Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Và Rồi Chẳng Còn Ai

“Mười…” Mười người bị lừa ra một hòn đảo nằm trơ trọi giữa biển khơi thuộc vịnh Devon, tất cả được bố trí cho ở trong một căn nhà. Tác giả của trò bịp này là một nhân vật bí hiểm có tên “U.N.Owen”.  “Chín…” Trong bữa ăn tối, một thông điệp được thu âm sẵn vang lên lần lượt buộc tội từng người đã gây ra những tội ác bí mật. Vào cuối buổi tối hôm đó, một vị khách đã thiệt mạng.  “Tám…” Bị kẹt lại giữa muôn trùng khơi vì giông bão cùng nỗi ám ảnh về một bài vè đếm ngược, từng người, từng người một… những vị khách trên đảo bắt đầu bỏ mạng. “Bảy…” Ai trong số mười người trên đảo là kẻ giết người, và liệu ai trong số họ có thể sống sót? “Một trong những tác phẩm gây tò mò hay nhất, xuất sắc nhất của Christie.” – Tạp chí Observer “Kiệt tác của Agatha Christie.” – Tạp chí Spectator *** “Và rồi chẳng còn ai” (tên Tiếng Anh: And Then There Were None), còn có tên gọi khác là “Mười người da đen nhỏ” (tên Tiếng Anh: Ten Little Nigger) - một tác phẩm trinh thám đủ sức gây ám ảnh. 1.Về tác giả Agatha Christie Agatha Christie (sinh năm 1890 - mất năm 1976) là một nữ nhà văn trinh thám đến từ nước Anh. Người ta biết đến bà với tiếng vang của nhân vật thám tử nổi tiếng Hercule Poirot và sau đó là nhân vật Bà Marple. Một điều ấn tượng đầy thú vị cho thấy sức ảnh hưởng của thám tử Hercule Poirot chính là việc ông là nhân vật hư cấu duy nhất cho đến nay được đăng cáo phó trên tờ The New York Times (khi ông bị bà Christie “giết chết” trong tác phẩm Curtain). Vai thám tử Poirot trong phim "Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông" do Kenneth Branagh đóng Vai thám tử Poirot trong phim "Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông" do Kenneth Branagh đóng Có quá nhiều thứ để nói về Agatha Christie, về tác phẩm và cả cuộc đời bà. Christie đã cho ra đời hơn 80 tiểu thuyết trinh thám, có thể kể đến những tác phẩm quen thuộc như Thời khắc định mệnh, Vụ án sát ông Roger Ackryo, Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông, Chuỗi án mạng ABC, Án mạng trên sông Nile… Tuy nhiên, ít ai biết rằng “nữ hoàng trinh thám” cũng viết tiểu thuyết lãng mạn với cái tên Mary Westmacott - bút danh mà bà đã giữ kín gần 2 thập kỷ. Theo Sách kỷ lục Guiness, Agatha Christie là nhà văn có tác phẩm bán chạy nhất mọi thời đại của thể loại trinh thám, và đứng thứ hai nếu tính cả các thể loại khác (chỉ xếp sau William Shakespeare). Bên cạnh đó, vở kịch The mousetrap (Cái bẫy chuột) của bà cũng đang giữ kỷ lục vở kịch được công diễn lâu nhất trong lịch sử sân khấu London, khi được diễn lần đầu năm 1952 và tiếp tục được diễn cho đến nay. Tác phẩm của Christie phản ánh con người và cuộc đời bà. Christie có một cuộc hôn nhân không hạnh phúc. Trong Thế chiến thứ nhất, bà làm việc tại bệnh viện và tiệm thuốc, do đó, rất nhiều vụ giết người trong tác phẩm của bà được thực hiện bằng các loại thuốc độc. Christie cho rằng sử dụng thuốc độc là một hành vi bớt bạo lực và tạo ra cảm giác bí hiểm nhiều hơn. Cha của Christie qua đời khi bà 11 tuổi, đẩy Christie vào sự ám ảnh tài chính. Bà sợ đói nghèo. Tiền bạc thường là trung tâm trong các tiểu thuyết của bà. Hai nhân vật nổi tiếng mà bà tạo ra là thám tử Poirot và bà Marple đều coi tiền bạc là động cơ hàng đầu trong mỗi tội ác - Theo lời Laura Thompso trong cuốn tiểu sử Agatha Christie: An English Mystery. Cuộc đời Agatha Christie đã từng có một cuộc mất tích bí ẩn 11 ngày vào năm 1926, thời điểm mà cuộc hôn nhân của bà gặp nhiều đau khổ cùng với nỗi đau đớn khi người mẹ qua đời. Gia đình và cảnh sát đã đi tìm bà khắp nơi, nhưng phải mất đến tận 11 ngày, người ta mới tìm thấy bà trong một khách sạn nghỉ dưỡng. Sau lần mất tích đó, Agatha Christie dường như quên sạch mọi thứ về bản thân. Bà khăng khăng mình đến từ Nam Phi, không nhận ra chồng và con cái. Đối với Christie, đây là ‘sự kiện không bao giờ nên được nhắc lại”. Nói thêm một chút về điều mà mình ấn tượng với Agatha Christie. Chúng ta biết rằng Arthur Conan Doyle - cha đẻ của Sherlock Holmes đã quyết định kết thúc cho nhân vật của mình bằng “cái kết” gây phẫn nộ. Trong lúc ‘cuộc chiến” giữa Holmes và Moriarty đang trong hồi gay cấn, Doyle đã để hai nhân vật này cùng nhau bỏ mạng tại thác Reichenbach. Quyết định này khiến người hâm mộ choáng váng và tạo nên một làn sóng phản đối dữ dội. Cuối cùng, ông đã phải hồi sinh nhân vật của mình. Lý giải cho cái chết của Holmes, Conan Doyle bảo rằng thời điểm đó ông cần tập trung nhiều cho sự nghiệp phòng khám của mình. Tuy nhiên, có một sự thật rõ ràng rằng phòng khám của Doyle không thật sự phát triển, trong khi Holmes của ông lại đang rất thành công. Do đó, nhiều người cho rằng Doyle đã bước vào giai đoạn bế tắc trong sáng tác, không biết nên tiếp tục Holmes như thế nào. Một nhân vật vĩ đại cũng cần một kết thúc vĩ đại. Đó thật sự là áp lực của một người cầm bút. Nhưng điều này thì liên quan gì đến Agatha Christie? Bà cũng đã từng cảm thấy chán ngán với thám tử Poirot của mình. Christie từng viết trong nhật ký rằng bà “không thể chịu đựng nổi” với Poirot, nhưng bà đã chống lại được cảm giác muốn kết liễu Poirot khi ông vẫn đang còn nổi tiếng. Với Christie, viết lách là phụng sự, bà phục vụ khán giả, và chừng nào khán giả còn yêu thích Poirot, bà không muốn chấm dứt niềm yêu thích đó. Trên thực tế, từ lúc phát sinh cảm giác chán ngán đó, đến tận 35 - 45 năm sau, Agatha mới viết cho Poirot một cái kết. Agatha Christie đã sống 85 năm trên cuộc đời. Thế giới của bà có quá nhiều chuyện để người ta muốn lắng nghe và tìm hiểu. Từ cuộc hôn nhân đổ vỡ, cuộc mất tích bí ẩn, những tổn thương trong tâm hồn, áp lực của một người sáng tác… cho thấy một Agatha Christie rất có chiều sâu và chiều rộng.  2. “Và rồi chẳng còn ai” - "Mười người da đen nhỏ" "Mười tên lính nhỏ đi ăn Một tên chết nghẹn, giờ còn chín tên Chín tên thức muộn trong đêm Một quên không dậy, tám tên ngậm ngùi. Devon du thuyền chúng chơi Một tên nằm lại, bảy thời ra đi. Một tên bổ củi làm chi, Bổ đôi một đứa, sáu tên muộn phiền. Sáu đem tổ ong ra nghiền, Một ong đốt chết, còn năm sững sờ. Đến toà năm đứa kia chờ, Một vào Thượng thẩm, bốn ra biển ngồi. Bốn tên cùng ra biển trời. Trích đỏ nuốt một, giờ còn lại ba. Vườn thú ba đứa la cà, Gấu to vồ một, còn hai vẹn toàn. Hai tên đi dưới nắng vàng, Một cong khô chết, một tên bơ phờ. Còn tên lính nhỏ thẫn thờ Hắn đi treo cổ mình lên trần nhà. Và rồi chẳng còn ai" Frank, 1869 Bài thơ đầy ám ảnh! Đây là bài thơ được xuất hiện nhiều lần trong câu chuyện. Cùng với cái tên, có thể dễ dàng đoán được rằng những vụ án mạng sẽ được diễn ra giống như những gì mà bài thơ nói đến. Câu chuyện bắt đầu với sự xuất hiện của Wargarave - một vị thẩm phán mới về hưu, trên chuyến tàu ra Đảo Chiến Binh. Đảo Chiến Binh là một địa điểm đầy bí ẩn với nhiều lời đồn đoán và thổi phồng về nó. Ông tới Đảo Chiến Binh theo lời hẹn của quý cô Constance Culmington - một người ông từng gặp ở nước Ý. Cứ như thế, thêm 7 nhân vật nữa là cô Vera Claythorne, Philip Lombard - đại uý, cụ bà Emily Brent, tướng Macarthur, bác sĩ Armstrong, Tony Marston và ông Blore cùng đi ra hòn đảo Chiến Binh nằm trên vịnh Devon, theo những lời đề nghị vô cùng hợp lý và hấp dẫn. Sau khi tới hòn đảo, chỉ có hai người được thuê làm quản gia đón tiếp họ, đó là vợ chồng Thomas và Ethel Roger. Vậy là đủ 10 người, còn nhân vật bí ẩn đã mời họ đến hòn đảo này thì lại chẳng thấy đâu. Sau khi nhận phòng, họ nhận ra rằng trong phòng mỗi người đều có một bài thơ chết chóc giống hệt nhau, báo hiệu thời gian sắp tới sẽ mù mịt và u ám. Bữa tối kết thúc, một giọng nói vang lên, liệt kê lần lượt những tội ác mà 10 con người kia đã từng làm trong quá khứ. Đối với họ, đây là những lời buộc tội vô lý và không có căn cứ hay bằng chứng nào để xác nhận. Nhưng họ ám ảnh với những lời buộc tội đó. Và đây cũng là khởi nguồn của một màn bi kịch đẫm máu. Không khó để biết rằng kết cục của 10 con người này sẽ tương ứng với những lời được nêu trong bài thơ. Nhưng cái tài tình của cô Agatha Christie là khiến cho người ta biết trước rồi mà vẫn hồi hộp đến thót tim. Agatha Christie thật sự là người kỹ lưỡng với những chi tiết, đặc biệt là chi tiết mang tính biểu tượng.  Vụ án trên hòn Đảo Chiến Binh là vụ án bí ẩn kinh điển, những fan truyện trinh thám ắt hẳn quá quen với những cái gọi là “vụ án trong phòng kín” hay “vụ án bất khả thi”. Người ta suy nghĩ mãi mà vẫn không tìm ra được ai là kẻ bí ẩn đứng sau tội ác, bởi không có dấu hiệu cho thấy có người thứ 11 xuất hiện trên hòn đảo này. Nhưng dĩ nhiên là Agatha Christie đã giải đáp mối nghi ngờ đó. 3. Cảm nhận của bản thân mình. Điều mình ấn tượng nhất ở “Mười người da đen nhỏ” là cách cô Agatha Christie xây dựng các chi tiết, thật sự sắc sảo, hợp lý và thông minh. Nhưng ở một khía cạnh nào đó, mình thấy hơi hụt hẫng vì dựa trên bài thơ, độc giả có thể đoán được sơ bộ nội dung của câu chuyện. Tất nhiên là cái kết vẫn gây nên sự bất ngờ! Mình cũng thích cách cô Christie truyền tải thông điệp trong tác phẩm này. Là một người hoạt động trong lĩnh vực pháp luật, mình hiểu rằng trên đời này có những tội ác, biết rõ mười mươi nhưng vì nhiều lý do mà pháp luật không thể yêu cầu kẻ gây nên phải đền tội. Và bởi thế, trong tác phẩm của cô Christie, đã xuất hiện một kẻ mang trong mình hai trạng thái đối nghịch: một mặt là “khát vọng chết chóc”, mặt khác là “ý thức sâu sắc về lẽ công bằng”. Chính hắn cũng đã bảo rằng: “Tôi có một thú vui điên cuồng là chứng kiến hay gây nên sự chết chóc”, nhưng “đối với tôi thì việc bất cứ một con người hay một sinh vật vô tội nào phải chịu đau khổ hay phải chết dưới tay mình là một việc không thể dung thứ”. Chính điều này đã tiết lộ cách mà hắn điều khiển câu chuyện như thế nào. Nhưng có một điều rằng mình không hề thích cái kết mà cô Agatha Christie lựa chọn. Có lẽ nó hơi trái ngược những quan niệm của mình về cuộc sống. Với mình, không ai nhân danh công lý được bằng chính bản thân sự thật. Không ai có thể tự trao cho bản thân cái quyền trừng phạt, phán xét và định đoạt cho bất kỳ kẻ gây ra tội ác nào.  Một số người cho rằng “Và rồi chẳng còn ai” là tác phẩm ấn tượng nhất của cô Agatha Christie, bởi cách xây dựng câu chuyện khá lạ và mạo hiểm. Nhưng mình vẫn highly recommend mọi người đọc một số quyển khác như Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông hay Án mạng trên sông Nile… Mình thích những tác phẩm này hơn! Tuy nhiên, mình đã bị ám ảnh với “Và rồi chẳng còn ai”, mặc dù mình đọc không quá ít về dòng trinh thám. Có lẽ do tính biểu tượng của chi tiết ở trong câu chuyện này quá mạnh, nó khiến mình suy nghĩ rất nhiều về những gì đang diễn ra trong cuộc đời này, nó thực tế đến mức đáng sợ. Có lẽ, mỗi một giây phút nào đó trên thế giới này, một tội ác cũng đang được thực thi.   Mời các bạn đón đọc Và Rồi Chẳng Còn Ai của tác giả Agatha Christie & Việt Hà (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Đắm Đuối - Carter Brown
Một cái xác bị đánh cắp tại nhà xác ngay trong đêm. Trung úy Wheeler được cử đến hiện trường và chứng cứ thu thập được đã giúp anh tìm lại được tử thi đã mất nhưng kèm theo đó lại là một cái xác mới khác. Wheeler trong quá trình điều tra luôn nhận được những tin tức bí mật từ một người lạ mặt và anh đã phải trải qua những ngày dài căng thẳng, mệt nhọc. Cuối cùng, qua từng bước điều tra khôn ngoan và hiệu quả của Wheeler, kẻ sát nhân đã phải lộ mặt và nhận lấy sự trừng phạt thích đáng… *** Carter Brown là bút danh văn học của Alan Geoffrey Yates (1 tháng 8 năm 1923 - 5 tháng 5 năm 1985), một nhà văn người Anh chuyên tiểu thuyết trinh thám. Sinh ra tại Anh, Alan Yates kết hôn và định cư tại Úc vào năm 1948. Anh bắt đầu cuộc sống làm việc của mình như là một kỹ thuật viên điện ảnh, nhân viên bán hàng và trong quan hệ công chúng cho Qantas trước khi viết lên toàn thời gian. Yates nhanh chóng trở thành một hiện tượng văn học. Ông đã viết các phương Tây dưới bút danh Todd Conway, và khoa học viễn tưởng dưới thời Paul Valdez. Ông thậm chí còn tìm được thời gian để viết sách theo các phiên bản khác nhau của tên riêng của mình cũng như các bút danh khác, Dennis Sinclair và Sinclair MacKellar. Nhưng Peter Carter Brown, sau đó là Peter Carter Brown, sau đó là Carter Brown, và trở thành tác giả các tiểu thuyết bán chạy nhất thế giới. Tại Việt Nam, Ông được biết đến với series về Trung úy Wheeler. Một số tác phẩm của Carter Brown đã được dịch và xuất bản tại Việt Nam: Xác Chết Vũng Lầy Đắm Đuối *** *** Nhấn hết ga, tôi cho chiếc xe lái với tốc độ một trăm ba mươi cây số giờ trên con đường đất, lòng thầm vái rằng mình sẽ không bị sụp ổ gà và chết tan xác. Sau khi vượt qua khúc quanh gần đoạn cuối, tôi cho xe chậm lại ở vận tốc bảy mươi cây số giờ và khi tôi rẽ vào hoang địa. Tôi thắng gấp và chiếc Austin Healey dừng lại giữa chiếc du lịch màu nâu và chiếc Cadillac xanh. Cả hai hai đều vắng bóng người. Khi tắt máy xe, tôi mới thấy rằng mình đang chìm trong bầu không khí tĩnh mịch, đầy đe dọa. Tôi ngồi đó một lúc, lắng tai nghe ngóng nhưng không biết rõ là mình đang chờ đợi điều gì: tiếng súng nổ, tiếng đạn ráo cày xới những vách đá sừng sững, hay là - để mặc cho trí tưởng tượng vẽ vời - tôi chờ nghe tiếng hổn hển của hai tên khổng lồ đang sống mái trên mỏm đá sừng sững bên trên tôi sáu mươi thước… Nhưng có điều là tôi không hề chờ đợi sự yên ổn! Tôi đóng ầm cửa xe và tiếng động này vang vào vực núi như tiếng sấm gầm. Tôi châm điếu thuốc và bước ra trước xe để quan sát cảnh vật. “Ô kìa Wheeler!” một giọng nói thốt lên từ phía sau tôi. Tôi giật thót người, tưởng chừng cả tấm thân có thể bay bổng lên cả thước. Quay phắt lại, tôi thấy Blake đang ngồi nơi ngăn trước của chiếc du lịch, khuôn mặt hơi khuất dưới cái mũ phớt rộng vành. Y mặc một chiếc sơ mi hở cổ màu ô liu và chiếc quần nhung sọc nhét kỹ vào đôi ủng bóng loáng. Cái khăn quàng cổ màu trắng buộc hờ hững như muốn làm nổi bật hơn làn da rám náng của y. Trên cặp đùi của y là khẩu Winchester calíp 458 tuyệt đẹp với ống ngắm lấp lánh dưới nắng trời. ... Mời các bạn đón đọc Đắm đuối của tác giả Carter Brown.
Bàn Tay Cứu Mạng - Chris Cleave
Trong cuộc chạy trốn bọn giết người hòng truy sát những nhân chứng tội nghiệp của một ngôi làng Nigeria (châu Phi) hiền lành bị san phẳng chỉ vì một nguyên do là nó nằm trên một mỏ dầu, hai chị em Ong Nhỏ - Lòng Tốt đã trốn đến một bãi biển ở Đông Nam Nigeria. Ở đó, hai chị em đã gặp hai vợ chồng nhà báo Anh đi nghỉ mát hòng hàn gắn cuộc hôn nhân đã nguội lạnh của họ. Chưa kịp bày tỏ hết mối hiểm nguy đang rình rập hai chị em, bọn giết người đã đuổi đến, và tên cầm đầu đã ra một điều kiện bất ngờ: nếu người đàn ông da trắng kia chịu chặt một ngón tay thì Ong Nhỏ và Lòng Tốt sẽ được tha mạng. Quá bất ngờ với điều kiện lạ lùng đó, lại không tin vào lời đảm bảo của tên cầm đầu đám sát nhân, người chồng đã từ chối... Và kể từ sau phút giây định mệnh khủng khiếp đó, cuộc đời của Ong Nhỏ và hai vợ chồng nhà báo người Anh đã không còn như trước... *** — “Dù trăng biến mất bao lâu/Một mai trăng lại sáng thâu đêm dài” được lấy từ www.motherlandnigeria.com - Đoạn “Ave Maria” tiếng Ibo được lấy từ trang web: www. christusrex.org — Một số thành ngữ Nigeria được lấy từ “từ điển tiếng Anh Nigeria” của roger blench và Từ điển cách dùng tiếng Anh Nigeria của herbert Igboanusi, Nxb Enicrownfit, 2001. - Một số thành ngữ Jamaica được lấy từ Từ điển tiếng Anh Jamaica của F.G. Cassidy và r.b. Le Page, Nxb Đại học West Indies, 2002. - Một số thành ngữ tiếng Anh bốn tuổi được lấy từ con trai tôi, batman. — Câu “Chúng tôi không nghĩ là có ai lại đi xin quá nhiều băng vệ sinh để làm gì” được lấy từ báo cáo đặc biệt của hội đồng hạt bedfordshire ngày 18 tháng 7 năm 2002 về vụ hỏa hoạn xảy ra ở trại giam Nhập cư Yarl’s Wood ngày 14 tháng 2 năm 2002. — Chi tiết về hệ thống trại giam nhập cư của Vương quốc Anh do Christine bacon cung cấp. Việc Christine đạo diễn vở Những màn độc thoại của người tị nạn với sự tham gia của các nhóm Diễn viên vì người nhập cư tại Vương quốc Anh và Úc là nguồn cảm hứng cho tiểu thuyết này. bạn có thể tham khảo công trình nghiên cứu của cô, tựa đề “Sự phát triển của trại giam nhập cư ở Vương quốc Anh: Sự nhúng tay của các công ty nhà tù tư nhân” tại trang web www.rsc. ox.ac.uk/PDFs/rSCworkingpaper27.pdf — thông tin về khía cạnh y tế và xã hội của hệ thống nhập cư và trại tị nạn được tiến sĩ Mina Fazel, bob hughes và teresa hayter cung cấp. tôi cũng chân thành cám ơn bob và teresa vì sự nhiệt tình, khích lệ của họ, vì đã đọc bản thảo của tôi và đóng góp ý kiến. tính chính xác của tiểu thuyết này có được là nhờ họ; những sai sót không thể tránh khỏi là do tôi. Cám ơn Andy Paterson và Olivia Paterson vì những ghi chú tuyệt vời cho bản thảo ban đầu của tôi. Cám ơn Sharon Maguire và Anand tucker vì sự nhiệt thành và ủng hộ. tôi mang ơn Suzie Dooré, Jennifer Joel, Maya Mavjee, Marysue rucci và Peter Straus, những người đã kiên nhẫn đọc nhiều lần và biên tập thấu đáo cho các bản thảo của tôi. Sự đóng góp của họ là vô giá. tôi cám ơn các bạn. • Chris Cleave, London, 18 tháng 2 năm 2008 www.chriscleave.com Đời đánh ta má sưng vù Mỉm cười ta bảo phù vì béo thôi - Tục ngữ Nigeria Mời các bạn đón đọc Bàn Tay Cứu Mạng của tác giả Chris Cleave.
Trước Tòa Đại Hình - Georges Simenon
Nhà văn Georges Simenon sinh ngày 13.2.1903 mất ngày 4.9.1989. Năm 16 tuổi, Simenon là chàng phóng viên trẻ viết tin vắn cho tờ La Gazette de Liège. Mỗi ngày, ông đạp xe đến các bót cảnh sát, nhà băng, sở cứu hỏa, những cuộc thi thể thao để lấy tin cho báo. Năm 1922, ông tới Paris hoa lệ. Tiểu thuyết đầu tay Trên Chiếc Cầu Vòm Cung được xuất bản tại Liège (Bỉ) với bút danh Georges Sun. Nhưng sự thành công chưa vội đến với cây bút trẻ có hàng chục bút danh khác nhau này (Jean du Perry, Gom Gut, Christian Brull...). Mười năm miệt mài viết như người lao động khổ sai giúp ông thành thạo trong “tốc độ” sáng tác. Đây chính là thế mạnh của tác giả “bậc thầy trinh thám” sau này. “Suốt thời kỳ 1928-1931, ông chỉ viết những tác phẩm về Maigret, trung bình mỗi tháng một cuốn”, ông nổi tiếng như cồn khi tiểu thuyết trinh thám Con Chó Vàng (Le chien jaune, 1931) được xuất bản, với tên thật Georges Simenon. 11 tác phẩm in năm đó thì 10 cuốn là tiểu thuyết với nhân vật sáng tạo Thanh tra Maigret. Một đời văn với hơn 300 tác phẩm viết bằng tiếng Pháp đã được xuất bản, người ta không khỏi thán phục năng lực sáng tác bền bỉ và trí tưởng tượng phong phú của nhà văn Georges Simenon. Bậc thầy tiểu thuyết trình thám thật sự chinh phục hàng triệu người đọc tại nhiều nước trên thế giới. Hơn 80 tiểu thuyết Thanh tra Maigret không nằm trong thể loại truyện hình sự tầm thường. Giá trị văn học của tác phẩm đã được các nhà phê bình nhìn nhận. Sau ngày ông mất, Đại học Liège ở Bỉ đã thành lập Trung tâm nghiên cứu Georges Simenon và đã xuất bản các tác phẩm nghiên cứu về ông. *** Ông đã đến đây hai trăm, ba trăm lần? Hay còn hơn thế? Ông không muốn đến, cũng không muốn nhớ lại từng trường hợp riêng rẽ, cả những lần nổi tiếng nhất, những lần đã đi vào lịch sử công lý, bởi đó chính là khía cạnh nặng nề nhất của nghề nghiệp ông. Phần lớn những cuộc điều tra của ông tuy nhiên chẳng phải đều kết thúc ở toà Đại hình như hôm nay, hoặc ở toà Phúc thẩm sao? Ông có lẽ thích không biết tới nó hơn, trong bất kỳ trường hợp nào, luôn đứng ngoài những nghi lễ cuối cùng mà ông không bao giờ quên nổi chúng hoàn toàn. Trong văn phòng của ông ở đường bờ sông Orfèvres, cuộc đấu tranh thường kết thúc vào buổi sáng, đúng ra vẫn còn là cuộc đấu tranh của con người với con người. Vài hành lang phải vượt qua, mấy chiếc cầu thang phải leo lên, rồi đến một cảnh tượng khác hẳn, một thế giới khác, trong đó câu chữ không còn cùng một nghĩa, một vũ trụ trừu tượng, thần bí, vừa tôn nghiêm vừa lố bịch. Cùng với những nhân chứng khác, ông vừa rời khỏi phòng xử có những vách gỗ tốt nơi ánh sáng điện của những bóng hình cầu trộn lẫn với màu nhờ xám của một chiều mưa. Viên mõ toà, mà Maigret cam đoan luôn thấy lão vẫn già như thế, dẫn họ tới một căn phòng nhỏ hơn, như một thầy giáo dẫn học trò, và chỉ cho họ những chiếc ghế dài gắn chặt vào tường. Phần lớn ngoan ngoãn ngồi xuống, vâng theo những lời dặn dò của ông chủ tịch, không nói một lời, không cả dám nhìn những bạn đồng hành của họ. Họ nhìn thẳng trước mặt, căng thẳng, kín đáo, giữ bí mật của họ cho khoảnh khắc tôn nghiêm, lát nữa, chỉ có mỗi mình họ giữa một không gian đầy ấn tượng, họ sẽ bị thẩm vấn. Hơi giống như trong kho đồ thánh. Lúc còn bé, mỗi sáng, đến phụ việc hành lễ ở nhà thờ làng, Maigret cũng cảm thấy bối rối như thế khi chờ đợi đi theo ông mục sư tới bàn thờ thắp sáng bằng những cây nến run rẩy. Ông nghe thấy những bước chân của những thiện nam, tín nữ không nhìn rõ mặt, tới ngồi vào chỗ, và tiếng đi đi lại của người coi giữ đồ thánh. Giờ đây cũng vậy, ông có thể đi theo cuộc hành lễ đang diễn ra phía bên kia chiếc cửa không? Ông nhận ra tiếng của ông chủ tịch Bernerie, người xét nét nhất, tỉ mỉ nhất trong các vị quan toà, nhưng cũng có thể là người thận trọng nhất, người say mê nhất trong việc khám phá chân lý. Gầy gò, ăn mặc xuềnh xoàng, đôi mắt như lên cơn sốt, tiếng ho khàn, ông có dáng vẻ như một vị thánh canh cửa. Tiếp đến là giọng nói của công tố viên Aillevard, giữ ghế Viện Công tố. Cuối cùng là tiếng bước chân lại gần của viên mõ tòa hé cửa gọi: “Ngài Cảnh sát trưởng Segré.” .. Mời các bạn đón đọc Trước Tòa Đại Hình của tác giả Georges Simenon.
Kẻ Góa Vợ - Georges Simenon
Nhà văn Georges Simenon sinh ngày 13.2.1903 mất ngày 4.9.1989. Năm 16 tuổi, Simenon là chàng phóng viên trẻ viết tin vắn cho tờ La Gazette de Liège. Mỗi ngày, ông đạp xe đến các bót cảnh sát, nhà băng, sở cứu hỏa, những cuộc thi thể thao để lấy tin cho báo. Năm 1922, ông tới Paris hoa lệ. Tiểu thuyết đầu tay Trên Chiếc Cầu Vòm Cung được xuất bản tại Liège (Bỉ) với bút danh Georges Sun. Nhưng sự thành công chưa vội đến với cây bút trẻ có hàng chục bút danh khác nhau này (Jean du Perry, Gom Gut, Christian Brull...). Mười năm miệt mài viết như người lao động khổ sai giúp ông thành thạo trong “tốc độ” sáng tác. Đây chính là thế mạnh của tác giả “bậc thầy trinh thám” sau này. “Suốt thời kỳ 1928-1931, ông chỉ viết những tác phẩm về Maigret, trung bình mỗi tháng một cuốn”, ông nổi tiếng như cồn khi tiểu thuyết trinh thám Con Chó Vàng (Le chien jaune, 1931) được xuất bản, với tên thật Georges Simenon. 11 tác phẩm in năm đó thì 10 cuốn là tiểu thuyết với nhân vật sáng tạo Thanh tra Maigret. Một đời văn với hơn 300 tác phẩm viết bằng tiếng Pháp đã được xuất bản, người ta không khỏi thán phục năng lực sáng tác bền bỉ và trí tưởng tượng phong phú của nhà văn Georges Simenon. Bậc thầy tiểu thuyết trình thám thật sự chinh phục hàng triệu người đọc tại nhiều nước trên thế giới. Hơn 80 tiểu thuyết Thanh tra Maigret không nằm trong thể loại truyện hình sự tầm thường. Giá trị văn học của tác phẩm đã được các nhà phê bình nhìn nhận. Sau ngày ông mất, Đại học Liège ở Bỉ đã thành lập Trung tâm nghiên cứu Georges Simenon và đã xuất bản các tác phẩm nghiên cứu về ông. *** Jeanne là một cô gái điếm bị hành hung, bị rạch mặt một buổi tối xế trước cửa nhà gã, gần một ngôi nhà chứa. Gã đã chứng kiến cảnh đó và đã đưa nàng về nhà mình một cách vô tư, không chút ẩn ý, không lợi dụng mà hoàn toàn vì nhân tính. Khi thanh tra cảnh sát Gordes đến khám nhà vì biết Jeanne trú ở đó, và nói cho gã biết Jeanne là gái điếm có thẻ hành nghề, và đã hai lần trốn khám sức khỏe định kỳ. Gã đã hỏi thanh tra Gordes nếu Jeanne muốn thôi không hành nghề nữa có được không? Tất nhiên gã sẽ đứng ra bảo lãnh vì gã có việc làm ổn định. Thanh tra Gordes đã hướng dẫn gã tiến hành các thủ tục pháp lý nhưng không quên giễu cợt và cảnh cáo gã: “Cái trò này, nó chỉ thành công được một phần nghìn, và cần có quyền thử vận may...” Tám năm trời sống với nhau, có thể gọi là hạnh phúc, mặc dầu là một thứ hạnh phúc khép kín trong một tiểu vũ trụ. Nhưng khi Jeanne hỏi “Anh hạnh phúc chứ Bernard?” thì gã lại chỉ có thể trả lời “Anh không bất hạnh”. Đó là nguyên nhân của mọi sự chăng? Đó là lý do khiến nàng phải sụt sịt khóc thầm khóc vụng, không thành tiếng chăng? Phải chăng vì thế mà nàng mất tích? Phải chăng vì thế mà gã đã để tuột mất cái một phần nghìn nhỏ nhoi trong việc biến Jeanne thành một người vợ bình thường, trong việc tìm kiếm hạnh phúc. Nhưng gã lại không chịu thua cuộc với thanh tra Gordes. Gã vẫn tin ở cái phần nghìn nhỏ nhoi đó của mình. Rốt cuộc, khi được phát hiện việc nàng tự vẫn trong bộ quần áo sang trọng trên chiếc giường hoa của một khách sạn đắt tiền, gần như đã bị hoàn toàn thất bại, gã lại bấu víu vào một cái phao nhỏ khác, đó là bức thư nàng để lại, chắc chắn là để cho gã, nhưng bức thư cũng đã biến mất. Từ thất bại này sang thất bại khác, cuối cùng gã cũng không tin là thư đó gửi cho mình mà rất có thể là cho kẻ đã thuê phòng hàng tháng cho nàng hơn một năm nay. Phải chăng vì lòng tốt, vì thiện ý mà hai người hiểu lầm nhau. Jeanne coi Jeantet như một vị phúc thần, gã quá tốt. Còn Jeantet không muốn Jeanne phải chạm đến quá khứ, cái quá khứ bất hạnh đã để lại một vết sẹo trên má nàng mà có lẽ vì vậy gã rất thích cái mái tóc rủ xuống một bên che đi vết sẹo đó. Gã không biết Jeanne đã phải miễn cưỡng, lén lút bước tiếp cái quá khứ nhơ nhuốc và bất hạnh đó mỗi thứ tư hàng tuần, thời gian duy nhất gã vắng nhà, vì nàng còn có một đứa con trai phải mướn nuôi, phải trả tiền mổ ruột thừa, tiếp đó tiền ăn, tiền trọ học cho nó. Jeantet muốn cùng Jeanne khép mình trong bốn bức tường tạo thành một thế giới riêng nhỏ bé để hạnh phúc của hai người, không ai có thể lọt vào cản trở. Thế nhưng Jeanne lại lén lút phá rào bởi Jeanne không thể, không chịu rời bỏ một người tốt như gã, bởi Jeanne thấy mình cần thiết cho gã. Gã quá tốt, nhưng theo Beaudoin, một chủ doanh nghiệp điện tử lớn của nước Pháp, đầy quyền thế, người tình đầu tiên của Jeanne, là cha đứa con trai của Jeanne, kẻ đã rạch mặt trừng phạt Jeanne vì đã bỏ hắn, lòng tốt của gã đã biến gã thành một con quỷ đồng thời vẫn tỏ ra là một người mộ đạo. Có thật lòng tốt của Jeantet đã buộc Jeanne phải phạm tội, hổ nhục, khốn khổ, vì nhu cầu sống của con người còn mạnh hơn tất cả? Nếu thế sao Jeanne lại tự vẫn? Nếu quả thật Jeantet biến thành một con quỷ sao gã lại nhận con nàng làm con nuôi, chứ không để mặc việc đó cho cha nó, Beaudoin giải quyết sau khi nàng tự vẫn? Đến đây quả thực bức thư gửi cho ai không còn cần thiết nữa, và thực tế là nó đã bị nát trong chậu giặt. Quả thật lý giải lòng tốt, thói xấu, cái thiện, cái ác chẳng để làm gì. Có thể đặt ra một giả thuyết: Cả Jeanne và Jeantet đều cởi mở hơn, nói với nhau tất cả, có khi không cần tốt đến thế họ cũng có thể đạt được hạnh phúc và tránh được cái kết cục bi thảm chăng? Giữa thanh tra cảnh sát Gordes và Jeantet Bernard ai là người thua cuộc, xin dành cho độc giả. Hà Nội, mùa Hè 2002 Nhà Xuất Bản Công An Nhân Dân Mời các bạn đón đọc Kẻ Góa Vợ của tác giả Georges Simenon.