩ trẻ tuổi, đi ngang qua trước gian hàng, bất giác cũng dừng lại. Nhìn chiếc áo khoác cũ kỹ và bộ quần áo không chút cầu kỳ ta biết anh ta thuộc hạng người sống chỉ vì công việc, không có thì giờ nghĩ đến trang phục, tuy món này vốn là thứ hấp dẫn đám thanh niên lạ thường. Anh ta lúc đầu dừng chân trước gian hàng chỉ để cười thầm những bức tranh xấu xí nọ. Nhưng rồi sau, bất giác, anh trở nên đăm chiêu tư lự; anh băn khoăn không hiểu những bức tranh này liệu có ai cần đến. Ừ, người dân Nga ưa chuộng những bức thư Yeruslan Lazarevich, Ngốn khỏe và Nốc khỏe, Foma và Yerema điều đó anh chẳng lấy làm lạ; những đề tài ấy rất đơn giản và dễ hiểu, nhưng còn những mớ tranh tồi quét sơn dầu, màu sặc sỡ và bẩn thỉu kia thì ai mua? Ai là người cần đến bức chân dung bác nông dân xứ Flandre ... Mời các bạn đón đọc Bức Chân Dung của tác giả Nikolai Gogol.
Gặp Gỡ Ở La Pan Tẩn - Ma Văn Kháng
Tác phẩm Gặp Gỡ Ở La Pan Tẩn là sự tổng hợp, sự thu hút vào nó những thủ pháp của tiểu thuyết tư liệu - nghiên cứu, tiểu thuyết tự thuật và kỹ thuật dòng ý thức, bút pháp tượng trưng, v.v... Nếu ở những chương đầu của Đồng bạc trắng hoa xòe, ông tuân thủ lối viết của người kể chuyện biết hết, tác phẩm bị lấn át bởi một giọng điệu kể thì đến Gặp gỡ ở La Pan Tẩn, tiểu thuyết của Ma Văn Kháng đã là một thực thể sinh động biết bao: tác phẩm có nhiều tầng lớp ý nghĩa, chứa nhiều ẩn dụ nghệ thuật, hư và thực, tiềm thức, vô thức đan cài với ý thức sáng rõ có chủ đích; thế giới hiện thực hiện hữu và thế giới tâm linh, huyền thoại bổ sung vào nhau, nhòe mờ các ranh giới, mà tư duy trừu tượng muốn phân định rạch ròi. *** Ma Văn Kháng lao động văn chương như một người H'Mông trồng bắp trên núi, lặng lẽ, cần cù, kiên nghị. Không ồn ào to tiếng với ai. Nét mặt anh cũng có cái vẻ chất phác núi rừng, ít nói, ít tranh luận, nghe ai nói nhiều chỉ gật đầu, hơi như ngơ ngác nữa. Độc giả văn chương quen biết anh bằng tập Xa phủ (1969), tập truyện đầu tay, xinh xinh và đáng yêu như những chú thỏ non trong rừng rậm. Và sau đó thì đều đặn, năm in một tập, năm in hai tập, ở các Nhà xuất bản Văn học, Thanh niên, Phụ nữ, Công an nhân dân, Lao động và Kim đồng. Tính đến Đồng bạc trắng hoa xòe là ấn phẩm thứ mười một của anh trong vòng thập niên trở lại đây, thuần về miền núi. Văn học miêu tả dân tộc miền núi, nói nghiêm túc, mới chỉ có sau Cách mạng tháng Tám, trong kháng chiến Việt Bắc. Những tiểu thuyết đường rừng của Lan Khai trước kia (Tiếng gọi của rừng thẳm, Truyện đường rừng, Suối đàn), ít nhiều của Thế Lữ (Vàng và Máu, Một đêm trăng), chỉ là những truyện mượn rừng núi nhằm gây một cảm giác ly kỳ rùng rợn. Người đặt nét bút đầu tiên khai phá vùng núi cao trong văn học Việt Nam phải kể là Nam Cao với Ở rừng (1948). Đấy mới chỉ là những phác thảo trong những trang nhật ký duyên dáng của anh, nhưng bóng dáng người miền núi hiện ra đã thật là có tình và đáng yêu. Rồi Nam Cao mất, chưa kịp làm gì thêm cho miền núi nữa. Cùng sống với Nam Cao là Tô Hoài, có Núi Cứu quốc (1948). Vẫn chỉ là những nét phác thảo. Phải đến năm 1953, cái vùng đất biên cương núi non trùng điệp vòng phía Tây Bắc Tổ quốc mới lấp lánh trong văn học Việt Nam với Mường Giơn giải phóng và Vợ chồng A Phủ. Và sau nữa thì tiểu thuyết Miền tây (1967) khẳng định mảng văn học miền núi trong bức tranh toàn cảnh văn học cách mạng Việt Nam là không thể không chú ý được, là đã đóng chốt vào rồi. Nhà văn Tô Hoài với ngọn bút lão luyện và tài hoa, đã chấm phá bức tranh thủy mạc về người về cảnh miền núi chinh phục chúng ta từ nhiều năm nay. Con dế mèn phiêu lưu đã xòe cánh trên vùng Tây Bắc... một lời khen rất có duyên về anh, và chứng tỏ cái uy thế tuyệt đối của anh về địa bàn miền núi. Lúc ấy Ma Văn Kháng vẫn còn là cậu học trò cần cù học, đọc và lầm lũi như chú bé dân tộc theo mẹ đi chợ, đi theo con đường của Nam Cao, Tô Hoài khai phá. Tiếp bước cha anh... đấy là truyền thống dân tộc. Tác phẩm Đồng bạc trắng hoa xòe (tiểu thuyết, 1979 Vùng biên ải (tiểu thuyết, 1983) Người Thợ Mộc Và Tấm Ván Thiên Gặp Gỡ Ở La Pan Tẩn Trăng non (tiểu thuyết 1984) Phép lạ thường ngày Thầy Thế đi chợ bán trứng Mưa mùa hạ (tiểu thuyết 1982) Mùa lá rụng trong vườn (tiểu thuyết, 1985) Võ sỹ lên đài Thanh minh trời trong sáng Hoa gạo đỏ Côi cút giữa cảnh đời (tiểu thuyết 1989) Đám cưới không giấy giá thú Đám cưới không có giấy giá thú (tiểu thuyết, 1989) Chó Bi, đời lưu lạc (tiểu thuyết 1992) Ngày đẹp trời (truyện ngắn 1986) Vệ sĩ của Quan Châu (truyện ngắn 1988) Giấy trắng (tiểu thuyết) Trái chín mùa thu (truyện ngắn 1988) Heo may gió lộng (truyện ngắn 1992) Trăng soi sân nhỏ (truyện ngắn 1994) Ngoại thành (truyện ngắn 1996) Truyện ngắn Ma Văn Kháng (tuyển tập 1996) Vòng quay cổ điển (truyện ngắn 1997) Năm tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ thương (hồi ký 2009) Một mình một ngựa (Tiểu thuyết 2007) Một Chiều Dông Gió Một Nhan Sắc Đàn Bà Trốn Nợ Mời các bạn đón đọc Gặp Gỡ Ở La Pan Tẩn của tác giả Ma Văn Kháng.